Tải bản đầy đủ (.pdf) (46 trang)

Vận dụng lí thuyết hội thoại vào rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (539.87 KB, 46 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC
--------

PHẠM THỊ LAN

VẬN DỤNG LÍ THUYẾT HỘI THOẠI
VÀO RÈN LUYỆN KĨ NĂNG NÓI CHO
HỌC SINH LỚP 2
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phƣơng pháp dạy học tiếng Việt
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TS. KHUẤT THỊ LAN

HÀ NỘI - 2016


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài, em đã nhận được sự hướng dẫn nhiệt
tình và chu đáo cũng như sự chỉ bảo tận tình của cô giáo Khuất Thị Lan giảng viên khoa Ngữ văn, cùng các thầy cô trong khoa Giáo dục Tiểu học Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2.
Nhân dịp này tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới TS. Khuất Thị Lan
cùng toàn thể các thầy cô giáo trong khoa Giáo dục Tiểu học, cũng như gia
đình và bạn bè đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành khoá luận này.
Là một sinh viên bước đầu làm quen với công việc nghiên cứu khoa
học, chắc chắn không thể tránh khỏi những sai sót. Rất mong được thầy cô,
bạn bè đóng góp ý kiến để đề tài này ngày càng hoàn thiện hơn, góp phần vào
việc nâng cao chất lượng dạy học trong vấn đề rèn luyện kĩ năng nói cho học
sinh lớp 2.
Hà Nội, tháng 5/2016
Sinh viên thực hiện


Phạm Thị Lan


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung được trình bày trong khóa luận này
là kết quả nghiên cứu nghiêm túc của bản thân tôi dưới sự hướng dẫn và chỉ
bảo tận tình của cô Khuất Thị Lan, cùng với các thầy cô giáo trong khoa
Giáo dục Tiểu học.
Tôi xin khẳng định kết quả nghiên cứu khóa luận tốt nghiệp “Vận dụng
lí thuyết hội thoại vào rèn luyện kĩ năng nói cho hoc sinh lớp 2” là của
riêng tôi, nội dung của khóa luận không trùng với các đề tài của các tác giả
khác. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 5/2016
Sinh viên thực hiện

Phạm Thị Lan


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài..........................................................1
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu ...........................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................2
5. Bố cục khóa luận .....................................................................................................3
PHẦN NỘI DUNG ....................................................................................................4
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI .................................................................................................4
1.1. Tổng quan nghiên cứu ..........................................................................................4
1.2. Cơ sở lí luận .........................................................................................................5

1.2.1. Khái quát về hội thoại .......................................................................................5
1.2.1.1. Khái niệm hội thoại ........................................................................................5
1.2.1.2. Các quy tắc của hội thoại...............................................................................6
1.2.2. Kĩ năng nói ........................................................................................................8
1.2.2.1. Kĩ năng ...........................................................................................................8
1.2.2.2. Kĩ năng nói .....................................................................................................8
1.2.2.3. Rèn luyện kĩ năng nói ...................................................................................10
1.2.3. Một số đặc điểm của học sinh đầu bậc Tiểu học liên quan đến vấn đề rèn
luyện kĩ năng nói .......................................................................................................10
1.2.4. Sự cần thiết phải rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh lớp 2 ............................12
1.3. Cơ sở thực tiễn ...................................................................................................13
1.3.1. Thực trạng nhận thức của giáo viên trong vấn đề rèn luyện kĩ năng nói cho
học sinh lớp 2 trong các giờ dạy Tiếng Việt .............................................................13
1.3.2. Thực trạng rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh lớp 2 ......................................14
1.3.3. Nguyên nhân về thực trạng .............................................................................15
1.3.3.1. Về phía giáo viên ..........................................................................................15


1.3.3.2. Về phía học sinh ...........................................................................................16
1.2.4. Chương trình sách giáo khoa môn Tiếng Việt lớp 2 .......................................17
CHƢƠNG 2: VẬN DỤNG LÍ THUYẾT HỘI THOẠI VÀO RÈN LUYỆN KĨ
NĂNG NÓI CHO HỌC SINH LỚP 2 ...................................................................18
2.1. Nói đảm bảo phương châm về chất ....................................................................18
2.2. Nói đảm bảo phương châm về lượng .................................................................20
2.3. Nói đảm bảo phương châm quan hệ...................................................................22
2.4. Nói đảm bảo phương châm quan hệ...................................................................22
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC RÈN
LUYỆN KĨ NĂNG NÓI CHO HỌC SINH LỚP 2 THÔNG QUA LÍ THUYẾT
HỘI THOẠI .............................................................................................................24
3.1. Các nguyên tắc xây dựng biện pháp ..................................................................24

3.1.1. Nguyên tắc mục tiêu........................................................................................24
3.1.2. Nguyên tắc hệ thống........................................................................................24
3.1.3. Nguyên tắc hiệu quả ........................................................................................24
3.2. Một số phương pháp rèn luyện ..........................................................................25
3.2.1. Phương pháp 1: Phương pháp quan sát ...........................................................25
3.2.2. Phương pháp 2: Phương pháp phân tích - tổng hợp........................................26
3.2.3. Phương pháp 3: Phương pháp thực hành luyện tập ........................................27
KẾT LUẬN ..............................................................................................................40
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................41


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
- Hội thoại là hoạt động thường xuyên, phổ biến của con người trong
xã hội, diễn ra mọi lúc, mọi nơi. Đây là hoạt động mà người nói dùng ngôn
ngữ để tương tác nhằm trao đổi một vấn đề hay thông tin nào đó tới người
nghe. Hay nói như Giáo sư Đỗ Hữu Châu: “Hội thoại là hình thức giao tiếp
thường xuyên, phổ biến của ngôn ngữ, nó cũng là hình thức cơ sở của mọi
hoạt động ngôn ngữ khác” [4, 201].
- Hội thoại là cơ sở của mọi hoạt động ngôn ngữ khác. Hội thoại là nhịp
cầu nối giữ người nói với người nghe vào quá trình giao tiếp. Nhờ hội thoại mà
mối quan hệ tương tác giữa con người với con người mới được thiết lập và duy
trì. Thông qua cuộc hội thoại, các nhân vật giao tiếp biểu lộ một cách rõ nét tình
cảm, trạng thái tâm lí, văn hóa, tính cách của mình. Việc giáo dục kĩ năng nói
trong giao tiếp từ xưa đã được ông cha coi trọng: “Học ăn, học nói, học gói, học
mở”, “Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.
- Hiện nay, theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học theo hướng
tích cực, dạy Tiếng Việt không chỉ dạy cho các em kĩ năng nghe, viết, đọc mà
còn dạy các em kĩ năng nói trong giao tiếp, đồng thời biết vận dụng các lí
thuyết hội thoại vào việc dạy kĩ năng nói cho đạt hiệu quả. Bởi vì, nếu một

người đọc thông, viết thạo tất cả các văn bản, tuy nhiên khi nói trước tập thể
thì không biết trình bày những thông tin mình muốn diễn đạt (bằng ngôn ngữ
nói) một cách hợp lí thì hội thoại không thể đạt được đích như mong muốn.
Từ những lí do trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Vận dụng lí
thuyết hội thoại vào rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh lớp 2”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục đích
Củng cố, nâng cao và hệ thống hóa kiến thức về lí thuyết hội thoại
như: khái niệm hội thoại, quy tắc hội thoại và kĩ năng nói. Bước đầu ứng dụng

1


một số vấn đề về lí thuyết hội thoại vào rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh
lớp 2.
Khóa luận tìm ra những biện pháp phù hợp nhằm giúp trẻ mạnh dạn hơn
trong giao tiếp, tiếp đó là rèn cho học sinh những kĩ năng nói biểu cảm trong giao
tiếp, cũng như biết bày tỏ quan điểm nhận thức của bản thân trước những vấn đề
mà các em phải tự bộc lộ qua những lời nói, lời phát biểu trả lời theo nội dung bài
học và sự giao tiếp với mọi người xung quanh ở trường, ở lớp và ngoài xã hội.
2.2. Nhiệm vụ
- Tìm hiểu lí thuyết hội thoại, kĩ năng nói và rèn luyện kĩ năng nói cho
học sinh lớp 2.
- Tìm hiểu thực trạng của việc rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh lớp 2
hiện nay. Đưa ra một số đề xuất về phương pháp phát triển kĩ năng nói cho
học sinh lớp 2.
3. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu
3.1. Phạm vi nghiên cứu
- Vận dụng lí thuyết hội thoại vào rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh
Tiểu học, đặc biệt là rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 2.

- Khóa luận dựa trên lí thuyết hội thoại để rèn kĩ năng nói cho học sinh
lớp 2 trong các giờ Kể truyện, Tập đọc, Tập làm văn.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu về lí thuyết hội thoại, cụ thể là nghiên cứu các phương
châm hội thoại của Grice.
- Ứng dụng kết quả nghiên cứu vào việc rèn luyện kĩ năng nói cho học
sinh lớp 2.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp thống kê, phân loại
Tiến hành thống kê các cuộc hội thoại xem nó xuất hiện với số lượng
và tần suất như thế nào trong sách giáo khoa Tiếng Việt 2.

2


Tiến hành thống kê 96 tác phẩm với khoảng hơn 50 cuộc hội thoại.
Phân loại các cuộc hội thoại tuân thủ hay vi phạm các phương châm hội
thoại của Grice.
4.2. Phương pháp phân tích
Từ việc thống kê và phân loại chúng tôi đi sâu vào nghiên cứu, phân
tích, lý giải và nhận xét các cách sử dụng của chúng trong các bài Tập đọc
(sách giáo khoa lớp 2). Qua đó, chúng tôi đi phân tích những cuộc hội thoại
đó theo các phương châm hội thoại của Grice để thấy được sự vận dụng linh
hoạt trong cách sử dụng ngôn ngữ của các tác giả.
5. Bố cục khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo khóa luận gồm 3
chương:
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu và cơ sở lí luận liên quan đến đề tài.
Chương 2: Vận dụng lí thuyết hội thoại vào rèn luyện kĩ năng nói cho
cho học sinh lớp 2.

Chương 3: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả rèn luyện kĩ năng nói
cho học sinh lớp 2.

3


PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan nghiên cứu
Trên bình diện lí thuyết về hội thoại, đã được nhiều nhà nghiên cứu như:
- Đỗ Hữu Châu với “Đại cương ngôn ngữ học”, tác giả đã trình bày về
sự vận động hội thoại, các yếu tố kèm lời và phi lời, các quy tắc hội thoại,
thương lượng hội thoại, cấu trúc hội thoại, ngữ pháp hội thoại, kết luận về cấu
trúc hội thoại, tính thống nhất của hội thoại trong chương V cuốn “Đại cương
ngôn ngữ học”, tập Ngữ dụng học. Đặc biệt trong đó ông đề cập đến nguyên
tắc cộng tác hội thoại của Grice.
- Nguyễn Đức Dân cũng đã có công trình nghiên cứu về “Ngữ dụng
học”. Quyển sách này cung cấp cho độc giả những kiến thức ngữ dụng cơ bản
cùng những kiến giải và ví dụ minh họa sâu sắc, dễ hiểu. Theo Nguyễn Đức
Dân, có hai quy tắc hội thoại chính: nguyên tác và nguyên lý tế nhị. Nguyên
lý cộng tác và nguyên lý tế nhị được Nguyễn Đức Dân giới thiệu khá đầy đủ
qua nguyên tắc cộng tác của Grice.
- Tác giả Khuất Thị Lan với bài viết “Hành vi ngôn ngữ rào đón
phương châm về chất trong một số truyện ngắn tiêu biểu của Nam Cao” đăng
trên Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống số 8 (178) năm 2010. Bài viết đi sâu phân
tích một cách kĩ lưỡng về hành vi ngôn ngữ rào đón trong phương châm về
chất ở phạm vi một số truyện ngắn tiêu biểu của Nam Cao.
Mục tiêu của chương trình Tiếng Việt mới đặc biệt chú ý tới việc hình
thành, phát triển bốn kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết. Việc cung cấp kiến thức chỉ

cần ở yêu cầu cơ bản và chủ yếu hình thành ở học sinh năng lực, kĩ năng sử
dụng Tiếng Việt để học tập và giao tiếp. Vấn đề rèn kĩ năng nói cho học sinh
lớp 2 nói đã có một số tài liệu đề cập đến:

4


- “Dạy và học môn Tiếng Việt ở Tiểu học theo chương trình mới” (Tiến sĩ
Nguyễn Trí - NXBGD, 2000). Trong tài liệu này tác giả đề cập đến sự cần thiết
của rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh thông qua quá trình dạy học các phân
môn Tiếng Việt (Tập đọc, Kể chuyện, Tập làm văn…) và các phân môn khác.
- “Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học”, Tác giả Lê Phương
Nga - Đặng Kim Nga, [8] nói về các phương pháp dạy học. Trong đó, đề cập
đến vấn đề rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh Tiểu học trong các phân môn
(Tập đọc, Tập làm văn và Kể truyện). Ngoài ra, có rất nhiều những khóa luận
tốt nghiệp đề cập tới vấn đề này.
- Tác giả Nguyễn Thị Châu với bài viết đã đề cập đến vấn đề rèn kĩ
năng nói cho học sinh Tiểu học trong phân môn Tập đọc.
1.2. Cơ sở lí luận
1.2.1. Khái quát về hội thoại
1.2.1.1. Khái niệm hội thoại
Giao tiếp là quá trình truyền đi, phát đi một thông tin từ một người hay
một nhóm người nào đó cho một người hay một nhóm người khác. Và trên thực
tế những thông tin hay những thông điệp đó thực sự thành công khi cả người
nhận và người gửi đều lĩnh hội chúng theo cùng một cách. Hoạt động giao tiếp
gồm giao tiếp một chiều (độc thoại) và giao tiếp hai chiều (hội thoại).
Hội thoại là hình thức thường xuyên phổ biến của người với người
trong xã hội và nó là hoạt động mà người nói dùng ngôn ngữ để tương tác
nhằm trao đổi một vấn đề hoặc một thông tin nào đó tới người nghe. Nó bao
gồm ít nhất là hai nhân vật, có thể hơn hai (đa thoại). Hội thoại có thể được

thể hiện ở hai dạng hoặc là lời ăn tiếng nói trong sinh hoạt hàng ngày của con
người nói chung hoặc lời trao đáp giữa các nhân vật trong văn bản nói riêng.
Khi bàn về vấn đề hội thoại có rất nhiều định nghĩa. Theo Đỗ Hữu
Châu: “Hội thoại là hình thức giao tiếp thường xuyên, phổ biến của ngôn
ngữ, nó cũng là hình thức cơ sở của mọi hoạt động ngôn ngữ khác”. [4, 201].

5


1.2.1.2. Các quy tắc của hội thoại
Hội thoại là một hoạt động có đích, diễn biến theo những quy tắc nhất
định. Có ba quy tắc hết sức quan trọng quyết định đến chất lượng (sự thành
công hay thất bại) của một cuộc hội thoại, cụ thể:
a. Nguyên tắc luân phiên lượt lời
- Do bản chất tuyến tính nên sự giao tiếp bằng lời đòi hỏi phải giảm
thiểu đến mức thấp nhất sự dẫm đạp lên lời của nhau. Vì thế, khi hai người
hội thoại, người kia phải nói khi người này nhường lời theo cách lời người
này kế tiếp lời người kia.
- Có những dấu hiệu nhất định, báo một cách tự động cho người kia
biết rằng họ có thể nói. Đó là những dấu hiệu như sự trọn vẹn về ý nghĩa, sự
trọn vẹn về cú pháp, ngữ điệu, các câu hỏi, các hư từ….
Ví dụ:
Thấy Tôm Càng ngó mình trân trân, con vật nói:
- Chào bạn. Tôi là Cá Con.
- Chào Cá Con. Bạn cũng ở sông này sao?
- Chúng tôi cũng sống dưới nước giống như nhà tôm các bạn. Có loài
cá ở sông ngòi, có loài ở hồ ao, có loài ở biển cả.
(Tôm Càng và Cá Con, Tiếng Việt 2, tập 2, 68).
Ở đây khi “Cá Con” giới thiệu tên của mình “Chào bạn. Tôi là Cá
Con” thì “Tôm Càng” đã ngầm hiểu rằng mình có thể nói vì câu của “Cá

Con” đã trọn vẹn về ý nghĩa. Tiếp theo lượt lời đó thì “Tôm Càng” trả lời và
đặt câu hỏi để “Cá Con” biết lượt lời tiếp theo là của mình. Như vậy, hai
nhân vật “Cá Con” và “Tôm Càng” vận dụng một cách linh hoạt nguyên tắc
luân phiên lượt lời.
b. Nguyên tắc liên kết hội thoại
- Nguyên tắc liên kết hội thoại không chỉ chi phối các diễn ngôn đơn
thoại mà chi phối cả các lời tạo thành một cuộc thoại.

6


- Tính liên kết hội thoại thể hiện trong lòng một phát ngôn, giữa các
phát ngôn, giữa các hành động ở lời, giữa các đơn vị hội thoại.
- Tính liên kết hội thoại không chỉ thuộc lĩnh vực nội dung và thể hiện
bằng các dấu hiệu ngữ pháp hiểu theo nghĩa truyền thống mà còn thuộc các
lĩnh vực hành động ở lời, còn thể hiện trong quan hệ lập luận.
c. Nguyên tắc cộng tác hội thoại
Nằm trong quy tắc “Điều hành nội dung hội thoại” các phương châm
hội thoại của Grice thuộc nguyên tắc cộng tác. Nguyên tác cộng tác hội thoại
do Grice đề ra năm 1967.
Nguyên tắc cộng tác hội thoại được Grice phát biểu như sau: “Hãy làm
cho phần đóng góp của anh, chị (vào cuộc hội thoại - HĐC) đúng như nó
được đòi hỏi ở giai đoạn (của cuộc hội thoại - HĐC) mà nó xuất hiện phù
hợp với đích hay phương hướng của cuộc hội thoại mà anh chị đã chấp nhận
tham gia vào”. [4, 229].
Nguyên tắc cộng tác được nhìn nhận từ bốn phạm trù mà Grice gọi là
phạm trù lượng, phạm trù chất, phạm trù quan hệ, phạm trù cách thức. Và
tương ứng với mỗi phạm trù là một phương châm hội thoại. Có bốn phương
châm hội thoại được Grice khái quát như sau:
- Phương châm về lượng

- Phương châm về chất
- Phương châm quan hệ
- Phương châm cách thức
Mỗi phương châm lại bao gồm các tiểu phương châm được Grice phát
biểu như sau:
1. Phương châm về chất
- Hãy nói những điều mà anh tin là đúng.
- Đừng nói điều mà anh không có bằng chứng xác thực.

7


2. Phương châm về lượng
- Hãy làm cho phần đóng góp của anh (chị) có lượng tin đúng như đòi
hỏi (đối với những mục đích hiện hữu của lần trao đổi đó).
- Đừng làm cho phần đóng góp của anh có lượng tin lớn hơn đòi hỏi.
3. Phương châm quan hệ
Phương châm này được Grice phát biểu rất ngắn gọn: Hãy quan yếu
(berelevant) nghĩa là hãy nói những điều có dính líu và liên quan đến hội
thoại.
4. Phương châm cách thức
- Trách lối nói tốt nghĩa.
- Trách lối nói mập mờ (có thể hiểu nhiều nghĩa).
- Hãy nói ngắn gọn (trách dài dòng).
- Hãy nói có trật tự. [4, 230].
1.2.2. Kĩ năng nói
1.2.2.1. Kĩ năng
- Có rất nhiều các định nghĩa về kĩ năng trong tâm lý học, nhưng nói
chung các định nghĩa này có sự thống nhất như sau: Kĩ năng là khả năng thực
hiện hành động với mục đích và điều kiện mà trong đó con người được định

hướng.
- Từ điển Tiếng Việt đã đưa ra định nghĩa về “Kĩ năng” như sau: Kĩ
năng là khả năng vận dụng những kiến thức thu được trong một lĩnh vực nào
đó vào thực tế.
1.2.2.2. Kĩ năng nói
a. Khái niệm
Kĩ năng nói là kĩ năng tiếp thu thông tin đúng, biết vận dụng từ ngữ
chính xác để diễn đạt rõ ràng, lưu loát ý của mình trước người khác (tập thể)
về một vấn đề đặt ra.

8


b. Kĩ năng nói trong các kiểu giao tiếp
- Nói là một hoạt động phát tin nhờ sử dụng bộ máy phát âm. Đầu tiên
người nói phải xác định nội dung lời nói, lựa chọn ngôn ngữ để diễn tả nội
dung đó. Sau đó người nói sử dụng bộ máy phát âm để truyền đi chuỗi lời nói
đã được xác định.
- Từ đặc điểm kiểu giao tiếp, người ta nói đến hai dạng nói: đối thoại và
độc thoại. Mỗi dạng có những đặc điểm riêng.
* Đối thoại:
+ Người đối thoại là người tham gia vào quá trình xây dựng nội dung
và diễn biến cuộc hội thoại. Họ luôn có sự đổi vai, từ người nói sang người
nghe hoặc ngược lại. Đối thoại đòi hỏi sự thích ứng nhanh khi đổi vai để có
thể nhập ngay vào nội dung cuộc đối thoại.
+ Lời đối thoại thường ngắn gọn, các từ đưa đẩy chêm xen được sử
dụng nhiều tạo cho câu văn, lời văn có phong cách khẩu ngữ.
+ Có sự hỗ trợ của các yếu tố phi ngôn ngữ như điệu bộ, cử chỉ, ánh mắt,
giọng cười… Trong nhiều trường hợp, các yếu tố phi ngôn ngữ giúp người nghe
hiểu chính xác, đúng ý người nói và có tác dụng hấp dẫn người nghe.

* Độc thoại:
+ Người độc thoại giữ vai trò chủ động trong việc lựa chọn nội dung,
định hướng nói, trong việc xác định phương pháp nói.
+ Lời độc thoại thường diễn ra liên tục. Do đó, người nói ít có thời gian
ngừng nghỉ để chuẩn bị. Điều này đòi hỏi người nói cần chuẩn bị kĩ lưỡng nội
dung (thậm chí cả ngôn từ, điệu bộ…) trước khi nói. Sự chuẩn bị không chu
đáo sẽ dẫn tới tình trạng nói lộn xộn hoặc luống cuống không nói được.
+ Người độc thoại cũng có thể sử dụng các yếu tố phụ trợ như: ánh
mắt, điệu bộ, cử chỉ.
Kể chuyện được coi là dạng đặc biệt của độc thoại. Kể chuyện là lời
độc thoại mang tính nghệ thuật nhằm truyền đến người đọc không phải những
thông báo khô khan, nhạt nhẽo mà là một văn bản nghệ thuật.
9


1.2.2.3. Rèn luyện kĩ năng nói
- Rèn luyện kĩ năng nói là quá trình luyện tập để đạt tới mức độ thành
thục các thao tác lời nói.
- Yêu cầu của việc rèn luyện kĩ năng nói:
* Đảm bảo những điều kiện nhất định để nói có hiệu quả
- Nội dung bài nói phải phù hợp với đối tượng người nghe.
- Người nói phải có tầm hiểu biết sâu rộng và một vốn sống phong phú.
- Người nói phải có uy tín.
- Người nói phải có giọng nói tốt.
* Chuẩn bị bài nói chu đáo. Cụ thể:
- Xác định được mục đích nói.
- Xác định được nội dung cần nói.
- Lựa chọn phương pháp trình bày sao cho hấp dẫn, thu hút người nghe.
* Tổ chức tốt quá trình giao tiếp.
1.2.3. Một số đặc điểm của học sinh đầu bậc Tiểu học liên quan đến vấn đề

rèn luyện kĩ năng nói
Học sinh lớp 2 đang ở giai đoạn có nhiều biến đổi về sinh lý, tâm lý và
hoạt động. Nhà giáo dục cần quan tâm đến những đặc điểm này để có biện
pháp giáo dục hiệu quả.
Một số đặc điểm tâm lí của học sinh lớp 2 nói riêng và của học sinh
Tiểu học nói chung liên quan đến vấn đề rèn luyện kĩ năng nói là:
- Đặc điểm nhận thức:
Tri giác: tri giác của học sinh Tiểu học vẫn mang tính chủ quan. Trong
quá trình tri giác trẻ chỉ tập trung vào một vài chi tiết nào đó của đối tượng và
cho đấy là tất cả. Tính cảm xúc thể hiện rõ khi các em tri giác. Ở lứa tuổi này,
tri giác trước hết là những sự vật, những dấu hiệu, những đặc điểm nào trực
tiếp gây cho các em những cảm xúc. Vì thế cái trực quan, cái rực rỡ, cái sinh

10


động được các em tri giác tốt hơn, dễ gây ấn tượng tích cực hơn. Do vậy theo
nhà tâm lý học V.A.Cruchétxki thì những bức tranh có màu sắc sặc sỡ trong
sách giáo khoa sẽ ảnh hưởng không tốt đến học tập: kĩ xảo đọc, làm chậm tốc
độ đọc. Bởi lẽ những chi tiết riêng biệt, khêu gợi, kích thích lại phỏng đoán
các từ đang đọc. Khi đã có kĩ xảo đọc sơ đẳng thì lúc ấy những tranh ảnh
minh họa bắt đầu ảnh hưởng đến sự phát triển ngôn ngữ.
Chú ý: Sự tập trung chú ý của học sinh lớp 2 còn yếu, thiếu bền vững.
Chú ý không chủ định phát triển mạnh mẽ và chiếm ưu thế. Tất cả những gì
mới mẻ, bất ngờ, rực rỡ khác thường đều dễ dàng cuốn hút chú ý của trẻ mà
không cần bất kì sự nỗ lực nào. Điều này có căn nguyên là quá trình ức chế ở
bộ não của các em còn yếu. Do vậy, chú ý của các em còn bị phân tán. Điều
này cho chúng ta thấy rằng: Các em sẽ quên điều cô giáo dặn khi cuối buổi
học, bỏ sót chữ cái trong từ, bỏ sót câu khi trả lời… Nhiều công trình nghiên
cứu chú ý đã khẳng định học sinh Tiểu học thường chỉ tập trung và duy trì chú

ý liên tục trong khoảng 30 đến 35 phút. Sự chú ý của học sinh Tiểu học còn
phụ thuộc vào nhịp độ học tập. Nhịp độ học tập quá nhanh hoặc quá chậm
không thuận lợi cho tính bền vững và sự tập trung chú ý.
Trí nhớ: Do hoạt động của hệ thống tín hiệu thứ nhất ở học sinh lứa tuổi
này tương đối chiếm ưu thế nên trí nhớ trực quan - hình tượng được phát triển
hơn trí nhớ từ ngữ - lôgic. Cho nên khi diễn đạt vấn đề cần nêu, học sinh
thường lúng túng, cần phải nhìn vào sách, vào tài liệu để nói mà chưa biết cách
sắp xếp lại, sửa đổi lại, diễn đạt lại bằng lời lẽ của mình. Nguyên nhân do ngôn
ngữ của các em còn hạn chế, đối với chúng việc nhớ lại từng câu, từng chữ dễ
hơn dùng lời lẽ của mình để diễn tả một sự kiện, hiện tượng nào đó.
Tình cảm: Đặc trưng cơ bản trong đời sống tình cảm của các em là dễ
xúc động, sống nhờ nhờ cảm xúc, tình cảm. Tình cảm của học sinh lứa tuổi
này còn mang đậm tính cụ thể, trực quan và giàu cảm xúc.

11


Tưởng tượng: Ở học sinh Tiểu học, tưởng tượng được hình thành trong
quá trình học tập dưới tác động của những yêu cầu mà hoạt động này đặt ra.
Tưởng tượng của các em, một mặt thoát dần những ấn tượng trực tiếp (chính
điều này đã khiến cho nó có tính sáng tạo), mặt khác tính hiện thực trong
tưởng tượng của các em đã bắt đầu có sự gắn liền với sự phát triển khả năng
kiểm tra, đánh giá. Những hình ảnh của tưởng tượng theo quan điểm của
lôgic, của các quy luật khách quan được tăng cường mạnh mẽ.
- Sự phát triển ngôn ngữ đã đạt tới mức hiểu đúng những lời giảng giải
của giáo viên có phần gần với kinh nghiệm sống hàng ngày của các em nhưng
cũng có phần tương đối khái quát, trừu tượng. Mặt khác, các em có khả năng
diễn đạt đúng, rõ ràng và tương đối gãy gọn những ý nghĩ, tình cảm mà mình
muốn nói ra với người khác. Tuy nhiên, các em còn mắc nhiều lỗi phát âm,
lỗi dùng từ, đặt câu,… thường lúng túng khi trình bày bài nói hoặc viết.

- Tâm lý rụt rè, ngại ngùng, dễ bị xúc động khi nói trước lớp có nhiều bạn
bè, cô giáo nên các em học sinh lớp 2 nói chưa rõ lời, có khi còn bị ngắt quãng,
nói lắp hoặc lúng túng không nhớ để diễn đạt theo yêu cầu mà giáo viên đưa ra.
Những đặc điểm trên đây có ảnh hưởng lớn đến việc rèn luyện kĩ năng
nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp 2, trong đó nổi bật là vấn đề rèn
luyện kĩ năng nói. Để giờ học đạt kết quả cao, người giáo viên cần hiểu rõ đặc
điểm nhận thức, đặc điểm tâm sinh lí của học sinh. Việc tìm hiểu là một quá
trình lâu dài nhưng rất cần thiết. Giáo viên phải nắm được những ưu điểm và
nhược điểm của từng học sinh để từ đó có biện pháp thích hợp nhằm phát huy
ưu điểm, giảm thiểu nhược điểm của học sinh. Có làm được như vậy mới đạt
được những yêu cầu đặt ra.
1.2.4. Sự cần thiết phải rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh lớp 2
- Nói là một dạng của hoạt động giao tiếp ở mọi nơi, mọi lúc, trong mọi
hoạt động sinh hoạt hàng ngày của con người đều cần phải giao tiếp - chủ yếu

12


bằng hình thức nói. Vì vậy, dạng nói được sử dụng thường xuyên liên tục hơn
so với dạng viết. Nhờ có dạng hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ này mà con
người trao đổi kinh ngiệm, thỏa mãn nhu cầu tinh thần, hình thành các nhận
định, quan điểm, tư tưởng, thái độ, tâm trạng, xu hướng chung,… Xã hội ngày
càng phát triển, nhu cầu và thái độ giao tiếp ngày càng tăng, con người cần
phải rèn luyện kĩ năng nói. Như người xưa có câu “Học ăn, học nói, học gói,
học mở”. Bởi nó góp phần quan trọng quyết định thành công trong mọi vấn
đề của đời sống vốn vô cùng phong phú và đa dạng của con người.
- Học sinh lớp 2 trước khi đến trường các em đã có một “Vốn nói” nhất
định để trao đổi, giao tiếp với mọi người xung quanh. Tuy nhiên, “Vốn nói”
này chưa thật đầy đủ và chưa hoàn thiện để có thể sử dụng giao tiếp trong mọi
hoạt động xã hội vốn rất đa dạng. Đặc biệt, việc sử dụng ngôn ngữ nói cho

hoạt động học tập là hoạt động chủ đạo của các em. Vì vậy, việc đặt mục tiêu
rèn luyện kĩ năng nói song song với việc rèn luyện kĩ năng đọc - viết - nghe
trong môn Tiếng Việt là đã nhấn mạnh vai trò vị trí quan trọng của nó.
1.3. Cơ sở thực tiễn
1.3.1. Thực trạng nhận thức của giáo viên trong vấn đề rèn luyện kĩ năng
nói cho học sinh lớp 2 trong các giờ dạy Tiếng Việt
Vấn đề rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 2 luôn đươc giáo viên quan
tâm và đánh giá cao. Đặc biệt theo chương trình mới hiện nay (VNEN, công
nghệ giáo dục), việc giúp học sinh tự tin, tiến bộ với bản chính thân mình thì
vấn đề rèn luyện cho học sinh kĩ năng nói trong các giờ dạy Tiếng Việt càng
trở nên cần thiết và cấp bách. Kĩ năng nói cùng với ba kĩ năng nghe, đọc, viết
là bốn kĩ năng cơ bản của dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học. Tuy nhiên, giáo
viên vẫn còn lúng túng khi dạy hay trong khi xác định mục tiêu cần rèn luyện
kĩ năng nói cho học sinh trong các giờ học Tiếng Việt. Bởi việc rèn luyện kĩ
năng nói còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như: thiết bị dạy học, đặc điểm

13


nhận thức của từng học sinh, đặc điểm phát âm của từng vùng miền để rèn
luyện kĩ năng nói cho học sinh một cách hiệu quả và phù hợp.
1.3.2. Thực trạng rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh lớp 2
Mục tiêu dạy học môn Tiếng Việt đã xác định: Kĩ năng nói là một trong
bốn kĩ năng quan trọng cần được hình thành và phát triển cho học sinh song
song với các kĩ năng đọc, viết, nghe. Nhiệm vụ rèn luyện kĩ năng được đặt lên
hàng đầu nhưng cũng không xem nhẹ nhiệm vụ cung cấp tri thức Tiếng Việt.
Như vậy, chương trình mới được xây dựng giúp học sinh hòa nhập vào chính
cuộc sống của các em - dạy Tiếng Việt trong giao tiếp và để giao tiếp. Điều
này cho thấy ngôn ngữ nói cũng không kém phần quan trọng trong hoạt động
học tập của các em.

Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay ở trường Tiểu học của chúng ta đang
coi nhẹ việc rèn luyện ngôn ngữ nói. Có thể thấy ở Tiểu học chưa có phân
môn nào trong môn Tiếng Việt đặt trọng tâm rèn kĩ năng nói lên hàng đầu
như: Tập đọc rèn kĩ năng đọc, Tập viết rèn kĩ năng viết,… Kĩ năng nói chỉ
được dạy một cách tự phát qua việc học các phân môn từ Tập đọc đến Tập
làm văn, Kể chuyện. Đồng thời kĩ năng nói cũng không được xác định rõ mức
độ cần đạt qua từng lớp ở trường Tiểu học, mà mới chỉ chú ý dạy khả năng
độc thoại, bỏ qua khả năng đối thoại.
Nội dung dạy luyện nói trong các giờ dạy Tiếng Việt ở lớp 2 gồm:
Trong giờ Tập đọc thì vấn đề rèn luyện kĩ năng nói được “Tích hợp”
trong hoạt động luyện đọc đúng, đọc hiểu. Mục tiêu dạy học của phân môn
Tập đọc đã nêu: Rèn kĩ năng đọc kết hợp với việc rèn các kĩ năng nghe, nói.
Chính vì vậy, nội dung rèn kĩ năng nói đã bị thu hẹp lại do người giáo viên
chỉ coi giờ Tập đọc chú trọng dạy đọc cho học sinh. Vì vậy, rất hiếm khi việc
yêu cầu học sinh nói rành mạch, rõ ràng, trọn ý, trọn câu; trả lời hay, hấp dẫn
trước mỗi câu hỏi để giải quyết yêu cầu bài đọc được giáo viên chú ý uốn nắn,

14


sửa chữa. Trong khi đó, đây chính là nội dung gắn với việc dạy nói cho học
sinh có hiệu quả nhất.
Trong giờ Kể chuyện: Đây có thể nói là giờ luyện cho học sinh kĩ năng
nói nhiều nhất. Đặc biệt là kĩ năng độc thoại. Thông qua bài Tập đọc học sinh
nhớ lại nội dung kết hợp với kể chuyện theo tranh. Tuy nhiên hiện nay các giờ
Kể chuyện bị xem nhẹ vì chỉ có thời gian là nửa tiết (khoảng 20 phút), giáo
viên đôi khi chưa kịp tổ chức cho học sinh được luyện nói nhiều, chỉ được một
vài học sinh kể lại chuyện trước lớp. Chính vì thế, nhiều học sinh vẫn rụt rè,
thiếu tự tin và khó kể nội dung câu chuyện hoặc kể một cách máy móc cho qua.
Trong giờ Tập làm văn: Thông qua các bài tập hội thoai, bài tập độc

thoại giúp học sinh phát triển kĩ năng nói cho học sinh. Các bài tập hội thoại ở
lớp 2 được chia thành hai nhóm “Nói lời” ở học kì I và “Đáp lời” ở học kì II.
Lớp 2 chủ yếu là nhấn mạnh vào hành động dẫn nhập hay hồi đáp trong hội
thoại. Thực tế, trong cuộc hội thoại, cả hai hành động này đều được thực hiện
đồng thời. Các bài tập về độc thoại như: giới thiệu bản thân, các bài tập về mở
rộng vốn từ, kể chuyện theo tranh.
1.3.3. Nguyên nhân về thực trạng
1.3.3.1. Về phía giáo viên
Vai trò quyết định chất lượng rèn luyện kĩ năng nói chính là ở giáo viên.
Thông qua hệ thống câu hỏi (bằng phiếu điều tra) chúng tôi thấy là
phần lớn các giáo viên còn phân vân lúng túng trước yêu cầu rèn luyện kĩ
năng nói cho học sinh lớp 2. Thực tế này xuất phát từ các nguyên nhân sau:
- Do giáo viên chưa nắm được mục tiêu của các phân môn khi rèn
luyện kĩ năng nói trong các giờ dạy Tiếng việt ở lớp 2. Ví dụ như đối với
phân môn Tập đọc: Rèn luyện kĩ năng nghe, nói bên cạnh mục tiêu chính là
rèn luyện kĩ năng đọc đúng, đọc hiểu. Nhiều giáo viên vẫn còn có quan niệm
sai lầm về mục tiêu dạy phân môn này.

15


- Do thời gian dạy học một tiết chỉ gói gọn trong 35 đến 40 phút, mà
khối lượng kĩ năng, kiến thức cần truyền tải cho học sinh rất nhiều. Ví dụ
trong giờ Tập đọc giáo viên dành thời gian tập trung vào nội dung luyện đọc
đúng, đọc hiểu. Hai phần này đòi hỏi giáo viên phải huy động tích cực thời
gian đó mới có thể giải quyết được một cách đầy đủ. Hay trong giờ Tập làm
văn thì thời gian cho học sinh luyện nói là không nhiều chủ yếu dành cho hoạt
động viết.
- Do giáo viên phải soạn bài cho nhiều môn học khác nhau nên không
có thời gian đầu tư riêng cho việc xây dựng biện pháp nhằm rèn luyện kĩ năng

nói cho học sinh.
- Do giáo viên vẫn còn nhiều hạn chế về các kĩ năng sư phạm, chưa có
sự tìm tòi sáng tạo. Chính vì vậy, hầu hết giáo viên khi thực hiện nội dung
luyện nói chỉ làm theo mẫu thiết kế có sẵn chứ chưa ai có sự đầu tư thời gian
công sức để xây dựng nội dung dạy nói hấp dẫn, phong phú nhằm kích thích
học sinh hứng thú học tập. Ví dụ giáo viên còn chưa biết kết hợp dạy nói với
dạy đọc đúng, đọc hiểu trong từng giờ Tập đọc.
1.3.3.2. Về phía học sinh
Hiệu quả rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh ở lớp 2 chưa đạt yêu cầu đặt
ra. Về phía người học chủ yếu xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý ở lứa tuổi này.
Lứa tuổi học sinh lớp 2, ngôn ngữ còn hạn chế nên vấn đề nói năng của
các em gặp nhiều khó khăn. Chúng ta thấy, vào độ tuổi đi học học sinh đã
mang trong mình một vốn ngôn ngữ nói nhất định. Tuy nhiên vốn ngôn ngữ
này mới chỉ giúp các em phục vụ trong một phạm vi giao tiếp hẹp, với những
nội dung đơn giản và “Vốn” này ở các em còn thiếu hụt rất nhiều. Vì vậy, khi
tiến hành rèn luyện kĩ năng này những hạn chế đó càng được bộc lộ rõ. Nó thể
hiện việc diễn đạt còn lúng túng, ấp úng. Để diễn đạt (trình bày) một vấn đề
nào đó nhiều khi học sinh chưa biết dùng từ ngữ thích hợp hoặc sử dụng sai

16


nghĩa của từ. Do đó, làm cho người nghe hiểu sai nội dung thậm chí đến giáo
viên cũng lúng túng trước những câu nói ngây thơ của các em.
Mặt khác, các em lớp 2 còn ở giai đoạn làm quen với môi trường học
tập khác hẳn so với hoạt động vui chơi, vốn là hoạt động chủ đạo ở trường
mẫu giáo. Ở đây các em bắt đầu giao tiếp trong học tập, là hoạt động đòi hỏi
phải tuân theo nguyên tắc nhất định chứ không đơn giản như cách nói trong
sinh hoạt hàng ngày. Do vậy, hầu hết các em khi nói trước thầy cô giáo, bạn
bè nơi đông người chưa mạnh dạn, tự tin.

Một nguyên nhân nữa làm cho học sinh thiếu mạnh dạn, tự tin khi nói
là do những thay đổi môi trường sống từ phạm vi gia đình, nhà trẻ vốn hạn
hẹp đến môi trường học tập rộng lớn hơn ở bậc Tiểu học.
Ngoài ra, do cách dạy của giáo viên không gây được hứng thú học tập
cho học sinh nên trong quá trình dạy nói học sinh không hoạt động do đó làm
giảm kết quả rèn luyện kĩ năng này.
Xuất phát từ thực tế này chúng tôi thấy việc nghiên cứu vấn đề nêu trên
là cần thiết, nhằm góp phần thực hiện mục tiêu được đặt ra trong giai đoạn
hiện nay.
1.2.4. Chương trình sách giáo khoa môn Tiếng Việt lớp 2
Chương trình Tiếng Việt lớp 2 gồm 35 tuần lễ. Mỗi tuần học 9 tiết, học
kỳ I gồm 18 tuần (162 tiết), học kỳ II gồm 17 tuần (153 tiết). Được chia làm
hai tập: Sách Tiếng Việt lớp 2 tập 1, sách Tiếng Việt lớp 2 tập 2.
Sách được xây dựng theo 2 trục là chủ điểm và kĩ năng. Trong đó chủ
điểm được lấy làm khung cho cả cuốn sách, còn kĩ năng được lấy làm khung
cho từng tuần, từng đơn vị học.
Sách bao gồm 15 đơn vị học, mỗi đơn vị gắn với một chủ điểm, học
trong 2 tuần (riêng chủ điểm “Nhân dân” học trong 3 tuần).

17


CHƢƠNG 2: VẬN DỤNG LÍ THUYẾT HỘI THOẠI
VÀO RÈN LUYỆN KĨ NĂNG NÓI CHO HỌC SINH LỚP 2
2.1. Nói đảm bảo phƣơng châm về chất
Trong giao tiếp và hội thoại để đạt được hiệu quả giao tiếp người nói
cần tôn trọng phương châm về chất. Nó được phát biểu bằng hai tiểu phương
châm cụ thể như sau:
2.1.1. Hãy nói những điều mà anh tin là đúng
2.1.2. Đừng nói điều mà anh không có bằng chứng xác thực

Ví dụ 1:
Thấy Tôm Càng ngó mình trân trân, con vật nói:
- Chào bạn. Tôi là Cá Con.
- Chào Cá Con. Bạn cũng ở sông này sao?
- Chúng tôi cũng sống dưới nước giống như nhà tôm các bạn. Có loài
cá ở sông ngòi, có loài ở hồ ao, có loài ở biển cả.
(Tôm Càng và Cá Con, Tiếng Việt 2, tập 2, 68)
Ví dụ 2:
Hoa Giấy hỏi:
- Cậu có biết thế nào là vần thơ không?
- Vần thơ là cái gì?
- Hai từ có phần cuối giống nhau thì gọi là vần. Ví dụ: vịt - thịt, cáo - gáo.
(Mít làm thơ, Tiếng Việt 2, tập 1, 18 - 19)
Ở đây phương châm về chất đã được người nói tôn trọng, người nói
đưa ra thông tin tuyệt đối chính xác trong nội dung mà mình đưa ra. Ở ví dụ 1
“Cá Con” đã trả lời câu hỏi của “Tôm càng” là “Chúng tôi cũng sống dưới
nước giống như nhà tôm các bạn. Có loài cá ở sông ngòi, có loài ở hồ ao, có
loài ở biển cả” thì cho thấy “Cá Con” nói thông đó rất đáng tin cậy vì đó là
nơi sinh sống của họ hàng “Cá Con”.

18


Ở ví dụ 2 “Hoa Giấy” trả lời câu hỏi của “Mít” một cách đầy đủ và có
bằng chứng minh họa cho câu trả lời của mình là lấy ví dụ “Ví dụ: vịt - thịt,
cáo - gáo” thể hiện điều mình nói có độ tin cậy cao.
Đây là hiện tượng người nói tuân thủ phương châm về chất. Về mặt lí
thuyết, khi tham gia hội thoại người nói phải tuân thủ phương châm. Tuy
nhiên, qua việc khảo sát các cuộc hội thoại trong sách giáo khoa Tiếng Việt 2
thì không phải cuộc hội thoại nào cũng tuân thủ phương châm về chất mà

nhiều khi do vô tình hay cố ý người nói đã vi phạm phương châm.
Ví dụ 3:
Mít gọi Biết Tuốt, Nhanh Nhảu, Ngộ Nhỡ đến, tặng mỗi bạn mấy câu
thơ. Thoạt tiên là thơ về Biết Tuốt:
Một hôm đi dạo qua dòng suối
Biết Tuốt nhảy qua con cá chuối.
Biết Tuốt la lên:
- Tớ nhảy qua con cá chuối bao giờ?
- Nói cho có vần thôi! - Mít giải thích. [2, 36].
Rõ ràng, đây là cách nói vi phạm phương châm về chất. Sự vi phạm
này phương châm này thể hiện người nói là “Mít” cố tình nói ra điều mình tin
là không đúng (Một hôm đi dạo qua dòng suối, Biết Tuốt nhảy qua con cá
chuối). Tuy khi khi nói ra điều này thì “Mít” chỉ muốn nói cho có vần thơ đó
là vần “uôi” ở cuối câu thơ của mình.
Nói về hiện tượng tôn trọng hay vi phạm phương châm về chất thì tục
ngữ có những câu “Nói có sách, mách có chứng” khuyên chúng ta tuân thủ
phương châm hay “Ăn điêu nói hớt”, “Ăn không nói có”… là phê phán việc
vi phạm phương châm.
Phương châm về chất trong lí thuyết hội cộng tác được Grice nêu ra
chính là những yêu cầu trong giao tiếp đòi hỏi người nghe phải cung cấp

19


thông tin một cách xác thực và có căn cứ. Tuy nhiên, không phải lúc nào
người nói cũng tuân thủ phương châm về chất, có thể do hoàn cảnh giao tiếp
mà người nói cố tình vi phạm nhưng vẫn có thể chấp nhận được (như ví dụ 3).
2.2. Nói đảm bảo phƣơng châm về lƣợng
Được phát biểu bằng hai tiểu phương châm cụ thể như sau:
2.2.1. Hãy làm cho phần đóng góp của anh (chị) có lượng tin đúng như đòi

hỏi (đối với những mục đích hiện hữu của lần trao đổi đó).
2.2.2. Đừng làm cho phần đóng góp của anh có lượng tin lớn hơn đòi hỏi.
Ví dụ 4:
Một hôm, Chồn hỏi Gà Rừng:
- Cậu có bao nhiêu trí khôn?
- Mình chỉ có một thôi.
(Một trí khôn hơn trăm trí khôn, Tiếng Việt 2, tập 2, 31)
Đây là hiện tượng tuân thủ phương châm về lượng. Người nói ở đây là
“Chồn” đã đưa ra một lượng tin hỏi (hỏi có bao nhiêu trí khôn) còn người
nghe ở đây là “Gà Rừng” cũng đưa ra đúng lượng tin trả lời cho câu hỏi đó là
“Mình chỉ có một thôi”.
Ví dụ 5:
- Các cháu ăn có no không?
- Có ạ!
(Ai ngoan hơn sẽ được thưởng, Tiếng Việt 2, tập 2, 101)
Tương tự như vậy ở ví dụ này người nghe cũng đã đưa ra lượng tin mà
người hỏi mong muốn và câu trả lời “Có ạ” là đầy đủ và chính xác.
Về lí thuyết, khi tham gia hội thoại người nói thường tuân thủ phương
châm về lượng như thế này. Mặc dù vậy, qua thống kê cho thấy trong sách
khoa lớp 2 vẫn có một số cuộc hội thoại vi phạm phương châm về lượng.

20


×