Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ CÔNG tác PHÁT TRIỂN ĐẢNG VIÊN TRONG ĐỒNG bào dân tộc KHƠ ME TRONG các ĐẢNG bộ xã, PHƯỞNG, THỊ TRẤN ở TỈNH sóc TRĂNG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (481.35 KB, 101 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
3
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC
12
TIỄN CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN ĐẢNG VIÊN TRONG
ĐỒNG BÀO DÂN TỘC KHMER CỦA CÁC ĐẢNG BỘ
1.1

XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN Ở TỈNH SÓC TRĂNG
Đảng bộ xã, phường, thị trấn và những vấn đề cơ bản về

12

công tác phát triển đảng viên trong đồng bào dân tộc Khmer
của các đảng bộ xã, phường, thị trần ở tỉnh Sóc Trăng
1.2

Thực trạng và một số kinh nghiệm tiền hành công tác phát

32

triển đảng viên trong đồng bào dân tộc Khmer của các
đảng bộ xã, phường, thị trần ở tỉnh Sóc Trăng
Chương 2 YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH CÔNG
TÁC PHÁT TRIỂN ĐẢNG VIÊN TRONG ĐỒNG BÀO
DÂN TỘC KHMER CỦA CÁC ĐẢNG BỘ XÃ,
PHƯỜNG, THỊ TRẤN Ở TỈNH SÓC TRĂNG HIỆN
NAY
2.1.


Những yếu tố tác động và yêu cầu đẩy mạnh công tác phát

48

48

triển đảng viên trong đồng bào dân tộc Khmer của các đảng
2.2.

bộ xã, phường, thị trấn ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay
Những giải pháp đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên

57

trong đồng bào dân tộc Khmer của các đảng bộ xã,
phường, thị trần ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

86
88
92


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thời kỳ mới, Đảng ta xác định phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng
Đảng là then chốt; trong đó công tác phát triển đảng có vị trí vai trò đặc biệt
quan trọng. Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh rất

quan tâm đến công tác phát triển đảng và coi đó là nhiệm vụ quan trọng,
thường xuyên, có tính quy luật trong công tác xây dựng Đảng nhằm tăng
cường sinh lực, trẻ hóa đội ngũ của Đảng, tăng thêm sức mạnh và bảo đảm sự
kế thừa, phát triển vững chắc của Đảng.
Đảng bộ các xã, phường, thị trấn của tỉnh Sóc Trăng có vị trí, vai trò rất
quan trọng trong hệ thống tổ chức cơ sở đảng và trong hoạt động của Đảng; là
nơi trực tiếp gắn bó với nhân dân, là cầu nối giữa Đảng với dân, là hạt nhân
chính trị lãnh đạo cấp xã, nơi trực tiếp đưa đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống; đồng thời là nơi trực tiếp tiến
hành các hoạt động xây dựng nội bộ Đảng, nơi trực tiếp quản lý, giáo dục, rèn
luyện đảng viên và tiến hành công tác phát triển đảng, sàng lọc đảng viên.
Nhận thức được vị trí, vai trò, tầm quan trọng đó, những năm qua các
cấp ủy, tổ chức đảng các cấp của tỉnh Sóc Trăng luôn coi trọng và quan tâm
công tác phát triển đảng viên, nhất là công tác phát triển đảng trong đồng bào
dân tộc Khmer. Qua đó công tác phát triển đảng đã đạt được những kết quả
đáng khích lệ, góp phần quan trọng trong công tác xây dựng Đảng bộ các cấp
trong tỉnh. Kết quả là số lượng đảng viên người dân tộc Khmer ngày càng
tăng, tuyệt đại đa số đảng viên là người dân tộc Khmer đã phát huy tốt vai trò
tiền phong gương mẫu của người đảng viên. Tuy nhiên, công tác phát triển
đảng trong đồng bào dân tộc Khmer ở các xã, phường, thị trấn của tỉnh Sóc
Trăng vẫn còn bộc lộ những hạn chế, bất cập nhất định cả về nhận thức, trách
nhiệm của các tổ chức, các lực lượng; nội dung, hình thức, biện pháp chưa
thật sát hợp, có lúc, có nơi còn chạy theo số lượng đơn thuần, coi nhẹ, hạ thấp
3


chất lượng, tiêu chuẩn đảng viên hoặc xem nhẹ công tác phát triển đảng trong
đồng bào dân tộc Khmer; hẹp hòi, định kiến, tuyệt đối hóa tiêu chuẩn đảng viên.
Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực và trong nước đang có những diễn
biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Các thế lực thù địch đang đẩy mạnh

chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ hòng phá hoại Đảng, phá
hoại công cuộc đổi mới trên đất nước ta. Đặc biệt là trên địa bàn tỉnh Sóc
Trăng là địa bàn trọng điểm mà các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc,
tôn giáo để thực hiện âm mưu đó. Trước yêu cầu xây dựng các đảng bộ xã ở
tỉnh Sóc Trăng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, đủ sức lãnh đạo thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị, đang đặt ra
những yêu cầu mới đối với công tác phát triển đảng viên là người dân tộc
Khmer của các đảng bộ xã ở tỉnh Sóc Trăng.
Vì vậy, nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ lý luận, thực tiễn và đề xuất
những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác phát triển đảng trong
đồng bào dân tộc Khmer ở các xã, phường, thị trấn của tỉnh Sóc Trăng là vấn
đề có ý nghĩa lý luận, thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Công tác phát triển đảng viên là một nhiệm vụ quan trọng, là một trong
những nội dung quan trọng của công tác xây dựng Đảng. Trong những năm
qua Đảng ta đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị và có nhiều cơ quan, cán bộ khoa
học, cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiên cứu về công tác phát triển đảng viên với
nhiều góc độ khác nhau, tiêu biểu có nhóm các công trình sau:
* Những công trình nghiên cứu về nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở
đảng cấp xã.
“Công tác vận động giáo dân của tổ chức cơ sở đảng (cấp xã) đồng
bằng Bắc Bộ nước ta hiện nay”, Luận án tiến sĩ lịch sử của Hoàng Mạnh
Điền, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2001). Luận án
đã phân tích thực trạng công tác vận động giáo dân của tổ chức cơ sở đảng
4


(cấp xã) đồng bằng Bắc Bộ, chỉ ra những đặc điểm đặc thù và xác định yêu
cầu đề xuất những giải pháp cơ bản tăng cường công tác vận động giáo dân
của các tổ chức cơ sở đảng (cấp xã) ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay.

“Nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng cấp xã ở tỉnh Vĩnh Long hiện
nay” (2002), Luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử, chuyên ngành xây dựng Đảng
Cộng sản Việt Nam của Nguyễn Văn Bé Tư. Theo tác giả chất lượng của tổ
chức cơ sở đảng cấp xã là chất lượng lãnh đạo xây dựng hệ thống chính trị ở cơ
sở vững mạnh, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, cửa quyền, ức hiếp nhân
dân, lãnh đạo hoàn thành các nhiệm vụ kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng an ninh và thực hiện có hiệu quả xây dựng đảng bộ theo nghị quyết, Điều lệ
Đảng. Trên cơ sở phân tích thực trạng, nguyên nhân của thực trạng, tác giả đã đề
xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng các đảng bộ cấp xã hiện nay.
“Chất lượng các đảng bộ xã vùng đồng bằng tỉnh Thanh Hóa giai
đoạn hiện nay” (2004), Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành
xây dựng đảng Cộng sản Việt Nam của Lê Xuân Thành. Tác giả luận văn đã
đưa ra quan niệm về chất lượng và các tiêu chí đánh giá chất lượng, đánh giá
thực trạng chất lượng các đảng bộ xã vùng đồng bằng tỉnh Thanh Hóa, đề
xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng các đảng bộ xã vùng
đồng bằng tỉnh Thanh Hóa hiện nay.
“Chất lượng các đảng bộ xã có đồng bào theo đạo thiên chúa ở miền
Đông Nam Bộ hiện nay”, Luận án tiến sĩ khoa học chính trị của Phạm Thanh
Kiều, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2008). Luận án
đã luận giải làm rõ vai trò, chức năng, đặc điểm của các xã có đồng bào theo
đạo thiên chúa, phân tích những vấn đề cơ bản về chất lượng các đảng bộ xã
có đồng bào theo đạo thiên chúa ở miền Đông Nam Bộ. Trên cơ sở đánh giá
thực trạng, nguyên nhân, luận án đã xác định mục tiêu, phương hướng, đề
xuất những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng các đảng bộ xã có đồng
bào theo đạo thiên chúa ở miền Đông Nam Bộ đến năm 2020.
5


Dương Trung Ý, Nâng cao chất lượng đảng bộ xã trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, Nxb CTQG, H,
2012. Tác giả đã luận giải làm rõ yêu cầu nhiệm vụ đặt ra đối với các đảng bộ

xã trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn; thực trạng chất lượng các đảng bộ xã và đề xuất những giải pháp chủ
yếu nâng cao chất lượng các đảng bộ xã giai đoạn hiện nay.
* Những công trình nghiên cứu về nâng cao chất lượng công tác phát
triển đảng viên
Lê Văn Lượng (2002), Nâng cao chất lượng công tác phát triển đảng
viên trong thanh niên các dân tộc thiểu số ở nông thôn tỉnh Lạng Sơn giai đoạn
hiện nay, Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành xây dựng đảng
Cộng sản Việt Nam. Luận văn đã phân tích đặc điểm của công tác phát triển
đảng viên và đối tượng đoàn viên, thanh niên các dân tộc thiểu số ở nông thôn
tỉnh Lạng Sơn; luận giải những vấn đề cơ bản về nâng cao chất lượng công tác
phát triển đảng viên trong thanh niên các dân tộc thiểu số; đánh giá thực trạng,
phân tích nguyên nhân, xác định phương hướng, yêu cầu, đề xuất những giải
pháp cơ bản nâng cao chất lượng công tác phát triển đảng viên trong thanh niên
các dân tộc thiểu số ở nông thôn tỉnh Lạng Sơn giai đoạn hiện nay.
Nguyễn Chí Tính (2004), Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên ở
các đảng bộ xã tỉnh An Giang trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ
khoa học chính trị, chuyên ngành xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. Tác giả
đã đi sâu phân tích vai trò, đặc điểm của đội ngũ đảng viên hoạt động ở các
đảng bộ xã tỉnh An Giang hiện nay, đánh giá đúng thực trạng chất lượng đội
ngũ đảng viên và chỉ ra những yêu cầu mới về chất lượng đội ngũ đảng viên.
Xác định phương hướng và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nâng cao chất
lượng đội ngũ đảng viên ở các đảng bộ xã tỉnh An Giang trong giai đoạn hiện
nay.

6


Nguyễn Văn Chất (2005), Nâng cao chất lượng giáo dục rèn luyện
đảng viên là học viên người dân tộc thiểu số đào tạo cán bộ chính trị cấp

phân đội ở Học viện Chính trị Quân sự trong giai đoạn hiện nay, Luận văn
thạc sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành xây dựng đảng Cộng sản Việt
Nam. Tác giả luận văn đã đi sâu phân tích đặc điểm của đảng viên là học
viên người dân tộc thiểu số với những nét đặc trưng về văn hóa, phong tục,
tập quán, cá tính, tâm lý. Trên cơ sở đánh giá thực trạng chất lượng giáo
dục rèn luyện đảng viên là học viên, luận văn đã đề xuất những giải pháp
cơ bản nâng cao chất lượng giáo dục rèn luyện đảng viên là học viên người
dân tộc thiểu số đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội ở Học viện Chính trị
hiện nay.
Lê Văn Cương (2005), Công tác phát triển đảng viên trong nữ thanh
niên dân tộc thiểu số của các đảng bộ xã miền núi tỉnh Thanh Hóa trong giai
đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành xây dựng
đảng Cộng sản Việt Nam. Luận văn đã phân tích vai trò của xã và đảng bộ xã
miền núi tỉnh Thanh Hóa, đặc điểm, vai trò của nữ thanh niên dân tộc thiểu
số. Luận giải những vấn đề cơ bản về lý luận công tác phát triển đảng viên
trong nữ thanh niên dân tộc thiểu số; trên cơ sở đánh giá thực trạng, phân tích
nguyên nhân, xác định phương hướng, yêu cầu, đề xuất những giải pháp cơ
bản tăng cường công tác phát triển đảng viên trong nữ thanh niên dân tộc
thiểu số của các đảng bộ xã miền núi tỉnh Thanh Hóa giai đoạn hiện nay.
Nguyễn Thị Ngọc Loan (2006), Chất lượng đội ngũ đảng viên là cán
bộ chuyên trách ở các phường thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay, Luận
văn thạc sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành xây dựng Đảng Cộng sản Việt
Nam. Trong đề tài này, tác giả đã đi sâu phân tích làm rõ cơ sở lý luận và thực
tiễn của vai trò chất lượng đội ngũ đảng viên của các đảng bộ phường thành
phố Hà Nội giai đoạn hiện nay. Từ đó, xác định phương hướng và đề xuất

7


những giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên là

cán bộ chuyên trách của các phường thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay.
Nguyễn Văn Hào (2013), Đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên
trong thanh niên của các đảng bộ xã ở Thành phố Đà Nẵng giai đoạn hiện
nay, Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành xây dựng đảng Cộng
sản Việt Nam. Tác giả đã phân tích làm rõ đặc điểm, nhiệm vụ của các đảng
bộ và công tác phát triển đảng viên của các đảng bộ xã ở Thành phố Đà Nẵng,
đề xuất những giải pháp đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên trong thanh
niên của các đảng bộ xã ở Thành phố Đà Nẵng.
Ngoài ra, trên phạm vi cả nước còn có một số công trình khoa học, luận
văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ, sách, các bài báo viết nghiên cứu về nâng cao chất
lượng đảng viên, xây dựng đội ngũ đảng viên như: Nguyễn Văn Giang, Nâng
cao chất lượng đảng viên là người theo đạo ở các tỉnh vùng đồng bằng sông
Hồng trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ khoa học chính trị, chuyên
ngành xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị Hồ Chí Minh,
2003. Ban Tổ chức Trung ương - Tạp chí Xây dựng đảng, Nâng cao chất
lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên, 2004, T1. Ban Tổ chức Trung ương Tạp chí Xây dựng đảng, Nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng
viên - 2005 - T2. Hà Sơn Long (2006), Xây dựng đội ngũ đảng viên là người
dân tộc thiểu số ở các đảng bộ xã tỉnh Cao Bằng giai đoạn hiện nay, Luận
văn thạc sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành xây dựng Đảng Cộng sản Việt
Nam, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Các công trình khoa học, luận văn, luận án nêu trên của các cơ quan,
các tác giả đã đi sâu phân tích những vấn đề lý luận, thực tiễn chất lượng
đảng viên và xây dựng đội ngũ đảng viên, đề xuất những giải pháp cơ bản
nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên nói chung hoặc một đối tượng đảng
viên cụ thể.

8


Ngoài ra còn một số bài báo đăng trên các tạp chí chuyên ngành, một

số cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ khoa học đề cập đến công tác phát triển
đảng và xây dựng, giáo dục rèn luyện đội ngũ đảng viên.
Nhìn tổng quát, trong những năm qua các công trình nghiên cứu có liên
quan đến đề tài luận văn đã công bố. Những công trình đó đã dựa chắc vào
học thuyết Mác - Lênin về chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân, tư
tưởng Hồ Chí Minh về Đảng và xây dựng đảng, quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về xây dựng, chỉnh đốn Đảng nói chung và công tác phát triển
đảng nói riêng, để luận giải những vấn đề cơ bản về lý luận, thực tiễn công
tác phát triển đảng, đưa ra quan niệm về chất lượng, phân tích thực trạng,
nguyên nhân, đề xuất những giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng công tác
phát triển đảng và xây dựng đội ngũ đảng viên.
Tuy nhiên, do đối tượng, mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung, phạm vi,
phương pháp nghiên cứu của mỗi công trình khác nhau. Do đó, cho đến nay
chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách cơ bản hệ thống, toàn
diện, cụ thể về chất lượng công tác phát triển đảng là người dân tộc Khmer
của các đảng bộ xã, phường, thị trấn của tỉnh ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn; đề xuất những giải pháp đẩy
mạnh công tác phát triển đảng viên trong đồng bào dân tộc Khmer ở các xã,
phường, thị trấn của tỉnh Sóc Trăng hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những vấn đề cơ bản về công tác phát triển đảng viên trong đồng
bào dân tộc Khmer của các đảng bộ xã, phường, thị trấn của tỉnh Sóc Trăng.
- Khảo sát, phân tích và đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân ưu
điểm và những hạn chế, khuyết điểm của công tác phát triển đảng viên trong
đồng bào dân tộc Khmer của các đảng bộ các xã, phường, thị trấn ở tỉnh Sóc
Trăng thời gian qua.
9



- Xác định phương hướng, yêu cầu và đề xuất những giải pháp đẩy mạnh
công tác phát triển đảng viên trong đồng bào dân tộc Khmer của các đảng bộ
xã, phường, thị trấn ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
Công tác phát triển đảng viên trong đồng bào dân tộc Khmer của đảng
bộ các xã, phường, thị trấn của tỉnh Sóc Trăng hiện nay
* Phạm vi nghiên cứu
Đề tài đi sâu nghiên cứu công tác phát triển đảng viên trong đồng bào
dân tộc Khmer ở các xã, phường, thị trấn của tỉnh Sóc Trăng.
Các số liệu khảo sát, thống kê, minh chứng tính từ năm 2010 trở lại đây.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Cơ sở lý luận
Đó là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường
lối, nghị quyết, Điều lệ Đảng, quy định của Đẩng về công tác xây dựng Đảng,
về công tác phát triển đảng viên, đặc biệt là chủ trương, nghị quyết về phát
triển đảng viên trong đồng bào dân tộc thiểu số.
* Cơ sở thực tiễn
Thực tiễn công tác phát triển đảng viên trong đồng bào dân tộc Khmer ở
các xã, phường, thị trấn của tỉnh Sóc Trăng; các báo cáo sơ, tổng kết công tác
xây dựng Đảng, công tác phát triển đảng viên, trong đó có đối tượng là người
dân tộc Khmer ở các cấp bộ đảng, của Tỉnh ủy Sóc Trăng và quá trình trực tiếp
điều tra, khảo sát thực tế của tác giả.
* Phương pháp nghiên cứu lý luận
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đề tài sử dụng
tổng hợp các phương pháp của khoa học chuyên ngành và liên ngành; trong đó
chú trọng sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh và tổng kết thực
tiễn, kết hợp lôgic và lịch sử, điều tra xã hội học và phương pháp chuyên gia.
10



6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực
tiễn công tác phát triển đảng viên trong đồng bào dân tộc Khmer ở các xã,
phường, thị trấn của tỉnh Sóc Trăng; cung cấp những luận cứ khoa học, giúp
cho các cấp ủy Đảng; ban Tổ chức các huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh Sóc
Trăng có những giải pháp nâng cao chất lượng công tác phát triển đảng viên
trong đồng bào dân tộc Khmer ở các xã, phường, thị trấn.
Sản phẩm của đề tài có thể làm tài liệu tham khảo trực tiếp cho công tác
phát triển đảng viên ở các xã, phường, thị trấn có đông đồng bào dân tộc, các
chi bộ trực thuộc đảng ủy các xã, phường, thị trấn. Đồng thời, có thể dùng
làm tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu, giảng dạy ở các Trung tâm
bồi dưỡng Chính trị, Trường Chính trị tỉnh Sóc Trăng hiện nay.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm: Phần mở đầu, 2 chương (6 tiết), kết luận và kiến nghị, danh
mục tài liệu tham khảo, phụ lục.

11


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN ĐẢNG VIÊN TRONG ĐỒNG BÀO DÂN
TỘC KHMER CỦA CÁC ĐẢNG BỘ XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN
Ở TỈNH SÓC TRĂNG
1.1. Đảng bộ xã, phường, thị trấn và những vấn đề cơ bản về công
tác phát triển đảng viên trong đồng bào dân tộc Khmer của các đảng bộ
xã, phường, thị trần ở tỉnh Sóc Trăng
1.1.1. Đồng bào dân tộc Khmer và các đảng bộ xã, phường, thị trấn ở

tỉnh Sóc Trăng
* Khái quát tỉnh Sóc Trăng
Tỉnh Sóc Trăng nằm ở cửa Nam sông Hậu, cách thành phố Hồ Chí
Minh 231km, cách Cần Thơ 62km; nằm trên tuyến Quốc lộ 1A nối liền các
tỉnh Cần Thơ, Hậu Giang, Bạc Liêu, Cà Mau. Đất đai của Sóc Trăng có độ
màu mỡ cao, thích hợp cho việc phát triển cây lúa nước, cây công nghiệp
ngắn ngày…
Sóc Trăng còn có nguồn tài nguyên rừng với diện tích 11356 ha với các
loại cây chính: Tràm, bần, giá, vẹt, đước, dừa nước phân bố ở 4 huyện Vĩnh
Châu, Long Phú, Mỹ Tú và Cù Lao Dung. Rừng của Sóc Trăng thuộc hệ rừng
ngập mặn ven biển và rừng tràm ở khu vực đất nhiễm phèn; có 72 km bờ biển
với 02 cửa sông lớn là sông Hậu (đổ theo 02 con sông lớn Trần Đề, Định An)
và sông Mỹ Thanh, có nguồn hải sản đáng kể bao gồm cá đáy, cá nổi và tôm.
Sóc Trăng có nhiều thuận lợi trong phát triển kinh tế biển tổng hợp, thuỷ hải

12


sản, nông - lâm nghiệp biển, công nghiệp hướng biển, thương cảng, cảng cá,
dịch vụ cảng biển, xuất nhập khẩu, du lịch và vận tải biển.
Các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh phần lớn sống đan xen trong cộng
đồng, chung sống thuận hòa, cùng nhau lao động, sản xuất, phát triển kinh tế,
xã hội, nâng cao đời sống. Tuy nhiên, do điều kiện tự nhiên, phong tục tập
quán, trình độ phát triển không đồng đều nên người dân tộc Khmer phần đông
có đời sống khó khăn hơn các dân tộc khác. Người Hoa tập trung nhiều ở các
đô thị, hoạt động sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và buôn bán có
mức thu nhập khá hơn. Trong khi đó người Khmer sinh sống tập trung ở các
phum, sóc, ở vùng sâu, vùng xa, đời sống gặp nhiều khó khăn. Những năm
gần đây, Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều chính sách đầu tư, nhiều công trình
phục vụ sản xuất và dân sinh, từ đó cuộc sống của đồng bào Khmer đã được

nâng lên rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo người dân tộc Khmer hàng năm đều giảm.
Mặt khác, hệ thống chính trị ở cơ sở tuy đã được thường xuyên củng
cố, xây dựng, nhưng chưa thật hiệu quả, chưa đáp ứng được yêu cầu của tình
hình mới. Chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên còn nhiều hạn chế, là
một tỉnh có đông đồng bào dân tộc Khmer sinh sống nhưng tổ chức đảng và
đảng viên là người Khmer ít, chất lượng thấp. Bên cạnh đó, tình hình trong
dân tộc Khmer nổi lên một số vấn đề nhạy cảm, phức tạp, một số đối tượng
lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo phản động, chống phá Đảng và nhà nước ta,
chúng mốc nối, cài cắm lực lượng ngầm, lôi kéo, mua chuộc, dụ dỗ đồng bào
trong dân tộc Khmer khiếu kiện, vượt biên qua biên giới Campuchia trái
phép, kích động đấu tranh đòi lại cái gọi là “Nhà nước Khmer Krôm”, gây rối
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương.
*Đồng bào dân tộc Khmer ở tỉnh Sóc Trăng
Đồng bào dân tộc Khmer ở tỉnh Sóc Trăng có khoảng 371.305 người,
chiếm gần 29% dân số toàn tỉnh, đa số đồng bào sinh sống tại các phum, sóc
vùng sâu, vùng xa, có đời sống kinh tế khó khăn. Đồng bào dân tộc Khmer có
13


phong tục, tập quán và đặc trưng văn hóa riêng góp phần tạo nên bản sắc văn
hóa đa dạng ở Sóc Trăng.
Các xã có đông đồng bào dân tộc Khmer sinh sống như: xã Đại tâm,
Tham Đôn thuộc huyện Mỹ Xuyên; phường 2, xã Lai Hòa, Vĩnh Hải thuộc thị
xã Vĩnh Châu; xã Phú Tân, Phú Tâm của huyện Châu Thành; xã Tuân Tức
thuộc huyện Thạnh Trị; xã Phú Mỹ, Mỹ Thuận, Thuận Hưng thuộc huyện Mỹ
Tú; xã Tài Văn của huyện Trần Đề, Phường 5 thuộc thành phố Sóc Trăng...
Dân tộc Khmer có truyền thống văn hóa lâu đời. Trong quá trình phát triển,
văn hóa dân tộc Khmer đã định hình và phản ánh thực tế văn hóa phong phú
và đa dạng của nhiều thế hệ người Khmer. Đó là việc hình thành và phát triển
hệ thống chữ viết, phong tục, tập quán, lối sống, tôn giáo, tín ngưỡng và lễ

nghi của dân tộc mình.
Đặc trưng nổi bật trong lối sống của đồng bào dân tộc Khmer là hình
thức tổ chức cư trú theo phum, sóc. Phum, sóc là những đơn vị cư trú trong tổ
chức xã hội cổ truyền của đồng bào dân tộc Khmer, ràng buộc nhau bởi các
quan hệ về phong tục, tập quán, lễ nghi mà ngôi chùa là trung tâm điều khiển
(hiện có khoảng 370.537 tín đồ phật tử, 92 ngôi chùa và 38 Salatel, số lượng
sư sải đang tu học là 1830, Ban quản trị chùa có 1285 thành viên). Theo
truyền thống, việc quản lý phum, sóc thuộc về một Ban quản trị mà người
đứng đầu được gọi là “Mê phum”, “Mê sóc”. Những thành viên trong Ban
quản trị được nhân dân tuyển chọn trong số những người đàn ông lớn tuổi, có
uy tín, có trình độ học vấn, hiểu biết phong tục, tập quán của cộng đồng và có
tinh thần trách nhiệm cao đối với người dân. Trách nhiệm của Ban quản trị,
Mê phum, Mê sóc là thay mặt nhân dân trong phum, sóc điều hành các công
việc chung của phum, sóc, quan hệ với các cộng đồng bên ngoài; đặc biệt là
quan hệ với nhà chùa. Chùa Khmer là ngôi nhà chung của đồng bào dân tộc
Khmer, nơi họ gửi gắm hầu như trọn vẹn niềm tin, sự kính trọng vào Đức
Phật, mà hiện thân trực tiếp là các vị Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức, nhà
14


sư… Đối với mỗi người dân Khmer, những sinh hoạt nghi lễ trong nhà chùa
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về tâm linh. Mỗi người có thể ít nhiều hoặc
không tham gia các công việc của xã, ấp, nhưng không thể không tham gia
công việc của nhà chùa, vì lợi ích tinh thần của họ hầu như gắn bó với chùa
nhiều hơn là gắn bó với xã, phường, ấp, khóm. Mặc dù đang sống trong một
xã hội hiện đại với nhiều nét đổi thay do công cuộc đổi mới đất nước đem lại,
song các thiết chế văn hóa, xã hội cổ truyền vẫn đang ảnh hưởng và chi phối
cuộc sống hằng ngày của người dân tộc Khmer. Họ tham gia vào Ban quản trị
các chùa, đi lễ chùa nhân các dịp lễ, Tết của người dân tộc như Đôlta, Chool
Chnam Thmay và các dịp lễ hội khác.

Trong lối sống của đồng bào dân tộc Khmer nổi bật là tính cộng đồng,
tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau; đồng bào
luôn cần cù trong lao động sản xuất, chịu thương, chịu khó. Họ tập trung để
giải quyết các vấn đề của phum, sóc và những vấn đề khác thường là ở các
điểm chùa, mỗi khi có chuông; giải quyết công việc của phum, sóc trên tinh
thần cộng đồng, dân tộc, giúp đỡ lẫn nhau, còn mang đậm tính cách của người
nông dân Nam bộ.
Được sự quan tâm của Đảng và nhà nước, nhất là từ khi thực hiện Chỉ
thị 68-CT/TW ngày 18/4/1991 của Ban Bí thư (khóa VI) về công tác ở vùng
đồng bào dân tộc Khmer, Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX) về công tác dân
tộc, các chương trình mục tiêu quốc gia như 134, 135… nên đời sống mọi mặt
trong đồng bào dân tộc Khmer có sự thay đổi rõ rệt, trình độ dân trí được
nâng cao đáng kể, đẩy lùi các hủ tục lạc lậu. Trong đó, đi đầu là lực lượng
thanh niên, không những hăng hái trong lao động sản xuất, phát triển kinh tế
mà còn tích cực trong các phong trào của Đoàn, của Hội. Từ những chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, ngày nay
đồng bào dân tộc Khmer luôn mở rộng giao lưu về văn hóa - xã hội, làm ăn
kinh tế và đồng bào đang tiếp cận dần với nền kinh tế thị trường. Nhiều tấm
15


gương, mô hình sản xuất, kinh doanh giỏi là người dân tộc Khmer xuất hiện.
Điều đó chứng tỏ đồng bào dân tộc Khmer ở tỉnh Sóc Trăng đã và đang phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của mình trong công cuộc đổi mới xây
dựng đất nước.
Đời sống vật chất được nâng lên góp phần làm cho đời sống tinh thần
trong đồng bào dân tộc Khmer thêm phong phú. Họ rất phấn khởi, tin tưởng
vào Đảng và chính quyền, do vậy đồng bào đã tham gia tích cực vào các tổ
chức chính trị - xã hội, như Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội nông dân…,
các đoàn viên, hội viên ngày càng có xu hướng tích cực phấn đấu vào Đảng.

Tỉnh Sóc Trăng hiện có trên 1.172.404 người, trong đó dân tộc Khmer
chiếm khoảng 29,21%, với 85/109 xã, phường, thị trấn có đông đồng bào dân
tộc Khmer. Trong đó có 39 xã đặc biệt khó khăn. Tỉnh Sóc Trăng đã lồng
ghép các nguồn vốn đầu tư mỗi năm hàng chục tỷ đồng để ổn định dân cư tại
các huyện như Cù Lao Dung (2013), thị xã Vĩnh Châu (2014),...hỗ trợ trên
21.000 đồng bào làm nhà mới, phát triển sản xuất, đầu tư cơ sở vật chất sinh
hoạt cho khoảng 51.000 người về điện, nước sạch, phương tiện truyền
thông...Không chỉ tập trung phát triển kinh tế mà tỉnh còn quan tâm phát triển
hệ thống y tế, giáo dục trong đồng bào dân tộc Khmer. Nhờ thực hiện tốt các
chính sách đối với đồng bào dân tộc mà đời sống của người Khmer trong
những năm gần đây đã thay đổi rõ nét. Mỗi năm, ở Sóc Trăng có khoảng
2.500 hộ đồng bào dân tộc Khmer thoát nghèo.
Những đặc điểm trên đây là cơ sở thực tiễn quan trọng để xác định
đúng nội dung, yêu cầu và đề xuất những giải pháp chủ yếu nâng cao chất
lượng công tác phát triển đảng trong đồng dân tộc Khmer ở các xã, phường, thị
trấn của tỉnh Sóc Trăng.
* Các đảng bộ xã, phường, thị trấn của tỉnh Sóc Trăng.
Đảng bộ các xã, phường, thị trấn ở tỉnh Sóc Trăng được hình thành khá
sớm với tiền thân các chi bộ phát triển thành đảng bộ trong những năm 1930.
16


Trải qua các giai đoạn lịch sử, đấu tranh chống xâm lược và bước vào thời kỳ
xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, các chi bộ xã, phường ngày càng phát triển về số
lượng, dần dần nâng lên thành đảng bộ và không ngừng nâng cao về chất
lượng đảng viên. Cơ cấu đảng viên của đảng bộ các xã, phường, thị trấn ở
tỉnh Sóc Trăng cũng ngày càng hợp lý hơn về thành phần, giai cấp và dân tộc.
Nhất là số lượng đảng viên trong đồng bào dân tộc Khmer ngày càng tăng lên.
Theo quy định của Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI, đảng bộ
các xã, phường, thị trấn ở tỉnh Sóc Trăng có mô hình tổ chức đảng bộ 2 cấp,

dưới đảng bộ xã là các chi bộ trực thuộc, không có đảng bộ bộ phận, không có
chi bộ cơ sở xã. Cấp ủy đảng ở các xã, phường, thị trấn trong tỉnh không quá
25 đồng chí. Qua đó, sau mỗi kỳ Đại hội, Ban Chấp hành đảng bộ xã, phường,
thị trấn xây dựng Quy chế lám việc, phân công nhiệm vụ của từng ủy viên
trong cấp ủy.
Quy mô các đảng bộ xã có từ 125 đến 647 đảng viên. Trong đó, đảng
viên là người dân tộc Khmer chiếm rất ít, bình quân chỉ chiếm khoảng......%
trong tổng số đảng viên toàn đảng bộ. Đặc biệt là số lượng đảng viên nằm
trong cấp ủy là người dân tộc Khmer càng thấp, chỉ khoảng.....%
Đội ngũ cán bộ, đảng viên các đảng bộ cấp xã chủ yếu xuất thân từ
nông dân, trưởng thành trong quá trình lao động, sản xuất và hoạt động xã hội
trên địa bàn ấp, xã, chưa qua đào tạo cơ bản nên trình độ còn thấp hơn so với
mặt bằng chung của cả nước.
Các đảng bộ thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp,
nông thôn với cơ cấu kinh tế phong phú, đa dạng, kinh tế nông nghiệp giữ vai trò
chủ yếu. Kinh tế công nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ trên các địa bàn xã còn
nhiều hạn chế, chưa có sự đầu tư và chuyển dịch theo hướng hiện đại.
Về văn hóa, xã hội có sự đầu tư về cơ sở vật chất phục vụ cho y tế, giáo
dục, hạ tầng nông thôn, 100% xã, phường, thị trấn trong Tỉnh đều có trường

17


mẫu giáo, có trạm y tế... Tuy nhiên, cơ sở vật chất còn chưa đảm bảo, các
thiết chế văn hóa chưa đủ để phục vụ cho nhân dân.
* Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của đảng bộ xã, phường, thị trấn.
Chức năng, nhiệm vụ đảng bộ cơ sở xã: Ban Bí thư đã ban hành Quy
định 95-QĐ/TW ngày 03/3/2004 quy định về chức năng, nhiệm vụ của đảng
bộ, chi bộ cơ sở xã. Theo quy định này, đảng bộ, chi bộ cơ sở xã có chức
năng và nhiệm vụ sau:

Chức năng: Đảng bộ, chi bộ cơ sở xã là hạt nhân chính trị, lãnh đạo
thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng hệ thống chính trị ở xã
vững mạnh, nông thôn giàu đẹp, văn minh; không ngừng nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân, động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối
với Nhà nước.
* Về nhiệm vụ:
Thứ nhất, lãnh đạo việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội,
an ninh, quốc phòng.
Lãnh đạo cán bộ, công chức và người lao động đề cao tinh thần trách nhiệm,
tham gia xây dựng và thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị của xã, phường, thị
trấn theo đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Lãnh đạo cán bộ, công chức và người lao động phát huy tính chủ động,
sáng tạo, làm tốt chức năng tham mưu, nghiên cứu, đề xuất và kiến nghị với
lãnh đạo cơ quan về những vấn đề cần thiết; không ngừng cải tiến lề lối,
phương pháp làm việc, nâng cao hiệu quả công tác, thực hiện tốt các nhiệm
vụ được giao.
Lãnh đạo xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở xã, phường
(Theo pháp lệnh 34 của UBTV Quốc hội), phát huy quyền làm chủ của cán bộ,
công chức và người lao động, đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí,

18


sách nhiễu và các biểu hiện tiêu cực khác. Chăm lo đời sống vật chất, tinh thần,
cải thiện điều kiện làm việc của cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phòng toàn dân, giữ vững an ninh
chính trị và trật tự an toàn xã hội trong cơ quan. Đoàn kết nội bộ, đề cao tinh
thần cảnh giác cách mạng, đấu tranh chống âm mưu ''diễn biến hoà bình'' của
các thế lực thù địch, giữ gìn bí mật quốc gia, bảo vệ chính trị nội bộ, bảo vệ

tài sản của Nhà nước và nhân dân.
Thứ hai, lãnh đạo công tác tư tưởng.
Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng,
đạo đức tác phong Hồ Chí Minh cho cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và
nhân dân phát huy truyền thống yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tinh thần làm
chủ, xây dựng tình đoàn kết, hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau; kịp thời nắm bắt
tâm tư, nguyện vọng của cán bộ, đảng viên, quần chúng để giải quyết và báo
cáo lên cấp trên. Cụ thể hóa chỉ thị, nghị quyết bằng nghị quyết, chương trình
hành động, kế hoạch và các văn bản của đảng ủy. Qua đó, cụ thể hoá đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng thành nhiệm vụ chính trị của mỗi chi bộ, ngành;
tiến hành tuyên truyền, vận động và tổ chức quần chúng chấp hành nghiêm đường
lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước
Kịp thời phổ biến, quán triệt để cán bộ, đảng viên và nhân dân nắm
vững và chấp hành đúng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước và các chủ trương, nhiệm vụ của địa phương; thường
xuyên bồi dưỡng, nâng cao trình độ chính trị, kiến thức và năng lực công tác
cho cán bộ, đảng viên.
Lãnh đạo cán bộ, đảng viên và quần chúng đấu tranh chống các quan
điểm sai trái, chống tư tưởng cơ hội, thực dụng, cục bộ, bản vị, những hành vi
nói, viết và làm trái với đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước; những biểu hiện mất dân chủ, gia trưởng, độc đoán, quan liêu, thiếu

19


tinh thần trách nhiệm, tinh thần hợp tác và ý thức tổ chức, kỷ luật; phòng,
chống sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
Thứ ba, lãnh đạo công tác tổ chức, cán bộ.
Cấp ủy xã tham gia xây dựng và lãnh đạo thực hiện chủ trương về kiện
toàn tổ chức, sắp xếp bộ máy và quy chế hoạt động của xã.

Cấp ủy lãnh đạo về quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và
nhận xét, đánh giá, bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động, luân chuyển, khen
thưởng, kỷ luật... đối với cán bộ, đảng viên thuộc thẩm quyền quản lý của xã.
Lãnh đạo việc thực hiện các quyết định đó. Chú trọng phát hiện, đào tạo, bồi
dưỡng và phát triển tài năng.
Cấp ủy đề xuất ý kiến để cấp trên xem xét, quyết định các vấn đề về tổ
chức và cán bộ của xã thuộc thẩm quyền của cấp trên.
Thứ tư, lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Lãnh đạo các đoàn thể chính trị - xã hội cùng cấp xây dựng tổ chức
vững mạnh, thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo luật định và điều lệ của
mỗi đoàn thể; phát huy quyền làm chủ của cán bộ, đảng viên và nhân dân, đẩy
mạnh các phong trào thi đua, thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ được giao.
Lãnh đạo các đoàn thể chính trị - xã hội và cán bộ, đảng viên, quần
chúng tham gia xây dựng và bảo vệ đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước và các chủ trương, nhiệm vụ của địa phương.
Thứ năm, xây dựng tổ chức đảng vững mạnh.
Đề ra chủ trương, nhiệm vụ và biện pháp xây dựng đảng bộ, chi bộ trong
sạch, vững mạnh; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng
và đội ngũ đảng viên, nhất là việc phát hiện và đấu tranh chống quan liêu, tham
nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực trong cơ quan. Thực hiện đúng các
nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, chế
độ tự phê bình và phê bình; thực hiện có nền nếp và nâng cao chất lượng sinh

20


hoạt đảng, nhất là sinh hoạt chi bộ, bảo đảm tính lãnh đạo, tính giáo dục và tính
chiến đấu.
Giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên nêu cao vai trò tiền phong, gương
mẫu, thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao; xây dựng kế hoạch và tạo điều kiện để

đảng viên thực hiện nhiệm vụ học tập, không ngừng nâng cao trình độ về mọi
mặt.
Cấp ủy xây dựng kế hoạch, biện pháp quản lý đảng viên, phân công
nhiệm vụ và tạo điều kiện cho đảng viên hoàn thành nhiệm vụ được giao; thực
hiện tốt việc giới thiệu đảng viên đang công tác thường xuyên giữ mối liên hệ
với chi ủy, chi bộ và gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú. Làm tốt
công tác động viên, khen thưởng, kỷ luật đảng viên; biểu dương, khen thưởng
kịp thời những cán bộ, đảng viên có thành tích xuất sắc, xử lý nghiêm, kịp thời
những cán bộ, đảng viên vi phạm Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Làm tốt công tác tạo nguồn và phát triển đảng viên, bảo đảm về tiêu
chuẩn và quy trình, chú trọng đối tượng là đoàn viên thanh niên cộng sản Hồ
Chí Minh và những quần chúng ưu tú, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ. Trong
đó có chính sách ưu tiên đối với quần chúng là người dân tộc Khmer.
Xây dựng cấp ủy có đủ phẩm chất, năng lực, hoạt động có hiệu quả,
được đảng viên, quần chúng tín nhiệm. Nói chung, bí thư cấp ủy phải là cán
bộ lãnh đạo của cơ quan, tiêu biểu cho đảng bộ, là trung tâm đoàn kết, tập hợp
được cán bộ, đảng viên và quần chúng.
Cấp ủy thường xuyên kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên chấp hành
Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và
Quy định của Bộ Chính trị về những điều đảng viên không được làm. Định kỳ
hằng năm, cấp ủy tổ chức để quần chúng tham gia góp ý về sự lãnh đạo của tổ
chức đảng và vai trò tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên.
* Vai trò của đảng bộ các xã, phường, thị trấn ở tỉnh Sóc Trăng.

21


Thứ nhất, các đảng bộ xã, phường, thị trấn góp phần lập thành nền tảng
của Đảng, là loại hình tổ chức cơ sở đảng chủ yếu của các đảng bộ thuộc
Đảng bộ tỉnh Sóc Trăng.

Đảng bộ tỉnh Sóc Trăng có 16 đảng bộ trực thuộc, bao gồm: 11 đảng
bộ cấp huyện; 3 đảng bộ quân sự, công an, biên phòng và 2 đảng bộ khối các
cơ quan và đảng bộ khối doanh nghiệp.
Các đảng bộ xã, phường, thị trấn là tổ chức đảng ở cơ sở trực thuộc các
đảng bộ cấp huyện. Đây là hạt nhân chính trị, trung tâm đoàn kết của hệ thống
chính trị; có trách nhiệm nắm vững đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước và đem chủ trương, chính sách tuyên truyền,
phổ biến, tổ chức cho quần chúng thực hiện mà còn phải có khả năng nắm
bắt, am hiểu đặc điểm tình hình của cơ sở để đề ra những nhiệm vụ, giải pháp
cụ thể hóa đường lối, chủ trương, chính sách đó cho phù hợp với điều kiện,
đặc điểm từng cơ sở, bảo đảm cho đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng đi vào cuộc sống.
Thứ hai, các đảng bộ xã, phường, thị trấn là nơi trực tiếp quản lý, giáo
dục, rèn luyện và phát triển đội ngũ đảng viên ở nông thôn.
Đảng bộ các xã, phường, thị trấn của tỉnh Sóc Trăng có vị trí, vai trò rất
quan trọng trong hệ thống tổ chức cơ sở đảng và trong hoạt động của Đảng; là
nơi trực tiếp gắn bó với nhân dân, là cầu nối giữa Đảng với dân, là hạt nhân
chính trị lãnh đạo cấp xã, nơi trực tiếp đưa đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống; đồng thời là nơi trực tiếp tiến
hành các hoạt động xây dựng nội bộ Đảng, nơi trực tiếp quản lý, giáo dục, rèn
luyện đảng viên và tiến hành công tác phát triển đảng, sàng lọc đảng viên.
Thứ ba, các đảng bộ xã là hạt nhân chính trị ở xã trực tiếp lãnh đạo các
tổ chức, lực lượng và mọi tầng lớp nhân dân ở địa phương quán triệt, thực
hiện các đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước,
nhất là đường lối phát triển nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn mới.
22


Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đi
vào cuộc sống và trở thành hiện thực trên các địa bàn địa phương, tuỳ thuộc vào

sự vận động, tuyên truyền nhân dân thực hiện của các đảng bộ cơ sở, trước hết là
đảng ủy cơ sở. Vì vậy, xây dựng và phát huy vai trò của các đảng bộ cơ sở xã,
phường, thị trấn là một nội dung có ý nghĩa quyết định nhất góp phần thúc đẩy
quá trình CNH, HĐH của địa phương và cả nước. Để thực hiện tốt vai trò này
đòi hỏi các đảng bộ, trước hết là cấp ủy phải có khả năng tổ chức, bố trí, sử
dụng, tập hợp và lôi cuốn mọi người vào các hoạt động cụ thể của địa phương,
phải có khả năng kiểm tra, đánh giá hoạt động của mình và khả năng tổng kết, sơ
kết việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Thứ tư, các đảng bộ xã có vai trò quan trọng trong xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, quốc phòng toàn dân.
Là những người trực tiếp, gắn bó với nhân dân, có mối quan hệ chặt
chẽ với nhân dân. Cán bộ, đảng viên trong các đảng bộ là những người
thường xuyên, trực tiếp triển khai, hướng dẫn và vận động nhân dân thực hiện
và là lực lượng nòng cốt trong thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng và pháp luật Nhà nước. Trong quá trình đó, các cấp ủy, tổ chức đảng, đội
ngũ đảng viên thể hiện vai trò là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân; ý
Đảng - lòng dân tạo thành một khối thống nhất, làm cho đường lối, chủ trương
Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước đi vào cuộc sống, ăn sâu bám rễ
trong quần chúng, tạo nên mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, trực
tiếp củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Mặc
khác, qua phong trào cách mạng của quần chúng, giúp cho Đảng mà trực tiếp là
các đảng bộ cơ sở rút kinh nghiệm, tổng kết thực tiễn góp phần vào xây dựng và
hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Thực tiễn những năm gần đây cho thấy, đội ngũ cán bộ ở các xã,
phường, trị trấn trong tỉnh Sóc Trăng đã tích cực phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, cùng nhân dân tạo nên những thành tựu về đổi mới và phát triển

23



kinh tế - xã hội, văn hóa, cải thiện dân sinh, tăng cường quốc phòng, an ninh,
làm thay đổi rõ nét bộ mặt nông thôn, thành thị, góp phần thực hiện thắng lợi
các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; đưa chủ trương, nghị
quyết của Đảng đi vào cuộc sống. Nhiều cán bộ xã, phường, thị trấn đã nêu
cao tinh thần trách nhiệm, sâu sát nhân dân, bám sát địa bàn dân cư, nhạy bén
với thực tiễn, kịp thời phát hiện và xử lý có hiệu quả những vấn đề nảy sinh
trong đời sống, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ. Đội ngũ cán bộ xã, phường, thị
trấn đã đóng góp rất quan trọng vào sự phát triển của tỉnh nhà trong những
năm gần đây.
Thứ năm, các đảng bộ xã là cầu nối giữa Đảng với nhân dân, nắm bắt
tâm tư, nguyện vọng chính đáng của quần chúng `phản ánh với Đảng.
Các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước khi ban hành muốn
đảm bảo tính khả thi phải xuất phát từ thực tiễn cuộc sống. Muốn vậy, đòi hỏi
Đảng phải nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, để mọi chủ
trương, chính sách khi ban hành đều vì lợi ích của nhân, dựa trên ý kiến của
nhân dân, qua đó sẽ phát huy được tính tích cực, chủ động của mỗi người, làm
cho mọi tiềm năng sáng tạo được phát triển, mọi người dân đều được tham gia
vào các quá trình chính trị-xã hội, các vấn đề nảy sinh được phát hiện kịp thời,
các khó khăn sớm được tháo gỡ, tạo sự phát triển mạnh mẽ của đất nước. Thực
tiễn cách mạng của đất nước đã khẳng định, chính từ vai trò của các tổ chức
đảng ở cơ sở trong việc nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân, nên Đảng và
Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách đúng, được nhân dân đồng
tình ủng hộ. Qua đó củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, thắt chặt
quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, xây dựng, củng cố khối đoàn kết
thống nhất chặt chẽ trong từng tổ chức qua mỗi giai đoạn cách mạng.
1.1.2. Những vấn đề cơ bản về công tác phát triển đảng viên trong đồng
bào dân tộc Khmer của các đảng bộ xã, phường, thị trần ở tỉnh Sóc Trăng

24



*Quan niệm công tác phát triển đảng viên trong đồng bào dân tộc
Khmer của các đảng bộ xã, phường, thị trần ở tỉnh Sóc Trăng
Quá trình tồn tại, phát triển và trưởng thành, Đảng phải thường xuyên bổ sung
vào hàng ngũ của mình những lực lượng mới, ưu tú trong phong trào quần chúng.
Đó là quy luật khách quan, là nội dung quan trọng của công tác xây dựng Đảng và
là nhiệm vụ thường xuyên của các tổ chức đảng và toàn Đảng.
Công tác phát triển đảng viên bao gồm nhiều mặt, từ công tác lãnh đạo, chỉ
đạo, đến điều tra, tuyên truyền, giáo dục, lựa chọn đối tượng kết nạp đảng, bồi
dưỡng, rèn luyện, thử thách người kết nạp đảng; tổ chức hội nghị xét đề nghị và tổ
chức kết nạp đảng viên và tiếp tục bồi dưỡng, rèn luyện đảng viên dự bị và xét
công nhận đảng viên chính thức. Công tác phát triển đảng bao gồm nhiều khâu,
bước đòi hỏi phải được tiến hành thường xuyên, liên tục. Căn cứ vào điều kiện,
tình hình cụ thể ở từng tổ chức đảng, từng địa bàn để có chủ trương, biện pháp
phù hợp. Cũng không địa bàn khó khăn, dân tộc thiểu số mà hạ thấp tiêu chuẩn, xem
nhẹ chất lượng, hoặc bỏ qua một khâu, bước nào...để bảo đảm, dù ở đâu, trong môi
trường, sức lãnh đạo của tổ chức đảng vẫn luôn được củng cố, tăng cường, góp phần
khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng trên từng địa bàn, địa phương.
Công tác phát triển đảng viên trong đồng bào dân tộc Khmer là tổng
thể các hoạt động của cấp ủy, tổ chức đảng, các tổ chức của hệ thống chính
trị ở địa phương, bao gồm quá trình giới thiệu, lựa chọn, giáo dục, bồi
dưỡng, rèn luyện thử thách, kết nạp những quần chúng ưu tú là người dân tộc
Khmer vào Đảng; được tiến hành theo những nguyên tắc, quy trình nhất định
nhằm xây dựng, phát triển đội ngũ đảng viên có số lượng và cơ cấu hợp lý,
chất lượng ngày càng cao, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của các đảng bộ xã đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai
đoạn hiện nay.
Mục đích của công tác phát triển đảng viên trong đồng bào dân tộc
Khmer để bổ sung số lượng đảng viên trẻ, đảng viên là người dân tộc Khmer,
25



tăng tỷ lệ đảng viên lãnh đạo cho các chi bộ, đảng bộ, góp phần xây dựng các
đảng bộ xã, phường, thị trấn ở tỉnh Sóc Trăng trong sạch, vững mạnh.
Chủ thể tiến hành công tác phát triển đảng viên là người dân tộc Khmer
là các cấp ủy, tổ chức đảng, các chi bộ ấp, khóm, khu, trong đó các cấp ủy, tổ
chức cơ sở đảng trực tiếp tiến hành dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của huyện, thành
ủy trực thuộc Tỉnh ủy Sóc Trăng theo đúng quy định của Điều lệ Đảng và các
chỉ thị, nghị quyết, quy định hướng dẫn của cấp trên về công tác phát triển
đảng viên trong đồng bào dân tộc Khmer.
Lực lượng tham gia công tác phát triển đảng viên trong đồng bào dân
tộc Khmer của các đảng bộ xã, phường, thị trấn bao gồm các tổ chức quần
chúng và đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ sở.
Đối tượng của công tác phát triển đảng viên là những quần chúng ưu tú
là người dân tộc Khmer đang sinh sống tại địa bàn các xã, phường, thị trấn
hoặc tham gia công tác tại các xã, phường, thị trấn của tỉnh Sóc Trăng.
Phương châm, phương hướng phát triển đảng: phải tích cực, thận
trọng, coi trọng chất lượng, phát triển đảng phải đi đôi với củng cố tổ chức
đảng, tăng về số lượng gắn liền với nâng cao chất lượng.
Về phương châm công tác phát triển đảng viên hiện nay, Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XI, xác định: phát triển đảng viên, bảo đảm chất lượng đảng
viên theo yêu cầu của Điều lệ Đảng. Quán triệt phương châm phát triển Đảng,
cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần nắm vững tinh thần cơ bản là tích cực, chủ
động làm tốt công tác phát triển Đảng, bảo đảm không chạy theo số lượng,
nâng cao chất lượng đảng viên.
Về phương hướng phát triển đảng, Nghị quyết Hội nghị lần thứ Ba của
Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) xác định phải làm tốt công tác
tạo nguồn để lựa chọn, bồi dưỡng, kết nạp những người ưu tú có đủ tiêu
chuẩn trong đoàn thanh niên, trong công nhân, nông dân, trí thức, chiến sĩ


26


×