Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ bồi DƯỠNG NĂNG lực THAM mưu đề XUẤT của đội NGŨ cán bộ CHỦ CHỐT các PHÒNG CHUYÊN môn cấp HUYỆN ở TỈNH sóc TRĂNG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (460.56 KB, 89 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cơ quan chuyên môn cấp huyện gọi là phòng chuyên môn thuộc
UBND cấp huyện; thực hiện chức năng tham mưu, giúp UBND quản lý nhà
nước về ngành, lĩnh vực ở địa phương và thực hiện một số nhiệm vụ, quyền
hạn theo sự ủy quyền của UBND và quy định của pháp luật; góp phần bảo
đảm sự thống nhất quản lý của ngành hoặc lĩnh vực công tác ở địa phương.
Đứng đầu phòng chuyên môn cấp huyện là trưởng phòng; người chịu trách
nhiệm trước UBND, Chủ tịch UBND và trước pháp luật về thực hiện chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của CQCM do mình phụ trách. Cấp phó của người
đứng đầu CQCM thuộc UBND cấp huyện gọi chung là phó trưởng phòng; là
người giúp trưởng phòng chỉ đạo một số mặt công tác và chịu trách nhiệm
trước trưởng phòng về nhiệm vụ được phân công. Khi trưởng phòng vắng
mặt, một phó trưởng phòng được trưởng phòng ủy nhiệm điều hành các hoạt
động của phòng. Tập hợp các trưởng, phó trưởng phòng chuyên môn cấp
huyện thành đội ngũ của CBCC của CQCM cấp huyện. Trong số những cán
bộ thuộc CQCM, cán bộ chủ chốt bao giờ cũng có trách nhiệm và quyền hạn
lớn hơn số người còn lại; theo đó, vai trò của họ cũng quan trọng hơn. Do
vậy, đội ngũ CBCC của CPCMCH có vai trò rất quan trọng trong thực hiện
chức năng tham mưu, đề xuất của các phòng cho UBND. Vai trò đó chỉ được
hiện thực hóa khi họ có năng lực toàn diện, nhất là năng lực tham mưu, đề
xuất – một loại năng lực có tính đặc trưng và đặt biệt quan trọng của cơ quan,
cán bộ cơ quan các cấp.
Hồ Chí Minh đã khắng định: “Cán bộ là gốc của mọi công việc”,
“Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Điều đó
đúng với tất cả các loại cán bộ nói chung và cán bộ CQCM các cấp nói riêng.
Ở nước ta, cấp huyện là một trong bốn cấp hành chính. Cấp huyện là cấp
trung gian tương đối gần dân nhất, là cấp chỉ đạo thực hiện đường lối, chủ
trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, hoặc đề ra
chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo tăng cường khối đoàn kết toàn dân,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi tiềm năng phát triển


kinh tế - xã hội ở địa phương. Để UBND cấp huyện thực hiện chức năng quản
1


lý nhà nước ở địa phương có hiệu lực và hiệu quả, cần phải có đội ngũ CBCC
của CPCMCH có phẩm chất, năng lực để thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ
tham mưu, đề xuất của mình. Muốn vậy, phải đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ này,
bảo đảm cho họ có đủ năng lực thực thi công vụ đáp ứng được yêu cầu nhiệm
vụ hiện nay. Thực tế cho thấy, ở đâu mà năng lực tham mưu, đề xuất của đội
ngũ CBCC tốt thì hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của chính quyền địa
phương cao và ngược lại.
Nhận thức rõ điều đó, thời gian qua, các cấp ủy, chính quyền ở tỉnh Sóc
Trăng đã thường xuyên quan tâm xây dựng, bồi dưỡng năng lực tham mưu, đề
xuất của đội ngũ CBCC của CPCMCH; theo thời gian, năng lực đó từng bước
được nâng lên, thiết thực góp phần quan trọng giúp UBND cấp huyện hoàn
thành nhiệm vụ quản lý điều hành toàn diện các mặt của địa phương. Tuy vậy,
trên thực tế, việc bồi dưỡng nói trên và theo đó là năng lực tham mưu, đề xuất
của đội ngũ CBCC của CPCMCH còn nhiều hạn chế, yếu kém, bất cập cần
phải nghiên cứu, tháo gỡ. Đây là vấn đề không đơn giản vì nó phụ thuộc vào
nhiều yếu tố, điều kiện cả khách quan và chủ quan.
Sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nói chung, CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn nói riêng và xây dựng nông thôn mới ở các tỉnh đồng bằng trong đó
có tỉnh Sóc Trăng đang ngày càng đòi hỏi cao về chất lượng, hiệu lực, hiệu
quả điều hành của UBND. Đều đó, tất yếu đặt ra yêu cầu cao về năng lực
tham mưu, đề xuất của CPCMCH và CBCC của CPCMCH.
Do vậy, nghiên cứu vấn đề: Bồi dưỡng năng lực tham mưu, đề xuất của
đội ngũ cán bộ chủ chốt của các phòng chuyên môn cấp huyện ở tỉnh Sóc
Trăng hiện nay là yêu cầu cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Việc nghiên cứu về xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ; xây dựng, đào tạo

và bồi dưỡng đội ngũ CBCC luôn được nhiều cán bộ lãnh đạo, quản lý, các
nhà khoa học quan tâm, như:
* Một số luận văn thạc sĩ
- "Nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý cấp huyện ở nước ta hiện nay" của Vũ Đình Chuyên, Luận văn thạc sĩ Triết
học, 2000.
2


- "Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý cấp huyện ở tỉnh Cao Bằng trong giai đoạn hiện nay" của Nông Văn Tiềm,
Luận văn thạc sĩ Triết học năm 2001.
- Trần Duy Hưng (2002): “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ
thống chính trị cấp huyện ở thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện Nay”,
Luận văn thạc sĩ Lịch sử.
- "Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ với việc nâng cao năng lực
lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Thanh Hoá hiện nay" của
Bùi Khắc Hằng, 2004.
- Nguyễn Thị Bích Hường (2006): "Chất lượng đào tạo cán bộ chủ chốt
của hệ thống chính trị xã, phường, thị trấn ở trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng
Phong, thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay" , Luận văn Thạc sỹ.
- “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính nhà nước theo yêu
cầu cải cách hành chính của tỉnh Bình Phước hiện nay”, của Giang Thị
Phương Hạnh, Luận văn thạc sỹ Luật học 2009.
- “Bồi dưỡng năng lực công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh
Bạc Liêu hiện nay” của Trần Văn Phú, Luận văn thạc sĩ Xây dựng Đảng và
chính quyền nhà nước, 2015.
* Một số công trình, sách và bài báo
- “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng đòi hỏi của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân” (2002 - 2004), Đề tài

khoa học cấp Nhà nước KX04.09 của Bộ Nội Vụ.
- Nguyễn Phú Trọng (2001), “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước”, Nxb CTQG, ST, Hà Nội.
- Học viện Hành chính Quốc gia (2004), Nhà nước và pháp luật, quản lý
hành chính, tập 3, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đáp ứng yêu cầu sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (2007), Vũ Văn Hiền (chủ biên).
- “Nghiên cứu thực trạng, đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng công tác
tham mưu, tổng hợp phục vụ cấp ủy trong thời kỳ trong thời kỳ công nghiệp hóa,

3


hiện đại hóa”, Đề tài khoa học Mã số 11/2011/HĐ – ĐTKHXH, Cơ quan chủ trì
đề tài: Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Ngãi, Chủ nhiệm đề tài Phạm Đình Thọ, 2013.
- Thái Bảo, Bốn giải pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở Đồng Nai, Tạp
chí xây dựng Đảng số 8/2011
- Nguyễn Văn Đua (2012): “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị Thành phố
Hồ Chí Minh”, Tạp chí Công sản, Số 836/2012.
- Nguyễn Phước Phúc (2012), Thu hút, đào tạo và sử dụng nhân tài ở
Đà Nẵng, Tạp chí xây dựng Đảng, 12/2012.
- Hà Thư (2014), Luân chuyển gắn với bố trí cán bộ không là người địa
phương, Tạp chí xây dựng Đảng. số 12/ 2014.
- Học viện Hành chính Quốc gia (2014), Ứng dụng công nghệ thông tin
trong quản lý nhà nước, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. ....
- Hà Nam Hưng (2014), Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo
chủ chốt cấp huyện ở Lạng Sơn hiện nay, Tạp chí Cộng sản tháng 12/2014.
- Trần văn Minh (2014), Đổi mới công tác cán bộ của Đảng Cộng sản

Việt Nam trong điều kiện mới, Sách “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền”, Nxb. Chính trị
quốc gia - Sự thật, H., 2014.
- Nguyễn Thị La, Học viện Hành chính quốc gia, (2016), Đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức trong quá trình cải cách hành chính, Tạp chí Cộng
sản, Số tháng 3/2016.
- Trần Lưu Hải (2016), Một số vấn đề về công tác quy hoạch, luân
chuyển cán bộ - thành tựu, hạn chế và phương hướng, giải pháp khắc phục,
Tạp chí Cộng sản, Số tháng 1/2016.
Qua phân tích kết quả nghiên cứu của những công trình khoa học, luận
văn thạc sỹ, các sách, bài viết trên cho thấy các tác giả đã bàn luận và làm
sáng tỏ nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn ở lĩnh vực giáo dục, đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức nói chung, chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
chủ chốt nói riêng trong toàn quốc và ở những địa phương, đơn vị khác nhau.
Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề “Bồi dưỡng năng lực
tham mưu, đề xuất của đội ngũ CBCC của CPCMCH ở tỉnh Sóc Trăng hiện
4


nay”. Vì vậy, trên cơ sở kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên cứu đã được công
bố, cùng với những tìm tòi, điều tra, nghiên cứu, tôi hy vọng làm cho vấn đề
này được phân tích, luận giải một cách có hệ thống, rõ ràng hơn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề cơ bản về lý luận, thực tiễn; xác định yêu cầu và đề
xuất giải pháp tăng cường bồi dưỡng năng lực tham mưu, đề xuất của đội ngũ
CBCC của CPCMCH ở tỉnh Sóc Trăng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình
hình mới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ một số vấn đề cơ bản về năng lực tham mưu, đề xuất và bồi dưỡng

năng lực tham mưu, đề xuất của đội ngũ CBCC của CPCMCH ở tỉnh Sóc Trăng.
- Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra một số kinh
nghiêm bối dưỡng năng lực tham mưu, đề xuất của đội ngũ CBCC của
CPCMCH ở tỉnh Sóc Trăng.
- Xác định yêu cầu và đề xuất xuất những giải pháp tăng cường bồi
dưỡng năng lực tham mưu, đề xuất của đội ngũ CBCC của CPCMCH ở tỉnh
Sóc Trăng hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động bồi dưỡng năng lực tham mưu, đề xuất của đội ngũ CBCC
của CPCMCH ở tỉnh Sóc Trăng là đối tượng nghiên cứu của luận văn.
* Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu hoạt động bồi dưỡng năng lực tham mưu, đề xuất
của đội ngũ CBCC của CPCMCH ở tỉnh Sóc Trăng; đối tượng khảo sát thực
tiễn là đội ngũ CBCC của CPCMCH (gồm trưởng phòng, phó trưởng phòng)
ở 11 huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh Sóc Trăng; các tư liệu, số liệu phục
vụ cho việc nghiên cứu được giới hạn chủ yếu từ năm 2010 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản
5


Viết Nam về cán bộ và công tác cán bộ; ngoài ra luận văn còn kế thừa có
chọn lọc kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học trước đó.
* Cơ sở thực tiễn
Thực tiễn hoạt động bồi dưỡng năng lực tham mưu, đề xuất của đội ngũ
CBCC của CPCMCH ở tỉnh Sóc Trăng; các báo cáo sơ kết, tổng kết về hoạt
động xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nói chung, CBCC của CPCMCH ở
tỉnh Sóc Trăng nói riêng của Tỉnh ủy Sóc Trăng và các huyện ủy, thị ủy,

thành ủy trực thuộc.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin,
luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên
ngành và liên ngành, trong đó chú trọng các phương pháp logich – lịch sử,
phân tích, tổng hợp, so sánh, khảo sát thực tiễn, điều tra xã hội học và phương
pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài cung cấp cơ sở khoa học giúp Tỉnh ủy và
các cấp ủy cấp huyện ở tỉnh Sóc Trăng nghiên cứu vận dụng vào trong quá
trình xây dựng, bồi dưỡng năng lực công tác của đội ngũ cán bộ nói chung,
bồi dưỡng năng lực tham mưu, đề xuất của đội ngũ CBCC của CPCMCH nói
riêng. Mặt khác, kết quả nghiên cứu của đề tài còn được dùng làm tài liệu
tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập trong các trường chính trị
tỉnh, huyện.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm: Phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỂN
BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC THAM MƯU, ĐỀ XUẤT CỦA ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ CHỦ CHỐT CỦA CÁC PHÒNG CHUYÊN MÔN
CẤP HUYỆN Ở TỈNH SÓC TRĂNG
1.1. Năng lực tham mưu, đề xuất và những vấn đề cơ bản về bồi
dưỡng năng lực tham mưu, đề xuất của đội ngũ cán bộ chủ chốt của các
phòng chuyên môn cấp huyện ở tỉnh Sóc Trăng

1.1.1 Đội ngũ cán bộ chủ chốt các phòng và năng lực tham mưu, đề
xuất của đội ngũ cán bộ chủ chốt của các phòng chuyên môn cấp huyện ở
tỉnh Sóc Trăng
* Khái quát tỉnh Sóc Trăng
Sóc Trăng là tỉnh thuộc khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, phía Bắc và
Tây Bắc giáp tỉnh Hậu Giang; Phía Tây Nam giáp tỉnh Bạc Liêu; phía Đông
Bắc giáp tỉnh giáp tỉnh Trà Vinh; phía Đông và Nam Đông Nam giáp Biển
Đông. Tỉnh Sóc Trăng nằm trong vùng hạ lưu sông Hậu, trên trục lộ giao thông
thủy bộ nối liền thành phố Hồ Chí Minh với các tỉnh miền Tây Nam bộ; cách
thành phố Hồ Chí Minh 231 km, cách Cần Thơ 62 km; có bờ biển dài 72 km và
03 cửa sông lớn Định An, Trần Đề, Mỹ Thanh đổ ra Biển Đông.
Địa lý hành chính của Sóc Trăng nhiều lần thay đổi theo sự biến thiên
của lịch sử. Vào năm Mậu Dần 1698, chúa Nguyễn sai Chưởng cơ Nguyễn
Hữu Cảnh vào kinh lược xứ Đàng trong (Nam bộ) và tiến hành xác lập địa
giới hành chính vùng đất này, lập thành phủ Gia Định. Lấy đất Đồng Nai
(Nông Nại) làm huyện Phước Long và đặt dinh Trấn Biên, lưu mộ dân từ
Quảng Bình trở vào đến ở, chia đặt thôn, ấp ....
Nghị định số 31/NĐ, ngày 21/2/1976 của Chính phủ cách mạng lâm
thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam quy định giải thể cấp khu, hợp nhất một
số tỉnh. Tỉnh Sóc Trăng hợp nhất với tỉnh Cần Thơ và thành phố Cần Thơ
thành tỉnh Hậu Giang.
Trong kỳ hợp lần thứ 10 (khóa VIII) Quốc hội, vào ngày 26 tháng 12
năm 1991, quyết định tách tỉnh Hậu Giang thành 02 tỉnh Sóc Trăng và Cần
Thơ. Tỉnh Sóc Trăng chính thức đi vào hoạt động vào đầu tháng 4/1992 gồm
7


các huyện: Mỹ Tú, Kế Sách, Thạnh Trị, Mỹ Xuyên, Long Phú, Vĩnh Châu và
thị xã Sóc Trăng. Ngày 11/01/2002, Chính phủ ra Nghị định số 04/2002/NĐCP, điều chỉnh địa giới hành chính huyện Long Phú và thành lập thêm huyện
Cù Lao Dung. Ngày 31/10/2003, Chính phủ ra Nghị định số 127/2003/NĐCP, điều chỉnh địa giới hành chính huyện Thạnh Trị và thành lập thêm huyện

Ngã Năm. Ngày 08/2/2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 22/2007/NĐCP về việc thành lập thành phố Sóc Trăng. Ngày 24/9/2008, Chính phủ ra
Nghị định số 02/NĐ-CP, điều chỉnh địa giới hành chính huyện Mỹ Tú và
thành lập thêm huyện Châu Thành. Đến ngày 23/12/2009, Chính phủ nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành Nghị quyết số 64/NQ-CP,
điều chỉnh địa giới hành chính hai huyện Mỹ Xuyên, Long Phú và thành lập
thêm huyện Trần Đề.
Tính đến năm 2014, đơn vị hành chính tỉnh Sóc Trăng có 08 huyện, 01
thành phố, 02 thị xã với 109 xã, phường, thị trấn với diện tích, dân số cụ thể:
Đơn vị

Diện tích (ha)

Dân số (người)

Mật độ dân số
(người/Km2)

Toàn tỉnh

331.176,29

1.289.441

389

TP Sóc Trăng

7.615

135.478


1.780

TX Vĩnh Châu

47.313

163.918

346

TX Ngã Năm

24.220

79.400

328

H Kế Sách

35.260

157.317

446

H Long Phú

26.372,12


112.149

426

H Cù Lao Dung

26.051

62.024

237

H Mỹ Tú

36.815,56

105.891

287

H Châu Thành

23.632,43

100.421

425

H Thạnh Trị


28.759,96

85.499

297

H Mỹ Xuyên

37.095,41

157.267

424

H Trần Đề

37.875,98

130.077

343

Ghi chú: Số liệu Niên giám Thống kê năm 2013

8


Cộng đồng dân cư tỉnh Sóc Trăng chủ yếu là ba dân tộc: Kinh (836.513
người, chiếm 65,16%), Khmer (371.305 người, chiếm 28,92%), Hoa (75.534

người, chiếm 5,88%) đã cùng chung sức khai phá, xây dựng và bảo vệ vùng
đất này. Trải qua bao bước thăng trầm của lịch sử, ý thức dân tộc, tinh thần
yêu nước, đoàn kết chống giặc ngoại xâm ngày càng được củng cố bền vững.
Tinh thần yêu nước của nhân dân Sóc Trăng được thể hiện ngay từ buổi khai
phá, mở mang vùng đất mới đã anh dũng chiến đấu chống lại bọn cướp biển
Java (nay là Indonesia), quân xâm lược Xiêm La (nay là Thái Lan), giữ gìn
xóm làng quê hương, bảo vệ mồ mả ông bà tổ tiên. Cùng với nghĩa quân Tây
Sơn đánh 05 vạn quân Xiêm (do Nguyễn Ánh cầu viện) xâm lược nước ta,
làm nên chiến thắng lịch sử ở Rạch Gầm - Xoài Mút.
Phát huy truyền thống của dân tộc trong sự nghiệp dựng nước và giữ
nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, trực tiếp là Đảng bộ
tỉnh, nhân dân Sóc Trăng đã làm nên những chiến thắng vẻ vang qua các
chặng đường lịch sử chống thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Đảng bộ và nhân dân quyết
tâm thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủa nghĩa. Cùng với cả nước vững bước tiến lên chủ nghĩa
xã hội, xây dựng quê hương đất nước ngày càng giàu đẹp, phấn đấu vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Trải qua bao thăng trầm biến cố và phát triển của lịch sử, các dân tộc ở
tỉnh Sóc Trăng đã có mối quan hệ gắn bó huyết thống, xây dựng nên tinh thần
thân ái, đùm bọc lẫn nhau trong cơn hoạn nạn, giúp đỡ nhau trong lao động
sản xuất, tôn trọng nhau trong sinh hoạt, phong tục tập quán, tự do tín
ngưỡng.v.v... tạo nên cuộc sống hài hòa về kinh tế, văn hóa, xã hội của cộng
đồng các dân tộc. Đặc biệt, trong quan hệ giao tiếp, người dân lao động ở đây
còn thể hiện đức tính quý trọng nhân nghĩa, thẳng thắn, bộc trực, sống hào
phóng, giản dị, tình cảm mộc mạc chân thành, đó là bản tính truyền thống của
người dân Nam bộ nói chung và người dân Sóc Trăng nói riêng.
* Hệ thống chính trị cấp huyện ở tỉnh Sóc Trăng
Hệ thống chính trị là tổ hợp có tính chỉnh thể các thể chế chính trị (nhà
nước, các đảng chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, các

9


tổ chức xã hội nghề nghiệp...) được xây dựng trên các quyền và các chuẩn mực
xã hội, phân bố theo một kết cấu chức năng nhất định, vận hành theo những
nguyên tắc, cơ chế và quan hệ cụ thể, nhằm thực thi quyền lực chính trị. Hệ
thống chính trị ở Việt Nam hiện nay là cơ chế, công cụ thực hiện quyền làm
chủ của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng. Hệ thống chính trị ở
nước ta hiện nay bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động
Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam và các tổ
chức chính trị-xã hội hợp pháp khác của nhân dân được thành lập, hoạt động
trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ
trí thức làm nền tảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực
hiện và đảm bảo đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Hệ thống chính trị ở
nước ta được tổ chức theo một hệ thống từ Trung ương đến cơ sở.
Theo quy định trong Luật Tổ chức của hệ thống chính trị ở nước ta; hệ
thống chính trị cấp huyện ở tỉnh Sóc Trăng gồm: Ban Chấp hành Đảng bộ
(huyện ủy, thị ủy, thành ủy); Hội đồng nhân dân, UBND; Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các tổ chức chính trị - xã hội khác như: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh ở 11 đơn vị hành
chính cấp huyện (Thành phố Sóc Trăng thuộc Tỉnh; thị xã Vĩnh Châu và Ngã
Năm; huyện Kế Sách, Long Phú, Cù Lao Dung, Mỹ Tú, Châu Thành, Thạnh Trị,
Mỹ Xuyên, Trần Đề)… Tất cả các tổ chức trên đều có vị trí, vai trò và nhiệm vụ
được quy định trong Luật Tổ chức của hệ thống chính trị ở nước ta.
Bên cạnh những tổ chức trên đây, nhiều tổ chức xã hội khác cũng tham
gia tích cực vào hoạt động trong hệ thống chính trị như: Hội chữ thập đỏ, Hội
người mù, Hội Cựu giáo chức, ...Một số hội nghề nghiệp, hội của các nhà trí
thức, các nhà khoa học, không chỉ đơn thuần mang tính chất đoàn thể xã hội

mà các tổ chức này cũng đóng vai trò to lớn trong việc thực hiện các nhiệm
vụ chính trị của địa phương.
* Các phòng chuyên môn cấp huyện ở tỉnh Sóc Trăng
Các phòng chuyên môn (gọi chung là CQCM) cấp huyện thuộc UBND
cấp huyện; thực hiện chức năng tham mưu, giúp UBND cấp huyện quản lý
10


nhà nước về ngành, lĩnh vực ở địa phương và thực hiện một số nhiệm vụ,
quyền hạn theo sự ủy quyền của Ủy ban nhân dân cấp huyện và theo quy định
của pháp luật; góp phần bảo đảm sự thống nhất quản lý của ngành hoặc lĩnh
vực công tác ở địa phương.
Các phòng chuyên môn thuộc UBND cấp huyện chịu sự chỉ đạo, quản
lý về tổ chức, vị trí việc làm, biên chế công chức, cơ cấu ngạch công chức và
công tác của UBND cấp huyện, đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra, hướng
dẫn về chuyên môn nghiệp vụ của CQCM thuộc UBND cấp tỉnh. Thủ trưởng
CQCM thuộc UBND chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước UBND và
CQCM cấp trên và khi cần thiết thì báo cáo công tác trước HĐND. Tuỳ điều
kiện của từng địa phương mà Chủ tịch UBND quyết định thành lập hay bãi bỏ,
sát nhập các CQCM trực thuộc theo quy định của Chính phủ.
Các phòng chuyên môn cấp huyện ở tỉnh Sóc Trăng có thể chia thành 3
nhóm lĩnh vực cơ bản:
- Lĩnh vực sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp, thương mại.
- Lĩnh vực văn hoá, giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, thể thao, báo
chí, thông tin, bảo hiểm, y tế.
- Lĩnh vực quốc phòng, an ninh.
Theo quy định của pháp luật, các phòng chuyên môn cấp huyện ở tỉnh Sóc
Trăng làm việc theo chế độ thủ trưởng. Người đứng đầu CQCM chịu trách
nhiệm lãnh đạo toàn bộ hoạt động quản lý nhà nước của cơ quan.

Các phòng chuyên môn cấp huyện ở tỉnh Sóc Trăng được tổ chức theo Nghị
định số 37/2014/NĐ-CP của Chính phủ Quy định tổ chức các CQCM thuộc Uỷ
ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, ngày 05 tháng 5 năm
2014, gồm: 1. Phòng Nội vụ; 2. Phòng tư pháp; 3. Phòng Tài chính - Kế hoạch;
4. Phòng Tài nguyên và Môi trường; 5. Phòng Lao động – Thương binh và Xã
hội; 6. Phòng Văn hóa và Thông tin; 7. Phòng Giáo dục và Đào tạo; 8. Phòng Y
tế; 9. Thanh tra huyện; 10. Văn phòng HĐND và UBND. Trừ UBND huyện Cù
Lao Dung, còn tất cả các UBND cấp huyện ở tỉnh Sóc Trăng đều có phòng Dân
tộc (ở UBND Cù Lao Dung, 01 chuyên viên Văn phòng HĐND và UBND
huyện phụ trách công tác dân tộc). Ở thành phố Sóc Trăng và 2 thị xã còn có:
11


Phòng Kinh tế, phòng Quản lý đô thị; ở các huyện còn có: Phòng Nông nghiệp
và phát triển nông thôn, phòng Kinh tế và Hạ tầng.
Các phòng chuyên môn cấp huyện làm việc theo chế độ thủ trưởng và
theo Quy chế làm việc của UBND cấp huyện ở tỉnh Sóc Trăng; bảo đảm
nguyên tắc tập trung dân chủ; thực hiện chế độ thông tin, báo cáo của các
CQCM theo quy định.
- Chức năng phòng chuyên môn cấp huyện ở tỉnh Sóc Trăng
Theo quy định của pháp luật, các phòng chuyên môn cấp huyện ở tỉnh
Sóc Trăng đều được quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể. Các
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các CQCM bảo đảm bao quát đầy đủ
chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của UBND cấp huyện ở tỉnh Sóc
Trăng và bảo đảm tính thống nhất, thông suốt về quản lý ngành, lĩnh vực công
tác từ Trung ương đến Tỉnh và cơ sở.
Một là: Thực hiện chức năng tham mưu, giúp UBND cấp huyện quản lý
nhà nước về ngành, lĩnh vực ở địa phương và thực hiện một số nhiệm vụ,
quyền hạn theo sự ủy quyền của UBND cấp huyện và theo quy định của pháp
luật; góp phần bảo đảm sự thống nhất quản lý của ngành hoặc lĩnh vực công

tác ở địa phương.
Hai là: Chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, vị trí việc làm, biên chế công
chức, cơ cấu ngạch công chức và công tác của UBND cấp huyện, đồng thời
chịu sự chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ của CQCM
thuộc UBND Tỉnh.
Bên cạnh đó, với các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao, mỗi phòng
chuyên môn cấp huyện là cơ quan tham mưu, giúp UBND cấp huyện thực hiện
chức năng quản lý nhà nước ở địa phương, thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo
sự ủy quyền của UBND cấp huyện và theo quy định của pháp luật; góp phần bảo
đảm sự thống nhất quản lý của ngành hoặc lĩnh vực công tác ở địa phương.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của phòng chuyên môn cấp huyện ở tỉnh Sóc Trăng
Một: Trình UBND cấp huyện ban hành Quyết định, Chỉ thị; quy hoạch,
kế hoạch dài hạn, 05 năm và hàng năm; Chương trình, biện pháp tổ chức thực
hiện các nhiệm vụ cải cách hành chính nhà nước thuộc lĩnh vực quản lý nhà
nước được giao.
12


Hai: Tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật, quy hoạch, kế hoạch sau
khi được phê duyệt; thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về
các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý được giao; theo dõi thi hành pháp luật.
Ba: Giúp UBND cấp huyện thực hiện và chịu trách nhiệm về việc thẩm
định, đăng ký, thực hiện các thủ tục hành chính thuộc phạm vi trách nhiệm và
thẩm quyền của CQCM theo quy định của pháp luật và theo phân công của
UBND cấp huyện.
Bốn: Giúp UBND cấp huyện quản lý nhà nước đối với tổ chức kinh tế tập
thể, kinh tế tư nhân, các hội và tổ chức phi chính phủ hoạt động trên địa bàn
thuộc các lĩnh vực quản lý của CQCM theo quy định của pháp luật.
Năm: Hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ về lĩnh vực quản lý của CQCM
cho cán bộ, công chức cấp xã.

Sáu: Tổ chức ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ; xây dựng hệ thống
thông tin, lưu trữ phục vụ công tác quản lý nhà nước và chuyên môn nghiệp
vụ của CQCM cấp huyện.
Bảy: Thực hiện công tác thông tin, báo cáo định kỳ và đột xuất về tình
hình thực hiện nhiệm vụ được giao theo quy định của UBND cấp huyện và sở
quản lý ngành, lĩnh vực.
Tám: Kiểm tra theo ngành, lĩnh vực được phân công phụ trách đối với tổ
chức, cá nhân trong việc thực hiện các quy định của pháp luật; giải quyết
khiếu nại, tố cáo; phòng, chống tham nhũng, lãng phí theo quy định của pháp
luật và phân công của UBND cấp huyện.
Chín: Quản lý tổ chức bộ máy, vị trí việc làm, biên chế công chức, cơ cấu
ngạch công chức, thực hiện chế độ tiền lương, chính sách, chế độ đãi ngộ,
khen thưởng, kỷ luật, đào tạo và bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ đối với
công chức thuộc phạm vi quản lý theo quy định của pháp luật, theo phân công
của UBND cấp huyện.
Mười: Quản lý và chịu trách nhiệm về tài chính của CQCM theo quy định
của pháp luật và phân công của UBND cấp huyện.
Mười một: Thực hiện một số nhiệm vụ khác do UBND cấp huyện giao
hoặc theo quy định của pháp luật.
13


* Đội ngũ cán bộ chủ chốt các phòng chuyên môn
- Quan niệm:
Khoản 1 Điều 4 của Luật Cán bộ, công chức, Số 22/2008/QH12, ngày 13
tháng 11 năm 2008 xác định: “Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử,
phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan
của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung
ương, cấp tỉnh, cấp huyện, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà
nước”. Theo quy định này thì tiêu chí xác định cán bộ gắn với cơ chế bầu cử,

phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ. Những người đủ
các tiêu chí chung của cán bộ, công chức mà được tuyển vào làm việc trong
các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội thông qua bầu cử,
phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ thì được xác định
là cán bộ. Thực tế, cán bộ luôn gắn liền với chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ;
hoạt động của họ gắn với quyền lực chính trị được nhân dân hoặc các thành
viên trao cho và chịu trách nhiệm chính trị trước Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Việc quản lý cán bộ phải thực hiện theo các văn bản pháp luật chuyên ngành
tương ứng, hoặc theo Điều lệ. Do đó, căn cứ vào các tiêu chí do Luật Cán bộ,
công chức quy định, những ai là cán bộ trong cơ quan của Đảng, tổ chức chính
trị - xã hội sẽ được các cơ quan có thẩm quyền của Đảng căn cứ Điều lệ của
Đảng, của tổ chức chính trị - xã hội quy định cụ thể. Những ai là cán bộ trong
cơ quan nhà nước sẽ được xác định theo quy định của Luật Tổ chức Quốc hội,
Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Toà án nhân dân, Luật Tổ chức Viện
Kiểm sát nhân dân, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân (nay
là Luật Tổ chức chính quyền địa phương có hiệu lực từ ngày 01/01/2016), Luật
Kiểm toán nhà nước và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Cán bộ chủ chốt là người có chức vụ, nắm giữ các vị trí quan trọng, có
tác dụng làm nòng cốt trong các tổ chức thuộc hệ thống bộ máy của một cấp
nhất định; người được giao đảm đương các nhiệm vụ quan trọng để lãnh đạo,
quản lý, điều hành bộ máy thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao; chịu
trách nhiệm trước cấp trên và cấp mình về lĩnh vực công tác được giao.
Từ những vấn đề trên có thể quan niệm: Đội ngũ CBCC của CPCMCH
cán ở tỉnh Sóc Trăng là một bộ phận đội ngũ cán bộ của Đảng, Nhà nước, đó
14


là tập hợp những công dân Việt Nam được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ
các chức vụ, chức danh trong biên chế CCPCM cấp huyện ở Tỉnh; là những
người đứng đầu và cấp phó của người đứng đầu giữ vai trò nòng cốt, có tác

động, ảnh hưởng lớn đến quản lý, điều hành hoạt động của phòng và được
hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Theo đó, đội ngũ CBCC nói trên gồm: Các trưởng phòng và các phó trưởng
phòng của CPCMCH trực thuộc UBND cấp huyện ở tỉnh Sóc Trăng, còn tập hợp
các trưởng phòng của CPCMCH là đội ngũ cán bộ chủ trì của CPCMCH.
- Vị trí, vai trò của đội ngũ CBCC của CPCMCH:
Một là, đội ngũ đội ngũ CBCC của CPCMCH là lực lượng quan trọng
trong quán triệt và tổ chức thực hiện đường lối, chủ chương, chính sách của
Đảng, pháp luật nhà nước và chủ trương, kế hoạch phát triển và các quy
định của địa phương. Đội ngũ cán bộ cấp phòng các CQCM thuộc UBND
huyện là một bộ phận quan trọng cấu thành tổ chức bộ máy của chính quyền
cấp huyện; là lực lượng trực tiếp điều hành hoạt động của bộ máy chính quyền,
là một khâu quan trọng trong quán triệt, tổ chức thực hiện đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, thực thi pháp luật để quản lý nhà nước trên các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Quán triệt, thực hiện đường lối, chủ chương,
chính sách của Đảng, pháp luật nhà nước, kế hoạch phát triển các mặt và các
quy định của địa phương là trách nhiệm của tất cả đội ngũ cán bộ, đảng viên,
công chức. Đội ngũ cán bộ chủ chốt phòng chuyên môn cấp huyện là lực lượng
nòng cốt trong các phòng chuyên môn trong nghiên cứu, nắm và dự báo chính
xác tình hình; quán triệt dường lối, chủ trương chính sách của đảng, chỉ đạo của
Sở chuyên ngành, nguyện vọng và ý kiến của nhân dân để tham mưu cho
HĐND, UBND ra Nghị quyết, chủ trương và các quyết định đúng đắn, kịp thời
và giúp HĐND, UBND trong tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra quá trình triển khai
thực hiện để hiện thực hóa các chủ trương, đường lối, chính sách, … tại huyện,
thành phố, thị xã mình. Với ý nghĩa ấy, đội ngũ cán bộ chủ chốt phòng chuyên
môn có vai trò quan trọng trong quán triệt và tổ chức thực hiện đường lối, chủ
chương, chính sách của Đảng, pháp luật nhà nước và chủ trương, kế hoạch
phát triển các mặt, các quy định của địa phương.

15



Đội ngũ cán bộ chủ chốt phòng chuyên môn cấp huyện là những cán bộ
tham mưu cho UBND cấp huyện, thường xuyên tiếp xúc với dân và giải quyết
công việc của dân. Vì vậy, nếu đội ngũ này có trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ vững vàng, có tính chuyên nghiệp cao, tận tụy phục vụ nhân dân thì mọi
công việc quản lý nhà nước ở địa phương sẽ đạt hiệu quả cao, góp phần đẩy
mạnh cải cách hành chính. Thực tế cũng đã chỉ ra, chất lượng công tác của đội
ngũ cán bộ chủ chốt phòng chuyên môn gắn liền với chất lượng hoạt động của
các phòng chuyên môn và qua đó liên quan đến việc quán triệt, tổ chức thực
hiện đường lối, chủ chương, chính sách của Đảng, pháp luật nhà nước, kế
hoạch phát triển các mặt và các quy định của địa phương.
Hai là, đội ngũ CBCC của CPCMCH là lực lượng nòng cốt trong thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của phòng chuyên môn. Cán bộ chủ chốt phòng
chuyên môn là người trực tiếp tổ chức, điều hành phòng chuyên môn thực
hiện các công việc tham mưu, giúp UBND cấp huyện thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về các lĩnh vực, ngành ở địa phương và thực hiện một số
nhiệm vụ, quyền hạn theo sự ủy quyền của UBND cấp huyện và theo quy
định của pháp luật; góp phần bảo đảm sự thống nhất quản lý của ngành hoặc
lĩnh vực công tác ở địa phương. Vai trò đó được xác định rõ ràng thành chức
trách nhiệm vụ của từng cán bộ trưởng, phó phòng. Nếu cán bộ chủ chốt có
trách nhiệm cao, có năng lực tốt, nhất là năng lực quản lý, điều hành, có kinh
nghiệm thực tiễn thì CQCM hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ và ngược lại.
Ba là, đội ngũ CBCC của CPCMCH là lực lượng nòng cốt trong xây
dựng CPCMCH vững mạnh. Qua đó góp phần xây dựng, nâng cao năng lực,
hiệu lực hoạt động của tổ chức chính quyền cấp huyện. Là những người đứng
đầu và phụ trách các phòng chuyên môn, đội ngũ cán bộ chủ chốt có ảnh
hưởng rất quan trọng trong quá trình xây dựng cơ quan vững mạnh về mọi
mặt. Cán bộ chủ chốt phòng chuyên môn cấp huyện là người chịu trách nhiệm
về việc lãnh đạo, quản lý, điều hành mọi hoạt động của phòng chuyên môn

theo chức năng, nhiệm vụ đã được giao và theo quy định của pháp luật. Họ là
người xác định nội dung, biện pháp và tổ chức thực hiện các nội dung, biện
pháp đó để xây dựng phòng chuyên môn về mọi mặt. Mặt khác, các cán bộ
chủ chốt còn là tấm gương để các cán bộ trong phòng chuyên môn học tập noi
16


theo. Thực tế cũng cho thấy rõ điều đó: không thể có phòng chuyên môn vững
mạnh về mọi mặt khi các trưởng, phó phòng là những cán bộ có phẩm chất
kém, năng lực chuyên môn và năng lực quản lý điều hành yếu, ý thức tổ chức
kỷ luật không nghiêm, thiếu gương mẫu trong công tác và sinh hoạt. Phòng
chuyên môn được xây dựng vững mạnh toàn diện, hoàn thành tốt chức năng,
nhiệm vụ sẽ thiết thực xây dựng, nâng cao năng lực, hiệu lực hoạt động của tổ
chức chính quyền cấp huyện.
- Chức trách, nhiệm vụ của CBCC của CPCMCH ở tỉnh Sóc Trăng
Theo Nghị định số 37/2014/NĐ- CP của Chính phủ về Quy định tổ
chức các cơ qua chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh, ngày 05 tháng 5 năm 2014, CBCC của CPCMCH có
chức trách, nhiệm vụ như sau:
Chức trách, nhiệm vụ của trưởng phòng:
Chức trách: Trưởng phòng của CPCMCH là công chức lãnh đạo đứng
đầu một phòng có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành hoạt động của
phòng; làm tham mưu giúp Chủ tịch UBND cấp huyện thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về lĩnh vực chuyên ngành được phân công phụ trách. Chịu
trách nhiệm trước UBND, Chủ tịch UBND cấp huyện và trước pháp luật về
các nội dung tham mưu chỉ đạo thực hiện lĩnh vực chuyên môn, chuyên ngành
được phân công phụ trách đồng thời chịu sự hướng dẫn về chuyên môn
nghiệp vụ của Giám đốc Sở quản lý ngành, lĩnh vực.
Nhiệm vụ:
Môt là: Nghiên cứu tham mưu cho UBND, chủ tịch UBND cấp huyện

ban hành các quyết định, chỉ thị nhằm cụ thể hóa đường lối của Đảng và
chính sách, pháp luật của Nhà nước về một hoặc một số nhiệm vụ chuyên
môn được phân công phụ trách vào điều kiện cụ thể của huyện, thị, thành phố
trong tỉnh Sóc Trăng.
Hai là: Xây dựng các phương án, đề án, dự án, chương trình phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương để UBND, chủ tịch UBND cấp huyện quyết
định hoặc trình cấp có thẩm quyền quyết định và tổ chức thực hiện.
Ba là: Nghiên cứu, xây dựng các nội quy, quy chế quản lý đối với lĩnh
vực chuyên môn nghiệp vụ được giao nhằm đảm bảo sự quản lý thống nhất,
17


sự chỉ đạo, điều hành có hiệu quả của sở quản lý ngành và của UBND cấp
huyện trong tỉnh Sóc Trăng.
Bốn là: Tham mưu, đề xuất với Chủ tịch UBND cấp huyện và Giám
đốc Sở quản lý ngành trình cấp có thẩm quyền xem xét quyết định việc đơn
giản hóa thủ tục hành chính cho phù hợp với tình hình thực tiễn ở địa phương;
phổ biến, theo dõi và kiểm tra việc thực hiện giải quyết các thủ tục hành chính
thuộc phạm vi quản lý của phòng.
Năm là: Tham gia với Sở quản lý ngành trong việc nghiên cứu những
đề tài khoa học liên quan đến chức năng quản lý của phòng, nhằm cải tiến nội
dung và phương pháp quản lý cho phù hợp với thực tiễn của địa phương.
Sáu là: Tổ chức hướng dẫn về nghiệp vụ và phổ biến kinh nghiệm
trong công tác cho công chức, viên chức cấp dưới trong ngành, cán bộ, công
chức chuyên môn nghiệp vụ ở UBND cấp xã;
Bảy là: Tham mưu giúp Chủ tịch UBND cấp huyện tổ chức việc phối
hợp với các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh tổ chức thực hiện những vấn đề
có liên quan, đảm bảo sự chỉ đạo thông suốt, nhịp nhàng, hiệu quả;
Tám là: Trực tiếp quản lý, phân công nhiệm vụ, thường xuyên hướng dẫn,
kiểm tra về nghiệp vụ đối với các phó trưởng phòng và công chức, viên chức

thuộc quyền quản lý; bố trí công việc đối với người tập sự được phân bổ về
phòng, phân công người hướng dẫn tập sự, nhận xét, đánh giá kết quả tập sự và
đề nghị Chủ tịch UBND cấp huyện quyết định theo quy định của pháp luật.
Chín là: Nhận xét đánh giá hoặc trình Chủ tịch UBND cấp huyện đánh
giá hàng năm đối với công chức, viên chức trong phòng.
Mười là: Thực hiện các nhiệm vụ khác có liên quan theo sự phân công
của Chủ tịch UBND huyện.
Chức trách, nhiệm vụ của phó trưởng phòng:
Chứ trách: Phó trưởng phòng thuộc UBND cấp huyện là công chức,
viên chức lãnh đạo, giúp trưởng phòng phụ trách và thực hiện một hoặc một
số lĩnh vực công tác chuyên môn, chuyên ngành của phòng theo phân công
của trưởng phòng.

18


Nhiệm vụ: Phó trưởng phòng giúp trưởng phòng và chịu trách nhiệm
trước trưởng phòng và trước pháp luật về các nội dung tham mưu chỉ đạo thực
hiện lĩnh vực chuyên môn, chuyên ngành được phân công phụ trách.
- Các mối quan hệ công tác của CBCC của CPCMCH ở tỉnh Sóc Trăng
Quan hệ của trưởng PCMCH
Với UBND, Chủ tịch UBND cấp huyện: Phục tùng sự quản lý điều hành
và quản lý, điều hành
Với Giám đốc Sở quản lý ngành: chị sự chỉ đạo, hướng dẫn về chuyên
ngành và chỉ đạo, hướng dẫn về chuyên ngành phụ trách.
Với chi ủy, chi bộ phòng: chịu sự lãnh đạo và lãnh đạo.
Với CBCC các PCM khác: phối hợp, hiệp đồng công tác.
Với các phó trưởng phòng và cán bộ, nhân viên trong phòng của mình:
quản lý, điều hành và phục tùng sự quản lý điều hành.
Quan hệ của phó trưởng PCMCH

Cơ bản giống quan hệ của trưởng PCMCH cấp huyện, ngoài ra, trong
quan hệ với trưởng phòng là: chịu sự quản lý điều hành và quản lý điều hành;
quan hệ giữa các phó trưởng phòng là quan hệ phối hợp công tác.
* Năng lực tham mưu, đề xuất của đội ngũ CBCC của CPCMCH ở
tỉnh Sóc Trăng
- Quan niệm tham mưu, đề xuất và năng lực của đội ngũ CBCC của
CPCMCH ở tỉnh Sóc Trăng
Quan niệm tham mưu, đề xuất của đội ngũ CBCC của CPCMCH ở tỉnh
Sóc Trăng. Theo Từ điển Tiếng Việt, tham mưu với nghĩa động từ là: giúp
người chỉ huy trong việc xếp đặt và tổ chức thực hiện các kế hoạch. Ví dụ:
ban tham mưu; sĩ quan tham mưu. Tham mưu với nghĩa của khẩu ngữ là: góp
ý kiến có tính chất chỉ đạo giúp cho cấp lãnh đạo. Ví dụ: tham mưu cho cấp
trên; đồng nghĩa với tư vấn. Đề xuất với nghĩa động từ là: Nêu ý kiến để xem
xét, giải quyết. Ví dụ: Đề xuất ý tưởng mới; đề xuất dự án trình lên hội nghị.
Tham mưu là hiến kế, kiến nghị, đưa ra các ý tưởng, đề xuất các phương
pháp, giải pháp sáng tạo có cơ sở khoa học, các sáng kiến, các phương án tối ưu,
những dự báo chiến lược, sách lược và các giải pháp hữu hiệu cho cơ quan cấp

19


trên, cho thủ trưởng cơ quan, đơn vị trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện kế
hoạch công tác ngắn hạn, dài hạn, với mục đích đạt kết quả cao nhất.
Theo đó có thể hiểu: Tham mưu, đề xuất của CBCC của CPCMCH ở tỉnh
Sóc Trăng là hoạt động hiến kế, góp ý, kiến nghị, đưa ra các ý tưởng, phương
án tối ưu, giải pháp hữu hiệu, những dự báo dài hạn, ngắn hạn cho UBND và
Chủ tịch UBND cấp huyện ở Tỉnh trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện
kế hoạch công tác ngắn hạn, dài hạn, với mục đích đạt kết quả cao nhất.
Tham mưu không chỉ là tham gia, đề xuất chủ trương, chính sách mà công
tác tham mưu còn là hướng dẫn và chỉ đạo thực hiện về lĩnh vực mình đảm trách

cho cán bộ lãnh đạo, quản lý và cơ quan tham mưu cấp dưới. Do đó, công tác
tham mưu có vị trí đặc biệt quan trọng trong lãnh đạo, quản lý và điều hành công
việc của tất cả các cơ quan, các cấp, các ngành. Cơ quan lãnh đạo, quản lý cấp
nào, ngành nào thì có tổ chức và cán bộ tham mưu cấp ấy, ngành ấy.
Xét về chức năng tham gia lẫn chức năng hướng dẫn tổ chức thực hiện thì
hoạt động tham mưu của cơ quan và cán bộ tham mưu đều có thuộc tính lãnh
đạo, quản lý và đồng thời phải cùng chịu trách nhiệm với người lãnh đạo,
quản lý về lĩnh vực mình tham mưu. Tham mưu có trách nhiệm thì đồng thời
phải có quyền hạn.
Quan niệm năng lực tham mưu, đề xuất của đội ngũ CBCC của
CPCMCH ở tỉnh Sóc Trăng. Năng lực là tổng thể những yếu tố chủ quan bao
gồm những khả năng và trình độ thực tế của con người có thể và thực hiện
được một hoặc những hoạt động, công việc nhất định nào đó. Như vậy, năng
lực bao giờ cũng là của một chủ thể nhất định gắn liền với một hoặc một số
hoạt động cụ thể của xã hội. Với tư cách là chủ thể tích cực, sáng tạo của xã
hội, con người ngày càng đi sâu khám phá, nhận thức và cải tạo tự nhiên, cải
tạo xã hội và cải tạo chính bản thân mình. Chính trong quá trình đó, năng lực
của con người ngày càng phát triển và hoàn thiện không ngừng. Tuy nhiên
trên thực tế, không phải mỗi con người đều có đầy đủ mọi năng lực để thực
hiện được mọi hoạt động của đời sống xã hội, năng lực của con người là
không đồng nhất, nó tuỳ thuộc vào điều kiện khách quan, chủ quan, khả năng
và trình độ thực tế của mỗi người.

20


Để hoàn thành chức trách, nhiệm vụ của mình, đội ngũ cán bộ chủ chốt
phòng chuyên môn cấp huyện phải có đủ phẩm chất và năng lực, trong đó có
năng lực tham mưu, đề xuất - yếu tố có vị trí, vai trò hết sức quan trọng và có
ý nghĩa đặc trưng trong năng lực toàn điện của cán bộ chủ chốt CQCM thuộc

UBND, HĐND các cấp.
Từ đó có thể quan niệm: Năng lực tham mưu, đề xuất của đội ngũ
CBCC của CPCMCH ở tỉnh Sóc Trăng là tổng thể những yếu tố chủ quan, bao
gồm trình độ kiến thức và khả năng, kinh nghiệm nghiên cứu, tổng hợp, dự báo
tình hình của họ, hình thành và hiến kế, góp ý, kiến nghị cho UBND và Chủ
tịch UBND cấp huyện các ý tưởng, phương án, giải pháp tối ưu trong xây
dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch công tác, để hoàn thành tốt nhiệm vụ quản
lý, điều hành về mặt nhà nước trên các lĩnh vực của UBND cấp huyện ở Tỉnh.
Từ quan niệm trên có thể chỉ ra những yếu tố cấu thành năng lực tham
mưu, đề xuất của cán bộ chủ chốt phòng chuyên môn cấp huyện ở tỉnh Sóc
Trăng như sau:
Một là, hệ thống tri thức đã được tích luỹ. Hệ thống tri thức gồm: hệ
thống kiến thức lý luận và những hiểu biết, kinh nghiệm thực tiễn về các lĩnh
vực xã hội mà CBCC của CPCMCH tích luỹ được qua khoảng thời gian nhất
định. Hệ thống kiến thức, hiểu biết và kinh nghiệm tham mưu, đề xuất là bộ
phân hữu cơ trong hệ thống tri thức của CBCC của CPCMCH được tích luỹ
thông qua học tập tại trường, bồi dưỡng tại chức và chủ yếu, quyết định nhất
vẫn là do quá trình tự học tập, tự bồi dưỡng và tích luỹ được thông qua hoạt
động thực tiễn, trong đó có thực tiễn công tác ở các phòng chuyên môn.
Hệ thống những kiến thức lý luận về chính trị - xã hội, khoa học quản lý,
pháp luật là yếu tố cơ bản, là cơ sở, điều kiện để đội ngũ CBCC của CPCMCH
tiến hành có hiệu quả các hoạt động tham mưu, đề xuất; giải quyết hài hoà các
mối quan hệ công tác. Trong đó nội dung rất quan trọng và trực tiếp liên quan
đến hoạt động tham mưu, đề xuất của CBCC của CPCMCH là kiến thức, hiểu
biết sâu sắc về chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nước về lĩnh vực chuyên môn phụ trách; am hiểu tình hình chính trị, kinh tế - xã
hội của đất nước và địa phương; nắm vững các văn bản quy phạm pháp luật do
Trung ương và địa phương ban hành về lĩnh vực chuyên môn được giao.
21



Cùng với hệ thống những kiến thức, hiểu biết khoa học là kinh nghiệm
tham mưu, đề xuất được tích luỹ từ thực tiễn công tác nói chung, thực tiễn
công tác ở các phòng chuyên môn cấp huyện nói riêng và thực tiễn cuộc sống.
Kinh nghiệm tham mưu, đề xuất là vốn quý của mỗi CBCC của CPCMCH;
phản ánh sự trải nghiệm và trình độ năng lực công tác; có vai trò quan trọng
trong phát triển năng lực tham mưu, đề xuất của đội ngũ CBCC của
CPCMCH ở tỉnh Sóc Trăng.
Hai là, kỹ năng tham mưu, đề xuất
Kỹ năng tham mưu, đề xuất là khả năng nắm vững, vận dụng thành thạo,
khéo léo những kiến thức, kinh nghiệm vào thực tiễn hoạt động tham mưu, đề
xuất thông qua các hình thức, biện pháp cụ thể bảo đảm cho hoạt động tham
mưu, đề xuất được thực hiện đúng nội dung, yêu cầu. Đây là yếu tố cơ bản,
quan trọng trong năng lực tham mưu, đề xuất của đội ngũ CBCC của
CPCMCH; trực tiếp quy định chất lượng, hiệu quả hoạt động tham mưu, đề
xuất theo cương vị, chức trách mà mỗi CBCC của CPCMCH đảm nhiệm.
Kỹ năng tham mưu, đề xuất của CBCC của CPCMCH gồm nhiều nội
dung phong phú; biểu hiện ở kỹ năng nghiên cứu nắm bắt Chỉ thị, Nghị
quyết, hướng dẫn của trên và của cấp ủy, chính quyền cấp huyện; nhận
định, đánh giá, dự báo tình hình và xác định nội dung, lựa chọn hình thức,
biện pháp tham mưu cho UBND, Chủ tịch UBND, HĐND cấp huyện bảo
đảm có chất lượng, hiệu quả.
Ba là, tư chất, năng khiếu của đội ngũ CBCC của CPCMCH
Đây là tiềm năng có tính tự nhiên, di truyền; là tố chất bẩm sinh gắn với
đặc điểm riêng của cá nhân, tạo nên sự khác biệt giữa người này với người
khác. Tư chất, năng khiếu chỉ phát huy khi cá nhân thực sự say mê, hứng thú
với nghề nghiệp, công việc được giao. Với vai trò là yếu tố cấu thành năng
lực thực tham mưu, đề xuất, tư chất, năng khiếu là tiền đề để phát triển năng
lực hoạt động nghề nghiệp nói chung, năng lực tham mưu, đề xuất của người
CBCC của CPCMCH nói riêng.

Các bộ phận cấu thành hệ thống tri thức của đội ngũ CBCC PCMCH
luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ và bổ sung cho nhau, tạo tiền đề cho sự
phát triển và hoàn thiện của trình độ tri thức. Do vậy, sự phân định kiến thức
22


lý luận và hiểu biết, kinh nghiệm thực tiễn hoạt động tham mưu, đề xuất cũng
chỉ là tương đối. Tri thức có vai trò rất quan trọng trong định hướng và hướng
dẫn hoạt động thực tiễn của bản thân CBCC PCMCH. Vì vậy, trong quá trình
công tác của CBCC PCMCH cần có sự quan tâm bồi dưỡng toàn diện của cấp
ủy, chính quyền và cơ quan chức năng các cấp. Đồng thời, điều có ý nghĩa
quyết định nhất là đội ngũ CBCC PCMCH phải chủ động, tích cực tự bồi
dưỡng, tự rèn luyện, phải coi sự làm giàu tri thức là một nhu cầu thiết yếu,
không thể thiếu được của bản thân, biến quá trình bồi dưỡng của tổ chức
thành quá trình tự bồi dưỡng của chính mình, bảo đảm cho bản thân có đủ khả
năng hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao.
Năng lực tham mưu, đề xuất của CBCC PCMCH ở tỉnh Sóc Trăng có
ý nghĩa to lớn đối với bản thân người cán bộ và có vai trò quan trọng, quyết
định đến chất lượng công tác tham mưu, đề xuất của của phòng chuyên môn.
Năng lực tham mưu, đề xuất là một thành tố cơ bản tạo nên chất lượng người
CBCC PCMCH, làm cho họ thực hiện tốt nhiệm vụ, chức trách, có uy tín....
Biểu hiện của năng lực tham mưu, đề xuất của đội ngũ CBCC
PCMCH ở tỉnh Sóc Trăng
Quan niệm về năng lực tham mưu, đề xuất của đội ngũ CBCC của
CPCMCH ở tỉnh Sóc Trăng có thể có nhiều cách tiếp cận khác nhau theo nội
dung, theo từng mặt công tác, theo cương vị, chức trách được giao, theo yếu
tố tạo thành. Mỗi cách tiếp cận đều có góc độ riêng, song dù quan niệm thế
nào chăng nữa, năng lực tham mưu, đề xuất của đội ngũ CBCC của
CPCMCH ở tỉnh Sóc Trăng cũng gắn chặt với chức trách, nhiệm vụ của
người họ. Theo đó có thể nêu lên biểu hiện của năng lực tham mưu, đề xuất

của CBCC của CPCMCH ở tỉnh Sóc Trăng như sau:
Một là, khả năng quán triệt, nắm bắt các nghị quyết, chỉ thị, hướng
dẫn của cấp trên liên quan đến ngành, mặt công tác chuyên môn của mình.
Đó là trình độ cập nhật, quán triệt các nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của cấp
trên, gồm của cấp Trung ương; cấp ủy, chính quyền, cơ quan chuyên môn của
Tỉnh; HĐND, UBND, Chủ tịch UBND cấp huyện. Trình độ đó thể hiện ở việc
nắm đúng tinh thần, nắm toàn diện các nội dung và quán triệt, hiểu sâu, nắm
chắc những vấn đề cốt lõi liên quan đến vấn đề, ngành, lĩnh vực mà mỗi CBC
23


CQCM cấp huyện phụ trách. Đây là tiền đề, cơ sở rất quan trọng bảo đảm cho
nội dung tham mưu, đề xuất được đúng, trúng và sát.
Hai là, khả năng nhận định đánh giá, dự báo tình hình và phát hiện
vấn đề thực tiễn liên quan đến đến ngành, lĩnh vực chuyên môn của mình.
CBCC của CPCMCH phải có phương pháp xem xét khách quan, thái độ bình
tĩnh, thận trọng nhìn nhận, xem xét những vấn đề liên quan một cách rõ ràng,
trong sự phát triển biện chứng; biết vận dụng kiến thức, kinh nghiêm chuyên
môn vào hoạt động thực tiễn. Họ phải có đầy đủ phẩm chất đạo đức, bản lĩnh,
năng lực nghiệp vụ cũng như những hiểu biết toàn diện trên các lĩnh vực khác,
đảm bảo cho quá trình xem xét, đánh giá, dự báo tình hình được chính xác, có
tính mục đích rõ ràng và định hướng đúng. Họ phải có tính quyết đoán, khả
năng tư duy năng động, khái quát, biết gạt bỏ những yếu tố, tình tiết, sự kiện
không thuộc bản chất vấn đề để nhìn nhận đúng cái chủ yếu, cốt lõi, bản chất
của tình hình, sự kiện. Đó là trình độ xem xét, đánh giá đúng tình hình nhiệm
vụ, những thuận lợi, khó khăn, để tham mưu, đề xuất với với cấp trên các chủ
trương, biện pháp để cụ thể hoá nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của cấp trên phù
hợp với tình hình địa phương và tổ chức thực hiện nội dung nhiệm vụ thuộc
ngành mình, lĩnh vực mình phụ trách. Đây là điều kiện rất quan trọng để nội
dung tham mưu sát, đúng và có tình khả thi trong thực tiễn.

Ba là, khả năng, lựa chọn đúng, trúng vấn đề để tham mưu, đề xuất
với cấp trên giải quyết kịp thời, đem lại kết quả thiết thực, nhất là đối với vấn
đề mới, khó, trong tình huống phức tạp. Năng lực này bao gồm: năng lực phát
hiện, lựa chọn vấn đề tham mưu, đề xuất và tìm kiếm những chủ trương, giải
pháp sáng tạo, phù hợp; năng lực thực hiện các khâu, các bước thực hành
tham mưu, đề xuất. Khả năng này rất quan trọng, bảo đảm cho CBCC của
CQCM cấp huyện có năng lực thực tiễn tốt. Trong thực tiễn ở địa phương, rất
nhiều vấn đề đặt ra trong lĩnh vực, ngành mà CBCC của CQCM cấp huyện
phụ trách cần phải được giải quyết. Tuy nhiên, không thể nào giải quyết xong
đồng thời tất cả các vấn đề đó được. Do vậy, CBCC của CQCM cấp huyện
phải căn cứ tình hình và khả năng cụ thể của địa phương, ngành mình phụ
trách và chỉ đạo của trên để lựa chọn vấn đề cần thiết, cấp bách, nổi cộm nhất,

24


nhưng lại có được điều kiện cần và đủ để tham mưu với chính quyền những
giải pháp giải quyết hiệu quả, dứt điểm.

Bốn là, phương pháp tham mưu cho cấp trên khoa học, khéo léo,
linh hoạt. Trong thực tiễn, UBND, Chủ tịch UBND cấp huyện phải đồng
thời ra các quyết định, giải pháp điều hành các cấp, các ngành, địa
phương, đơn vị giải quyết rất nhiều nhiệm vụ, trên các mặt công tác khác
nhau. Mặt khác, trong mỗi thời điểm, hoàn cảnh cụ thể ở địa phương lại
có những yêu cầu riêng đối với năng lực tham mưu, đề xuất của CBCC
của CQCM cấp huyện. Do vậy, trong thực tiễn CBCC của CQCM cấp
huyện cần phải biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo phương pháp tham
mưu, đề xuất để nâng cao chất lượng và hiệu quả tham mưu, đề xuất. Đó
là khả năng phát huy, tập hợp trí tuệ của tập thể cán bộ, nhân viên của
phòng chuyên môn mình phụ trách thành ý kiến tối ưu; xác định phương

pháp tham mưu khoa học, khéo léo; đó là khả năng lựa chọn nội dung,
biện pháp tham mưu, đề xuất có tính thuyết phục đối với cấp trên để
được cấp trên chấp nhận.
1.1.2. Những vấn đề cơ bản về bồi dưỡng năng lực tham mưu, đề xuất
của đội ngũ CBCC PCMCH ở tỉnh Sóc Trăng
* Quan niệm bồi dưỡng năng lực tham mưu, đề xuất của CBCC PCMCH
ở tỉnh Sóc Trăng
Lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin chỉ rõ, trong tính hiện thực của nó, bản
chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, và lao động sáng tạo ra
bản thân con người. Theo đó, các phẩm chất, năng lực của người được hình
thành trong cuộc sống và trong hoạt động thực tiễn. Các nhà tâm lý học Mácxít coi năng lực là một bộ phận cấu thành nhân cách. Năng lực chính là tổng
hợp hoặc tập hợp các thuộc tính của con người; năng lực của con người gắn
liền với tổ chức lao động xã hội với hệ thống giáo dục bồi dưỡng thích ứng
với tổ chức đó.
Bồi dưỡng là khái niệm được sử dụng phổ biến, rộng rãi trong các lĩnh
vực, các hoạt động của đời sống xã hội. Theo Đại Từ điển Tiếng Việt, bồi dưỡng
là: “làm cho khỏe thêm, mạnh thêm, làm cho tốt hơn, giỏi hơn” [40, tr.191].

25


×