Tải bản đầy đủ (.doc) (121 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ CHÂT LƯỢNG đội NGŨ cán bộ CHỦ CHỐT cấp xã ở TỈNH sóc TRĂNG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (530.76 KB, 121 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNH, HĐH

Hệ thống chính trị

HTCT

Hội đồng nhân dân

HĐND

Hội nhập quốc tế

HNQT

Mặt trận tổ quốc

MTTQ

Nhà xuất bản

Nxb

Quốc phòng - An ninh


QP - AN

Ủy ban nhân dân

UBND

Xã hội chủ nghĩa

XHCN


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1

3
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CHẤT
LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP XÃ Ở

1.1.

TỈNH SÓC TRĂNG
Đội ngũ cán bộ chủ chốt và những vấn đề cơ bản về chất lượng đội

13

ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Sóc Trăng
1.2.


Thực trạng chất lượng và một số kinh nghiệm nâng cao chất

13
42

lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Sóc Trăng
Chương 2

YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP XÃ Ở
70

2.1.

TỈNH SÓC TRĂNG HIỆN NAY
Những yếu tố tác động và yêu cầu nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay
Những giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt

70

2.2.

cấp xã ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

78
106

108
114


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trải qua
các thời kỳ cách mạng, Đảng ta đã xây dựng được một đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị các cấp luôn trung
thành tuyệt đối với Tổ quốc và nhân dân, với lý tưởng cách mạng, có phẩm
chất, bản lĩnh chính trị, trình độ, năng lực thực tiễn, gắn bó máu thịt với nhân
dân, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị đặt ra góp phần to lớn vào thắng lợi
sự nghiệp cách mạng của Đảng.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của công tác cán
bộ. Theo người “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “công việc thành công
hay thất bại là do cán bộ tốt hay kém” [10, tr.478-492]. Chất lượng cán bộ chủ
chốt ở cơ sở giữ vai trò quan trọng quyết định đến việc thực hiện thắng lợi
mọi đường lối chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Mặt
khác, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã có vai trò trọng yếu trong quản lý và tổ
chức thực hiện công việc của chính quyền ở cơ sở và tuyên truyền, giải thích
các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước đến với nhân
dân; đồng thời nắm bắt, phản ảnh tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân
dân với Đảng và Nhà nước để có sự điều chỉnh, bổ sung chủ trương, chính
sách cho phù hợp với thực tiễn ở cơ sở.
Nhận thức đầy đủ những vấn đề trên, thời gian qua, cấp ủy, chính
quyền, cơ quan chức năng các cấp ở tỉnh Sóc Trăng đã có chủ trương, nghị
quyết, chính sách cán bộ đúng đắn và vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp
với điều kiện mới trong xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp ở địa phương từng
bước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội,
QP-AN của địa phương. Nhờ vậy, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Sóc

Trăng đã có bước trưởng thành về nhiều mặt, cả về phẩm chất, trình độ, năng
3


lực, phong cách, phương pháp, tác phong công tác, góp phần vào xây dựng
HTCT và bộ máy chính quyền ở cơ sở trong sạch, vững mạnh, giữ vững ổn
định chính trị, góp phần phát triển kinh tế - xã hội và thực hiện các nhiệm vụ
khác ở địa phương. Tuy nhiên, so với yêu cầu, nhiệm vụ phát triển kinh tế,
văn hóa - xã hội, QP-AN của địa phương thì đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã,
tỉnh Sóc Trăng còn bộc lộ không ít những bất cập, hạn chế cả về phẩm chất,
trình độ, năng lực cũng như phong cách, phương pháp, tác phong công tác,
theo đó đã ảnh hưởng trực tiếp đến mức độ hoàn thành nhiệm vụ.
Xuất phát từ yêu cầu của sự nghiệp CNH,HĐH xây dựng và nhiệm vụ
bảo vệ tổ quốc XHCN, trước yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
xã trong hệ thống chính trị vững mạnh toàn diện và từ yêu cầu đòi hỏi nhiệm
vụ phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội, QP-AN của địa phương trong tình hình
mới. Chính vì thế, để xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị
cấp xã, tỉnh Sóc Trăng đáp ứng được nhiệm vụ của địa phương mới nổi lên
như một đòi hỏi khách quan mang tính cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Vì
vậy, tác giả lựa chọn đề tài: “Chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở
tỉnh Sóc Trăng hiện nay” mang tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề cán bộ nói chung và công tác cán bộ nói riêng đã được nhiều
học giả quan tâm. Đã có nhiều công trình trong và ngoài nước nghiên cứu về
vấn đề này, trong đó công tác xây dựng cán bộ cơ sở là nội dung được các nhà
lãnh đạo, các cấp ủy đảng và nhiều nhà khoa học nghiên cứu ở những góc độ
và phạm vi khác nhau đã được công bố.
Thời gian qua, đã có một số công trình, đề tài nghiên cứu liên quan đến
công tác xây dựng cán bộ, công chức nói chung, xây dựng cán bộ chủ chốt xã,
phường, thị trấn, quận, huyện, tỉnh… mà tác giả đã tìm hiểu, thống kê được,

tiêu biểu có các công trình và các nhóm đề tài sau đây:
4


- Nhóm đề tài về xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt gồm có:
PGS, TS. Trần Xuân Sầm (chủ biên), Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn
cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị thời kỳ đổi mới, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 1998.
Phạm Công Khâm, Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng
nông thôn Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay, Luận án Tiến sĩ, 2000.
Bùi Khắc Hằng, Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ với việc
nâng cao năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Thanh
Hoá hiện nay, Luận văn thạc sỹ Luật học, 2004.
Nguyễn Mậu Dựng, Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của
Đảng bộ các cấp ở Tây Nguyên hiện nay, Luận án Tiến sĩ lịch sử, 2000.
Nguyễn Thái Sơn, Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh
vùng đồng bằng Sông Hồng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đâị hóa đất nước, Luận án Tiến sĩ khoa học lịch sử, Hà Nội, 2002.
PGS, TS. Bùi Tiến Quý, Một số vấn đề về tổ chức và hoạt động của
chính quyền địa phương trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2000.
Nguyễn Hồng Tân, Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp
quận ở Thành Phố Đà Nẵng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, Luận văn Thạc sỹ khoa học lịch sử, Hà Nội, 2000.
Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã là người dân tộc Khmer ở
tỉnh Kiên Giang giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sỹ khoa học chính trị,
chuyên nghành Đảng Cộng sản Việt Nam, Hà Nội, 2014.
Các đề tài trên nghiên cứu sâu sắc quan điểm của Đảng về việc xây
dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt để có cái nhìn đầy đủ, toàn diện về đội ngũ này,


5


về khả năng làm việc, môi trường làm việc, cũng như khẳng định rõ quá trình
hình thành đội ngũ cán bộ chủ chốt để chủ động trong tạo nguồn cán bộ kế
cận và đề xuất những phương án, những chế độ chính sách nhằm tạo điều kiện
cho đội ngũ cán bộ chủ chốt chủ động hơn trong các quyết định phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh. Nó là cơ sở để Đảng ta rút ra
những bài học cho giai đoạn tiếp theo, giai đoạn đổi mới đất nước, thực hiện
CNH,HĐH và HNQT.
Các đề tài này bước đầu đi vào nghiên cứu xác định cơ cấu và tiêu
chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong HTCT thời kỳ đổi mới, xây dựng đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng nông thôn Đồng bằng sông Cửu Long hiện
nay, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ với việc nâng cao năng lực
lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh
đạo chủ chốt cấp tỉnh, cấp huyện trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất
nước. Vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt có tầm quan trọng trong sự
nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay, quyết định phát triển kinh tế, chính trị, văn
hóa - xã hội, QP-AN tại địa phương. Là vấn đề rộng lớn và phức tạp, cần
được tiếp tục đi sâu nghiên cứu. Đặc biệt là chất lượng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp xã cũng chưa có công trình nào đề cập một cách có hệ thống dưới
góc độ chuyên ngành Xây dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước.
- Nhóm đề tài về xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ cán
bộ chính quyền cơ sở gồm có:
Vũ Thị Nghĩa, Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống chính
trị các xã ở tỉnh Đồng nai trong giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sỹ, Hà
Nội, 2004.
Phạm Thị Thúy Vân, Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp phường ở
thành phố Cần Thơ hiện nay - Thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sỹ
Khoa học Chính trị, 2005.

6


Trần Trung Trực, Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt hệ thống chính trị
cấp xã ở huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện
nay, Luận văn Thạc sỹ Khoa học Chính trị, 2005.
Hà Thị Bích Thủy, Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống
chính trị cấp phường, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội giai đoạn hiện
nay, Luận văn Thạc sỹ, 2006.
Nguyễn Thị Lương Uyên, Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ với việc
nâng cao năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở tỉnh Bắc
Giang trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2007.
Đỗ Thanh Hiệp, Ảnh hưởng tư duy kinh nghiệm đối với đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Cà Mau, Luận văn Thạc sỹ khoa học chính trị, Hà
Nội, 2010.
Biện Thanh Lâm, Nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ chủ chốt
các xã ở tỉnh Cà Mau giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sỹ khoa học chính
trị, Hà Nội, 2010.
Nguyễn Văn Hòa, Đánh giá thực trạng cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở xã,
phường, thị trấn tỉnh Bạc Liêu giai đoạn hiện nay, Bạc Liêu, 2012.
Nhóm đề tài trên đây tiếp cận theo các hướng nhất định, với một đối
tượng nghiên cứu cụ thể là đội ngũ cán bộ cấp cơ sở, nhất là đội ngũ cán bộ
chủ chốt. Tập trung phân tích làm rõ mẫu hình người cán bộ lãnh đạo trong
thời kỳ đổi mới, những yêu cầu về phẩm chất đạo đức, phẩm chất chính trị,
trình độ kiến thức, trình độ lãnh đạo… Các nội dung này một mặt khẳng định
tầm quan trọng của chính quyền cấp cơ sở, đồng thời chỉ ra những phẩm chất
chính trị, đạo đức lối sống, năng lực, tác phong, phương pháp công tác, giúp

7



cho địa phương tổ chức thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Nhìn chung, các đề tài này đều có đề cập đến vấn đề đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp xã, nhưng cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu khoa
học nào làm nỗi bậc chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, làm rõ việc
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Sóc Trăng và
việc đánh giá sâu sắc thực trạng chất lượng cũng như kinh nghiệm nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Sóc Trăng để phát
huy vai trò của đội ngũ này trong quá trình phát triển kinh tế , chính trị, văn
hóa - xã hội, QP-AN tại địa phương. Vì vậy, vấn đề chất lượng đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp xã trong sự nghiệp CNH,HĐH đất nước và HNQT ở Sóc
Trăng hiện nay rất cần được quan tâm nghiên cứu.
- Ngoài ra, một số bài viết, nghiên cứu được đăng trên các Tạp chí
như:
Trương Minh Nguyệt, Xây dựng đội ngũ cán bộ cấp xã ở Lạng Sơn,
Tạp chí Xây dựng Đảng, số 4/2012.
Phúc Sơn, Giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ cấp xã, Tạp chí Xây
dựng Đảng, số 5/2012.
Lê Ngọc Xuyên, Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở
ở Tây Nguyên, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 1 + 2/2014.
Trần Minh Quế, Nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán
bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn ở Bắc Giang, Tạp chí Xây dựng Đảng, (9),
2007.
Vũ Thị Phương, Phó trưởng Ban Tổ chức Tỉnh uỷ, Nâng cao chất lượng
cán bộ, công chức cơ sở ở Hải Dương, Tạp chí Xây dựng Đảng số 9/2010.

8



Cao Thị Minh Nguyệt, Ủy viên Ban Thường vụ Thị ủy, Trưởng Ban
Dân vận Thị uỷ Thái Hoà, tỉnh Nghệ An, Nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã – Thực tế của thị xã Thái Hòa, Nghệ An; Tạp chí
Xây dựng Đảng, ngày 3/9/2014.
TS. Nguyễn Thế Tư, TS. Phan Thanh Giản, Học viện Chính trị khu vực
III, Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở Gia Lai hiện nay, Tạp chí Dân
tộc số 169, tháng 01/2015.
Nguyễn Thanh Tuấn - Phạm Ngọc Hà, Kiện toàn, chuẩn hóa các chức
danh cán bộ chủ chốt cấp xã đáp ứng yêu cầu thời kỳ mới, Tạp chí lý luận
chính trị số 7 – 2015.
Với những góc độ khác nhau, trong những công trình, đề tài nghiên
cứu trên có ý nghĩa rất lớn, có những đóng góp nhất định cả về lý luận và thực
tiễn theo phạm vi nghiên cứu, tác giả trân trọng, kế thừa kết quả nghiên cứu của
một số công trình có liên quan đến luận văn, từ đó xác định yêu cầu và đề xuất
những giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng cán bộ, công chức cấp xã nói
chung và cán bộ chủ chốt trong HTCT trên các địa bàn, địa phương ở nước ta.
Tuy nhiên, chưa có công trình, đề tài nào nghiên cứu về “Chất lượng đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay” một cách có hệ thống,
toàn diện, sâu sắc dưới góc độ chuyên ngành Xây dựng Đảng và Chính quyền
nhà nước. Vì vậy, trên cơ sở kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên cứu đã được
công bố, cùng với những tìm tòi, điều tra, nghiên cứu, tác giả lựa chọn vấn đề
nghiên cứu là công trình độc lập, không trùng lặp với các công trình, đề tài,
luận văn, luận án đã nghiệm thu, bảo vệ và công bố. Qua đó nhằm góp phần
nâng cao kiến thức đã học và góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
ở tỉnh Sóc Trăng ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ mới.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

9



* Mục đích nghiên cứu
Luận giải làm rõ một số vấn đề cơ bản về lý luận, thực tiễn chất lượng
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ cấp xã ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích làm rõ một số vấn đề cơ bản chất lượng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp xã ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay.
- Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ những nguyên nhân và rút ra một số
kinh nghiệm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Sóc
Trăng.
- Xác định yêu cầu và đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
xã ở tỉnh Sóc Trăng.
* Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn tập trung nghiên cứu chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp xã ở tỉnh Sóc Trăng.
- Phạm vi nghiên cứu, khảo sát tập trung ở 104 xã, phường, thị trấn của
tỉnh Sóc Trăng. Thời gian và các số liệu điều tra, khảo sát từ năm 2010 đến
nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Cơ sở lý luận

10


Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm, đường lối, chính sách của

Đảng và Nhà nước về cán bộ nói chung và về chất lượng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp xã nói riêng.
* Cơ sở thực tiễn
Thực tiễn chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Sóc Trăng
qua các báo cáo sơ kết, tổng kết về chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
ở tỉnh Sóc Trăng thời gian qua. Các số liệu điều tra, khảo sát thực tế và báo cáo
tổng kết của Ban Tổ chức Tỉnh ủy Sóc Trăng từ năm 2009 đến 2014. Đồng thời qua
quá trình điều tra, nghiên cứu, khảo sát thực tiễn của tác giả; bên cạnh đó có
tiếp thu kế thừa và chọn lọc kết quả của các công trình, đề tài đã được nghiệm
thu, công bố.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được tiến hành dựa trên cơ sở vận dụng phương pháp luận
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đề tài sử dụng tổng hợp các
phương pháp nghiên cứu khoa học của chuyên ngành và liên ngành. Trong đó
chú trọng phương pháp kết hợp: lôgic - lịch sử, phân tích - tổng hợp, tổng kết
- đánh giá, thống kê - so sánh, phương pháp chuyên gia, điều tra khảo sát và
tổng kết thực tiễn.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho
cấp ủy, chính quyền các cấp, nhất là ở cơ sở của tỉnh Sóc Trăng. Tập trung
xây dựng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

11


- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên
cứu, giảng dạy, học tập ở các Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị cấp huyện, thị
xã, thành phố và Trường Chính trị tỉnh Sóc Trăng.
7. Kết cấu của đề tài

Luận văn gồm phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục.

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP XÃ
Ở TỈNH SÓC TRĂNG
12


1.1. Đội ngũ cán bộ chủ chốt và những vấn đề cơ bản về chất lượng
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Sóc Trăng
1.1.1. Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Sóc Trăng
* Khái quát tỉnh Sóc Trăng
- Đặc điểm vị trí địa lý
Sóc Trăng thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, giáp tỉnh Cần Thơ ở
phía Bắc và Tây Bắc, giáp Bạc Liêu ở phía Tây Nam, giáp Trà Vinh ở phía
Đông Bắc và giáp biển Đông ở phía Nam. Là một tỉnh cận cực Nam của Tổ
quốc có diện tích tự nhiên là 3.311,6 km 2, gồm 1 thành phố, 2 thị xã và 8
huyện. Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Sóc Trăng.
Địa hình dân cư tỉnh Sóc Trăng với mật độ dân số là 395 người/km 2
sinh sống dọc theo các giồng đất cao, các trục lộ giao thông thủy và giao
thông bộ với đường bờ biển dài 72 km và 03 cửa sông lớn: Định An, Trần Đề,
Mỹ Thanh đổ ra Biển Đông, hệ thống sông ngòi chằn chịt, có 4 Quốc lộ:
Quốc lộ 1A, Nam Sông Hậu, Quản lộ Phụng Hiệp và Quốc lộ 61 đi ngang
qua, khí hậu nhiệt đới nóng, ẩm với 2 mùa mưa và mùa nắng rõ rệt với cấu
tạo địa hình đồng bằng có 2 vùng ngọt, mặn ven biển. Nằm trong vùng nhiệt
đới gió mùa, khí hậu Sóc Trăng chia làm 2 mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5
đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ bình quân
khoảng 27,30C, lượng mưa trung bình đạt 1.500-1.800mm/năm, số giờ nắng

2.300 - 2.500 giờ trong năm và độ ẩm tương đối trung bình 75-80%.
Tài nguyên đất: Sóc Trăng có 40 đơn vị đất tập trung vào 3 nhóm chính:
nhóm đất phù sa, nhóm đất phèn và nhóm đất giồng. Hiện trạng đất tính đến
ngày 31/12/2013 là 331.165 ha. Hiện đất sử dụng cho nông nghiệp chiếm 63%,
đất lâm nghiệp 3,0%, đất chuyên dùng và các loại đất khác 34,0%.
Tài nguyên nước: Sông Hậu và một hệ thống kênh rạch của tỉnh chịu
ảnh hưởng của chế độ thủy triều ngày lên xuống 2 lần, mực triều dao động
trung bình tại Sông Hậu (Đại Ngãi) 0,3 m đến 1,8 m. Về mùa mưa một phần
các huyện Mỹ Tú, Thạnh Trị, thị xã Ngã Năm bị ngập úng. Về mùa khô các

13


huyện Thạnh Trị, Vĩnh Châu, Mỹ Xuyên, một phần huyện Long Phú, Mỹ Tú,
thị xã Ngã Năm nguồn nước mặt bị nhiễm mặn gây khó khăn cho sản xuất
nông nghiệp và đời sống của nhân dân. Lưu lượng nước sông Hậu vào khoảng
7.000 – 8.000 m3/giây trong mùa mưa, giảm xuống còn 2000 - 3000 m3/giây
trong mùa khô. Ngoài ra tỉnh còn có lượng nước ngầm phong phú. Nước
ngầm mạch sâu từ 100m đến 180m, chất lượng nước tốt, có thể sử dụng cho
sinh hoạt. Nước ngầm mạch nông từ 5m - 30m lưu lượng phụ thuộc vào
nguồn nước mưa, nước bị nhiễm mặn vào mùa khô.
Tài nguyên biển: Sóc Trăng có 72 km bờ biển với 3 cửa sông lớn Định
An, Trần Đề và Mỹ Thanh hình thành lưu vực rộng lớn thuận lợi cho giao
thông, nuôi trồng thủy hải sản, làm muối... Đặc biệt, Sóc Trăng còn có dải cù
lao thuộc huyện Kế Sách và Long Phú chạy dài ra tận cửa biển với nhiều cây
trái nhiệt đới, không khí trong lành như cồn Mỹ Phước, Cù Lao Dung, vườn
cò Tân Long... là địa điểm lý tưởng để phát triển loại hình du lịch sinh thái.
Tài nguyên rừng: Sóc Trăng có diện tích rừng 16.015 ha với các loại
cây chính: tràm, bần, giá, vẹt, dừa nước phân bố ở 5 huyện, thị xã Vĩnh Châu,
Long Phú, Trần Đề, Mỹ Xuyên và Cù Lao Dung. Rừng của Sóc Trăng thuộc

hệ rừng ngập mặn ven biển và rừng tràm ở khu vực đất nhiễm phèn.
Tài nguyên khoáng sản: Những kết quả thăm dò bước đầu cho thấy có
triển vọng về khai thác dầu và khí đốt tại vùng thềm lục địa ngoài khơi gần
Sóc Trăng.
- Về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, QP - AN tỉnh Sóc Trăng
+ Về kinh tế
Kinh tế truyền thống của người dân Sóc Trăng bao gồm cả nghề nông,
nghề khai thác biển, nuôi trồng và chế biến thủy sản và các loại hình chế biến,
dịch vụ khác. Hình thái kinh tế đó đã giúp cho đời sống của người dân Sóc
Trăng phát triển khá phồn thịnh. Là vùng đất phù sa nằm cuối nguồn dòng
Cửu Long với ba vùng sinh thái: ngọt, lợ và mặn, Sóc Trăng đang tập trung

14


khai thác 2 thế mạnh, mang tính đột phá là cây lúa chất lượng cao với kinh
tế vườn và thuỷ, hải sản. Là tỉnh thuần nông nên Sóc Trăng đặc biệt chú ý
chuyển đổi kinh tế trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá, với cơ cấu cây
trồng vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hoá phục vụ công nghiệp chế biến
và xuất khẩu, kết hợp khai thác dịch vụ - du lịch.
Sóc Trăng là một tỉnh có bờ biển dài so với các tỉnh trong khu vực và
cả nước nên ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, tình trạng nước mặn xâm nhập
ngày càng sâu trong đất liền làm cho việc phát triển nông nghiệp, thu hút đầu
tư, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng hàng hóa… gặp nhiều
khó khăn. Kinh tế Sóc Trăng khá thấp so với mặt bằng chung của cả nước
(năm 2014, GDP của Sóc Trăng là 10,04%), thu nhập bình quân đầu người
tăng chậm và còn thấp (năm 2010 là 21,4 triệu đồng/người, năm 2014 là
34,30 triệu đồng/ người). Trong khu vực miền Tây Nam bộ tỷ lệ này năm
2010 là 13,8% và 26 triệu đồng/người/năm. Điều đó, ảnh hưởng nhiều đến
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trong đó có đội ngũ cán bộ nói

chung, cán bộ chủ chốt cấp xã nói riêng.
+ Về hệ thống chính trị
Hiện nay, tỉnh Sóc Trăng có 1 thành phố, 2 thị xã, 8 huyện với 17
phường, 12 thị trấn, 80 xã và 832 ấp, khóm, khu phố. HTCT cơ sở (bao gồm
cả xã, phường, thị trấn) tương đối ổn định, từng bước đổi mới phương thức
hoạt động, tạo sức mạnh đoàn kết toàn dân, đảm bảo thực hiện tốt Pháp lệnh
dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Các tổ chức trong HTCT hoạt động và phối
hợp khá hiệu quả, đồng bộ. Trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ chủ chốt
trong HTCT được quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện và không ngừng
được nâng cao. Tổ chức Đảng không ngừng đổi mới nội dung và phương thức
lãnh đạo, nâng cao sức chiến đấu, thể hiện được vai trò hạt nhân lãnh đạo ở cơ
sở. Bộ máy chính quyền từng bước được cũng cố, hoạt động đi vào nền nếp,
theo đúng chức năng, nhiệm vụ, làm cho hiệu lực quản lý được tăng cường và
15


hiệu quả quản lý ngày càng cao. MTTQ và các đoàn thể từng bước được kiện
toàn và đổi mới tổ chức, hoạt động, đảm bảo chăm lo lợi ích thiết thực của
nhân dân và chủ động, tích cực tham gia có hiệu quả trên các lĩnh vực đời
sống xã hội ở cơ sở.
Tuy nhiên, tổ chức và hoạt động của HTCT cấp xã ở Sóc Trăng vẫn còn
một số hạn chế. Nổi bật nhất là tình trạng chồng chéo chức năng của các tổ
chức thành viên; sự hụt hẫng, bất cập của đội ngũ cán bộ; thái độ bàng quan
của một bộ phận dân cư…, làm cho việc thực hiện và phát huy dân chủ,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xây dựng nông thôn mới… ở một số nơi vẫn còn
nhiều khó khăn, hạn chế.
+ Về văn hoá - xã hội, quốc phòng – an ninh
Là tỉnh hình thành và phát triển từ lâu đời, được chia tách từ tỉnh Hậu
Giang cũ, trong lịch sử, các dân tộc kinh, khmer, hoa đã đoàn kết chống giặc
ngoại xâm. Sóc Trăng là vùng đất giàu truyền thống đấu tranh cách mạng, là

nơi thành lập chi bộ đảng đầu tiên của tỉnh Hậu Giang cũ, là quê hương của
những con người tài năng, có học thức uyên thâm như nhà bác học Lương
Định Của, anh hùng Trần Văn Bảy, Huỳnh Cương, Mai Thanh Thế... Đặc
biệt, trong hai cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ, quân và dân Sóc Trăng đã chiến đấu anh dũng và đầy sáng tạo, góp phần
to lớn vào thắng lợi vẻ vang của dân tộc. Sóc Trăng cũng là một trong những
tỉnh bị chiến tranh tàn phá nặng nề nhất ở Miền Nam. Trải qua cuộc chiến đấu
ác liệt, Sóc Trăng đã gánh chịu những hậu quả hết sức nặng nề, nhất là về mặt
xã hội, với hơn 15.307 liệt sĩ, 6.483 thương binh, 1.810 Bà mẹ Việt Nam anh
hùng (hiện còn sống là 266 mẹ), gần 1.151 người bị nhiễm chất độc hoá học
và địch bắt tù đài.
Dân số 1.303.700 người, bao gồm 3 dân tộc chính là Kinh, Hoa,
Khmer. Mật độ 395 người/km2. Sóc Trăng có nhiều tôn giáo và thờ cúng tín
ngưỡng dân gian. Tín đồ Phật giáo, Thiên chúa giáo chiếm số đông, còn lại là
Tin lành, Tịnh độ Cư sĩ, Cao Đài, Hòa Hảo… Người kinh thường theo Phật

16


giáo Bắc Tông, người Hoa theo Phật giáo Hoa Tông, người Khmer theo Phật
giáo Nam Tông.
Phát huy truyền thống quê hương, Đảng bộ và nhân dân Sóc Trăng
không ngừng phấn đấu, vượt thắng khó khăn, thực hiện tốt công tác đền ơn
đáp nghĩa với tinh thần “uống nước nhớ nguồn” gắn liền với cuộc vận động
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” (Đặc biệt là
“Đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh” tại Cù Lao Dung, được xem là một trong
những nơi được cây dựng đầu tiên trong cả nước). Vì vậy, đời sống nhân dân
từng bước được cải thiện và ngày càng nâng cao; công tác y tế, vệ sinh, chăm
sóc sức khoẻ của nhân dân được quan tâm đúng mức, an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội được giữ vững. Sóc Trăng đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu

học và trung học cơ sở… Nhưng, tỉ lệ hộ nghèo ở Sóc Trăng vẫn còn cao, tính
đến cuối năm 2014, còn 39.717 hộ/317.990 hộ, chiếm 12,49% số hộ trong
toàn tỉnh). Những mặt trái của cơ chế thị trường và quá trình toàn cầu hoá
kinh tế tác động đến hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội rất đáng lo ngại.
Từ đó, nhiều vấn đề bức xúc đặt ra trên lĩnh vực xã hội ngày càng gay gắt.
Nổi lên là vấn đề lao động, việc làm, thu nhập cá nhân, công bằng xã hội, các
tiêu cực và tệ nạn xã hội… Đặc biệt là tình trạng tranh chấp đất đai và khiếu
kiện đông người, vượt cấp, dẫn đến tiềm ẩn những yếu tố có thể làm mất ổn
định xã hội - chính trị.
* Quan niệm về đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Sóc Trăng
- Quan niệm cán bộ
Từ khi Đảng ra đời lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, từ “Cán bộ” mới được
sử dụng để chỉ những người có trọng trách trong tuyên truyền, tổ chức, tập hợp
quần chúng, sẵn sàng chịu đựng gian khổ, hy sinh; một lòng, một dạ đấu tranh vì
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Cùng với sự phát triển của cách mạng, đội
ngũ cán bộ ngày càng đông đảo. Ngày nay, trong hệ thống tổ chức đảng và các
đoàn thể chính trị, cán bộ là những người được bầu vào cơ quan lãnh đạo các cấp
17


và những người được bổ nhiệm làm công tác chuyên môn; trong hệ thống chính
quyền, cán bộ là những người làm việc trong các cơ quan Nhà nước có chức vụ
lãnh đạo, quản lý thuộc các ngành, các lĩnh vực khác nhau.
Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, ở tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương (gọi chung là cấp tỉnh), ở quận, huyện, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh (gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước [64, tr.7]. “Cán bộ là những người đem chính sách của
Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành; đồng thời

đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt
chính sách cho đúng” [11, tr.269].
Vì vậy quan niệm cán bộ cần được hiểu là: những người có chức vụ
lãnh đạo, quản lý, chỉ huy được bầu, được bổ nhiệm hoặc có chuyên môn
nghiệp vụ, hoạt động trong các ngành, các lĩnh vực khác nhau, giữ trọng
trách trong một tổ chức, cơ quan, đơn vị; có tác động, ảnh hưởng quan trọng
đến sự phát triển của tổ chức, cơ quan, đơn vị đó.
- Cán bộ chủ chốt là những người nắm các chức vụ chủ chốt của tổ
chức Đảng, các ban, ngành, đoàn thể của các bộ, ngành chuyên môn. Ở nước
nào và vào thời điểm nào cũng vậy, sự thành bại của mọi sự nghiệp hay sự tồn
vong, thịnh suy của mọi quốc gia, chế độ đều phụ thuộc rất nhiều vào đội ngũ
cán bộ nói chung, trong đó đặc biệt quan trọng là cán bộ chủ chốt.
Quan niệm đội ngũ cán bộ chủ chốt: “là những người có chức vụ,
nắm giữ các vị trí quan trọng nhất, có tác dụng làm nồng cốt trong các tổ
chức thuộc hệ thống bộ máy của một cấp nhất định; những người được giao
đảm đương các nhiệm vụ quan trọng để lãnh đạo, quản lý, điều hành bộ máy
thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao; chịu trách nhiệm trước cấp trên và
cấp mình về lĩnh vực công tác được giao”.
- Đội ngũ cán bộ chủ chốt có những đặc trưng cơ bản như sau:
18


+ Đội ngũ cán bộ chủ chốt là người có vị trí quan trọng, giữ vai trò
quyết định trong việc xác định phương hướng, mục tiêu, phương pháp công
tác; đề ra các quyết định và tổ chức thực hiện tốt các quyết định của cấp mình
hoặc cấp trên giao. Kiểm tra, giám sát, kịp thời chấn chỉnh, uốn nắn những biểu
hiện lệch lạc; bổ sung, điều chỉnh kịp thời những giải pháp mới khi cần thiết; đúc rút
kinh nghiệm, tổng kết thực tiễn để bổ sung, hoàn chỉnh lý luận. Đồng thời, đội
ngũ cán bộ chủ chốt còn là người giữ vai trò đoàn kết, tập hợp, phát huy sức
mạnh của quần chúng thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị và xây dựng nội

bộ tổ chức vững mạnh.
+ Đội ngũ cán bộ chủ chốt là những người đại diện một tổ chức, một
tập thể... chủ yếu do bổ nhiệm hoặc bầu cử, giữ một chức vụ trọng yếu trong
cơ quan Đảng, chính quyền (cấp trưởng, cấp phó); trưởng các đoàn thể và là
những người chịu trách nhiệm trước cấp trên và cấp mình về mọi hoạt động
của địa phương, đơn vị hoặc lĩnh vực công tác được đảm nhận.
+ Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã: “là công dân Việt Nam, được bầu
cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban
nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã
hội”.
* Tổ chức biên chế đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Sóc Trăng
Từ nhận thức đó, đặc biệt theo quan điểm của Nghị quyết Trung ương 5
khóa IX về đổi mới và nâng cao chất lượng HTCT ở cơ sở xã, phường, thị
trấn; theo quy định tại Điều 4, khoản 3 của Luật cán bộ, công chức năm 2008;
Nghị định 114/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ về cán bộ, công
chức xã, phường, thị trấn; Quyết định 04/2004/QĐ-BNV ngày 16/1/2004 của Bộ
trưởng Bộ Nội vụ về tiêu chuẩn đối với cán bộ công chức xã, phường, thị
trấn; tác giả luận văn đề cập đến cán bộ chủ chốt cấp xã, tỉnh Sóc Trăng có
các chức danh sau đây: Bí thư, các Phó Bí thư Đảng ủy; Chủ tịch, Phó Chủ tịch
HĐND; Chủ tịch, các Phó Chủ tịch UBND; Chủ tịch Ủy ban MTTQ; Chủ tịch
19


Hội Liên hiệp Phụ nữ; Chủ tịch Hội Cựu chiến binh; Bí thư Đoàn Thanh niên;
Chủ tịch Hội Nông dân.
- Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và các mối quan hệ của đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp xã
Chức năng: Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã là lực lượng giữ vai trò
nồng cốt lãnh đạo, điều hành hoạt động của hệ thống chính trị cấp xã, là nhân
tố then chốt trong xây dựng hệ thống chính quyền vững mạnh, là những người

trực tiếp gần gũi, gắn bó với nhân dân, sống, làm việc và hàng ngày có mối
quan hệ chặt chẽ với dân. Họ thường xuyên lắng nghe, tham khảo ý kiến của
nhân dân. Trong quá trình triển khai, vận động, dẫn dắt nhân dân thực hiện
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp có chức năng tạo ra cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân
dân. Thông qua họ mà ý Đảng, lòng dân tạo thành một khối thống nhất, làm cho
Đảng, Nhà nước “ăn sâu, bám rễ” trong quần chúng, tạo nên quan hệ máu thịt
giữa Đảng với nhân dân, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước
và chế độ. Như vậy, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước có đi vào cuộc sống, trở thành hiện thực sinh động hay không, tùy
thuộc phần lớn vào sự tuyên truyền và tổ chức vận động nhân dân thực hiện
của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã.
Nhiệm vụ: Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã có nhiệm vụ tổ chức thực
hiện thắng lợi các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước
tại địa phương. Là những người có nhiệm vụ giữ vai trò trụ cột, có tác dụng
chi phối mọi hoạt động tại cơ sở, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã không những
phải nắm vững đường lối, chủ trương, chính sách của các tổ chức Đảng, Nhà
nước, đoàn thể cấp trên để tuyên truyền, phổ biến, dẫn dắt, tổ chức cho quần
chúng thực hiện mà còn phải am hiểu sâu sắc đặc điểm, tình hình của địa
phương để đề ra những nhiệm vụ, giải pháp cụ thể hóa đường lối, chủ trương
chính sách ấy cho phù hợp với điều kiện đặc thù của cơ sở.
20


Quyền hạn: Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã là lực lượng cán bộ cấp cơ
sở trong hệ thống chính trị nước ta, là những người thay mặt Đảng, Nhà nước
trực tiếp lãnh đạo, quản lý xã hội đến tận người dân, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, bảo đảm mọi quyền lợi của công dân, chăm lo đời sống vật chất
và tinh thần của họ, tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện thắng lợi mọi
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, động

viên quần chúng nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước. Họ có quyền
hạn quyết định trong việc xây dựng, củng cố tổ chức bộ máy của HTCT cấp
xã vững mạnh và phát động, lãnh đạo, phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội, QP
– AN, các phong trào cách mạng của quần chúng ở cơ sở. Đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp xã còn là một trong những nguồn quan trọng cung cấp cán bộ cho
huyện, thị xã, thành phố và tỉnh. Qua thực tế, có thể khẳng định rằng, xã là
môi trường thực tiễn rèn luyện, giáo dục, tạo điều kiện cho cán bộ phấn đấu,
tu dưỡng và trưởng thành. Thông qua hoạt động ở xã, cán bộ tích lũy được
nhiều kinh nghiệm thực tiễn, kiến thức không ngừng được bổ sung, năng lực
lãnh đạo, quản lý, phương pháp, phong cách công tác được nâng lên rõ rệt.
Các mối quan hệ: Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã là hạt nhân trung tâm
của sự đoàn kết của địa phương, không những có mối quan hệ với cấp trên mà
còn phải sâu sát cơ sở, thường xuyên liên hệ mật thiết với nhân dân. Chỉ có
quan hệ sâu sát cơ sở, với nhân dân, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã mới kiểm
nghiệm được sự sát đúng các chủ trương, chính sách trong cuộc sống, mới
phát hiện được sự đúng sai trong chỉ đạo, đồng thời phát hiện những nhân tố
mới, những điển hình tiên tiến để ủng hộ và nhân rộng. Chỉ có quan hệ, thâm
nhập vào phong trào cách mạng ở cơ sở mới hoạch định những chính sách,
chủ trương mới, quyết định mới, sát đúng đáp ứng thiết thực, kịp thời yêu cầu
của cuộc sống đặt ra.
- Đặc điểm đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Sóc Trăng

21


Một là, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, tỉnh Sóc Trăng phần lớn là
trưởng thành sau miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước, nhất
là trong công cuộc đổi mới. Đại bộ phận là người dân tại địa phương, mang
đặc điểm của người dân Nam bộ.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, tỉnh Sóc Trăng sinh ra, trưởng

thành và hoạt động trên mảnh đất giàu truyền thống cách mạng, kiên cường,
bất khuất… Cho nên, họ thừa hưởng những giá trị tốt đẹp đó, giữ gìn và phát
huy trong công tác cũng như rèn luyện phẩm chất đạo đức của mình. Tuy
nhiên, khách quan mà nói, đặc điểm này cũng dễ phát sinh những “thứ bệnh”
mà trước đây Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói, nhất là bệnh công thần,
“kiêu ngạo cộng sản”, ỷ lại, tự mãn,…
Đại bộ phận là người dân tại địa phương gắn liền với điều kiện sản
xuất, kinh doanh ở gia đình, địa phương, được đào tạo, bồi dưỡng một cách
cơ bản và có tư duy, nhạy bén, năng động, sáng tạo trong lãnh đạo, điều hành,
quản lý, tiếp cận trình độ khoa học - kỹ thuật và những vấn đề mới rất nhanh.
Đồng thời, họ được kế thừa truyền thống cách mạng của cha ông và được sự
giúp đỡ, hướng dẫn của thế hệ cán bộ đi trước, nên trưởng thành nhanh
chóng, trở thành nguồn bổ sung cán bộ lãnh đạo cao hơn ở cơ sở hoặc cho
huyện, thị xã, thành phố và cho tỉnh Sóc Trăng.
Ngoài những tính cách chung của người đồng bằng sông Cửu Long,
do đan xen và kết tụ nhiều phong tục, tập quán của miền Bắc, miền Trung,
của người Việt, người Khmer, người Hoa, cùng với sự hình thành lâu đời, con
người của vùng đất Sóc Trăng có nhiều phẩm chất đáng quý thể hiện rất đậm
nét trong đội ngũ cán bộ. Đó là bình dị, chân chất, trọng nghĩa, trung thực,
thẳn thắn; kiên cường, bất khuất, dũng cảm trong đấu tranh; đoàn kết, hòa
nhập trong cộng đồng; tinh thần dám nghĩ, dám làm, cần cù sáng tạo trong lao
động, mạnh dạn tiếp thu cái mới, nhạy bén với thị trường, năng động trong
cách làm ăn; gắn bó, quý trọng và có ý thức gìn giữ mảnh đất làng quê của
mình... đã được hình thành rõ nét ở người dân Sóc Trăng. Nó tạo điều kiện
22


cho sự xuất hiện những cán bộ năng động, tháo vát, biết quản lý, nhạy bén với
cơ chế thị trường.
Hai là, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã đại bộ phận là cấp uỷ viên cơ

sở và là đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp
Có thể nói về chất lượng chính trị, đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn
tham gia nhiều tổ chức trong HTCT ở cơ sở và cấp trên, nên họ là lực lượng
nắm vững đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước và vận dụng phù hợp vào điều kiện cụ thể từng cơ sở, góp phần phát
triển kinh tế - xã hội của huyện, thị xã, thành phố và tỉnh Sóc Trăng khá
nhanh (năm 2014 nền kinh tế của tỉnh tăng 10,04%).
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã đều là đảng viên và đa số họ là
đảng uỷ viên. Về nguyên tắc họ là lực lượng đại biểu cho giai cấp công nhân và
nhân dân ở địa phương. Tuy nhiên, phần lớn đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
đều là người ở địa phương, có nguồn gốc xuất thân đa dạng từ nông dân, dân
nghèo thành thị, bộ đội xuất ngũ,… sống và làm việc gắn bó với địa phương.
Cho nên, một mặt họ vừa là lực lượng thể hiện sinh động của mối quan hệ
giữa các yếu tố trong liên minh công - nông - trí, vừa là lượng trực tiếp thực
hiện sự liên minh này trên thực tế. Mặt khác, họ cũng chịu ảnh hưởng ít nhiều
những hạn chế của giai cấp nông dân, sự tác động của truyền thống và thói
quen lạc hậu.
Dù mỗi cán bộ chủ chốt cấp xã gắn với một tổ chức và chức danh cụ
thể, nhưng họ có điểm chung, đó là: các chức danh cán bộ lãnh đạo chủ chốt
đều là chức danh bầu cử và là cấp cuối cùng trong hệ thống chính quyền bốn
cấp, hầu hết họ đều là đảng ủy viên; là người có vai trò quyết định, chịu trách
nhiệm chính trong việc cụ thể hóa, triển khai, tổ chức thực hiện mọi chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và của cấp trên, đề ra nghị
quyết, chỉ thị và tổ chức thực hiện trong phạm vi địa phương, tổ chức của
mình; là người tiếp xúc trực tiếp với quần chúng nhân dân thường xuyên nhất.
23


Họ trực tiếp tiếp xúc, giải quyết các công việc hằng ngày với dân không chỉ
với tư cách vừa là người lãnh đạo, quản lý vừa là người đại diện cho nhân

dân, do nhân dân “ủy thác” trách nhiệm.
Ba là, cơ cấu đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Sóc Trăng không
đồng bộ, tỷ lệ cán bộ nữ, người dân tộc thiểu số đạt thấp
Về cơ cấu đội ngũ, mặc dù Tỉnh ủy rất quan tâm đến quy hoạch, đào tạo
đội ngũ cán bộ chủ chốt trẻ, nữ, dân tộc. Nhưng tỷ lệ nữ đạt rất thấp (nữ
208/1.181, chiếm 17,61%). [Phụ lục 03]. Tỷ lệ nữ tham gia làm công tác đảng,
quản lý nhà nước còn thấp (toàn tỉnh có 50 đồng chí là Bí thư, Chủ tịch, Phó Chủ
tịch UBND xã, phường, thị trấn, 158 đồng chí là Chủ tịch MTTQ và các đoàn
thể). Về cơ cấu độ tuổi được các cấp uỷ đảng quan tâm, qua mỗi nhiệm kỳ Đại hội
Đảng và bầu cử HĐND, UBND, các đoàn thể quần chúng đều có định hướng về
cơ cấu độ tuổi mang tính kế thừa liên tục. Tuy nhiên, lực lượng cán bộ trẻ đến nay
vẫn còn thấp, dưới 30 tuổi chỉ chiếm 8,89 % (chủ yếu là lực lượng Đoàn thanh
niên và Hội Liên hiệp phụ nữ). Tỷ lệ cán bộ chủ chốt là đồng bào dân tộc có
112/1.181 đồng chí, chiếm 9,48 %. [Phụ lục 03].
Bốn là, đại bộ phận đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Sóc Trăng
được đào tạo, bồi dưỡng một cách cơ bản, toàn diện, có phẩm chất đạo đức
tốt, đủ năng lực hoàn thành nhiệm vụ…
Đại bộ phận đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã trên địa bàn tỉnh Sóc
Trăng được rèn luyện, trưởng thành từ thực tiễn địa phương; được đào tạo,
bồi dưỡng một cách cơ bản, toàn diện, có phẩm chất đạo đức tốt, đủ năng lực
hoàn thành nhiệm vụ; về chuyên môn nghiệp vụ đã qua đào tạo, bồi dưỡng
chiếm tỷ lệ khá cao 69,26%; tỷ lệ được đào tạo tin học, ngoại ngữ đồng đều, đạt
54,19%). % [Phụ lục 04]. Từ đó, khả năng hoàn thành nhiệm vụ điều hành, quản
lý thực hiện nhiệm vụ chính trị ở cơ sở. Đặc biệt đến nay còn 360 cán bộ chưa qua
đào tạo chuyên môn, chiếm 30,84% [Phụ lục 03].

24


Sóc Trăng là tỉnh mang nhiều nét đặc thù khá rõ so với các tỉnh, thành khác

trong khu vực. Một trong những nét tiêu biểu chính là tỉnh có đông đồng bào dân
tộc Khmer và chùa chiềng nhiều nhất khu vực đồng bằng sông Cửu Long, với hệ
thống sông ngòi chằng chịt. Chính những đặc điểm này, đã hình thành nên một
Sóc Trăng thích ứng với điều kiện địa lý tự nhiên. Tiêu biểu nhất là các sinh hoạt
của cộng đồng dân cư vùng ven biển, các giồng đất cao. Sông ngòi, kinh rạch ở
Sóc Trăng đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống của người dân bản xứ. Nó gắn
liền với mọi sinh hoạt, cung cách ứng xử, hình thành nên các tục lệ, tín ngưỡng
mang đậm tính sông nước và hình thành nên nét văn hoá đặc trưng.
* Vai trò đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
- Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã có vai trò quan trọng trong thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ở địa phương
Đảng ta khẳng định: “Vấn đề cán bộ là vấn đề rất quan trọng trong
công tác tổ chức của Đảng, bởi vì cán bộ là người có nhiệm vụ đem đường
lối, chính sách, chủ trương của Đảng tuyên truyền, giáo dục quần chúng và tổ
chức quần chúng thực hiện”[38, tr.160] và Đảng ta xác định phải: “có một đội
ngũ cán bộ đủ phẩm chất và năng lực xây dựng đường lối chính trị đúng đắn
và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, đó là vấn đề cốt tử của lãnh đạo, là
sinh mệnh của Đảng cầm quyền” [45, tr.127]. Bước vào thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước, Đảng ta càng nhấn mạnh đến vai trò của cán bộ. Nghị
quyết Trung ương ba (khóa VIII) xác định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự
thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và
chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng” [45, tr.166].
Xác định được tầm quan trọng đó, trong mỗi giai đoạn cách mạng, qua
mỗi lần Đại hội và Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Sóc Trăng đều có
chủ trương, nghị quyết xây dựng đội ngũ cán bộ phù hợp với tình hình và
nhiệm vụ mới. Đồng thời luôn quan tâm lãnh đạo xây dựng cho được đội ngũ
cán bộ một cách đồng bộ, đáp ứng yêu cầu của từng giai đoạn cách mạng.
25



×