Tải bản đầy đủ (.doc) (132 trang)

Đọc hiểu ngữ văn 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 132 trang )

nguyễn trọng hoàn (Chủ biên)
Lê Hồng Mai
đọc hiểu văn bản
ngữ văn 11
nhà xuất bản giáo dục
lời nói đầu
Theo Chơng trình giáo dục học phổ thông (Ban hành kèm theo Quyết định số
16/QĐBGD&ĐT ngày 05 5 2006 của Bộ trởng Bộ Giáo dục và Đào tạo), môn Ngữ văn cấp
Trung học phổ thông đợc xây dựng và thực hiện đổi mới phơng pháp dạy học theo tinh thần tích
hợp trong đó trọng tâm của yêu cầu dạy học phần Văn là học sinh phải biết cách
đọc hiểu văn
bản theo đặc trng loại thể
(bao gồm các trích đoạn hoặc tác phẩm văn học trọn vẹn). Đây là yêu
cầu lần đầu tiên đợc gọi tên một cách chính thức trong sách giáo khoa Ngữ văn, xác định những
nội hàm cụ thể để học sinh thực hiện một chuỗi thao tác chiếm lĩnh giá trị tác phẩm, hớng tới hiệu
quả hành dụng và kết nối kiến thức với các phần Tiếng Việt, Tập làm văn.
Nhằm cung cấp tài liệu tham khảo cho giáo viên và học sinh trung học phổ thông về lĩnh vực
này, chúng tôi biên soạn bộ sách về đọc hiểu văn bản (gồm ba cuốn, tơng ứng với sách giáo khoa
Ngữ văn các lớp 10, 11, 12). Theo đó, cuốn
Đọc hiểu văn bản Ngữ văn 11
(bao gồm chơng trình
chuẩn và nâng cao) nêu ra một số giải pháp đọc hiểu văn bản trong những bài cụ thể, mỗi bài đ-
ợc cấu tạo theo ba phần :
I Gợi dẫn
II Kiến thức cơ bản
III Liên hệ
Nội dung phần
Gợi dẫn
của mỗi bài học nhằm chuẩn bị tâm thế, cung cấp một số kiến thức
công cụ, có tính chất định hớng lợi cho việc chiếm lĩnh mục tiêu của bài đọc hiểu : đó là các yếu
tố đặc trng thể loại, các thông tin quan trọng về tác giả, tác phẩm, tóm tắt và xác định cách đọc,


cách kể.
Nội dung phần
Kiến thức cơ bản
đợc hình thành trên cơ sở lí giải những phơng diện kiến thức
(theo thứ tự hoặc tổng hợp) từ các câu hỏi của sách giáo khoa, đồng thời thể nghiệm một số cách
thức tiếp cận văn bản.
Nội dung phần
Liên hệ
có kết cấu mở, nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng : có thể giới thiệu một
văn bản tơng đơng hoặc gần gũi với bài học để tạo điều kiện cho ngời đọc so sánh kiến thức; có thể
cung cấp một số nhận định để tham khảo cho việc đánh giá về tác giả, tác phẩm; cũng có thể đa ra
một bài văn, bài thơ về tác giả, tác phẩm nhằm mở rộng trờng liên tởng hoặc tạo điều kiện cho ng-
ời đọc nhìn nhận vấn đề từ nhiều phơng diện.
*
* *
Có thể nói : mục đích tìm hiểu và đặc trng, tính chất của tthể loại sẽ quy định phơng thức đọc.
Phơng thức đọc hiểu văn bản Ngữ văn chắc chắn không chỉ là điều quan tâm của một cá nhân.
Rất mong các thầy, cô giáo và các bạn học sinh trong quá trình sử dụng cuốn sách này góp cho
những ý kiến quý báu để chúng tôi có dịp bổ khuyết.
Xin chân thành cảm ơn.
Hà Nội, thu 2007
Chủ biên
ts. nguyễn trọng hoàn
2
B¶n quyÒn thuéc Nhµ xuÊt b¶n Gi¸o dôc.
02−2007/CXB/317−1951/GD
M· sè : TyV25M7
3
Vào phủ chúa trịnh___________________________Lê hữu trác
(Trích Thợng kinh kí sự)

I Gợi dẫn
1. Lê Hữu Trác (1724 1791) là ngời làng Liêu Xá, huyện Đờng Hào, phủ Thợng Hồng, trấn
Hải Dơng (nay thuộc huyện Yên Mĩ, Hng Yên). Ông là danh y lỗi lạc, nhà văn tài hoa, một nho sĩ
coi thờng danh lợi. Khi xã hội rối ren, ngời ngời đua chen danh lợi, ông đã lánh về quê mẹ là đất H-
ơng Sơn, Hà Tĩnh để sống cuộc đời ẩn sĩ thanh cao, làm nghề bốc thuốc chữa bệnh. Vì vậy ông tự
nhận mình là Hải Thợng Lãn Ông (ông già lời đất Thợng Hồng). Với t cách thầy thuốc, ông đã để
lại cho y học rất nhiều bài thuốc quý. Với t cách nhà văn, ông đã đa thể kí trung đại trở thành một
thể văn xuôi tự sự nghệ thuật, với cái Tôi nghệ sĩ trữ tình và bản lĩnh.
2. Kí là một thể văn xuôi tự sự khá phát triển từ thời kì văn học trung đại. Tác phẩm kí thờng lấy
chất liệu từ là sự thực cuộc sống. Ngời viết kí trung thành với sự thật, khai thác sự thật theo quan
điểm cá nhân. Kí có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa sự thực lịch sử và cảm xúc của ngời viết. Một số
tác phẩm kí tiêu biểu của văn học trung đại : Hoàng Lê nhất thống chí (Ngô gia văn phái), Thợng
kinh kí sự (Hải Thợng Lãn Ông Lê Hữu Trác), Vũ trung tuỳ bút (Phạm Đình Hổ), Công d tiệp kí (Vũ
Phơng Đề), Đại Việt sử kí toàn th (Ngô Sĩ Liên), D địa chí (Nguyễn Trãi), Nam triều công nghiệp
diễn chí (Nguyễn Khoa Chiêm), Nhị Thanh động kí sự (Ngô Thời Sĩ)...
3. Thợng kinh kí sự là tập kí sự viết bằng chữ Hán của Lê Hữu Trác, ghi lại chuyện tác giả lên
kinh đô chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán và chúa Trịnh Sâm từ ngày 12 tháng Giêng năm Nhâm Dần
(1782) đến ngày trở về Hơng Sơn mùng 2 tháng 11 năm đó.
Tác giả đang sống cuộc sống ẩn dật ở quê mẹ (Hơng Sơn, Hà Tĩnh) thì bỗng có chỉ triệu ra kinh
chữa bệnh cho cha con Trịnh Sâm. Tác giả miễn cỡng lên kinh. Ông đã ghi lại cảnh sắc thiên nhiên
đất nớc và cả những tâm sự của bản thân trên đờng đi. Đến kinh, vào khám bệnh, tác giả đã ghi lại tỉ
mỉ quang cảnh kinh đô và cảnh trong phủ chúa. Ông cũng ghi lại những cuộc gặp gỡ giao du của
mình với công khanh nho sĩ chốn kinh thành. ở kinh đô, ông luôn thơng nhớ và mong trở về quê h-
ơng. Cuối cùng, ông lên đờng trở về quê nhà với tâm trạng hân hoan, ung dung. Về đến nhà đợc vài
ngày, ông nhận đợc tin phủ chúa đã bị kiêu binh nổi loạn tràn vào phá phách, quan Chánh đờng
Hoàng Đình Bảo oai phong là thế đã bị kiêu binh giết chết.
Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh ghi lại chi tiết việc tác giả vào phủ và khám bệnh cho thế tử
ngày 1 tháng 2 năm 1782.
4. Đọc phần văn bằng giọng trần thuật. Phần bài thơ đọc chậm, nhấn giọng ngân nga.
II Kiến thức cơ bản

Cuối thế kỉ XVII, đầu thế kỉ XVIII, các vua Lê mải ăn chơi hởng thụ, tinh thần bạc nhợc, không
đủ sức lo việc đất nớc. Cuộc sống của nhân dân vô cùng khổ cực, nạn quan tham nổi lên khắp nơi.
Họ Trịnh đã nổi lên lấn át vua Lê, biến vua Lê thành bù nhìn. Bên cạnh triều đình bù nhìn của nhà
Lê là phủ chúa đầy uy quyền. Cung vua phủ chúa đã song hành tồn tại. Kinh thành một lúc tồn tại
hai hoàng cung. Quyền lực của chúa Trịnh lấn át vua Lê. Đất nớc luôn đứng trớc nguy cơ nội chiến.
Nhân dân một lúc còng lng cung tiến phục dịch hai triều đình. Hiện thực rối ren và suy đồi luân lí
ấy đã khiến nhiều nhà nho biết suy nghĩ, có tự trọng rút lui vào ở ẩn. Họ tìm đến chốn thâm sơn
cùng cốc, chốn nhà quê thanh tịnh để sống cuộc sống ẩn dật, lánh đời. Nhng dù ở đâu những nho sĩ
đầy lòng tự trọng ấy vẫn không gạt bỏ mọi nỗi đời, họ vẫn luôn hớng lòng mình và căng tai mình để
nghe những âm thanh vang vọng của cuộc sống lầm than của ngời lao động. Và họ đã gửi gắm tâm
sự trong những dòng thơ, những trang văn đầy trăn trở. Đó là một trong những lí do làm cho văn học
Việt Nam giai đoạn này phát triển rực rỡ với sự ra đời của nhiều tác phẩm văn học có giá trị nghệ
thuật cao và chứa đầy giá trị nhân văn.
Hải Thợng Lãn ông Lê Hữu Trác là một trong những nhà nho nặng lòng với đất nớc. Ông đã
luôn cố gắng vận hết sức mình để giúp đời. Ông học võ, luyện văn rồi lại dồn tâm huyết cho nghề
thuốc. Sự cố gắng ấy của ông đã để lại cho đời những sản phẩm thật đáng trân trọng. Đó là những
bài thuốc hay, những trang văn luôn căng đầy nhiệt huyết và hơn hết đó là một nhân cách cao quý
của một con ngời. Với tập kí Thợng kinh kí sự, Lê Hữu Trác đã thể hiện tài năng của mình với nhiều
t cách : thầy thuốc, nhà sử học và nhà văn. Với t cách là nhà văn, ông đã đa thể văn xuôi tự sự trung
đại lên một tầm cao mới. Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh là một đoạn trích đặc sắc, tiêu biểu của tác
phẩm. Nó cũng đã thể hiện khá đầy đủ những nét riêng trong cách viết kí của Lê Hữu Trác.
Đoạn trích đã tái hiện chi tiết và cụ thể hành trình tác giả vào phủ chúa để khám bệnh cho thế
tử. Thế nhng nội dung kể chuyện không đơn giản là tờng thuật một cuộc khám bệnh. ẩn đằng sau
4
lời kể chuyện rất tự nhiên và có vẻ khách quan ấy là rất nhiều điều mà ngời đọc có thể thu nhận và
khám phá.
Thứ nhất, ngời đọc hình dung đợc trình tự một cuộc bắt mạch và kê thuốc của một thầy thuốc
đối với một bệnh nhân đặc biệt, vị thế tử nhỏ tuổi của phủ chúa.
Thứ hai, ngời đọc hình dung đợc một phủ chúa sang trọng, xa hoa và đầy uy quyền. Đó không
phải là một phủ chúa mà là một hoàng cung. Từ đó, ngời đọc phần nào nhận ra đợc bộ mặt xã hội

phong kiến Việt Nam thời kì vua Lê chúa Trịnh.
Thứ ba, ngời đọc thấy đợc một thầy thuốc, một ngời kể chuyện có một phong thái rất ung dung
mặc dù ngôn ngữ kể chuyện, ngôn ngữ đối thoại của ông rất khách quan và đúng mực một kẻ bề tôi.
Tất cả những điều trên, có lẽ đều nhằm vào một mục đích duy nhất, mục đích cuối cùng và mục
đích nghệ thuật sâu xa của nhà văn : đó là thể hiện thái độ của mình đối với triều đình phủ chúa.
Vốn con nhà quan lại nên cũng không mấy lạ lẫm với cảnh xa hoa của hoàng cung, vậy mà khi
đợc triệu vào phủ chúa, tác giả đã không khỏi ngỡ ngàng trớc cảnh lộng lẫy nơi đây. Mặc dù bị mời
đi vội vã, ngồi trên chiếc cáng chạy nh ngựa lồng, bị xóc một mẻ, khổ không nói hết nhng bớc
chân vào phủ, ông vẫn có đủ thời gian để quan sát, để ngạc nhiên.
Có bao nhiêu sự làm ông thầy thuốc ẩn sĩ vừa từ Hơng Sơn ra kinh thành, dù vốn con quan,
sinh trởng, chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành mình cũng đã từng biết vẫn phải ngạc nhiên.
Cảnh thì đẹp nh chốn đào nguyên, ngời đi lại phục vụ nhà chúa đông nh mắc cửi, vào đến chỗ ở
của thế tử thì phải qua bao nhiêu lần cửa. Nơi thế tử dùng trà (uống thuốc) cũng là gác tía với cột
và đồ nghi trợng đều sơn son thếp vàng. Phòng ở của thế tử thì ngào ngạt hơng hoa. Một cậu bé năm
sáu tuổi sống nh bậc đế vơng. Trịnh Cán là con trai của Trịnh Sâm với Tuyên phi Đặng Thị Huệ (ng-
ời thiếp yêu của chúa Trịnh Sâm). Căn nguyên căn bệnh của thế tử chính là sự quá xa hoa và thừa
thãi.
Khung cảnh và cảnh sinh hoạt nơi phủ chúa qua miêu tả của tác giả đã chứng minh một điều
rằng, phủ chúa là một hoàng cung. Và vì thế, Trịnh Sâm mới chính là một ông vua, còn vua Lê chỉ
là bù nhìn. Tác giả cũng đã bộc lộ đánh giá này của mình khi rất nhiều lần ông nhắc đến những từ
thánh chỉ, thánh giá, thánh thợng vốn chỉ đợc dùng chỉ vua, kể cả việc miêu tả rất tỉ mỉ căn
phòng của thế tử và chiếc ghế đặt cạnh giờng thế tử. Chúa Trịnh đã quá lộng hành, đã tự coi mình là
vua. Chỉ là kể, là tả thôi nhng tác giả đã thể hiện rất rõ thái độ, quan điểm của mình. Cách kể
chuyện nhẹ nhàng, thâm thuý, nghe nh không mà gợi thật nhiều. Nhân vật tôi đã quan sát và tả rất
tỉ mỉ, từng đờng đi lối lại, qua từng cánh cổng... Miêu tả chi tiết sự thực là một đặc điểm nổi bật của
thể kí, song kí của Lê Hữu Trác không đơn giản chỉ là tờng thuật sự việc nh nhiều tác phẩm kí trung
đại khác. ở đây, tác giả tả, kể, tờng thuật chi tiết và rất tự nhiên xen vào đó những lời bình luận nhẹ
nhàng mà sâu cay, nh : Ông san mâm cơm cho tôi ăn. Mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon
vật lạ, tôi bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia.
Nhìn bề ngoài, cách nói, cách tiếp đón, các nghi lễ, ngời hầu... có vẻ nh chúa Trịnh Sâm có một

uy quyền thật lớn, phủ chúa thật mạnh, thật nghiêm trang. Thế nhng, tất cả chỉ là một vở chèo hài h-
ớc. Đã có rất nhiều cái chệch choạc, uể oải, nhốn nháo và bệnh hoạn trong phủ chúa. Sự rệu rạo của
nhà Trịnh thể hiện ở hình ảnh bệnh hoạn của Đông cung thế tử, ngời đã đợc chọn để nối ngôi chúa.
Qua đoạn trích, ngời đọc còn có thể hình dung đợc một chân dung ngời thầy thuốc khá chi tiết.
Thầy thuốc này có vẻ không mấy mặn mà với công việc chữa bệnh của mình. Ngời thầy thuốc ấy
vào phủ chúa với vẻ miễn cỡng. Trớc sự nghiêm trang của phủ chúa, ông không có vẻ sợ sệt hay e
ngại của một kẻ bề tôi. Ông thầy thuốc ấy cứ dửng dng kể, dửng dng tả và thản nhiên bình luận. Uy
quyền không làm ông sợ nhng khiến ông trăn trở. Với cách tả cách kể ấy, có thể nhận ra thái độ của
tác giả đằng sau câu chuyện. Đó là thái độ châm biếm, phê phán nhà Chúa. Thành công của đoạn
trích phải kể đến giọng điệu kể chuyện rất kí sự của Lê Hữu Trác, đó là sự xen kẽ rất tự nhiên của
lời kể và lời bình. Thông thờng, kí là kết quả của sự kết hợp giữa tả cảnh và thể hiện tâm t. ở đây,
tác giả chú ý nhiều đến tả cảnh, đến tờng thuật sự việc. Nhng lại chính cách kể và cách tả ở đây lại
nói lên tâm t tình cảm, thái độ của nhà văn. Với đoạn trích này và với Thợng kinh kí sự, Lê Hữu Trác
đã đa thể kí trung đại trở thành một thể văn xuôi tự sự nghệ thuật có sức hấp dẫn và rất cuốn hút ng-
ời đọc.
III liên hệ
Qua Thợng kinh kí sự, có thể thấy rõ tính cách của Lê Hữu Trác, một ngời coi khinh bả danh lợi.
Ông muốn làm việc gì có ý nghĩa và ông đã quyết tâm đi vào con đờng làm thuốc, chữa bệnh,
quyết dựng lên một lá cờ đỏ trong y giới. Lê Hữu Trác là một nhà y học nổi tiếng, qua Thợng kinh
kí sự còn thấy ông là một nhà văn có tâm hồn, giàu cảm xúc trớc thiên nhiên tạo vật. Những bài thơ
của ông viết về thiên nhiên trong Thợng kinh kí sự hết sức trữ tình. Thợng kinh kí sự còn có giá trị
5
đặc biệt ở những trang miêu tả cuộc sống trong phủ chúa. Ngòi bút của tác giả kín đáo và tinh tế.
Ông có vẻ không phê phán một cái gì cả ; nhng những điều đợc ông nói lên một cách chính xác, tự
nó lại có ý nghĩa phê phán sâu sắc. Hình ảnh phủ chúa Trịnh hiện lên trong tác phẩm của ông với
những cung điện kiêu xa, cầu kì, với những con ngời từ chúa Trịnh Sâm, ông quan đầu triều Hoàng
Đình Bảo ( ? 1786) đến đám công khanh quan lại tất cả nh vô nghĩa, tật bệnh, không thấy một
ngời nào có năng lực, bản lĩnh. Họ đi đứng trịnh trọng, nói năng kiểu cách, làm thuốc, làm thơ cái gì
cũng có vẻ biết, nhng không biết cái gì đến nơi đến chốn. Cuối tác phẩm, tác giả nói Trịnh Sâm chết
vì mắc một trong tứ chứng nan y. Không khí phủ chúa vẫn cứ âm u bằng lặng nh thế, cha thấy mầm

mống của những đổi thay. Cái bằng lặng ấy gây cho ngời đọc cảm giác nặng nề, khó chịu, đến nỗi
không chịu đựng đợc mà muốn thét to lên cho nó vỡ tan đi. Và với cái tin cả nhà quan Chánh đờng
bị hại, tác giả viết nh muốn tổng kết lịch sử : Than ôi ! giàu sang nh đám mây bay. Đền vũ tạ, thú
ca lâu phút chốc thành nơi hoang phế. Thợng kinh kí sự là một tác phẩm kí sự bằng chữ Hán rất có
giá trị trong văn học Việt Nam thế kỉ XVIII.
(Nguyễn Lộc, Từ điển văn học, NXB Văn học, 1986)
Cha tôi_________________________________________________________đặng huy trứ
(Trích Đặng Dịch Trai ngôn hành lục)
I Gợi dẫn
1. Đặng Huy Trứ (1825 1874) hiệu là Tỉnh Trai và Vọng Tân, tự là Hoàng Trung, ngời làng
Thanh Lơng, huyện Hơng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Năm 1843, Đặng Huy Trứ đỗ cử nhân, năm
1848 đỗ tiến sĩ nhng vì phạm huý ông đã bị đánh trợt và bị tớc luôn học vị cử nhân. Ông đã dâng
nhiều th điều trần đề xuất nhiều t tởng tân tiến nhng đáng tiếc là những t tởng của ông không đợc
thực hiện.
2. Đặng Dịch Trai ngôn hành lục thuộc thể kí, là tác phẩm khá thành công của Đặng Huy Trứ.
Tác phẩm là những trang hồi tởng của tác giả về ngời cha đáng kính của mình, ông Đặng Văn Trọng
(tên hiệu là Dịch Trai). Tác phẩm ghi lại chi tiết lời nói và việc làm của Đặng Văn Trọng cùng nhiều
chi tiết quan trọng về cuộc đời, qua đó thể hiện những quan niệm về cuộc sống của tác giả và tình
cảm kính trọng của ông đối với ngời cha đáng kính.
3. Đoạn trích có nhiều từ cổ, cần đọc kĩ chú thích. Lu ý thể hiện rõ giọng đọc các lời thoại.
II Kiến thức cơ bản
Thể kí xuất hiện mầm mống từ giai đoạn thứ hai của thời kì văn học trung đại (thế kỉ XVI đến
nửa đầu thế kỉ XVIII) nhng phải đến nửa cuối thế kỉ XVII với sự xuất hiện của Thợng kinh kí sự của
Lê Hữu Trác thì kí mới thực sự ra đời với t cách là thể văn xuôi tự sự nghệ thuật. Đặng Dịch Trai
ngôn hành lục của Đặng Huy Trứ là tác phẩm thuộc loại văn tự thuật một thể tài khá quen thuộc
của kí trung đại. ở loại văn tự thuật, ngời viết thuật lại khá trung thành và tỉ mỉ các sự kiện liên quan
đến cuộc đời mình và những ngời thân. Trong Đặng dịch trai ngôn hành lục, Đặng Huy Trứ đã thuật
trung thực những sự kiện liên quan đến bản thân ông. Trong tác phẩm, tác giả nhắc nhiều đến ngời
cha của mình là Đặng Văn Trọng. Là một trí thức có nhân cách, nhng phải sống vào giai đoạn nửa
cuối thế kỉ XIX, chứng kiến những cơn suy vong của vận mệnh dân tộc, ông đã đau lòng tr ớc sự tan

rã của hệ thống đạo đức luân lí phơng Đông. Và vì thế ông tiếc nuối thời kì đã qua và gửi gắm niềm
nuối tiếc ấy vào nỗi nhớ thơng về ngời cha mà ông vô cùng kính trọng. Đoạn trích Cha tôi không
đơn giản là tấm lòng của tác giả đối với ngời cha mà còn thể hiện những suy nghĩ của ông về lẽ
sống, nhân sinh.
Đoạn trích lần lợt thuật lại ba sự kiện tiêu biểu, ba khúc ngoặt trên đờng thi cử của nhân vật
tôi (tức Đặng Huy Trứ). Sự kiện là việc thi cử đỗ trợt của tôi nhng vấn đề tác giả muốn thể hiện
ở đây lại nằm ở hành động, lời nói của ngời cha. Những phản ứng của ngời cha trớc việc đỗ trợt của
con trai đã thể hiện rõ nhân cách và cái nhìn sâu sắc của ông về con ngời.
Sự kiện thứ nhất xảy ra vào mùa thu năm Quý Mão (1843), tôi theo cha cùng ngời anh con bác
trởng là Đặng Huy Sĩ đến trờng Phú Xuân để thi. Nhân vật tôi đi thi với mục đích quen với tiếng
trống trờng thi. Khi ngời ta xớng danh, yết bảng thì tôi đi xem hát. Cũng chỉ định đi chơi về rồi
ngó bảng tú tài. Tất nhiên, đây chỉ là cách nói khiêm tốn của ngời thuật chuyện, song nó cũng thể
hiện đợc thái độ đi thi của ông. Sự kiện đầy bất ngờ đã xảy ra, khi xớng danh họ Đặng, mọi ngời đều
nghĩ là Đặng Văn Trọng. Thế nhng ngời đỗ thứ ba lại chính là tôi. Đỗ thứ ba trong kì thi này là
một vinh dự rất lớn, là hi vọng và mong đợi của mọi sĩ tử, kể cả của thân phụ Đặng Huy Trứ, tức
Đặng Văn Trọng, một ngời tài giỏi mà ai cũng nghĩ là xứng đáng. Thế nhng, thái độ của hai cha con
lại hoàn toàn bất ngờ. Con thì không quan tâm, vẫn mải đi chơi và khiêm tốn với ý định để đến
6
tối sẽ đi coi bảng tú tài xem có tên mình hay không. Còn ngời cha, nghe tin con đỗ, một tin vui đối
với cả gia tộc, dòng họ thì lại có phản ứng thật lạ : cha tôi dựa vào cây xoài, nớc mắt ớt áo nh là
gặp việc chẳng lành. Không phải ông buồn vì con thi đỗ mà ông lại trợt. Những giọt nớc mắt của
ngời cha ấy thể hiện tấm lòng cao cả, nỗi lo lắng của một ngời cha, một ngời từng trải, ngời vốn đã
rất hiểu lẽ đời. Câu trả lời của ông hợp tình hợp lí : Có gì đáng vui đâu. Đỗ đạt cao là để dành cho
ngời có phúc đức. Con tôi tính tình cha già dặn, cha có đức nghiệp gì... Cổ nhân đã nói Thiếu niên
đăng khoa nhất bất hạnh dã !. Đó là nỗi băn khoăn của một ngời cha luôn lo lắng cho con. Câu trả
lời của ông vừa rất khiêm tốn lại rất chân thành. Những câu nói ấy đã có ngầm ý rằng : mục đích
của việc thi cử không nhất thiết phải đỗ đạt để làm quan ngay. Sự đời cái gì dễ kiếm thì không đợc
trân trọng dù nó rất quý giá. Dù là ngời có tài năng thực sự nhng nếu đỗ đạt quá sớm sẽ sinh ra kiêu
ngạo và tự mãn. Phản ứng của ngời cha là phản ứng của ngời hiểu sâu xa câu chuyện Tái ông thất
mã. Kể lại sự kiện này, tác giả đã chọn chi tiết, ngôn ngữ rất khéo léo để thể hiện nhân cách và suy

nghĩ sâu xa của ngời cha. Ngôn ngữ và cách nói của ngời cha thể hiện ông là một nhà nho mẫu mực.
Những lí lẽ ông đa ra đều thật trọn vẹn, có trên có dới. Không tự ti nhng cũng không kiêu căng tự
mãn : Nào ngờ, mới một lần đi thi lại trúng thứ ba. Đó là do triều đình nuôi dỡng, tổ tông tích đức,
gia đình giáo dục mà đợc thế... Nhìn lên, tôi đội ơn tác thành của thiên tử, lại cảm kích công vun
trồng của tổ tiên, chỉ sợ con tôi không báo đáp đợc nghĩa nặng ơn dày nên không cầm nổi nớc mắt.
Tác giả đã dùng lời đáp ấy và mợn lời nhận xét của mọi ngời để tỏ lòng kính trọng và niềm tự hào
về ngời cha của mình.
Sự kiện thứ hai đợc thuật lại trong đoạn trích vẫn lại là chuyện thi cử. Lần thứ hai, ngời con đỗ
đạt và ngời cha cũng có phản ứng tơng tự. Đó là Khoa thi Hội mùa xuân năm Đinh Mùi nhân tứ
tuần đại khánh của đức Hiến tổ Chơng Hoàng đế Thiệu Trị, vua cho mở Ân khoa.
Ngời cha nghe tin con đỗ đạt không hồ hởi vui mừng mà lo lắng : Bậc đỗ đại khoa ắt phải là
ngời phúc phận lớn. Con tôi đức độ ra sao mà đợc nh vậy, chỉ làm cho tôi thêm lo lắng. Không phải
ngời cha không tin vào khả năng của con mình. Đây là cách phản ứng của một ngời cha có suy nghĩ
sâu sắc, chín chắn. Ông đã thể hiện quan niệm của mình về ngời quân tử. Ngời đỗ đạt phải là ngời
có tài và có đức. Đó là quan niệm của một chính nhân quân tử, một con ngời hiểu đời, hiểu ngời,
hiểu lẽ sống và hiểu chính con trai mình.
Sự kiện thứ ba đợc tác giả thuật lại trong đoạn trích có khác với hai sự kiện trên. Tác giả đã chọn
kể hai sự việc đồng thời xảy ra trong gia đình để ngợi ca tấm lòng và nhân cách của ngời cha. Kì
thi Đình năm ấy vào ngày 26 tháng 4. Đúng hôm đó, từ cuối nhà bên trái điện Cần Chánh báo tin dữ
: bác ngự y Đặng Văn Chức mất [...]. Tôi thì vừa bị đánh hỏng trong kì thi Đình... Cả nhà lại càng
buồn cho tôi. Trớc hai tin dữ ấy, Đặng Văn Trọng đau đớn trớc cái chết của ngời anh và coi việc
con trai bị đánh hỏng là không có chuyện gì đáng kể. Với phản ứng của ngời cha nh trên, có thể
suy đoán dờng nh ngời cha không muốn con trai mình đỗ đạt. Một nhà nho theo nghiệp sách đèn
khoa cử không lẽ lại coi thờng chuyện đỗ đạt nh vậy. Xem lại thì không phải vậy. Tấm lòng của ng-
ời cha ấy đợc thể hiện rõ ở lời nói của ông trong phần kết đoạn trích. Khi việc tang ngời anh trai đã
hơi th, ông mời quay sang khuyên nhủ con trai. Lời khuyên nhủ này là tâm sự giấu kín từ nơi sâu
thẳm tấm lòng ngời cha : Đã vào thi Đình thì không còn đánh trợt nữa, từ đời Lê đến nay nh thế đã
lâu mà nay con lại bị đánh trợt. Ông đã phân tích cho con trai thấy sai lầm nghiêm trọng của mình
để ngời con nhận rõ điều trái phải. Việc để bị đánh trợt trong kì thi Đình là một lỗi lầm rất lớn. Nh-
ng ông không dừng lại ở việc chỉ ra sai lầm của con, mà quan trọng hơn, ông đã khuyên nhủ con trai

những lời thấu tình đạt lí. Lời khuyên của ngời cha chứa đựng những triết lí về cuộc sống. Nó đã
giúp cho ngời con nhận ra lỗi lầm của mình, nhng không bị rơi vào sự tuyệt vọng, bi quan hay phẫn
uất. Bài học ông dạy con có thể thu gọn trong câu Thất bại là mẹ thành công. Những lí lẽ ngời cha
đa ra thật thấu tình đạt lí, nó buộc ngời con phải suy nghĩ mà quyết tâm tiến thủ. ... tớc cả khoa
danh của con là để rèn luyện cho con nên ngời. Ông Phạm Văn Huy ở Thiên Lộc... Tài học, phẩm
hạnh của con còn kém các ông ấy muôn lần. Ngời ta ai chẳng có lúc mắc sai lầm, quý là ở chỗ biết
sửa chữa.
Lí lẽ và quan niệm về chuyện thi cử, về thành công và thất bại của ngời cha đều rất sâu sắc. Đó
cũng chính là một bài học nhân sinh quý giá cho ngời đời sau.
Ngời cha hiện lên trong lời tự thuật của nhân vật tôi thật đáng kính trọng. Ông là điển hình
mẫu mực của một nhà nho chân chính. Qua câu chuyện của bản thân mình, tác giả đã đa ra một triết
lí sống rất thực tế và sâu sắc : ở đời, điều quan trọng không phải là thành công hay thất bại. Điều
quan trọng là ta phải biết vì sao mình thất bại, từ đó rút ra bài học cho bản thân. Thành công không
kiêu ngạo tự mãn, thất bại không bi quan tuyệt vọng. Phải biết mình biết ta, biết sống cho đúng mực
và phải biết đứng lên sau khi ngã.
Cách kể chuyện trong đoạn trích rất tiêu biểu cho nghệ thuật viết kí. Tác giả rất trung thành với
7
sự thực nhng không dừng lại ở việc thuật lại sự việc. Trong khi thuật lại các sự kiện, ngời viết đã lựa
chọn chi tiết, sự việc tiêu biểu để từ đó thể hiện thái độ của bản thân hoặc những quan niệm, t tởng
có ý nghĩa nhân sinh sâu sắc.
III liên hệ
Đặng Huy Trứ để lại nhiều sách về giáo dục, sử, binh th, riêng về văn, có Đặng Hoàng Trung
văn sao (Bản sao tập văn của Đặng Hoàng Trung), Đặng Hoàng Trung thi sao (Bản sao tập thơ của
Đặng Hoàng Trung), Đặng Dịch Trai ngôn hành lục (Sao lục châm ngôn và hành trạng của Đặng
Dịch Trai), Tứ giới thi (Thơ về bốn điều răn), trong đó đáng kể nhất là Đặng Hoàng Trung thi sao
và Đặng Dịch Trai ngôn hành lục. Thi sao gồm 12 quyển, 1250 bài thơ làm trong thời gian 1840
1860. Thơ ông bày tỏ tấm lòng quan tâm đến đời sống ngời dân thờng ở nông thôn, chung niềm vui
nỗi buồn với họ, từ bác thợ cày, phụ nữ nuôi tằm, chị vú nuôi trẻ, bà đỡ hộ sản đến ngời chạy chợ,
nhà nho nghèo Qua nhiều bài thơ, tác giả đã khắc hoạ nhiều mặt đời sống phong phú ở miền quê,
bằng những chi tiết cụ thể, nh đống rấm trấu ban đêm, mẹt cau phơi ngày lạnh. Các sản vật địa ph-

ơng cùng những nghề thủ công nh rổ tre Bàu La, gạo gie An Cựu, lò vịt An Xuân, nghề làm đá ở
Lục Bảo v.v cũng đi vào thơ của ông. Sau khi ra làm quan, tác giả dành phần lớn thơ để bộc lộ rõ
hơn nữa lòng u thời mẫn thế cùng những suy t về vận mệnh ngả nghiêng của đất nớc. Lòng yêu nớc
đó đã đợc thể hiện cụ thể bằng hành động chống giặc Pháp đến hơi thở cuối cùng.
Thơ Đặng Huy Trứ tuy cha sánh đợc với các nhà thơ cự phách về mặt nghệ thuật nhng mặt
mạnh của ông lại là đa đợc những hình ảnh hiện thực sinh động, cá thể, giàu sắc thái địa phơng vào
thơ. Mặt mạnh này càng thể hiện đầy đủ hơn ở cuốn văn xuôi Đặng Dịch Trai ngôn hành lục. Đây
là cuốn hồi kí viết về ngời cha nhng đề cập đến cả một gia đình đông đúc của ông, gồm bà, mẹ, các
bác, anh em họ, hàng xóm láng giềng, đặc biệt là phần kể chuyện về thuở ấu thơ, việc học hành,
thi cử cùng mối tình thuỷ chung vợt lễ giáo của ông với cô hàng bánh. Những chân dung nhân vật,
những tập tục một thời đều đợc ông kể lại tỉ mỉ, chân thật, do đó rất hấp dẫn ngời đọc ; là những t
liệu quý giúp bạn đọc đời sau hiểu về đời sống đơng thời mà không phải nhà văn đơng thời nào cũng
để tâm ghi chép. Điều đó hẳn không tách rời với những cởi mở, đổi mới của ông trong việc nhìn ra
nớc ngoài, góp phần chấn hng nền kinh tế nớc nhà một cách thiết thực.
(Phạm Tú Châu, Từ điển văn học, NXB Văn học, 1986)
Lẽ ghét thơng___________________________nguyễn đình chiểu
(Trích Truyện Lục Vân Tiên)
I Gợi dẫn
1. Nguyễn Đình Chiểu (1822 1888) là ngôi sao sáng trên bầu trời văn nghệ dân tộc. Ông là
một nhà văn có tấm lòng tha thiết với đất nớc, với dân tộc. Cuộc đời sáng tác của ông chia làm hai
giai đoạn. Trớc 1858, ông sáng tác để tuyên truyền và giáo dục đạo đức, nổi tiếng có truyện thơ
Truyện Lục Vân Tiên. Sau 1858, sáng tác của ông thể hiện tấm lòng tha thiết với đất nớc, với dân tộc
trớc nạn ngoại xâm, ca ngợi những tấm gơng anh hùng đã đứng lên chống giặc, dù họ là ai, tớng
lĩnh, binh sĩ hay nhân dân...
Nguyễn Đình Chiểu là nhà văn, nhà giáo yêu nớc, có tấm lòng tha thiết với dân tộc. Cuộc đời
Đồ Chiểu là tấm gơng sáng ngời về nghĩa khí, về đạo đức. Là một ngời mù loà, không thể trực tiếp
cầm gơm đánh giặc, Đồ Chiểu đã sử dụng ngòi bút của mình nh một thứ vũ khí sắc bén để chiến đấu
chống kẻ thù. ông luôn ca ngợi những ngời đã dám anh dũng đứng lên cầm gơm giết giặc và đã viết
những bài văn tế xúc động về họ, nh Thơ điếu Phan Tòng, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc.
Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu chất phác, giản dị và có giá trị t tởng lớn. Đó đều là những tác

phẩm đợc sáng tác theo quan điểm :
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.
2. Truyện Lục Vân Tiên là truyện thơ, đợc viết dới hình thức thơ lục bát. Truyện thơ Nôm là thể
loại văn học khá phát triển trong lịch sử văn học Việt Nam thế kỉ XVIII XIX. Đó là những thành
tựu đáng tự hào của nền văn học dân tộc.
3. Đoạn trích này nằm ở phần đầu của truyện, từ câu 473 đến câu 504 trong tổng số 2082 câu
của truyện thơ. Lục Vân Tiên và Vơng Tử Trực kết nghĩa anh em, rồi cùng tới kinh đô ứng thí. Họ
vào nghỉ trong một quán trọ, ở đây, họ gặp Trịnh Hâm và Bùi Kiệm. Bốn ngời cùng làm thơ để trổ
tài cao thấp. Thấy Tiên, Trực làm thơ nhanh và hay, Kiệm và Hâm có ý nghi ngờ hai ngời sao chép
thơ cổ. Trớc tình cảnh ấy, ông quán tỏ ra khinh bỉ vô cùng những kẻ bất tài lại hay đố kị.
4. Đọc đoạn trích theo cách gieo vần của thơ lục bát. Chú ý ngắt giọng giữa câu (Quán
8
rằng :/..., Tiên rằng :/...).
II Kiến thức cơ bản
Truyện Lục Vân Tiên là tác phẩm lớn của văn học Việt Nam. Cũng nh Truyện Kiều, Truyện Lục
Vân Tiên đợc rất nhiều ngời Việt Nam yêu thích. Tác phẩm đã đi vào đời sống nhân dân và các nhân
vật của truyện đã đợc dân gian hoá. Lục vân Tiên trở thành biểu tợng về một đấng nam nhi ngay
thẳng tốt bụng, sẵn sàng cứu giúp ngời yếu thế. Kiều Nguyệt Nga trở thành biểu tợng sáng ngời của
lòng chung thuỷ, mẫu mực của ngời phụ nữ phơng Đông đoan trang, nết na... Mỗi nhân vật của tác
phẩm đều đã đi vào đời sống dân gian và trở thành một yếu tố của nền văn hoá dân gian. Truyện
Lục Vân Tiên là tác phẩm tiêu biểu cho giai đoạn sáng tác trớc 1858 của Nguyễn Đình Chiểu, đó là
giai đoạn sáng tác theo quan điểm văn chơng chở đạo. Đạo ở đây là những quan niệm đạo đức
truyền thống phơng Đông theo quan niệm của Nho giáo. Tính cách của nhân vật tốt xấu, ngay
gian rất rõ ràng. Qua thế giới nhân vật ấy, tác giả thể hiện những quan niệm của mình về đạo đức, về
con ngời và lẽ sống.
Đoạn trích Lẽ ghét thơng (từ câu 473 đến câu 504 của tác phẩm) là lời của một nhân vật trong
truyện, đó là nhân vật ông Quán trong cuộc đàm đạo giữa ông và các nho sĩ trẻ tuổi. Quan điểm yêu
ghét của ông Quán chính là quan điểm của tác giả nhà thơ, nhà văn, ông đồ Nguyễn Đình Chiểu.
Đoạn trích chia làm hai phần rất rõ rệt : phần nói về những điều mà ông Quán ghét, và phần kể

về những điều ông Quán thơng. Từ ghét, thơng ở đây cũng không đơn giản là chỉ tình cảm đối với
một ai đó mà đợc dùng để thể hiện sự đồng tình và phản đối của ngời nói đối với điều đợc nói tới.
Cũng không phải là chuyện ghét thơng những điều liên quan đến cá nhân ngời nói. Chuyện ghét th-
ơng đợc nhìn nhận xuất phát từ quyền lợi của nhân dân.
Cấu trúc ngôn ngữ trong đoạn trích có vẻ đơn điệu bởi sự lặp lại nhiều lần hình thức điệp đối.
Song chính điều đó lại tạo nên hiệu quả nghệ thuật trong việc thể hiện nội dung t tởng của tác giả.
Lặp lại hình thức những thay đổi sự việc, nhân vật trong mỗi câu thơ để nhấn mạnh, khẳng định thái
độ yêu ghét rõ ràng của nhà thơ. Để thể hiện thái độ ghét thơng với từng đối tợng cụ thể, ông Quán
có lời nhận xét chung Vì chng hay ghét cũng là hay thơng. Chuyện ghét thơng ở đây có mối quan
hệ mật thiết với nhau. Thái độ ghét là hệ quả của sự thơng mà thôi. Nỗi ghét thơng là sự trăn
trở của ông về cuộc đời, về cuộc sống của nhân dân lao động. Vì thơng nhân dân cực khổ lầm than,
vì trân trọng những con ngời biết vì dân mà ghét những kẻ tàn bạo, đi ngợc với đạo lí làm ngời, đẩy
nhân dân vào cảnh cơ cực lầm than.
Trớc hết, tác giả nói chuyện ghét. Ông Quán ghét những ai ? Tại sao ông lại ghét họ. Với mỗi
đối tợng, ông đều có lời giải thích rõ ràng. Không ghét chung chung, mà ghét điều cụ thể.
Quán rằng Ghét việc tầm phào
Ghét cay ghét đắng, ghét vào tận tâm.
Đối tợng ghét có tính khái quát rất cao, ghét tất cả những việc vớ vẩn, vô ích đối với dân với n-
ớc. Phàm những việc gì không có ích cho cuộc sống, có hại đối với con ngời thì đều là điều đáng
ghét, điều xấu xa. Mức độ ghét cũng rất dứt khoát, rõ ràng và quyết liệt. Điều này thể hiện ở việc
tách từ, điệp từ. Ba từ ghét đợc lặp lại trong câu thơ tám chữ thể hiện thái độ rất quyết liệt. Đó là thái
độ không khoan nhợng, không dung tha đối với điều xấu.
Những đối tợng tiếp theo đợc nhắc đến gắn với thái độ ghét của ông Quán đều có một điểm
chung. Đó là những nhân vật nổi tiếng tàn ác, những triều đình nổi tiếng nhiễu nhơng, xấu xa trong
lịch sử Trung Quốc : đó là Kiệt, Trụ mê dâm, U, Lệ đa đoan, Ngũ bá phân vân, thúc quý phân băng.
ý thơ rất cân đối trong việc kể. Trớc hết là hai cặp nhân vật nổi tiếng tàn bạo trong lịch sử phong
kiến Trung Hoa thời cổ đại, những tên vua tàn ác mà tên tuổi đều gắn với những giai thoại về sự độc
ác khôn cùng. Tiếp đến là hai thời kì đen tối của lịch sử Trung Hoa, kẻ cầm quyền tranh giành
quyền lực đẩy nhân dân vào nạn binh đao. Kẻ thì ăn chơi, hởng thụ sa đoạ, ngời thì say sa tranh
giành quyền lực nhng tất cả bọn chúng đều gây ra một hậu quả chung là đẩy nhân dân vào cuộc

sống vô cùng khổ cực. Những điều ông Quán ghét không liên quan gì đến cuộc sống của cá nhân
ông. Tóm lại, ông ghét những kẻ làm nhân dân phải chịu khổ cực. Cả bốn câu ông đều nhắc đến
dân, nhắc đến những hậu quả mà nhân dân lao động phải chịu : dân sa hầm sẩy hang, dân chịu
lầm than, dân nhọc nhằn và lằng nhằng rối dân. Bốn đối tợng ghét cụ thể ấy đã khái quát nên
một đối tợng ghét rất chung : ông ghét những kẻ đi ngợc lại với quyền lợi của dân.
Còn thái độ thơng của ông thì sao ? Ông thơng những đối tợng nào ? Thơng không chỉ là sự th-
ơng cảm mà thơng ở đây là thái độ đồng tình, kính trọng của ông dành cho đối tợng. ông không
ghét những chuyện vặt vãnh nên cũng không nói đến thơng những chuyện bình thờng.
Thơng là thơng đức thánh nhân,
Khi nơi Tống, Vệ lúc Trần, lúc Khuông.
9
...
Đối tợng thơng là nhân vật cụ thể, có thực trong lịch sử Trung Hoa. Đó là : Khổng Tử, Nhan
Tử, Gia Cát, Đổng Tử, Đào Tiềm, Hàn Dũ, Liêm, Lạc. Họ đều là những con ngời nổi tiếng về tài và
đức. Họ có cùng một điểm chung là luôn cố gắng mang tài năng ra giúp đời song lại gặp toàn
chuyện không may mắn. Sự nghiệp dù lẫy lừng song rồi lại dang dở. Nhng tất cả họ đều là ngời có
nhân cách cao cả, đều hết lòng thơng yêu dân chúng, sống trọn đạo bề tôi, giữ vững phẩm cách của
nhà nho. Đối tợng thơng đều là những ngời tài đức vẹn toàn. Vì vậy, thái độ thơng ở đây bao gồm
cả sự cảm thông, trân trọng và kính phục của tác giả.
Nhà thơ đã mợn chuyện bàn luận về ghét thơng, về lịch sử để thể hiện thái độ của mình đối với
nhân dân. Việc ghét thơng gắn chặt với quyền lợi của nhân dân lao động.
Tác giả đã sử dụng rất thành công các phơng tiện ngôn ngữ nh điệp từ, từ láy, thành ngữ, tiểu
đối để thể hiện thái độ ghét thơng rất rõ ràng, dứt khoát và quyết liệt của mình. Đặc biệt nhà thơ đã
sử dụng rất hiệu quả biện pháp nghệ thuật điệp từ. Đó là từ ghét và từ thơng. Đối tợng của ghét và
thơng thì luôn sóng đôi nhau từng cặp. Kiệt, Trụ và U, Lệ ; Ngũ bá và thúc quý. Đối tợng th-
ơng thì phong phú hơn. Điều đó thể hiện rõ hơn thái độ thơng ghét rõ ràng, dứt khoát của ông
Quán. Ông Quán dẫn toàn những chuyện sử sách Trung Quốc. Đây là những câu chuyện mà bất cứ
nhà nho nào cũng biết đến. ở thời của các nhà nho nh Nguyễn Đình Chiểu, những nhân vật và
những thời điểm lịch sử ấy đã trở nên rất quen thuộc và đã mang ý nghĩa khái quát hoá.
Mợn lời ông Quán, tác giả đã thể hiện quan điểm của một nhà nho chân chính. Nhà nho ấy tuy

là đệ tử của chốn cửa Khổng sân Trình nhng lại có t tởng rất tiến bộ. Đó là sự nối tiếp t tởng của
Nguyễn Trãi thể hiện ở Bình Ngô đại cáo, đó là : Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân. Cái tiêu chuẩn
để ghét thơng ở đây là quyền lợi của nhân dân, đi trái với quyền lợi của nhân dân là đáng ghét, là
đáng phê phán. Tác giả đã dùng hình thức đàm đạo về ghét thơng giữa ông Quán và các nho sĩ trẻ
tuổi để thể hiện thái độ, quan điểm t tởng của mình về thời cuộc và nhân tình thế thái.
III liên hệ
Quán rằng : ghét việc tầm phào,
Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm.
Chính thái độ yêu ghét dứt khoát mãnh liệt ấy đã tạo cho truyện Lục Vân Tiên một tinh thần đấu
tranh, một tinh thần phấn khởi lôi kéo ngời đọc
Thơng và ghét đều vì nhân dân. Làm lợi cho dân thì thơng, làm hại cho dân thì ghét :
Ghét đời Kiệt Trụ mê dâm

Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân.
Nguyễn Đình Chiểu cũng đứng trên lập trờng nhân nghĩa của nhân dân mà có một thái độ dứt
khoát : yêu và ghét, Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm Thái độ thật dứt khoát ấy đợc xây
dựng trên một lí tởng vững chắc bền bỉ, không gì lay chuyển nổi. Nhân vật Kiều Nguyệt Nga tiêu
biểu cho cái lí tởng ấy. Trong truyện Lục Vân Tiên mỗi nhân vật chính diện đều theo đuổi một lí t-
ởng nh vậy.
(Vũ Đình Liên, Nguyễn Đình Chiểu. ngôi sao sáng trong văn nghệ dân tộc
NXB Trẻ, 2003)
Chạy giặc________________________________nguyễn đình chiểu
I Gợi dẫn
1. Nguyễn Đình Chiểu (xem bài Lẽ ghét thơng).
2. Chạy giặc đợc sáng tác khi nhà thơ chứng kiến cảnh nhân dân chạy loạn.
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng vào Đà Nẵng, bắt đầu cuộc xâm lợc Việt Nam. Nhng chúng
đã gặp sự kháng cự của quân triều đình và nhân dân. Thực dân Pháp quay sang tiến vào Sài Gòn,
tràn tới sông Bến Nghé. Bài thơ thể hiện lòng yêu nớc nồng nàn của nhà thơ và nỗi đau của ông khi
phải chứng kiến cảnh nớc mất nhà tan.
3. Khi đọc, chú ý quy tắc gieo vần theo niêm luật của thơ thất ngôn bát cú.

II Kiến thức cơ bản
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà nho, một thầy đồ, một thầy thuốc, một nhà thơ và là một nghĩa
sĩ có nhân cách.
Mặc dù đôi mắt lúc đó đã mù loà, nhng nỗi đau đớn của một ngời dân mất nớc, hàng ngày
chứng kiến cảnh giặc Pháp tấn công và đánh chiếm quê hơng đã khiến ông hình dung, tởng tợng thật
rõ ràng cảnh nớc mất nhà tan. Ông đã vẽ nên bức tranh đầy máu và nớc mắt về một thời điểm lịch sử
đen tối của dân tộc.
10
Bài thơ đợc mở đầu bằng một khung cảnh bình thờng mà bất thờng.
Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,
Một bàn cờ thế phút sa tay.
Cảnh chợ thờng gợi cảm giác thanh bình. Cảnh thanh bình ấy đột nhiên bị phá vỡ bởi một thứ
âm thanh vô cùng tàn nhẫn và đáng sợ : tiếng súng Tây. Đó là âm thanh báo hiệu sự bắt đầu một tấn
bi kịch của dân tộc. Hai câu đề đã khái quát hoàn cảnh bao quát của cảnh chạy giặc và cũng là khái
quát hiện thực. Bàn cờ thế phút sa tay là hình ảnh có ý nghĩa tợng trng. Thế sự nh cuộc cờ, ngời
đứng đầu là ngời chơi cờ. Nớc cờ sa tay, ván cờ thất bại. Cách nói phút sa tay gợi cảm giác tai hoạ
đến thật đột ngột, không có dự báo trớc. Nó khiến cho ngời trong cuộc hoang mang. Cảnh tợng ấy
đã đợc nhà thơ, ngời trong cuộc, hình dung và ghi lại rất rõ ràng ở câu thực và câu luận.
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,
Mất ổ bầy chim dáo dác bay.
Bến Nghé của tiền tan bọt nớc,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây.
Thực tế bao giờ nớc mất cũng kéo theo nhà tan. Cảnh nhà tan đã đợc nhà thơ ghi lại bằng
một hình ảnh thật đắt và giàu sức gợi. Nó gợi nên sự đau xót, thơng tâm. Khi đã chạy giặc thì đủ cả
già, trẻ, lớn, bé nhng ở đây tác giả chỉ dùng một hình ảnh lũ trẻ lơ xơ chạy. Lũ trẻ bỏ nhà đã
đáng thơng tâm lắm rồi nhng kèm theo từ lơ xơ càng tăng cảm giác đau xót đến bội phần. Nó gợi sự
tan tác đến hoang tàn. Cảnh con ngời nhà tan cửa nát đợc đặc tả bằng hình ảnh lũ trẻ lơ xơ chạy
thì hình ảnh thiên nhiên trời đất tang thơng lại đợc gợi nên bởi hình ảnh bầy chim dáo dác bay.
Hai cặp hình ảnh đối nhau trong cặp câu thực đã thể hiện rất rõ cảnh tợng đau xót của ngày chạy
giặc.

Cảnh nhà tan là vậy, còn cảnh nớc mất cũng thật tang thơng. Tác giả đã dùng hai địa điểm thực
để tả cảnh đất nớc những ngày đầu oằn mình dới gót giày xâm lợc. Tiếng súng của quân xâm lợc đã
bao trùm lên không gian quê hơng một không khí đầy hiểm hoạ. Hình ảnh tan bọt nớc và nhuốm
màu mây gợi sự tan tác và u ám. Bóng quân thù đã bao trùm cả quê hơng.
Chỉ với những nét gợi tả trong ba cặp câu thơ ấy thôi, nhà thơ đã khái quát phút giây đau thơng
của cả dân tộc Việt. Nhà thơ ấy tuy mù loà nhng nỗi đau của một ngời dân mất nớc đã khiến ông có
thể cảm nhận bằng tởng tợng nhng rất chính xác cảnh tang thơng của quê hơng.
Tấm lòng ấy đợc trực tiếp thể hiện ở hai câu kết :
Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ để dân đen mắc nạn này ?
Câu hỏi ẩn chứa điều gì vậy, đây là một câu hỏi tu từ chứ không phải câu hỏi thông thờng.
Giọng điệu vừa đau xót, vừa trách móc, vừa day dứt. Tác giả đã dùng từ trang để chỉ những ngời có
trách nhiệm trong việc đánh giặc giữ nớc. Cách xng hô ấy không đơn giản là thể hiện sự kính trọng
của ông đối với những ngời có trách nhiệm, có chí lớn, có tấm lòng với dân tộc. Nó còn là khao
khát, là sự trách móc chua xót, là niềm mong mỏi của nhân dân dành cho những ngời có đủ sức đủ
quyền và có trách nhiệm trớc vận mệnh dân tộc. Chính từ nỡ ở câu kết đã thể hiện điều đó. Câu kết
cũng chính là niềm mong mỏi thống thiết của Đồ Chiểu và của nhân dân. Họ mong mỏi có những
ngời có đủ sức, đủ tài và đủ tâm đứng lên thực hiện nhiệm vụ đánh giặc giữ nớc. Câu hỏi kết thúc
bài thơ đã tạo nên âm hởng thật thống thiết cho toàn bài thơ, đồng thời thể hiện tấm lòng đau đáu
nỗi niềm non nớc của ông Đồ Chiểu.
III liên hệ
So sánh nội dung bài Chạy giặc với bài Xúc cảnh của Nguyễn Đình Chiểu :
Hoa cỏ ngùi ngùi ngóng gió đông,
Chúa xuân đâu hỡi ? Có hay không ?
Mây giăng ải bắc mong tin nhạn,
Ngày xế non nam bặt tiếng hồng.
Bờ cõi xa đà chia đất khác,
Nắng sơng nay há đội trời chung.
Chừng nào Thánh đế ân soi thấu,
Một trận ma nhuần rửa núi sông ?

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc________________nguyễn đình chiểu
I Gợi dẫn
1. Nguyễn Đình Chiểu (xem bài Lẽ ghét thơng).
11
2. Thời xa, khi tế lễ trời đất, núi sông thờng có bài văn cầu chúc, gọi là tế văn, kì
(1)
văn hoặc
chúc
(2)
văn. Về sau, khi chôn cất ngời thân, ngời ta cũng dùng văn tế để tởng nhớ ngời đã mất. Văn
tế cũng có khi đợc gọi là điếu (điếu văn).
Văn tế nói chung là loại văn đọc khi tế, cúng ; bởi vậy nó có hình thức tế h ởng. Chẳng hạn :
mở đầu bằng Năm, tháng, ngày... kính mời vong linh ngời nào đó ; kết thúc bằng Ô hô, ai tai (Hỡi
ơi ! Đau đớn thay !). Về ngôn ngữ, văn tế không câu nệ đến hình thức ; ngời ta có thể dùng văn vần,
tản văn, biền văn.
Một bài văn tế thờng có các phần : Lung khởi (ấn tợng khái quát về ngời chết) ; Thích thực (hồi
tởng công đức của ngời chết) ; Ai vãn (than tiếc ngời chết) ; Kết (nêu lên ý nghĩ của ngời tế và cầu
chúc cho linh hồn ngời chết).
3. Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc đợc Nguyễn Đình Chiểu viết để tởng nhớ công ơn của những ngời
nông dân đã anh dũng đứng lên chống giặc. Năm 1858, giặc Pháp đánh vào Đà Nẵng, nhân dân
Nam Bộ đứng lên chống giặc. Năm 1861, vào đêm 14 12, nghĩa quân tấn công đồn giặc ở Cần
Giuộc trên đất Gia Định, gây tổn thất cho giặc, nhng cuối cùng lại thất bại. Bài văn tế tuy đợc viết
theo yêu cầu của tuần phủ Gia Định, song chính là tình cảm chân thực của Đồ Chiểu dành cho
những ngời đã xả thân vì nghĩa lớn. Bài văn đợc viết theo bố cục quen thuộc của một bài văn tế :
- Lung khởi (từ đầu đến tiếng vang nh mõ) : cảm tởng khái quát về những nghĩa sĩ nông dân hi
sinh trong trận Cần Giuộc.
- Thích thực (từ Nhớ linh xa đến ra tay bộ hổ) : hồi tởng về cuộc đời ngời nghĩa sĩ.
- Ai vãn (từ Khá thơng thay đến dật dờ trớc ngõ) : than tiếc các nghĩa sĩ.
- Kết (phần còn lại) : tình cảm xót thơng của ngời tế với linh hồn ngời chết.
Qua bài văn, hình tợng những ngời nghĩa sĩ vốn là những ngời nông dân hiền lành đã hiện lên

nh một biểu tợng nghệ thuật sừng sững về lòng yêu nớc của nhân dân Việt Nam. Lòng căm thù quân
giặc của những ngời nghĩa sĩ cũng chính là lòng căm thù giặc của Nguyễn Đình Chiểu.
4. Đọc bài văn bằng giọng điệu bi thiết, trầm hùng. Chú ý thể hiện tính chất đối xứng của các
câu văn biền ngẫu.
II Kiến thức cơ bản
Thật có lí khi khẳng định Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một trong những bài văn tế hay và cảm
động nhất trong lịch sử văn học dân tộc. Lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc có một tợng đài
nghệ thuật sừng sững về ngời nông dân tơng xứng với phẩm chất vốn có ngoài đời của họ ngời
nông dân nghĩa sĩ chống giặc, cứu nớc.
Theo dòng hồi tởng, cuộc đời của những ngời nghĩa sĩ đợc phản ánh chân thực, sống động. Đó
là những ngời nghĩa sĩ nông dân :
Cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó.
Cha quen cung ngựa, đâu tới trờng nhung ; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng
bộ.
Vẫn là hình ảnh quen thuộc của ngời nông dân Việt Nam cần cù, lam lũ. Vẻ cui cút", dáng
toan lo" nh gợi ra từ sâu thẳm nỗi niềm cảm thông của con ngời. Ngời nông dân thầm lặng làm
lụng, cày sâu cuốc bẫm, bán mặt cho đất, bán lng cho trời. Giữa bao la trời đất và ruộng đồng rộng
lớn, vóc dáng ngời nông dân hiển hiện thật tội nghiệp, đơn chiếc. Họ tất tả trong cái đói, cái nghèo.
Ngời nông dân giãi bày phận mình thành thực, cảm động. Họ kể những công việc đồng áng, cày
cuốc, bừa cấy, những việc "ruộng trâu", "làng bộ" cũng giản đơn, dung dị nh chính cuộc đời họ. Họ
nghĩ suy cũng thật mộc mạc : đó là chuyện quen làm, chuyện vốn có. Bởi thế, dễ dàng phân biệt
chuyện cha quen làm và chuyện quen làm, chuyện chiến trận và chuyện ruộng đồng. Sự ngỡ ngàng,
ngạc nhiên của họ khi "tập súng", "tập mác", "tập cờ" cũng là điều dễ hiểu. Không gian "súng giặc
đất rền" làm đảo lộn cuộc sống yên bình của ngời nông dân. Tay cày, tay cuốc giờ đợc thay bằng tay
giáo, tay mác. Lòng căm thù giặc biểu hiện ngút trời :
Tiếng phong hạc phập phồng hơn mơi tháng, trông tin quan nh trời hạn trông ma ; mùi tinh
chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi nh nhà nông ghét cỏ.
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan ; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra
cắn cổ.
Từng lời, từng chữ trong văn tế thấm sâu nỗi hờn căm sôi sục : "ăn gan", rồi "cắn cổ"..., Nguyễn

Đình Chiểu thật tài tình khi đa ngôn ngữ dân dã, mộc mạc vào trong lời văn. "Ăn gan, cắn cổ" cũng
(
1) Kì: tế lễ.
(
2) Chúc: cầu chúc.
12
là tiêu diệt tận cùng loài thú dữ, ác độc. Nguyễn Đình Chiểu phát hiện ra tình yêu nớc cháy sáng
trong tâm hồn ngời nghĩa sĩ. Không cam lòng nhìn nơi mình gắn bó máu thịt bị tàn phá, họ vứt bỏ
cuốc cày đến với nghĩa quân, từ việc "cha quen cung ngựa đâu tới trờng nhung", đến việc "mến
nghĩa làm quân chiêu mộ". "Súng giặc đất rền" đã trở thành hoàn cảnh điển hình để ngời nông dân
tự bộc lộ chính mình. Đằng sau con ngời nhỏ bé kia là một nghị lực, một khí phách chiến đấu phi
thờng. Tinh thần tự nguyện, xả thân vì nghĩa lớn đợc nâng thành lí tởng cao cả của ngời nghĩa sĩ
nông dân. Họ tự nguyện đến "trờng nhung" liều hi sinh bản thân mình để bảo vệ đất nớc. Hành động
sẵn sàng xả thân vì nớc là sự kết tinh cao độ của lòng căm thù giặc và yêu nớc sắt son của ngời
nghĩa sĩ :
Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình ; chẳng thèm trốn ngợc trốn xuôi, chuyến
này dốc ra tay bộ hổ.
Nếu nh trớc kia ngời trai tráng "bớc chân xuống thuyền nớc mắt nh ma" thì nay trong thơ Đồ
Chiểu sừng sững hình ảnh ngời nghĩa sĩ tự nguyện cứu dân, cứu nớc. Trong từng bớc chân lùng giặc
đánh của họ, ngời ta cảm nhận đợc niềm tự hào sâu sắc của tác giả. Quân dân lấy tình yêu làm gốc,
lấy nghĩa khí làm trọng. Chỉ vì "mến nghĩa" mà trở thành nghĩa quân thì thực sự cao quý vô cùng.
Tinh thần chiến đấu xả thân vì nghĩa đợc ngời nghĩa sĩ dùng làm phơng châm, mục đích để chiến
đấu chống kẻ thù.
Hoả mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia ; gơm đeo dùng bằng lỡi dao
phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
Chi nhọc quan quản gióng trống kì trống giục, đạp rào lớt tới, coi giặc cũng nh không, nào sợ
thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình nh chẳng có.
Kẻ đâm ngang, ngời chém ngợc, làm cho mã tà ma ní hồn kinh ; bọn hè trớc, lũ ó sau, trối kệ
tàu sắt tàu đồng súng nổ.
Một cuộc chiến đấu không cân sức nhng vẫn làm nổi bật t thế của ngời nghĩa sĩ trên chiến trận.

T thế hiên ngang, chủ động, tung hoành ngang dọc. Mỗi lời văn tế đồng thời biểu hiện khí thế xung
trận sục sôi của ngời nghĩa sĩ. Khi "đánh", "đốt", "chém", khi "đạp rào", "lớt tới", lúc "đâm ngang",
"chém ngợc"... lòng quả cảm, sự nung nấu ý chí quyết tâm chiến đấu, chiến thắng nh giục giã, nh
thôi thúc. Các hành động liên tiếp quyết liệt của ngời nghĩa sĩ đợc tác giả miêu tả qua một loạt động
từ mạnh, tạo ấn tợng hùng tráng. Sự đối lập giữa "ngọn tầm vông", "rơm con cúi", "lỡi dao phay" với
"tàu sắt", "tàu đồng", "súng nổ" nhằm tô đậm khí phách của ngời nghĩa sĩ. Điều đáng trân trọng nhất
ở họ chính là sự đồng tâm, hiệp lực, sức mạnh đoàn kết của những tâm hồn quả cảm, anh hùng.
Nguyễn Đình Chiểu bộc lộ cái nhìn rất chân thực và tinh tế về ngời nông dân, nghĩa sĩ. Họ anh
hùng dũng cảm nhng vẫn nôn nóng, bột phát. Phải chăng đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến sự
thất bại của những ngời nghĩa sĩ ở Cần Giuộc.
Nguyễn Đình Chiểu viết về ngời nghĩa sĩ nông dân với một niềm tự hào sâu sắc. Ngời nghĩa sĩ
sống một cuộc sống anh hùng chết một cái chết vinh quang. Những nghĩa sĩ vô danh hi sinh "nào
đợi gơm hùm treo mộ". Quan niệm "chết vinh còn hơn sống nhục" lại đợc thắp sáng qua hình ảnh
của họ.
Sống làm chi theo quân tả đạo, quăng vùa hơng, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn ; sống làm chi
ở lính mã tà, chia rợu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.
Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh ; hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với
man di rất khổ.
Đứng trớc bức tợng đài vĩ đại ấy của dân tộc, biết bao nỗi niềm cảm thông, xót thơng đợc bộc
lộ. "Ngời mẹ già", "ngời vợ yếu" đau đớn, não nùng trong niềm thơng xót vô hạn.
Đau đớn bấy ! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều ; não nùng thay ! Vợ yếu
chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trớc ngõ.
Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu không chỉ đã tạc bằng thơ hình tợng ng-
ời nghĩa sĩ, nông dân anh hùng, bất khuất mà còn là tiếng khóc thơng bi thiết của con ngời dân tộc
trớc sự hi sinh vĩ đại, cao cả của họ. Cuộc chiến của những ngời nghĩa sĩ thất bại song đó là thất bại
trong kiêu hãnh. Hình ảnh ngời anh hùng thất thế trong văn tế trở nên đẹp đẽ, kì vĩ lạ thờng danh
thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ.
Nguyễn Đình Chiểu viết về những ngời nghĩa sĩ bằng tất cả nỗi niềm mến thơng và cảm phục
chân thành. Cụ Đồ Chiểu mù đôi mắt mà sáng tấm lòng. Ông nh nghe đợc tiếng lòng của chính
những ngời nghĩa sĩ nông dân để mà tấu lên khúc ca bi ai cảm động. Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

biểu hiện một nỗi đau toàn bích", Nguyễn Đình Chiểu xứng đáng là ánh sáng khác thờng" trong
bầu trời văn học Việt Nam rộng lớn.
13
III liên hệ
Trên trời có những vì sao có ánh sáng khác thờng, nhng con mắt của chúng ta phải chăm chú
nhìn thì mới thấy, và càng nhìn thì càng thấy sáng. Văn thơ của Nguyễn Đình Chiểu cũng vậy. Có
ngời chỉ biết Nguyễn Đình Chiểu là tác giả của Lục Vân Tiên, và hiểu Lục Vân Tiên khá thiên lệch
về nội dung, và về văn, còn rất ít biết về thơ văn yêu nớc của Nguyễn Đình Chiểu, khúc ca hùng
tráng của phong trào yêu nớc chống bọn xâm lợc Pháp lúc chúng đến bờ cõi nớc ta cách đây một
trăm năm !
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ yêu nớc mà tác phẩm là những trang bất hủ ca ngợi cuộc
đấu tranh oanh liệt của nhân dân ta chống bọn xâm lợc phơng Tây ngay buổi đầu lúc chúng đặt chân
lên đất nớc chúng ta.
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà nho, nhng sinh trởng ở đất Đồng Nai hào phóng, lại sống giữa
lúc nớc nhà lâm nguy, vua nhà Nguyễn cam tâm bán nớc để giữ ngai vàng, nhng khắp nơi, nhân dân
và sĩ phu anh dũng đứng lên đánh giặc cứu nớc. Vì mù cả hai mắt, hoạt động của ngời chiến sĩ yêu
nớc Nguyễn Đình Chiểu chủ yếu là thơ văn. Và những tác phẩm đó, ngoài giá trị văn nghệ, còn quý
giá ở chỗ nó soi sáng tâm hồn trong sáng và cao quý lạ thờng của tác giả, và ghi lại lịch sử của một
thời khổ nhục nhng vĩ đại.
... Bài ca của Nguyễn Đình Chiểu làm chúng ta nhớ bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Hai
bài văn, hai cảnh ngộ, hai thời buổi, nhng một dân tộc. Hịch của Nguyễn Trãi là khúc ca khải hoàn,
ca ngợi những chiến công oanh liệt cha từng thấy, biểu dơng chiến thắng làm rạng rỡ nớc nhà. Bài
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là khúc ca những ngời anh hùng thất thế, nhng vẫn hiên ngang...
(Phạm Văn Đồng, Nguyễn Đình Chiểu tấm gơng yêu nớc và lao động nghệ thuật,
Viện Văn học NXB Khoa học xã hội, 1973)
Tự tình_____________________________________hồ xuân hơng
(Bài II)
I Gợi dẫn
1. Hồ Xuân Hơng là nữ sĩ tài năng, là hiện tợng văn học trung đại Việt Nam, song cũng là nhà
thơ mà cuộc đời còn rất nhiều bí ẩn. Có rất nhiều giai thoại về hoàn cảnh xuất thân, cuộc sống và cá

tính của bà. Hiện nay phần đông các nhà nghiên cứu thống nhất ý kiến : Bà là con ông Hồ Phi Diễn,
một nhà nho nghèo quê ở Nghệ An. Ông Hồ Phi Diễn ra Bắc dạy học và lấy vợ lẽ, rồi sinh ra Hồ
Xuân Hơng. Gia đình bà từng sống ở Thăng Long và bà từng dựng ngôi Cổ Nguyệt đờng để đón
tiếp, giao du với khách văn chơng. Bà giao du rộng rãi, đờng tình duyên của bà gặp nhiều trắc trở.
2. Bài thơ thuộc chùm ba bài thơ Tự tình của Hồ Xuân Hơng. Chùm thơ bộc lộ tâm sự của một
ngời phụ nữ đa đoan luôn khát khao hạnh phúc nhng luôn gặp những điều bất hạnh. Hiện lên trong
chùm thơ là ngời phụ nữ đằm thắm, cá tính mãnh liệt nhng không thiếu sự dịu dàng, yếu đuối của nữ
tính.
3. Trong khi đọc, chú ý cách gieo vần theo niêm luật của thơ thất ngôn bát cú.
II Kiến thức cơ bản
Những nhà thơ có cá tính mạnh mẽ đều là những ngời tinh tế trớc bớc chuyển của thời gian.
Thời gian vô thuỷ, vô chung, đời ngời thì hữu hạn. Hoặc giả thời gian nếu có tuần hoàn thì tuổi trẻ
vẫn qua đi. Thế đối nghịch giữa thời gian với cuộc đời, đặc biệt là với tuổi trẻ và tình yêu khơi
nguồn cảm hứng cho nhiều bài thơ mà tâm trạng của nhân vật trữ tình thờng là buồn đau da diết. Bài
Tự tình của Hồ Xuân Hơng là một bài thơ nh thế.
Đờng tình duyên vốn đã chẳng êm xuôi, lại thêm tính tình Xuân Hơng khẳng khái có chút
ngang tàng, tất cả khiến ngời nữ sĩ không thể gò đợc mình vào cái khung vừa chật hẹp, vừa hà khắc
của thời phong kiến. Sự bẽ bàng và chua chát xuất phát từ đây. Cuộc đời hai lần phải đi làm lẽ, với
ngời phụ nữ thời phong kiến, nh vậy cũng có thể xem là đã "chẳng còn gì". Nhng còn buồn hơn, ở
Hồ Xuân Hơng, sự gắng gợng ấy lại còn chẳng đến đâu. Xem thơ Hồ Xuân Hơng thì dễ thấy, những
bài thơ dự đoán là đợc làm vào giai đoạn sau này có nhiều bài tỏ ra chán nản (trong đó có bài Tự
tình này). Thơ ít thấy cái khẩu khí mạnh mẽ và quyết liệt. Giọng thơ trầm, sâu lắng và nhiều "tâm
sự" hơn.
Nh đã nói, bài Tự tình này khai thác thế đối nghịch giữa thời gian với tuổi trẻ và tình yêu. Bài
thơ là mạch cảm xúc của nhiều niềm tâm sự. Niềm tâm sự ấy đến vào lúc cũng thật là tinh tế.
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nớc non.
Câu thơ nói đến thời gian nhng cũng lại gợi đợc cái không gian rợn ngợp. Thời gian, không gian
đối lập với con ngời nhỏ bé, cô đơn.
14

Đêm khuya, vắng lặng và tĩnh mịch. Đó là thời điểm con ngời cảm giác rõ nhất sự cô đơn. Một
mình đối diện với đêm khuya, khi tất cả mọi âm thanh của cuộc sống đã lắng lại, đã lùi lại cả phía
sau, ngời phụ nữ đa đoan ấy càng thấm thía nỗi buồn. Cái âm thanh "văng vẳng" của tiếng trống
canh không làm cho đêm bớt tĩnh lặng, mà ngợc lại nó làm cho đêm sâu hơn, vắng hơn và lòng ngời
buồn hơn. Tiếng trống canh dồn là nhắc nhở thời gian đang bớc từng bớc lạnh lùng. Nhà thơ đã lấy
động để mà tả tĩnh một thủ pháp nghệ thuật quen thuộc của thơ ca trung đại. Văng vẳng vừa gợi
âm thanh của tiếng trống điểm canh, vừa gợi sự quạnh quẽ của đêm khuya. Một mình đối diện với
đêm khuya vắng lặng đến cô tịch vốn đã dễ gợi niềm tâm sự. ở đây, còn thêm sự cô đơn thì nỗi
buồn hẳn càng dễ đến hơn. Câu thơ đầu có chỗ hiện còn nhiều cách hiểu. Đó là cụm từ trống canh
dồn. Thiết nghĩ, trống canh dồn không thể hiểu là sự gấp gáp, dồn dập, liên hồi của tiếng trống.
Hiểu nh vậy có phần gợng ép. Đêm khuya không ai đánh trống dồn dập, liên hồi. Vả lại trống điểm
canh lại càng không đánh dồn dập đợc. Câu thơ cha nhắc đến chủ thể nhng thực tế đã là một câu để
gợi tình. Một mình đối diện với đêm khuya, nhân vật trữ tình ngán ngẩm bởi thời gian trôi nhanh mà
tình duyên thì vẫn còn dang dở. Thời gian không chỉ nhanh từng ngày, từng tháng, từng năm mà còn
nhanh ngay cả mỗi canh giờ. Bởi thế mà ngay cả lúc, thời gian tởng nh có bớc đi chậm nhất thì nó
vẫn cứ trôi vội vã. Vậy là cụm từ trống canh dồn có thể hiểu : thời gian trôi nhanh nên cảm giác các
canh ngắn lại. Cũng vì thế mà tiếng trống điểm canh cũng dồn lại gần nhau hơn.
Giữa cái nền không gian rợn ngợp cô đơn ấy hiện lên một hình ảnh thật bẽ bàng :
Trơ cái hồng nhan với nớc non
Động từ trơ đợc đẩy lên đầu câu đứng ngay trớc chủ thể "hồng nhan". Từ hồng nhan (sắc mặt
hồng) chỉ dung nhan ngời phụ nữ, cũng là khái niệm chỉ phụ nữ nói chung thiên về ngợi khen vẻ
đẹp. Thế mà lại "trơ cái hồng nhan". Chủ thể đã mất hoàn toàn cảm giác, trơ ra, chai lì đi trớc cuộc
đời. Đã vậy từ hồng nhan lại nằm ngay sau từ cái vốn không đi liền với danh từ chỉ ngời. Câu thơ
mỉa mai, rẻ rúng đến xót xa. Nhịp thơ chắc khoẻ nh gân lên ở đầu câu nhng lại chùng xuống ở cuối
câu nh muốn ngân thêm mãi cảm giác bẽ bàng.
Câu thơ buồn. Tình buồn, cảnh cũng buồn. Vì thế cũng là hợp lôgíc khi ở hai câu thực, nhân vật
trữ tình tìm đến rợu :
Chén rợu hơng đa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết cha tròn.
Chủ thể trữ tình mợn rợu để tìm quên nhng say rồi lại tỉnh. Tỉnh là tỉnh rợu nhng cũng lại là tỉnh

trớc hiện thực bẽ bàng. Cụm từ say lại tỉnh gợi cái vòng lẩn quẩn : buồn mợn rợu để tìm quên
nhng tỉnh rợu, nỗi buồn lại nhân lên gấp bội phần. Hơng tình sao cũng giống nh hơng rợu, khiến ta
say. Và nếu nh sau cơn say rợu, ta mệt mỏi rã rời thì sau một thoáng hơng tình rất có thể ta phải đau
đớn, xót xa.
Câu thơ thứ t mới thực là một câu tả thực. Câu thơ gợi ra nguyên nhân của sự bẽ bàng :
Vầng trăng bóng xế khuyết cha tròn
Xa nay, vầng trăng tròn đầy vốn tợng trng cho sự viên mãn của hạnh phúc lứa đôi. Nhng ở câu
thơ này, nó là một sự khao khát. Niềm khát khao của bất kì một ngời phụ nữ nào trên thế gian này,
khát khao hạnh phúc, khát khao thoát khỏi nỗi cô độc, lẻ loi. Nhiều ngời vẫn dựa vào những câu
chuyện về tình duyên của Xuân Hơng để lí giải nghĩa của câu thơ này. Thế nhng, đó chỉ là sự suy
luận với mong mỏi tìm hiểu cặn kẽ cụ thể một hình ảnh thơ. Không thể nói rằng cả hai lần làm lẽ,
Hồ Xuân Hơng đều không hạnh phúc. Mặc dù có thể là gắng gợng nhng phải làm lẽ ở thời phong
kiến cũng không có gì là ghê gớm. Xuân Hơng có buồn nhng không kêu ca. Nàng chỉ tiếc hạnh
phúc lứa đôi đã có những lúc tròn đầy sao giờ "xế bóng" mà lại không viên mãn. Hạnh phúc sao
không trọn vẹn. Câu thơ không đơn giản thế, không chỉ là nỗi buồn của riêng Xuân Hơng vì chuyện
hạnh phúc lứa đôi dang dở. Ai dám khẳng định rằng tất cả mọi ngời phụ nữ trong mọi thời đại đều
chắc chắn hạnh phúc, không cảm thấy cô đơn khi có đủ cặp, đủ đôi. Nỗi buồn của nhân vật trữ tình
trong bài thơ là nỗi buồn chung. Đó là nỗi khát khao một hạnh phúc vẹn tròn. Nhất là những ngời
phụ nữ không may mắn trong chuyện tình duyên, tuổi xuân cứ lạnh lùng trôi đi mà hạnh phúc tìm
hoài không thấy.
Sự khác biệt lớn nhất thể hiện bản lĩnh của Hồ Xuân Hơng là ở nữ sĩ, phẫn uất bao giờ cũng đi
liền với phản kháng. Hai câu thơ luận chính là hai câu nói lên cái bản lĩnh ấy của Hồ Xuân Hơng :
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Hai câu thơ đăng đối và chắc khoẻ đợc tạo nên từ nghệ thuật đảo ngữ và luật đối quy định trong
câu luận. Một nhỏ bé và yếu ớt (đám rêu). Một là vật vô tri (đá). Nhng thiên nhiên lại chở cái phẫn
uất của lòng ngời nên dù yếu ớt mà vẫn tràn đầy sức sống (từng đám rêu xiên ngang mặt đất). Dù vô
15
tri, đá vẫn cựa động, quẫy đạp, phá phách (mấy hòn đá đâm toạc chân mây). Bản lĩnh của Hồ Xuân
Hơng không chỉ tìm thấy trong ý nghĩa của sự miêu tả. Nó nằm ngay ở cách dùng từ. Ngôn ngữ của

Hồ Xuân Hơng mạnh mẽ, bớng bỉnh và phải là độc đáo : xiên ngang, đâm toạc. Chúng ta gặp nhiều
cách dùng từ này trong thơ của Xuân Hơng : xoạc cẳng, phờng lòi tói, chín mõm mòm Đó là phong
cách ngôn ngữ riêng của Bà chúa thơ Nôm Xuân Hơng.
Hai câu thơ tả cảnh nhng cũng là để thể hiện cá tính Hồ Xuân Hơng con ngời không dễ dàng
bằng lòng hoàn cảnh. Nhng nếu chỉ có vậy, thơ Xuân Hơng sẽ khô khan và gợng ép. Bởi thế hai câu
thơ cuối là hai câu nói thực lòng ngời phụ nữ :
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con !
Dù gắng gợng, bài thơ vẫn kết thúc trong tâm trạng chán chờng. Từ ngán nỗi nói lên điều đó.
Xuân Hơng ngán ngẩm nỗi đời éo le, cũng là ngán ngẩm số phận mình bạc bẽo. Tạo hoá cho bốn
mùa xoay vần trở lại nhng tuổi xuân mãi mãi qua đi. Mùa xuân của đất trời mỗi năm một mới. Nhng
mùa xuân của cuộc đời chỉ có một chiều tàn úa. Hai từ lại trong câu này có nghĩa khác nhau. Một từ
là thêm lần nữa, một từ là trở lại. Nhịp câu thơ kéo dài nh nỗi chán chờng, sự cô đơn bất tận của
nhân vật trữ tình.
Câu thơ cuối là sự sáng tạo tuyệt vời của nghệ thuật tăng tiến :
Mảnh tình san sẻ tí con con
Mảnh tình đã ít đã nhỏ, lại còn san sẻ nên thành ra chỉ còn lại tí con con, đã tí lại con con, hầu
nh chẳng còn gì. Câu thơ là tâm sự của ngời đi làm lẽ :
Tối tối chị giữ mất chồng
Chị cho manh chiếu nằm suông chuồng bò
(Ca dao)
Cảnh chồng chung vợ chạ thực sự là một dấu ấn khắc sâu vào cuộc đời bất hạnh, chán chờng
của ngời phụ nữ mà trong hoàn cảnh nào cũng không nguôi khát vọng yêu thơng.
Trong thơ ca trung đại, cái Tôi cá nhân giữ một vị trí rất khiêm tốn, nó nhỏ bé và yếu ớt nấp sau
một cái ta đầy kiêu ngạo. Nhng những ngời nghệ sĩ nh Hồ Xuân Hơng, Nguyễn Du, Nguyễn Công
Trứ đều không chấp nhận thực tế ấy. Với tài năng, tình đời và bản lĩnh sáng tạo của mình, họ đã
dũng cảm đa cái Tôi cá nhân với những tâm trạng rất riêng, rất ngời, rất đời thờng vào những trang
thơ, trang văn. Và đó đều là cái tình đời, tình ngời của những ngời nghệ sĩ có tấm lòng nhân đạo và
t tởng nhân văn sâu sắc.
Chùm 3 bài Tự tình của Hồ Xuân Hơng, mỗi bài có một vẻ riêng. Dù sao cũng phải nói rằng ở

bài này thấy ít sự ngao ngán hơn. Thơ vẫn có những lúc phá phách nhng không phải theo kiểu bất
cần. Bài thơ nghiêng hơn về âm hởng trữ tình. Nỗi buồn đong đầy nhng vẫn lắng sâu, không hời hợt.
Nhìn thẳng để viết thật về lòng mình, bài thơ không chỉ là tâm sự của Hồ Xuân Hơng. Bài thơ còn
mang ý nghĩa nhân văn cao cả.
III liên hệ
Đọc thơ Hồ Xuân Hơng, nhà thơ Tế Hanh bình luận :
Kính chào chị Hồ Xuân Hơng,
Ôi một tài thơ cỡ khác thờng.
"Xiên ngang mặt đất" câu thơ nhọn,
"Dê cỏn buồn sừng" chữ hóc xơng.
Không chịu cam tâm làm phận gái,
Chế giễu nam nhi cả một phờng.
"Bà chúa thơ Nôm" ai sánh kịp,
Ra ngoài lề lối của văn chơng.
Bài ca ngắn đi trên bãi cát____________________cao bá quát
(Sa hành đoản ca)
I Gợi dẫn
1. Cao Bá Quát (1809 ? 1855) ngời làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc
quận Long Biên, Hà Nội). Thân sinh ông là một nhà nho danh tiếng. Cao Bá Quát là ngời tài năng,
đức độ, nổi tiếng với câu thơ :
Thập tải luân giao cầu cổ kiếm
Nhất sinh đê thủ bái mai hoa.
(Mời năm rong ruổi tìm kiếm báu
Một đời chỉ cúi lạy hoa mai)
16
Là ngời có tài có đức nên ông chịu nhiều bất hạnh. Nhân cách cứng cỏi và tính tình phóng
khoáng nên sau một thời gian ra làm quan với triều Nguyễn, Cao Bá Quát bị đẩy ra khỏi kinh đô để
nhận chức giáo thụ ở phủ Quốc Oai, Sơn Tây. Một thời gian sau, bất bình với triều đình chỉ lo ăn
chơi, ông đã từ quan và tham gia lãnh đạo khởi nghĩa nông dân và Cao Bá Quát đã chịu cái án tru di
tam tộc oan nghiệt.

2. Sa hành đoản ca thuộc thể thơ cổ thể, không gò bó vào luật, vần gieo tơng đối tự do... Bài
thơ thể hiện tâm trạng của một con ngời đang cảm thấy bế tắc trên đờng đời. Để thể hiện tâm trạng
ấy, tác giả đã dùng hình ảnh có ý nghĩa biểu tợng : bãi cát dài và con đờng cùng. Tâm sự của nhân
vật trữ tình trong bài thơ chính là những nỗi niềm day dứt của nhà thơ Cao Bá Quát trong hành trình
đi tìm lí tởng sống cho riêng mình.
3. Đọc kĩ phần phiên âm và dịch nghĩa trớc khi đọc phần dịch thơ. Chú ý thể hiện sự hiệp vần
xuyên suốt toàn bài thơ.
II Kiến thức cơ bản
Cao Bá Quát là một nhân vật lịch sử nổi tiếng văn võ toàn tài và tính tình phóng khoáng, ngay
thẳng. Nhng tài năng xuất chúng và nhân cách cứng cỏi ấy lại sinh lầm thời nên nó trở thành nguyên
nhân gây nên những bất hạnh cho cuộc đời Cao Bá Quát. Cuộc đời ông là một chuỗi liên tiếp những
lận đận, bất trắc và để rồi có một kết cục thật đau xót. Cuộc đời đầy chông gai và bất trắc ấy có lẽ đã
đợc nhà thơ cảm nhận rất rõ nên mới có một bài thơ trĩu nặng tâm sự nh Bài ca ngắn đi trên bãi cát
này.
Ngời đọc rất dễ dàng nhận ra một hình tợng nhân vật trữ tình của bài thơ, dù đó là hình tợng có
ý nghĩa biểu tợng. Đó là một con ngời cô đơn lẻ loi bớc đi những bớc vô cùng nặng nhọc và vất vả
giữa một bãi cát mênh mông nắng cháy. Ngời đi ấy đi những bớc đi đầy tâm sự. Nguyên nhân sự
khó nhọc cất bớc ấy không phải là do bãi cát hay con đờng mà do tâm trạng. Điều đó đợc thể hiện ở
ngay những câu đầu của bài thơ :
Trờng sa phục trờng sa,
Nhất bộ nhất hồi khớc.
Nhật nhập hành vị dĩ,
Khách tử lệ giao lạc.
(Bãi cát lại bãi cát dài,
Đi một bớc nh lùi một bớc.
Mặt trời đã lặn, cha dừng đợc,
Lữ khách trên đờng nớc mắt rơi.)
Thông thờng đi trên cát thật khó khăn. Bãi cát dài rộng lại khiến ta nghĩ đến những sa mạc
mênh mông, nơi chỉ hứa hẹn với ngời đến những điều cực khổ và không may mắn. Chọn hình ảnh
bãi cát và con đờng độc bộ của nhân vật trữ tình là một lựa chọn rất hiện đại của tác giả.

Ngời đi thật cô đơn và nhỏ nhoi giữa bãi cát và có vẻ nh đang bất lực. Bãi cát dài nối tiếp nhau
mà mỗi bớc đi dờng nh không tiến mà lại lùi. Càng cố gắng bớc lại càng lùi lại. Ngời đi nh dậm
chân tại chỗ. Mọi sự cố gắng dờng nh vô nghĩa. Nhân vật trữ tình hiện lên thật bất lực và cô độc. Đó
là hình ảnh tợng trng cho con đờng đời đầy bế tắc của chính tác giả. Vốn là ngời văn hay chữ tốt,
nhng ba năm vào Huế thi Đình thì cả ba năm nhà thơ đều bị đánh hỏng. Thời của Cao Bá Quát (giữa
thế kỉ XIX) là thời kì mà Hán học bắt đầu mất đi sự sang trọng tôn nghiêm. Chuyện thi cử để làm
quan vốn đã có nhiều tiêu cực nay lại càng nhiều hơn. Là ngời theo học đạo Nho, mục đích là đỗ đạt
để làm quan, để có dịp mang tài kinh bang tế thế của mình ra giúp đời, vậy mà thi mãi vẫn không đỗ
nên sĩ tử ấy rơi vào tâm trạng bế tắc. Sự bế tắc ấy đợc thể hiện rất rõ ở hình tợng ngời khách bộ hành
đi trên cát. Con đờng trên cát là biểu tợng nghệ thuật chủ đạo của bài thơ. Đó là con đờng đời đầy
khó khăn gian khổ mà ai cũng phải cố gắng cả đời để có đợc những bớc đi vững chãi.
Ngời khách bộ hành cô đơn trên con đờng đầy gian nan. Anh tìm mọi cách để thoát ra khỏi tâm
trạng nặng nề ấy nhng đành bất lực. Muốn gạt đi mọi nỗi u t, mọi sự bon chen lo lắng để tập trung
bớc tiếp những bớc đi thanh thản nhng vô ích :
Anh không học đợc ông tiên có phép ngủ kĩ
Cứ trèo non lội nớc mãi, bao giờ cho hết ta oán !
Dù muốn nhng không thể nào học đợc cách của tiên ông, bởi ngời khách bộ hành ấy không thể
nguôi quên những nỗi đời. Trong lòng ông vẫn luôn nặng trĩu tình đời, dù đã thất bại, dù đã bị cuộc
đời ngợc đãi. Xen vào dòng tâm sự nặng trĩu u buồn và bế tắc đó là những triết lí về cuộc đời.
Xa nay hạng ngời danh lợi,
Vẫn tất tả ở ngoài đờng sá.
(Hễ) quán rợu ở đầu gió có rợu ngon,
17
(Thì) ngời tỉnh thờng ít mà ngời say vô số !
Nhà thơ đã nói lên một quy luật phổ biến của đời sống : con ngời luôn không ngừng đua chen
để giành lấy danh lợi. Chẳng ai chịu học phép ngủ kĩ của ông tiên cả. Danh lợi nh rợu ngon có
mùi thơm hấp dẫn và đầy cám dỗ. Chẳng mấy ngời đủ can đảm để đứng ngoài những cám dỗ của
danh lợi. Cũng chẳng ai cầm lòng trớc hơng rợu thơm ngon. Cho nên ngời say danh lợi rất nhiều.
Sau những giây phút thả hồn cùng những suy lí về cuộc sống, nhân vật trữ tình lại đối diện với thực
tế phũ phàng của phận mình. Một lần nữa bãi cát dài lại xuất hiện gắn liền với một con đờng mịt

mù tăm tối phía trớc :
Tính sao đây ? Đờng bằng mờ mịt,
Đờng ghê sợ còn nhiều, đâu ít ?
...
Anh đứng làm chi trên bãi cát ?
Hình ảnh và ngôn ngữ đều thể hiện sự bế tắc. Không nói xa hay nói gần mà là nói thẳng, nói
một cách đầy tuyệt vọng. Từ tâm trạng này có thể suy đoán rằng, tác giả làm bài thơ này sau nhiều
lần thất bại và thất vọng trớc cuộc đời. Vì thất bại nên nhân vật trữ tình đang muốn tìm một con đ-
ờng mới. Nhng con đờng mới trên cát thì thật khó khăn.
Bài thơ thể hiện rất rõ sự bế tắc của nhà thơ khi đi tìm hớng đi đúng đắn cho cuộc đời mình.
Trên thực tế, Cao Bá Quát cũng không ngừng tìm hớng đi, tìm lí tởng sống cho mình. Ông cũng đã
từng loay hoay trong vòng tròn của chế độ thi cử, của con đờng quen thuộc tề gia trị quốc bình
thiên hạ của nhà nho. Nhng Cao Bá Quát đã thất bại. Có lẽ, đây là bài thơ thể hiện khá trung thực
tâm sự của cái Tôi cá nhân thi sĩ, điều còn ít thấy trong văn học trung đại.
Hình ảnh và tâm trạng thơ đều rất hiện đại và mới mẻ. Tác giả cũng rất dụng công trong việc lựa
chọn thể thơ, hình ảnh và các biện pháp nghệ thuật. Bài thơ đã thể hiện tâm sự của một nhà nho tài
năng, tâm huyết với dân tộc nhng gặp nhiều bất trắc trong cuộc đời. Mà căn nguyên của những bất
trắc ấy suy cho cùng là từ thói ham danh lợi của ngời đời. Vì thế, nhà nho ấy rơi vào tâm trạng bế
tắc. Trên thực tế, nhà nho họ Cao ấy đã tìm ra con đờng đi cho mình, đó là con đờng cùng nhân dân
đứng lên chống lại cờng quyền, quan tham.
III liên hệ
Về Cao bá Quát, dân gian có giai thoại :
Một lần, Cao Bá Quát đi chơi, trên đờng qua huyện Siêu Loại, chợt thấy ở một làng gần đấy có
đám ma. Kèn trống inh ỏi, khách khứa ra vào tấp nập, đoán chừng đấy là đám ma của một gia đình
thuộc loại thế gia vọng tộc. Cao định bụng ghé vào xem thử, nhân đó, ông nghĩ chơi câu đối, viếng
ngời chết không quen biết ấy. Nghĩ xong ông bớc vào nhà đám. Thấy mấy vị thân hào, thân sĩ đang
ngồi đánh chén ngất ngởng. Cao bèn đến tự xng mình là học trò nghèo, qua đây, có nghĩ đợc đôi câu
đối kính viếng ngời quá cố, xin cho mợn giấy bút để chép...
Khi ngời nhà đám mang giấy bút ra thì chỉ sau phút chốc, một đôi câu đối viết chữ thảo hết sức
bay bớm, tài hoa đợc treo lên :

Thấy xe thiên cổ xịch đa ra, không thân thích lẽ đâu khóc mớn ;
Tởng sự bách niên dừng nghĩ lại, não can tràng nên phải thơng vay.
Mấy vị thân sĩ lúc trớc vẫn có ý xem thờng anh học trò nghèo này đến bây giờ đọc đôi câu đối,
ai nấy đều trầm trồ thán phục. Các vị thì thầm bảo nhau :
Cứ xem tài điệu và cử chỉ này, tất đây là anh chàng cuồng sĩ Cao Bá Quát.
Nói rồi, họ chạy lại, chèo kéo mời ông, năn nỉ gạn hỏi. Mãi ông mới chịu xng tên họ thực.
(Chuyện làng văn Việt Nam và thế giới, NXB Giáo dục, 2004)
Câu cá mùa thu_____________________________nguyễn khuyến
(Thu điếu)
I Gợi dẫn
1. Nguyễn Khuyến (1835 1909) hiệu là Quế Sơn, quê làng Và, xã Yên Đổ, huyện Bình Lục,
tỉnh Hà Nam. Ông xuất thân trong gia đình có nhiều ngời đỗ đạt. Nguyễn Khuyến là ngời có tài nh-
ng thi cử lận đận. Năm 1871, ông thi đỗ cả Hội nguyên và Đình nguyên. Vì ba lần đỗ đầu nên ông
đợc gọi là Tam nguyên Yên Đổ. Sau khi đỗ đạt, ông đã ra làm quan với triều đình nhà Nguyễn. Sau
đó, cảm thấy bất lực trớc cảnh đất nớc bị xâm lợc, đạo đức xã hội suy đồi, chốn quan trờng đen tối,
ông đã cáo quan về ở ẩn tại làng quê. Trong thời gian đó, ông tiếp tục làm thơ để bộc lộ tâm sự và
thể hiện tấm lòng với dân tộc. Nguyễn Khuyến sống vào thời kì xã hội Việt Nam có rất nhiều biến
động. Các nhà nho không có nhiều sự chọn lựa. Và ông đã chọn cho mình một cách sống theo đạo
thông thờng của những nhà nho có nhân cách : bất hợp tác với cờng quyền, về sống cuộc sống
18
nghèo khổ nhng thanh bạch chốn làng quê.
2. Thu điếu là bài thơ thứ ba trong chùm thơ thu tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Khuyến.
Chùm thơ thể hiện những nét đặc sắc trong phong cách thơ của cụ Tam nguyên Yên Đổ ở cả hai ph-
ơng diện thi pháp và t tởng. Thơ Nguyễn Khuyến vừa ghi lại tâm sự của ông trong những năm tháng
nghỉ ở quê nhà vừa miêu tả đời sống và phong cảnh quê hơng. Thơ của ông thể hiện tình yêu quê h-
ơng tha thiết và tấm lòng không nguôi trăn trở về dân tộc, đất nớc.Nguyễn Khuyến nổi tiếng với
những bài thơ viết về quê hơng, làng cảnh Việt Nam, nhất là thơ về mùa thu. Thơ thu của ông thể
hiện một tâm hồn giàu cảm xúc, tinh tế và nghệ thuật sử dụng ngôn từ tài hoa, giàu chất hoạ.
3. Thu điếu là bài thơ thuộc loại thơ trữ tình phong cảnh, nhân vật trữ tình trong thơ ông nổi lên
rất rõ nh một hình tợng nghệ thuật chủ đạo của bài thơ. Đó là một con ngời có tâm hồn thanh cao,

yêu cuộc sống thanh bạch nơi làng quê, dù sống cuộc sống nhàn tản của một ẩn sĩ nhng trong lòng
luôn chất chứa đầy suy t. Tác giả mợn chuyện câu cá để bộc lộ tâm trạng.
4. Đọc chậm, diễn cảm, toàn bài ngắt nhịp 4/3.
II Kiến thức cơ bản
Nguyễn Khuyến sinh ra vào thời buổi loạn li của dân tộc. Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng
xâm lợc nớc ta, bắt đầu tám mơi năm nô lệ lầm than. Xã hội Việt Nam thay đổi rất nhanh chóng nh-
ng chủ yếu theo chiều hớng tiêu cực. Chế độ phong kiến với những đạo lí phơng Đông tuy bảo thủ
nhng có trên có dới dần bị phá huỷ, thay thế vào đó là những lối sống, cách ứng xử bừa bãi. Dân tộc
thì mất tự do, quan lại thì xu nịnh, bán mình cho giặc để cầu vinh. Với một nhà nho, thì đó là thời kì
có quá nhiều điều ngang tai trái mắt. Bất lực và bi quan, họ đến với thơ và thể hiện mình. Và
Nguyễn Khuyến là một trong những nhà nho mang trong mình niềm khát khao đợc sống thanh cao
và bi quan trớc số phận đắng cay của dân tộc. Chùm thơ thu tập trung thể hiện rõ cả hai phơng diện
nội dung tiêu biểu trong thơ Nguyễn Khuyến, đó là ca ngợi vẻ đẹp của làng quê và nỗi buồn sâu sắc
trớc bi kịch của dân tộc.
Có thể chia bố cục bài thơ thành hai phần. Phần 1 : 6 câu thơ đầu, tả cảnh thu nơi thôn quê
thanh vắng. Phần 2 : hai câu kết, khắc hoạ hình ảnh một ngời ngồi câu cá với dáng vẻ đầy tâm trạng.
Nhng bức tranh phong cảnh ở 6 câu thơ đầu cũng chính là bức tranh tâm cảnh của nhân vật trữ tình
tác giả.
Bức tranh phong cảnh đợc vẽ thật khéo, với nhiều chi tiết và đờng nét rất hội hoạ. Không gian
bức tranh đợc khuôn gọn trong một chiếc ao. Những chiếc ao nhỏ bé đan cài trong những con ngõ
quanh co vắng vẻ là một hình ảnh rất quen thuộc và đặc trng của không gian làng quê Bắc Bộ. Chủ
thể trữ tình ngời phác hoạ bức tranh đang ngồi trên chiếc thuyền câu để thả câu câu cá. Vì thế nét
vẽ đầu tiên là :
Ao thu lạnh lẽo nớc trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trớc gió khẽ đa vèo.
Không gian trong trẻo, xinh xắn và tĩnh lặng. Cái gì cũng nhỏ bé, thanh sơ gợi một không gian
thật yên bình nhng cô đơn, vắng lặng. Mọi vật lại rất hài hoà với nhau, tạo nên một bức tranh phong
cảnh thật đẹp. Đờng nét mềm mại, sinh động nh một bức tranh thuỷ mặc. Tác giả đã tả thật khéo,

chọn hình ảnh và chi tiết thật tinh tế. Đó là bức tranh đẹp với màu sắc hài hoà, đờng nét cân đối.
Cảnh nền là một màu xanh mát của mặt ao với một chút sóng gợn lăn tăn. Điểm xuyết trên mặt ao là
chiếc thuyền câu mỏng mảnh, với hình ảnh một ngời ngồi câu trong t thế đầy suy t tựa gối ôm
cần. Cao hơn chút nữa so với mặt ao, nổi bật trên nền xanh dịu của nớc ao thu ấy là một chiếc lá
vàng chao nghiêng. Đó là phía dới, còn cao hơn chút nữa là bầu trời cao lồng lộng với sắc xanh ngắt.
Câu thơ thứ năm mở thêm chiều sâu không gian cho bức tranh thuỷ mặc. Không gian rộng, sâu đối
lập với mặt ao hẹp, gợn sóng nhẹ và hiu hắt gió, lại cộng thêm với Ngõ trúc quanh co khách vắng
teo tạo một cảm giác hiu quạnh. Cảnh làng quê thật trong trẻo trong ánh mắt của thi nhân nhng
phảng phất nỗi buồn thấm thía. Nó cô đơn và hiu hắt đến chạnh lòng. Cảnh tĩnh và vắng nh vậy,
xuất hiện thêm một con ngời chắc sẽ đỡ cô liêu hơn, nhng con ngời duy nhất xuất hiện trong cảnh
ngời câu cá ấy thì sao :
Tựa gối ôm cần lâu chẳng đợc,
Cá đâu đớp động dới chân bèo.
Ngời ngồi câu có vẻ chẳng thiết tha gì với việc có câu đợc cá hay không. Hình nh câu cá để suy
ngẫm điều gì đó. Chỉ đến khi Cá đâu đớp động dới chân bèo" mới chợt bừng tỉnh. Nhân vật trữ tình
xuất hiện trong bài thơ dờng nh có rất nhiều tâm sự. Nhng điều dễ nhận thấy nhất là tình yêu quê h-
19
ơng tha thiết. Phải yêu lắm quê hơng làng cảnh quê mình mới có thể vẽ nên một bức tranh quê đẹp,
thanh sang và trong trẻo đến nh vậy. Và trớc cảnh đẹp nh vậy mà con ngời vẫn đầy suy t trăn trở
chứng tỏ trong lòng ngời còn rất nhiều trắc ẩn. Từ thân thế, cuộc đời, hoàn cảnh sống của tác giả có
thể hiểu, tâm sự của ngời câu cá là chính là nỗi lòng non nớc, nỗi lòng thời thế của nhà nho có lòng
tự trọng và lòng yêu quê hơng đất nớc nh Nguyễn Khuyến.
Với Chùm thơ thu, Nguyễn Khuyến đã đóng góp cho đề tài về mùa thu của văn học Việt Nam
những bức tranh thu đẹp và đặc trng của quê hơng Việt Nam. Tài năng sử dụng ngôn ngữ, tâm hồn
nhạy cảm và tấm lòng tha thiết với dân tộc là những yếu tố quan trọng làm nên giá trị cho Chùm thơ
thu.
III liên hệ
Đọc lại bài Mùa thu câu cá (Thu điếu) và so sánh, liên hệ với hai bài khác trong chùm thơ thu
của Nguyễn Khuyến :
- Mùa thu uống rợu (Thu ẩm)

Năm gian nhà cỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè.
Lng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt ?
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.
Rợu tiếng rằng hay, hay chả mấy,
Độ năm ba chén đã say nhè.
- Mùa thu làm thơ (Thu vịnh)
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
Nớc biếc trông nh tầng khói phủ,
Song tha để mặc bóng trăng vào.
Mấy chùm trớc giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nớc nào ?
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.
Tiến sĩ giấy_________________________________nguyễn khuyến
I Gợi dẫn
1. Nguyễn Khuyến (xem bài Câu cá mùa thu).
2. Tiến sĩ giấy là bài thơ thuộc chùm thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến. Sinh ra trong gia đình
có truyền thống Nho học, từng đỗ đạt làm quan, nhng đứng trớc hiện thực điên đảo của xã hội Việt
Nam đầu thế kỉ XIX, ông đã rơi vào tình trạng bi quan, mất hết niềm tự hào về chữ nghĩa thánh
hiền. Vì vậy, ông đã viết nhiều bài thơ có giọng điệu trào phúng để thể hiện thái độ và tâm trạng của
mình trớc hiện thực. Tiến sĩ giấy là bài thơ mang giọng điệu ấy. Bài thơ vừa phê phán những kẻ
mang danh tiến sĩ nhng vô dụng với đất nớc, vừa là lời tự trào chua chát của chính tác giả, một nho
sĩ đang thấy mình bất lực trớc cuộc đời.
3. Đọc chậm, chú ý sự thay đổi linh hoạt của nhịp thơ : 2/2/3-4/3-2/5-2/5-2/2/3-4/3-2/2/3-4/3.
II Kiến thức cơ bản
Tiến sĩ giấy vốn là một thứ đồ chơi rất quen thộc của trẻ con thời xa. Các bậc cha mẹ mua tiến sĩ

giấy cho con để mong muốn bọn trẻ học hành đỗ đạt và ra làm quan. Nguyễn Khuyến đã mợn hình
ảnh đồ chơi này để nói về thời cuộc. Triều đình vẫn mở các khoa thi để tuyển chọn nhân tài giúp n-
ớc. Vẫn có nhiều ngời đỗ tiến sĩ, nhng họ đã giúp gì đợc cho đất nớc. Đội ngũ tiến sĩ ấy có thể chia
làm hai hạng. Hạng thứ nhất, có tài chữ nghĩa thực sự, nhờ chính tài năng của mình mà đỗ đạt. Nhng
họ là là những con ngời có lòng tự trọng dân tộc. Họ không xoay chuyển đợc tình thế bằng sức lực
của mình nên họ buồn chán, quay về ở ẩn lánh đời. Từ đó cảm thấy mình vô dụng nh một thứ đồ
chơi. Hạng thứ hai, đỗ đạt nhờ đồng tiền. Đó là những kẻ bất tài nhng lại tìm mọi cách để làm quan,
để vơ vét của cải, để hởng vinh hoa phú quý. Đó là một đám tiến sĩ giấy không những vô dụng mà
còn có hại cho dân tộc. Hình ảnh tiến sĩ giấy trong tác phẩm của Nguyễn Khuyến, có bóng dáng của
cả hai hạng tiến sĩ ấy.
Bốn câu thơ đầu phác hoạ nên hình ảnh ông tiến sĩ :
Cũng cờ cũng biển cũng cân đai,
20
Cũng gọi ông nghè có kém ai.
Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,
Nét son điểm rõ mặt văn khôi.
Tác giả có một cách bắt đầu rất độc đáo. Tác giả đã sử dụng điệp từ cũng để nhấn mạnh sự đầy
đủ lệ bộ của ông tiến sĩ giấy. Nhng chính từ cũng ấy làm nên cái bất ngờ cho toàn bài thơ. Nó nửa
vời và bất thờng. Tất nhiên đã là ông tiến sĩ thì phải có đủ cả cờ, biển, cân đai, và cũng đợc gọi là
ông nghè. Nhà thơ cũng đã từng dùng cách nói này để tự trào :
Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ,
Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng.
(Tự trào)
Nhng đến hai câu tiếp thì tính chất nửa vời ấy tăng tiến với sự xuất hiện của hai cặp đối lập :
Mảnh giấy / thân giáp bảng
Nét son / mặt văn khôi
Những hình ảnh này là thực tế lại gợi lên những liên tởng. Ông tiến sĩ giấy thì đơng nhiên phải
đợc làm bằng giấy rồi. Chỉ một mảnh giấy và vài nét son quết lên mặt là thành ông tiến sĩ rồi. Nh ng
đó không phải là điều tác giả muốn nói. Tác giả đã chơi chữ. Mảnh giấy, nét son có thể hiểu là bài
thi của các ông nghè, phải có bài thi ấy mới trở thành ông tiến sĩ. Song mảnh giấy, nét son ấy cũng

có thể là những thứ dùng để mua danh tiến sĩ. Tính chất trào phúng đợc thể hiện ở sự đối lập những
thứ thật đơn giản, nhỏ bé (mảnh giấy, nét son) với một thứ vốn rất đáng trân trọng (thân giáp bảng,
mặt văn khôi). Trong thời hoàng kim của nho học, một ngời đỗ đạt mang danh thơm về cho cả làng
cả tổng. Nó là kết quả của cả đời dùi mài kinh sử. Miêu tả ông nghè giấy nhng để nói lên chuyện
khoa cử, chuyện quan tớc. Nhìn bề ngoài, bốn câu thơ đầu vẫn dừng lại ở việc miêu tả và bình luận
về ông tiến sĩ đồ chơi. Những tác giả vẫn cha nói rõ. Đến hai câu luận, tác giả đã đa ra lời bình :
Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ,
Cái giá khoa danh ấy mới hời.
Lời bình thể hiện thái độ chua chát của một nhà nho từng bao năm dùi mài kinh sử, từng ôm
mộng khoa danh để phò vua giúp đời. Cái điều danh giá, cái mục đích cao cả mà suốt cả cuộc đời
các nhà nho nung nấu nay sao rẻ rúng đến vậy.
Cái giá khoa danh ấy mới hời
Thân giáp bảng đã trở thành một món hàng, một món hàng rất hời. Thời phong kiến, chuyện
mua danh bán tớc không phải là chuyện hiếm hoi. Đến thời Nguyễn Khuyến, khi đạo đức đã suy
đồi, Nho học đến lúc suy tàn thì chuyện đó chắc càng không hiếm. Trần Tế Xơng đã chua xót mà
nói rằng :
Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang,
Đứa thời mua tớc, đứa mua quan.
Phen này ông quyết đi buôn lọng,
Vừa bán vừa la cũng đắt hàng.
(Năm mới chúc nhau)
Nguyễn Khuyễn thì thâm trầm hơn. Giọng thơ nhẹ nhàng mà thâm thuý này càng thể hiện rõ sự
chua xót của một nhà nho từng dùi mài kinh sử, từng lấy mộng khoa danh làm mục đích sống. Cách
kết thúc bất ngờ, đột ngột nhng rất tự nhiên ở câu thơ cuối cùng đã tạo nên tính chất trào phúng và
giá trị phê phán cho tác phẩm :
Ghế tréo lọng xanh ngồi bảnh choẹ,
Nghĩ rằng đồ thật hoá đồ chơi !
Đúng là hình ảnh của một thứ đồ chơi đấy chứ. Nhng tác giả cố tình chọn cách nói nửa vời làm
cho thật giả cứ lẫn lộn cả lên. Cách thể hiện đầy bất ngờ ấy đã tạo nên hai lớp nghĩa cho bài thơ. M -
ợn việc vịnh một thứ đồ chơi của trẻ con mà châm biếm loại tiến sĩ rởm đồng thời cũng tự trào sự

bất lực của mình. Tiến sĩ giấy vừa là bài thơ trào phúng, châm biếm những kẻ mua danh bán tớc,
đòng thời cũng là bài thơ tự trào. Đó là lời tự trào của một nhà nho có lòng tự trọng đã nhận ra và
thấm thía nỗi chua xót của một trí thức bất lực trớc thời cuộc.
III liên hệ
1. Tởng nhớ thi nhân Nguyễn Khuyến, nhà thơ Trần Đăng Thao viết bài thơ Gặp lại ngời xa :
Ông ngồi lặng, giữa trời mây
Chiều buông. Còn một chút ngày khơi vơi
Chén nghiêng, đăm đắm nhìn trời
Nớc cờ thế sự, một đời cha xong.
Tởng rằng, xe đã qua sông
21
Ngờ đâu tốt lại nhập cung mất rồi
Tri âm, còn đợc mấy ngời
Bảng vàng, bia đá ngậm ngùi lòng ai.
Tuổi già chợt thắm, chợt phai
Ngọn đèn trớc gió, ban mai trớc chiều
Nặng niềm non nớc cô liêu
Đớn đau chi, trái tim nhiều xót xa
áo xiêm, nghĩ thẹn thân già
Ông nghè, ông cống cũng là giấy thôi !
Cuốc kêu khắc khoải bên hồi
Vờn khuya. Sơng xuống trắng trời
Trăng lên.
Vờn Bùi, 1976
2. Trong những ngày làm gia s ở nhà Hoàng Cao Khải, Nguyễn Khuyến rất buồn bực. Bởi vậy,
hàng ngày, sau buổi học, ông thờng lững thững một mình, dạo vờn thăm cảnh cho khuây khoả.
Vờn nhà Khải có một hòn non bộ lớn dựng giữa một hồ nớc rộng, cảnh trí rất xinh. Trên non bộ,
có đặt một ông phỗng sành đứng trầm mặc, đăm đăm nhìn xuống mặt nớc hồ. Nguyễn Khuyến th-
ờng hay tha thẩn quanh đó.
Một hôm, Khải dạo vờn, bất chợt gặp Nguyễn Khuyến đang tần ngần đứng ngắm ông phỗng.

Hắn mời ông thử vịnh một bài. Ông ứng khẩu đọc :
Ông đứng làm chi đó hỡi ông ?
Trơ trơ nh đá vững nh đồng !
Đêm ngày gìn giữ cho ai đó ?
Non nớc đầy vơi có biết không ?
Nhà thơ vịnh phỗng sành hay vịnh chính nhà chủ ?
Nghe nói sau đó, Khải phải để Nguyễn Khuyến về quê. Hắn không thể chịu đựng đợc Nguyễn
Khuyến lâu hơn nữa.
(Bùi Văn Cờng, Nguyễn Khuyến và giai thoại,
Hội VHNT Hà Nam Ninh, 1987)
Khóc Dơng Khuê___________________________nguyễn khuyến
I Gợi dẫn
1. Dơng Khuê (1839 1902) là ngời làng Vân Đình, huyện ứng Hoà, Hà Tây. Đỗ cử nhân cùng
khoa với Nguyễn Khuyến, sau đỗ tiến sĩ nên còn đợc gọi là Vân Đình tiến sĩ Dơng Thợng th. Dơng
Khuê là ngời có nhân cách, là một ông quan thanh liêm, chính trực. Ông còn là một nhà thơ lớn của
thế kỉ XIX. Nguyễn Khuyến và Dơng Khuê là hai ngời bạn tâm đầu ý hợp, cùng có tấm lòng với dân
tộc.
2. Bài thơ đợc Nguyễn Khuyến viết để khóc bạn, lúc đầu viết bằng chữ Hán với nhan đề Vãn
đồng niên Vân Đình tiến sĩ Dơng Thợng th. Sau tác giả tự dịch ra chữ Nôm lấy tên là Khóc bạn, nay
quen gọi là Khóc Dơng Khuê. Bài thơ thể hiện xúc động tình bạn tri âm tri kỉ của hai nhà thơ. Nghe
tin bạn qua đời, nhà thơ vô cùng đau đớn và những kỉ niệm ngày xa đã ùa về trong kí ức.
3. Có thể theo dõi mạch tình cảm của nhà thơ theo bố cục sau :
Hai câu đầu : đau xót khi nghe tin bạn mất.
Từ câu 3 đến câu 20 : nhớ lại những kỉ niệm giữa hai ngời và thể hiện tâm trạng thời cuộc của
nhà thơ.
Phần còn lại : Nỗi đau mất bạn và tâm sự cô đơn vì thiếu tri kỉ.
4. Đọc diễn cảm theo nhịp thơ song thất lục bát uyển chuyển, trữ tình.
II Kiến thức cơ bản
Nguyễn Khuyến là hình mẫu nhà nho chân chính ở giai đoạn cuối cùng của nền Hán học. Theo
đuổi nghiệp khoa cử, ra làm quan rồi cáo quan về ở ẩn, cuộc đời lận đận của ông là sự cố gắng giữ

mình thanh sạch. Giai đoạn cuối đời là giai đoạn ông mang nhiều tâm sự nhất. Tâm sự của nhà thơ
lúc này thờng phảng phất sự cô đơn, u ẩn. Bao nỗi niềm chất chứa trong lòng. Và khi nghe tin Dơng
Khuê ngời bạn tri âm một thời đã ra đi, cảm giác cô đơn chắc chắn lại dâng đầy trong lòng nhà
thơ. Và lời khóc bạn cũng là lời tâm sự thời thế của ngời còn lại.
Nguyễn Khuyến và Dơng Khuê là hai ngời bạn thân khi cùng nhau theo đuổi nghiệp khoa cử,
22
họ cũng từng tâm đầu ý hợp trong chuyện văn chơng. Nhng với hai quan điểm khác nhau. Nguyễn
Khuyến sau gần mời năm làm quan đã cáo quan về quê sống cuộc đời thuần chất của một nhà thơ để
giữ mình trong sạch trớc xã hội đang vô cùng lộn xộn. Còn Dơng Khuê thì tiếp tục làm quan nhng
vẫn là một ông quan thanh liêm chính trực. Vì thế, họ không có nhiều thời gian để đàm đạo. Tuy
vậy, họ vẫn là những tri âm tri kỉ. Với các nhà nho xa, tình bạn tri âm nhiều khi còn quan trọng hơn
cả tình cảm gia đình. Họ cùng nhau đàm đạo chuyện văn chơng, sẻ chia tâm sự thời thế, chia ngọt sẻ
bùi lúc hạnh phúc cũng nh khi hoạn nạn. Đã có những tình bạn đẹp trở thành những điển cố điển
tích nh tình bạn Bá Nha Tử Kì, Trần Phồn Từ Trĩ, Lu Bình Dơng Lễ Và Nguyễn Khuyến
cũng đã coi tình bạn giữa mình với Dơng Khuê là tình bạn tri âm nh thế.
Sự ra đi đột ngột của ngời tri âm đã để lại trong lòng nhà thơ nỗi đau đớn khôn xiết :
Bác Dơng thôi đã thôi rồi,
Nớc mây man mác ngậm ngùi lòng ta.
Tiếng khóc của ngời bạn già nên có âm điệu và sắc thái tình cảm riêng. Đó là nỗi đau lớn nhng
đợc thể hiện rất điềm đạm. "Thôi đã thôi rồi", "man mác", "ngậm ngùi" là những từ ngữ biểu cảm có
khả năng chuyển tải đợc cung bậc tình cảm ấy. Sau phút giây bàng hoàng là hồi ức về những kỉ
niệm xa giữa hai ngời. Sự phát triển của mạch cảm xúc theo đúng quy luật tâm lí thông thờng của
con ngời. Lời khóc và cũng là lời viếng bạn, là bài điếu văn của ngời tri kỉ gửi ngời tri âm. Những kỉ
niệm gắn bó khi hai ngời cùng học hành, thi cử, bàn luận văn chơng và cả những ngày cùng chung
hoạn nạn của cuộc sống quan trờng đầy phức tạp. Ngời khác đã tổng kết lại chặng đờng đời mà cả
hai đã trải qua để khắc sâu hơn sự gắn bó của họ trong quá khứ :
Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trớc
Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau ;
..
Cầm tay hỏi hết xa gần,

Mừng rằng bác hãy tinh thần cha can.
Họ gắn bó với nhau trong mọi việc. Kỉ niệm đợc nhắc lại bắt đầu từ khi họ gặp nhau và cho đó
là duyên trời". Đã là duyên trời có nghĩa là tiền định. Sự gặp gỡ của họ không phải là vô tình mà đã
đợc sắp đặt từ trớc. Thông thờng chỉ duyên vợ chồng mới do trời định. Cách diễn đạt này của tác giả
đã khẳng định một lần nữa tình bạn sâu sắc của hai ngời. Họ đã cùng nhau chia ngọt sẻ bùi, cùng
"chơi nơi dặm khách", "rợu ngon cùng nhắp, cùng "bàn soạn câu văn". Không chỉ có những kỉ
niệm ngọt ngào, họ cũng đều cùng là nạn nhân của thời thế :
Buổi dơng cửu cùng nhau hoạn nạn,
Phận đẩu thăng chẳng dám than trời ;
Trong hồi ức thấp thoáng nỗi đau thời thế. Nhớ lại kỉ niệm của những ngày cùng nhau gắn bó,
nhớ lại lần gặp gỡ cuối cùng khi cả hai đã già nhng vẫn giữ đợc mình trong sạch, ngời ở lại càng đau
đớn hơn. Nỗi đau ấy đợc thể hiện thật xúc động và chân thật :
Làm sao bác vội về ngay,
Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời.
Sau những hồi ức về những ngày đã qua, ngời bạn cảm nhận rõ hơn, cụ thể hơn nỗi đau mất bạn.
Không phải chỉ là thơng cho ngời ra đi đã phải sớm từ giã cuộc đời mà còn là thơng mình, thơng cho
ngời ở lại đã mất đi một tri âm. Vẫn mang trong lòng nỗi u uất thời thế nên trong lời khóc bạn, trong
nỗi đau mất tri kỉ có cả nỗi đau thời thế :
Ai chẳng biết chán đời là phải,
Sao vội vàng đã mải lên tiên.
Giữa họ, trong những ngày không gặp nhau khi mỗi ngời đi một con đờng, vẫn chung nỗi đau
thế sự. Xác nhận chán đời là phải là sự thể hiện một cách kín đáo và thâm trầm của nhà nho về
thời thế. Thời thế hỗn loạn, những giá trị đạo đức, văn hoá truyền thống đang bị phá huỷ đã khiến
những nhà nho có nhân cách và biết tự trọng nh Nguyễn Khuyến luôn cảm thấy chán đời. Trong
tiếng khóc bạn phảng phất cả lời khóc mình.
Tình bạn keo sơn và nỗi lòng của ngời tri âm, nỗi đau mất bạn đợc thể hiện rõ và sâu sắc nhất ở
đoạn thơ cuối cùng :
Rợu ngon không có bạn hiền,
Không mua không phải không tiền không mua.


Đàn kia gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn.
Dùng một loạt điển tích, điển cố về tình bạn tri âm, nhà thơ đã thể hiện và khẳng định một lần
nữa tình bạn thân thiết của hai ngời. Từ đó bộc lộ nỗi đau mất bạn. Mất đi ngời tri âm, ngời ở lại sẽ
23
rơi vào cô đơn, sẽ không còn ngời để giãi bày tâm sự. Mà trong lòng nhà thơ lúc ấy đang chất chứa
bao nhiêu tâm sự cần ngời sẻ chia. Nỗi đau của một ngời già khi mất bạn, sự sâu sắc của tình bạn
già đợc thể hiện rõ hơn ở bốn câu thơ kết thúc :
Bác chẳng ở, dẫu van chẳng ở,
Tôi tuy thơng, lấy nhớ làm thơng ;
Tuổi già hạt lệ nh sơng,
Hơi đâu chuốc lấy hai hàng chứa chan !
Lời khóc bạn của ngời già khác với nỗi đau của ngời trẻ tuổi. Đây là nỗi đau nuốt nớc mắt vào
trong. Tình cảm chân thành của một ngời bạn già đã đợc thể hiện thật chân thành và sâu sắc.
Với những từ ngữ mộc mạc, chân chất và thể thơ song thất lục bát, tác giả đã thể hiện thật xúc
động nỗi đau trớc sự ra đi của một ngời bạn. Sự thay đổi nhịp thơ ở đoạn 2 và đoạn 3 đã góp phần
thể hiện rõ hơn tâm trạng của nhân vật trữ tình. ở đoạn 2, âm điệu thơ vui hơn, dồn hơn bởi đó là lúc
nhân vật trữ tình đắm mình trong kỉ niệm, trong những hồi ức đẹp khi họ còn có cả hai ngời. Còn ở
đoạn sau, khi chỉ còn lại một mình, trong nỗi cô đơn không ngời chia sẻ, ngời bạn ở lại đau đớn và
cô độc trong sự nuối tiếc. Sự đối lập ở hai đoạn thơ đã khắc sâu hơn nỗi đau của ngời mất bạn tri âm.
Thể thơ song thất lục bát với nhịp điệu đặc trng đã truyền tải chính xác những cảm xúc chân
thành của lời khóc bạn. Trong lòng vốn đã mang đầy tâm sự của một nhà nho trớc thời thế bao
chuyện đảo lộn xoay vần lại cộng thêm nỗi đau trớc sự ra đi đột ngột của ngời bạn thân, nhà thơ đã
rơi vào tâm trạng tột cùng đau đớn. Nhng với một ngời từng trải và đã trải qua bao nhiêu đắng cay
của một cuộc đời lận đận, nhà nho đầy bản lĩnh nh Nguyễn Khuyến đã không than thân trách phận,
không vật vã than khóc mà thâm trầm và lặng lẽ thể hiện nỗi đau của mình một cách điềm đạm. Bản
lĩnh ấy đã tạo cho văn học một thi phẩm có giá trị nhân văn lớn. Bài thơ đã thể hiện đợc một tình
bạn đẹp, góp phần khẳng định giá trị và vai trò quan trọng của tình cảm giữa con ngời với con ngời
trong cuộc sống. Sự sẻ chia niềm vui và nỗi buồn giữa những ngời bạn, những ngời thân là yếu tố
quan trọng nhất để mỗi ngời đứng vững giữa cuộc đời đầy rẫy bất trắc và bộn bề phức tạp.
Tình bạn giữa Nguyễn Khuyến và Dơng Khuê, hai nhà nho có tài và có nhân cách đã để lại cho

đời một biểu tợng cao đẹp về tình bạn. Khóc Dơng Khuê không chỉ thể hiện tấm lòng sâu sắc và tình
cảm tha thiết của một ngời bạn với một ngời bạn, bài thơ còn là một biểu hiện xúc động cho vẻ đẹp
nhân cách của một nhà nho chân chính. Những tâm sự, nỗi đau thời thế ẩn sau nỗi đau mất bạn đã
tạo nên chiều sâu nhân bản cho bài thơ.
III liên hệ
Đọc bài thơ Đại lão tơng truyền là bài thơ đầy tâm trạng cuối cùng của Nguyễn Khuyến :
Năm nay tớ đã bảy mơi t,
Rằng lão, rằng quan tớ cũng ừ.
Lúc hứng, uống thêm dăm chén rợu,
Khi buồn ngâm láo một câu thơ.
Bạn già lớp trớc nay còn mấy ?
Chuyện cũ mời phần chín chẳng nh.
Cũng muốn sống thêm dăm tuổi nữa,
Thử xem trời mãi thế này ?
Thơng vợ___________________________________ Trần Tế Xơng
I Gợi dẫn
1. Trần Tế Xơng (1870 1907) thờng gọi là Tú Xơng, quê ở làng Vị Xuyên, huyện Mĩ Lộc,
tỉnh Nam Định. Tú Xơng có cá tính sắc sảo, phóng túng, khó gò vào khuôn sáo trờng quy, nên dù có
tài nhng tám lần thi vẫn chỉ đỗ tú tài. Tú Xơng sinh vào giai đoạn giao thời, xã hội có nhiều thay
đổi. Xã hội phong kiến già nua chuyển mình trở thành xã hội thực dân phong kiến. Quê hơng ông
thể hiện rất rõ sự chuyển mình ấy. Hàng ngày, những điều ngang tai trái mắt cứ đập vào mắt ông,
gây phản ứng trong tâm trạng, và thể hiện thành hai nội dung lớn trong thơ ông : trữ tình và trào
phúng.
2. Thơ Tế Xơng dù là trữ tình hay trào phúng đều thể hiện một cái nhìn sắc sảo của một nhà nho
có Tâm và có Tài. Trong thơ ông bao giờ cũng xuất hiện một nhân vật trữ tình với đủ cả dáng vẻ và
tâm hồn. Và thơ ông thể hiện thái độ phản kháng đối với thời cuộc. Ông luôn phê phán sâu cay
những mặt trái của xã hội. Vì thế giọng thơ thờng chua cay và đanh đá.
3. Thơng vợ là bài thơ tiêu biểu cho mảng thơ trữ tình của Tú Xơng. Bài thơ thể hiện tấm lòng
của nhà thơ đối với vợ, đồng thời thể hiện nhân cách Tú Xơng. Đây cũng lại là tâm sự chua cay của
24

ngời chồng nạn nhân của xã hội lố lăng, đảo điên biến con ngời trở thành vô tích sự với chính
mình và gia đình.
Bài thơ đợc cấu tạo làm bốn phần theo kết cấu đề, thực, luận, kết. Bài thơ ngợi ca đức hi sinh
của những ngời phụ nữ và sự cảm thông thấu hiểu của ngời chồng. Ngôn ngữ dung dị, đời thờng nh-
ng với tài năng và tấm lòng, Tú Xơng đã tạo nên một bài thơ sâu sắc, chứa đựng những giá trị nhân
văn bền vững.
4. Đọc chậm, chú ý nhấn giọng ở mom sông, năm con, một chồng, lặn lội thân cò, eo sèo mặt n-
ớc, năm nắng mời ma. Hai câu cuối đọc lên giọng cao hơn.
II Kiến thức cơ bản
Tú Xơng là một trong số không nhiều nhà thơ trung đại hay làm thơ về vợ. Các nhà nho, đệ tử
của cửa Khổng sân Trình vốn chỉ coi vợ là ngời "nâng khăn sửa túi" nên sự vất vả của vợ, với họ, là
lẽ đơng nhiên. Vì thế, họ ít viết thơ về vợ nh các nhà thơ hiện đại. Riêng Tú Xơng viết rất nhiều thơ
về vợ, trong đó tiêu biểu có bài Thơng vợ. Đây là bài thơ thể hiện cả tài thơ và nhân cách Tú Xơng.
Sinh ra vào thời buổi "Tây Tàu lố lăng", đạo đức xã hội suy đồi nghiêm trọng, Tú Xơng luôn
mang trong mình tâm sự cay đắng của một ngời có nhân cách nhng bất lực. Bao nhiêu điều ngang
tai trái mắt đã đợc Tú Xơng đa vào thơ. Mỗi bài thơ trào phúng của ông là một tiếng chửi chua chát
và cay độc ném vào lũ ngời sẵn sàng bán rẻ lơng tâm, giẫm đạp lên quyền lợi và danh dự dân tộc,
chà đạp lên đạo lí để hòng hởng cuộc sống no nê. Đó chính là mảng thơ trào phúng.
Bên cạnh đó, những bài thơ trữ tình sâu lắng của Tú Xơng lại thể hiện những nỗi niềm ẩn khuất
đằng sau cái vẻ chanh chua, cay nghiệt với cuộc đời. Tâm sự của một con ngời đau đời, đau cho
mình đợc ông dồn nén ở đây. Thơng vợ là một trong số những bài thơ nh thế. Hình thức thơ Đờng
luật đã đợc cách tân bởi những ngôn từ đời thờng giản dị, gần gũi với dân gian và tâm sự rất thật của
một ngời chồng khi viết về ngời vợ tảo tần của mình. Tú Xơng có một ngời vợ rất thảo hiền. Cả cuộc
đời bà Tú đã hi sinh cho chồng con, điều này đợc thể hiện qua những bài thơ nhà thơ viết về vợ. Là
một nhà nho sống vào thời buổi ngời ta đang sẵn sàng "Vứt bút lông đi viết bút chì" để đợc hởng
cuộc sống "Sáng rợu sâm banh tối sữa bò", với tâm hồn thanh sạch của một con ngời, ông Tú đã
chẳng thể giúp gì đợc cho vợ. Gánh nặng gia đình dồn lên vai bà Tú, nhng với tấm lòng tần tảo và
đức hi sinh của ngời phụ nữ phơng Đông, bà Tú đã luôn cố gắng để đảm bảo cuộc sống cho chồng
con, để ông Tú vẫn đợc rảnh rang thực hiện vai trò "ngời th kí thời đại". Chính vì lẽ đó mà ông Tú
luôn tôn trọng vợ.

Bài thơ xuất hiện hai nhân vật : ngời vợ và ngời chồng. Hình ảnh ngời vợ hiện lên qua cảm nhận
của nhân vật trữ tình ngời chồng :
Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nớc buổi đò đông.
Bốn câu thơ đã khái quát những nỗi vất vả hàng ngày của ngời vợ bơn chải để kiếm sống và
nuôi chồng, nuôi con. Nỗi vất vả của ngời vợ đợc thể hiện ngay ở dòng thơ đầu. "Quanh năm" là
thời gian không ngừng nghỉ, "mom sông" là địa điểm chông chênh, tất cả đều gợi sự vất vả, cực
nhọc. Nguyên nhân của sự vất vả ấy là gánh nặng gia đình. Một hình thức so sánh lạ. Chiếc đòn
gánh trên vai ngời vợ với một bên là năm con, một bên là một chồng. Ngời chồng là một bên của
gánh nặng lo toan ấy. Dờng nh đó là lời tự trách chua cay. Vì gia đình, vì ngời chồng có quá nhiều
nhu cầu ấy mà ngời vợ vất vả hơn. Hai câu thơ sau nỗi vất vả nh càng tăng tiến. Những từ ngữ nh
lặn lội

quãng vắng, eo sèo

đò đông có sức gợi. Hình ảnh ngời vợ vất vả nh hiện rõ hơn, day dứt
hơn trong cảm nhận của ngời chồng. Ngời chồng rất thấu hiểu nỗi cực nhọc của vợ. Thấu hiểu để
cảm thông, để trân trọng ngời vợ thảo hiền. Nhân cách của ngời chồng thể hiện ở sự thấu hiểu ấy.
Không phải ông vô trách nhiệm với gia đình và vợ con mà bởi ông bế tắc. Giữa lúc cuộc sống xã hội
đầy rẫy những chuyện đảo điên :
Nhà kia lỗi phép con khinh bố,
Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng.
mà ngời vợ vẫn nhẫn nại miệt mài, vẫn một lòng một dạ với chồng con. Chính điều đó đã khiến ngời
chồng cảm phục. Ông nói lên sự cảm thông của mình :
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mời ma dám quản công.
Hai thành ngữ xuất hiện trong hai câu thơ đều có nghĩa diễn tả sự vất vả của ngời phụ nữ phải
nuôi chồng nuôi con. Và cũng ở đây, một lần nữa, ngời chồng thể hiện sự trân trọng đối với ngời vợ.

"âu đành phận", "dám quản công" không phải là sự cam chịu của ngời vợ mà đó là lời của nhân vật
25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×