Tải bản đầy đủ (.pdf) (200 trang)

Luận văn đảng bộ quân đội lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị từ năm 2001 đến năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (845.5 KB, 200 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Chương 1 CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ
QUÂN ĐỘI VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
CHÍNH TRỊ TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2005
1.1
Yêu cầu khách quan xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị
quân đội
1.2
Chủ trương của Đảng bộ Quân đội về xây dựng đội ngũ
cán bộ chính trị (2001 - 2005)
1.3
Đảng bộ Quân đội chỉ đạo xây dựng đội ngũ cán bộ chính
trị (2001 - 2005)
Chương 2 ĐẢNG BỘ QUÂN ĐỘI LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH
XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHÍNH TRỊ TỪ
NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2010
2.1
Những yếu tố mới tác động đến xây dựng đội ngũ cán bộ
chính trị quân đội
2.2
Chủ trương của Đảng bộ Quân đội đẩy mạnh xây dựng
đội ngũ cán bộ chính trị (2006 - 2010)
2.3
Đảng bộ Quân đội chỉ đạo xây dựng đội ngũ cán bộ chính
trị trong những năm 2006 - 2010
Chương 3 NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM


3.1
Nhận xét sự lãnh đạo của Đảng bộ Quân đội về xây dựng
đội ngũ cán bộ chính trị từ năm 2001 đến năm 2010
3.2
Kinh nghiệm từ quá trình Đảng bộ Quân đội lãnh đạo xây
dựng đội ngũ cán bộ chính trị (2001 - 2010)
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

5
10

33
33
53
61

82
82
93
102
125
125
141
165
167
168

187


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT

Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

01

Ban Chấp hành Trung ương

BCHTW

02

Chính trị quốc gia

CTQG

03

Chính ủy, chính trị viên

CU, CTV

04


Chủ nghĩa xã hội

CNXH

05

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNH, HĐH

06

Công tác đảng, công tác chính trị

CTĐ, CTCT

07

Đảng ủy Quân sự Trung ương

ĐUQSTW

08

Giáo dục lý luâ ân chính trị quân sự

GDLLCTQS

09


Nhà xuất bản

Nxb

10

Quân đội nhân dân Việt Nam

QĐNDVN

11

Quốc phòng toàn dân

QPTD

12

Tổng cục Chính trị

TCCT

13

Trang

Tr.

14


Xã hội chủ nghĩa

XHCN


5
MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu khái quát về luận án
Đề tài “Đảng bộ Quân đội lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị
từ năm 2001 đến năm 2010”, được tiếp cận nghiên cứu dưới góc độ khoa
học Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là vấn đề
đã được tác giả quan tâm từ rất sớm, sau khi xin ý kiến một số chuyên gia,
một số cán bộ cao cấp trong quân đội và các thầy hướng dẫn, tác giả đã
quyết định chọn đề tài trên làm luận án tiến sĩ Lịch sử Đảng. Đề tài luận án
trình bày khái quát một số vấn đề cơ bản như: Những nhân tố tác động và
yêu cầu khách quan phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ Quân đội đối
với công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị. Hệ thống hóa chủ trương và
sự chỉ đạo; đồng thời, đưa ra những nhận xét ban đầu, trên cơ sở đó rút ra
kinh nghiệm chủ yếu từ thực tiễn quá trình lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán
bộ chính trị của Đảng bộ Quân đội từ năm 2001 đến năm 2010.
Những vấn đề được luận giải trong đề tài luận án là sự vận dụng quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng sản
Việt Nam về xây dựng đội ngũ cán bộ và kế thừa có chọn lọc những nội dung
cơ bản trong các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài đã được công
bố. Đề tài là một công trình khoa học độc lập, mới mẻ, không có sự trùng lặp
với các công trình khoa học đã được công bố.
2. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Cán bộ là cái gốc của mọi
công việc” và “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hay kém”
[122, tr. 309]. Vì vậy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Chủ tịch Hồ

Chí Minh luôn quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ vừa “hồng” vừa “chuyên”, đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ. Theo Người, xây dựng đội ngũ cán bộ kế cận phải được coi
là công việc gốc của Đảng, là điều kiện bảo đảm cho cách mạng phát triển không


6
ngừng. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Bồi dưỡng thế hệ cách
mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết” [124, tr. 622].
Đội ngũ cán bộ chính trị các cấp trong quân đội có vị trí, vai trò hết sức
quan trọng, là lực lượng nòng cốt tiến hành các hoạt động CTĐ, CTCT, góp
phần xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, làm cho quân đội luôn trung
thành tuyệt đối với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân; là công cụ bạo
lực sắc bén của quốc gia, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập dân tộc, vì
CNXH, luôn nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Vì vậy, ngay trong
Nghị quyết về Đội Tự vệ được thông qua tại Đại hội I (3/1935), Đảng đã khẳng
định: “Trung đội có một người chánh, một người phó trung đội trưởng và một
người đại biểu của Đảng Cộng sản chỉ huy” [48, tr. 203]. Quan điểm nhất quán
trên đây của Đảng đã đặt nền móng cho công tác xây dựng đội ngũ cán bộ quân
đội nói chung và đội ngũ cán bộ chính trị nói riêng.
Quán triệt quan điểm đó, trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu và
trưởng thành của quân đội, Đảng bộ Quân đội thường xuyên quan tâm lãnh
đạo xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị các cấp một cách toàn diện. Đặc biệt,
từ khi quán triệt và thực hiện Nghị quyết số 51/NQ-TW của Bộ Chính trị
(khóa IX) Về việc tiếp tục hoàn thiê ên cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện
chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiê ên chế đô ê chính ủy, chính trị viên
trong Quân đội nhân dân Việt Nam và Nghị quyết số 513/NQ-ĐUQSTW của
ĐUQSTW về lãnh đạo triển khai tổ chức thực hiện Nghị quyết 51/NQ-TW
của Bộ Chính trị, đã tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong công tác xây dựng đội
ngũ cán bộ chính trị trên tất cả các lĩnh vực; tạo cơ sở để nâng cao vị trí, vai
trò và chất lượng công tác của đội ngũ CU, CTV nói riêng, đô âi ngũ cán bộ

chính trị trong toàn quân nói chung; góp phần nâng cao chất lượng xây dựng
quân đội về chính trị trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, công tác xây dựng đội
ngũ cán bộ chính trị vẫn còn một số hạn chế như: Công tác quy hoạch, kế


7
hoạch và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chính trị chất lượng chưa cao; số
lượng cán bộ còn thiếu so với nhu cầu về tổ chức, biên chế; năng lực tiến
hành CTĐ, CTCT của một số đồng chí chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
Nhìn chung “cán bộ chính trị còn mỏng và yếu về kiến thức khoa học xã hội,
nhân văn” [56, tr. 2], nhất là đội ngũ cán bộ chính trị cấp phân đội.
Hiện nay, trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước và mục tiêu
xây dựng QĐNDVN cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, lấy
xây dựng quân đội về chính trị làm cơ sở. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch
tăng cường chống phá cách mạng Việt Nam thông qua chiến lược “diễn biến
hòa bình”, bạo loạn lật đổ với nhiều thủ đoạn nham hiểm. Trong đó,
QĐNDVN được xác định là một trọng điểm chống phá với những chiêu bài
như: Xuyên tạc bản chất, truyền thống và nhiệm vụ chính trị; phủ nhận thành
quả cách mạng của quân đội, đòi thực hiện “phi chính trị hóa” quân đội;
chúng đang tìm mọi cách để móc nối, lôi kéo và làm tha hóa đội ngũ cán bộ
các cấp trong quân đội... Thực tiễn đó đòi hỏi phải nâng cao hơn nữa chất
lượng, hiệu quả hoạt động CTĐ, CTCT, góp phần nâng cao chất lượng xây
dựng quân đội về chính trị; trước hết phải tập trung nâng cao chất lượng xây
dựng đội ngũ cán bộ các cấp, trong đó xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị vững
mạnh toàn diện là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu.
Vì vậy, nghiên cứu và tổng kết quá trình Đảng bộ Quân đội lãnh đạo xây
dựng đội ngũ cán bộ chính trị từ năm 2001 đến năm 2010, trên cơ sở đó rút ra
những kinh nghiệm chủ yếu giúp gợi mở cho viê câ hoạch định các chủ trương
và giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị trong thời gian tiếp theo là vấn
đề cấp thiết, có ý nghĩa sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn.

Đây là những lý do cơ bản để nghiên cứu sinh chọn vấn đề “Đảng bộ Quân
đội lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị từ năm 2001 đến năm 2010” làm
đề tài luận án tiến sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.


8
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ quá trình Đảng bộ Quân đội lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ
chính trị từ năm 2001 đến năm 2010; rút ra một số kinh nghiệm chủ yếu góp phần
nâng cao chất lượng xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị trong giai đoạn hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu, luận giải làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn xây dựng đội ngũ cán
bộ chính trị quân đội từ năm 2001 đến năm 2010.
Trình bày có hệ thống chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ Quân đội về
xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị từ năm 2001 đến năm 2010.
Nhận xét và rút ra một số kinh nghiệm từ quá trình lãnh đạo xây dựng đội ngũ
cán bộ chính trị từ năm 2001 đến năm 2010 của Đảng bộ Quân đội.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ Quân đội về xây dựng đội
ngũ cán bộ chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
* Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Nghiên cứu những chủ trương và chỉ đạo của Đảng bộ Quân đội
về xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị, tập trung chủ yếu vào đội ngũ cán bộ
chính trị giữ cương vị chủ trì CTĐ, CTCT.
Về thời gian: Luận án nghiên cứu trong khoảng thời gian 10 năm (2001
– 2010). Tuy nhiên, để vấn đề nghiên cứu có tính hệ thống, luận án có đề cập
một số nội dung liên quan trong thời gian trước và sau 10 năm nói trên.
Về không gian: Luận án nghiên cứu về đô iâ ngũ cán bộ chính trị do các tổ

chức đảng trong Đảng bô â Quân đô iâ quản lý ở phạm vi toàn quân.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận


9
Luận án được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng về xây dựng đội ngũ cán
bộ.
* Cơ sở thực tiễn
Luận án thực hiện trên cơ sở thực tiễn quá trình Đảng bộ Quân đội lãnh đạo
xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị, nhất là trong những năm 2001 - 2010.
* Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành
và liên ngành, trong đó chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp
lôgíc; ngoài ra còn sử dụng một số phương pháp khác như: Phương pháp phân
tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh,
phương pháp phân kỳ và phương pháp chuyên gia để thực hiện luận án.
6. Những đóng góp mới của luận án
Luận án trình bày có hê â thống chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng bộ Quân
đội về xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị từ năm 2001 đến năm 2010.
Đưa ra một số nhận xét về quá trình Đảng bộ Quân đội lãnh đạo xây
dựng đội ngũ cán bộ chính trị trong những năm 2001 - 2010.
Rút ra mô ât số kinh nghiê âm có thể vâ ân dụng vào công tác lãnh đạo xây
dựng đô âi ngũ cán bộ chính trị trong thời gian tới.
7. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án
Luận án góp phần tổng kết về lý luận, thực tiễn xây dựng đội ngũ cán
bộ chính trị của Đảng bộ Quân đội trong giai đoạn 2001 - 2010.
Luận án là tài liệu để các tổ chức đảng tham khảo trong quá trình lãnh
đạo xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị; đồng thời, là tài liệu phục vụ công tác

nghiên cứu, giảng dạy Lịch sử Đảng trong các học viện, nhà trường quân đội.
8. Kết cấu của luận án


10
Kết cấu luận án gồm: Phần mở đầu, tổng quan về vấn đề nghiên cứu, 3
chương (8 tiết), kết luận, danh mục các công trình của tác giả đã công bố có
liên quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về vị trí, vai trò và yêu cầu xây
dựng đôiô ngũ cán bộ chính trị
Viện Lịch sử Quân sự - Bộ Quốc phòng Liên Xô trong sách “Công tác
đảng, công tác chính trị trong lực lượng vũ trang Liên Xô 1918 - 1973” [196];
A. A. Ê - pi - sep trong “Một số vấn đề về công tác đảng, công tác chính trị
trong lực lượng vũ trang Liên Xô” [88] và M. N. Ti - mô - phê - ê - trep trong
sách “Chế độ một thủ trưởng trong các lực lượng vũ trang Xô viết” [161].
Các tác giả đã đánh giá khái quát toàn bộ quá trình hình thành và phát triển của
hoạt động CTĐ, CTCT trong lực lượng vũ trang Liên Xô (trước đây); nêu bật
những thành tựu đã đạt được của đô iâ ngũ cán bộ chính trị các cấp, đặc biệt là
những đóng góp to lớn của các chính uỷ trong lực lượng vũ trang Xô viết qua
các thời kỳ cách mạng. Thông qua đó, các tác giả khẳng định: Chỉ có tiến hành
thường xuyên và có hiệu quả hoạt động CTĐ, CTCT mới bảo đảm cho quân đội
luôn đi đúng con đường cách mạng.
Việc phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ chính trị các cấp là vấn đề then
chốt trong xây dựng quân đội về chính trị. Các tác giả đã chỉ rõ vai trò to lớn của
đội ngũ chính ủy, quan điểm nhất quán về xây dựng đội ngũ chính ủy của V.I.
Lênin và Đảng Cộng sản Liên Xô. Khẳng định hệ thống chính uỷ bước đầu được
xây dựng sau Cách mạng Tháng Mười năm 1917: “Chính uỷ phải có quyền tối
hậu quyết định mới bảo đảm cho Hồng quân chiến đấu thắng lợi” [196, tr. 55].

Đội ngũ chính ủy được lựa chọn, rèn luyện và phân công vào công tác trong
quân đội đã biến một đội quân to lớn trở thành Hồng quân. Chính vì thế, Đảng


11
Cộng sản Liên Xô (trước đây) luôn quan tâm xây dựng đô iâ ngũ cán bộ chính trị
một cách toàn diện, đây là cơ sở và điều kiện để đội ngũ cán bộ chính trị có đủ
khả năng hoàn thành chức trách, nhiệm vụ của mình.
Tác giả Nguyễn Quang Phát trong “Báo cáo thu hoạch lớp bồi dưỡng công
tác đảng, công tác chính trị tại Học viện Chính trị Tây An - Quân Giải phóng nhân
dân Trung Quốc” [137], đã trình bày những vấn đề cơ bản nhất về hoạt động CTĐ,
CTCT của Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc. Khi đề cập về công tác xây
dựng đội ngũ cán bộ chính trị, tác giả đã chỉ rõ: Trong suốt quá trình lãnh đạo cách
mạng, Đảng Cộng sản Trung Quốc luôn quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ chính
trị, làm lực lượng nòng cốt tiến hành CTĐ, CTCT, góp phần xây dựng quân đội
vững mạnh về chính trị, bảo đảm cho quân đội luôn “Nghe theo lời Đảng, phục vụ
nhân dân, anh dũng thiện chiến”. Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ và truyền
thống của mình, Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc vẫn duy trì và thực hiện có
hiệu quả chế độ CU, CTV ở tất cả các cấp. Đội ngũ cán bộ chính trị được bố trí từ
cấp đại đội đến Chủ nhiệm Tổng bộ Chính trị. Những cán bộ chính trị được bổ
nhiệm giữ vị trí chủ trì về chính trị ở các đơn vị từ cấp trung đoàn đến đại
quân khu gọi là chính ủy; cấp tiểu đoàn gọi là giáo đạo viên và ở cấp đại đội
là chính trị viên. Số cán bộ chính trị còn lại công tác ở các cơ quan chính trị,
các trung tâm nghiên cứu về khoa học xã hội nhân văn quân sự và các nhà
trường… Song, đa số là công tác ở cơ quan chính trị các cấp từ Tổng bộ
Chính trị (được thiết lập ở cấp toàn quân) đến phòng chính trị (ở cấp trung
đoàn và tương đương), đây là lực lượng nòng cốt thực hiện nhiệm vụ trên lĩnh
vực CTĐ, CTCT trong Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc.
Đề tài khoa học cấp Bộ Quốc phòng KXB96 - 09 do tiến sĩ Trần Danh
Bích làm chủ nhiệm về “Xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội, đáp ứng yêu cầu

nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới” [9], trên cơ sở nghiên cứu về cơ cấu,
tổ chức biên chế, tiêu chuẩn cán bộ và thực trạng đội ngũ cán bộ chính trị trước
năm 1999, để đưa ra đánh giá: Đội ngũ cán bộ chính trị bảo đảm tương đối phù


12
hợp so với yêu cầu nhiệm vụ cả về số lượng, chất lượng và cương vị đảm
nhiệm. Số cán bộ chính trị cấp sư đoàn và tương đương trở lên luôn đủ về số
lượng, được rèn luyện thử thách qua thực tiễn chiến đấu và công tác; kết hợp
được lý luận và thực tiễn, vững vàng về chính trị tư tưởng. Trong khi đó, đội
ngũ cán bộ chính trị cấp trung đoàn và tương đương trở xuống tuổi còn trẻ,
được đào tạo cơ bản và phát triển khá nhanh. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác
nhau nên đội ngũ cán bộ chính trị vẫn chưa có sự phát triển ổn định, chưa có
điều kiện để tích lũy kinh nghiệm. Khả năng tư duy lý luận, nhận diện và đấu
tranh với những tư tưởng sai trái, thù địch còn nhiều hạn chế. Việc tạo nguồn
đội ngũ cán bộ chính trị cho các đơn vị trên địa bàn phía Nam và vùng sâu,
vùng xa kết quả chưa cao. Một số không nhỏ cán bộ chính trị còn có biểu hiện
thiếu tự tin vào bản thân, ngại phấn đấu vươn lên trong công tác. Đáng lưu tâm
là hiện tượng người chỉ huy phó về chính trị được bầu làm bí thư cấp ủy nhưng
lại hạn chế về kinh nghiệm, tuổi tác và vị thế so với người chỉ huy cùng cấp,
nhất là ở cấp phân đội. Việc định danh là phó chỉ huy trưởng mặc nhiên được
hiểu như các phó chỉ huy khác, chỉ có vai trò giúp cho người chỉ huy về lĩnh
vực hoạt động CTĐ, CTCT. Những yếu tố trên đã làm cho cán bộ chính trị các
cấp khó phát huy được vị trí, vai trò của mình trong công tác. Từ thực tiễn đó,
đòi hỏi phải xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị hợp lý về cơ cấu, đủ về số lượng,
nâng cao về chất lượng và từng bước đổi mới, hoàn thiện về cơ chế lãnh đạo.
Tác giả Nguyễn Tiến Quốc trong “Xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị
phân đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” [144];
Nguyễn Văn Bạo trong “Xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị cơ sở đáp ứng
yêu cầu của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc” [4] và Ngô Hữu Minh trong

“Xây dựng đội ngũ cán bộ chiến dịch, chiến lược đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
quân đội thời kì mới” [128]. Các tác giả cho rằng: Trong quân đội, dù cơ chế
lãnh đạo và tên gọi ở các thời kì có khác nhau; tuy nhiên, đội ngũ cán bộ chính
trị vẫn là lực lượng nòng cốt tiến hành các hoạt động CTĐ, CTCT. Đặc biệt,


13
những cuộc chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao diễn ra trên thế giới thời
gian qua đã cho thấy các đơn vị cơ sở luôn đóng vai trò quan trọng trong tác
chiến và giữ vững thế trận. Vì vậy, cần tập trung nâng cao chất lượng xây dựng
đội ngũ cán bộ chính trị các cấp một cách toàn diện, đồng bộ; trong đó, quan tâm
xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị cấp phân đội, vì đây là lực lượng chủ yếu thực
hiện các hoạt động CTĐ, CTCT, góp phần xây dựng đơn vị vững mạnh toàn
diện, đáp ứng yêu cầu của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới và là nguồn cán bộ cơ bản để bồi dưỡng, rèn luyện, phát triển thành
những cán bộ đảm nhiệm các cương vị cao hơn trong quân đội.
Tác giả Đặng Văn Thi trong bài viết “Vai trò của chính ủy, chính trị viên
trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” [159]; Tô Xuân Sinh trong “Phát
huy vai trò của đội ngũ chính ủy, chính trị viên nhằm nâng cao chất lượng công
tác đảng, công tác chính trị trong quân đội hiện nay” [150]; Vũ Phú Dũng với
“Phát huy vai trò đội ngũ chính ủy, chính trị viên nhằm tăng cường hiệu lực cơ
chế lãnh đạo của Đảng ở đơn vị cơ sở” [42] và Viện Khoa học xã hội nhân văn
quân sự trong sách “Chính ủy, chính trị viên trong xây dựng Quân đội nhân dân
Việt Nam về chính trị” [192]. Các tác giả đều đánh giá cao vai trò, vị trí của đô iâ
ngũ CU, CTV trong xây dựng quân đô iâ về chính trị qua các thời kỳ cách mạng;
đă câ biê tâ là những đóng góp to lớncủa các CU, CTV trong nâng cao hiê uâ quả
hoạt động CTĐ, CTCT. Theo các tác giả, từ tháng 7 năm 2005 đến nay, sau khi
thực hiện Nghị quyết 51/NQ-TW của Bộ Chính trị (khóa IX) và Nghị quyết
513/NQ-ĐUQSTW của ĐUQSTW, thì đội ngũ cán bộ chính trị nói chung và
CU, CTV nói riêng đã tăng lên cả về số và chất lượng, ngày càng được củng cố,

kiện toàn về cơ cấu, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Tuy nhiên, trước yêu cầu về nâng cao chất lượng hoạt động CTĐ, CTCT
và góp phần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội trong giai đoạn
mới, cần phát huy hơn nữa vai trò của đội ngũ CU, CTV. Thực tiễn đó đòi hỏi
phải tập trung nâng cao trình đô â mọi mặt cho đội ngũ CU, CTV, xứng đáng là


14
người chủ trì về chính trị. Toàn bộ hoạt động của CU, CTV phải nhằm củng cố
vững chắc trận địa chính trị, tư tưởng, thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng tổ
chức và con người trong quân đội. Trong đó, tăng cường sự lãnh đạo của cấp
ủy các cấp và phát huy vai trò của đội ngũ CU, CTV trong tiến hành CTĐ,
CTCT ở từng cơ quan, đơn vị là những giải pháp quan trọng hàng đầu.
Học viện Chính trị trong cuốn sách “Quan điểm V.I Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về chính ủy, chính trị viên” [106]; Nguyễn Mạnh Thắng trong “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị trong Quân đội nhân
dân Việt Nam” [156]; Phạm Đình Nhịn trong “Tư tưởng Hồ Chí Minh về người
chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam” [134] và Trần Hậu Tân trong
bài viết “Xây dựng đội ngũ chính trị viên quân đội ta hiện nay theo tư tưởng Hồ
Chí Minh” [152]. Các tác giả đã nghiên cứu và làm rõ những quan điểm của
V.I Lênin về vị trí, vai trò; về phẩm chất, năng lực và phương pháp, tác
phong công tác của đội ngũ CU, CTV. Theo V.I Lênin thì đội ngũ CU, CTV là
người chủ trì về chính trị và trực tiếp chỉ đạo các hoạt động CTĐ, CTCT, nhằm
xây dựng tổ chức và xây dựng con người trong quân đội. Đó là hệ thống lý luận
cơ bản để các Đảng Cộng sản tham khảo, vận dụng lãnh đạo xây dựng đội
ngũ cán bộ chính trị nói chung và các CU, CTV nói riêng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những phát triển về nhận thức lý luận và chỉ
đạo thực tiễn hết sức quan trọng đối với công tác xây dựng đội ngũ cán bộ
chính trị. Theo Người, đội ngũ cán bộ chính trị và các CU, CTV phải được
quan tâm xây dựng một cách toàn diện, chú trọng xây dựng lập trường chính

trị và phẩm chất đạo đức cách mạng. Đây là cơ sở để Đảng bộ Quân đội vận
dụng vào xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị trong mọi giai đoạn cách mạng.
Tác giả Nguyễn Quyết trong bài “Mấy yêu cầu về phẩm chất, năng lực và
tác phong công tác của chính ủy, chính trị viên” [148]; Nguyễn Nam Khánh
trong “Phẩm chất, đạo đức, lối sống và phong cách làm việc của người chính


15
uỷ, chính trị viên Quân đội nhân dân Việt Nam” [110] và Nguyễn Văn Tháp
trong bài về “Một số yêu cầu về phẩm chất, năng lực của người chính ủy, chính
trị viên” [155]. Các tác giả đã nêu bật vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của đội
ngũ CU, CTV và khẳng định: Để làm tròn chức trách, nhiệm vụ được giao đòi
hỏi CU, CTV phải có phẩm chất, năng lực toàn diện. Vì vậy, việc xác định rõ
hệ thống những tiêu chí về phẩm chất, năng lực, chức trách và nhiệm vụ cụ
thể, giúp mỗi CU, CTV có phương hướng, quyết tâm phấn đấu. Theo các tác
giả, cần tập trung bồi dưỡng về phẩm chất, năng lực cho đội ngũ CU, CTV một
cách toàn diện, vững chắc; chú trọng xây dựng các yếu tố như bản lĩnh, kinh
nghiê m
â công tác, sức khỏe… để đô iâ ngũ CU, CTV thực sự là người chủ trì về
chính trị và là hạt nhân đoàn kết trong đơn vị, góp phần thực hiện thắng lợi
Nghị quyết 51/NQ-TW của Bộ Chính trị (khóa IX) trong giai đoạn hiện nay.
ĐUQSTW trong tài liệu “Tổng kết công tác đảng, công tác chính trị
trong Quân đội nhân dân Việt Nam (1975 - 2005)” [73], đã tổng kết, đánh giá
những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và rút ra những bài học kinh
nghiệm. Khi đánh giá kết quả hoạt động CTĐ, CTCT trong những năm 1986
- 2005, đã chỉ rõ: “Cơ quan chính trị và cán bộ chính trị các cấp đã coi trọng
việc xây dựng đơn vị cơ sở. Trong một số mặt công tác (cán bộ, chính sách) đã
ngày càng thể hiện rõ phong cách dân chủ, thiết thực đi vào giải quyết những
vấn đề cụ thể của từng người, từng nhà, kiên quyết bổ sung, sửa đổi những
điểm trong quy định của từng mặt công tác không còn phù hợp với tình hình”

[73, tr. 189]. Tuy nhiên, do những vướng mắc của cơ chế nên “chất lượng đội
ngũ cán bộ chính trị còn thấp, cán bộ chính trị ở cơ sở còn yếu và thiếu. Trải
qua 20 năm (1986 - 2005) đổi mới có sự chuyển biến về phẩm chất và năng
lực, nhưng chưa đồng đều ở các cấp, các ngành” [73, tr. 208].
Trên cơ sở tổng kết quá trình hoạt động CTĐ, CTCT giai đoạn 1975 2005, đã rút ra một số bài học kinh nghiệm, trong đó: Xây dựng hệ thống cơ


16
quan chính trị và cán bộ chính trị các cấp có chất lượng cao, thực sự làm nòng
cốt trong tiến hành CTĐ, CTCT, xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị là
bài học hết sức quan trọng. Để thực hiện tốt bài học này “phải thường xuyên
chăm lo đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chính trị, chính ủy, chính trị viên,
bảo đảm cho họ có bản lĩnh chính trị vững vàng và phẩm chất đạo đức cách
mạng, có năng lực trí tuệ và năng lực tổ chức thực tiễn các hoạt động công tác
đảng, công tác chính trị” [73, tr. 416].
Đảng bộ QĐNDVN trong sách về “Lịch sử Đảng bộ Quân đội nhân dân Việt
Nam, Tập 3 (1975 - 2010)” [45], nội dung Chương 13 đã làm rõ lịch sử phát triển
của Đảng bộ Quân đội trong giai đoạn CNH, HĐH đất nước, xây dựng QĐNDVN
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại (1996 - 2005). Đảng bộ Quân
đội đã bám sát yêu cầu thực tiễn và nhiệm vụ xây dựng quân đội, lãnh đạo thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ quân sự quốc phòng; trong đó, xây dựng đội ngũ cán bộ
chính trị được xác định là nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến chất
lượng xây dựng quân đội về chính trị trong giai đoạn mới.
Đảng bộ Quân đội đã tích cực, chủ động tham mưu, đề xuất với Bộ
Chính trị (khoá IX) ban hành Nghị quyết 51/NQ-TW ngày 20/7/2005. Nghị
quyết 51 không chỉ hoàn thiện một bước căn bản cơ chế lãnh đạo của Đảng đối
với quân đội mà còn là cơ sở để củng cố, nâng cao vị trí, vai trò của CU, CTV
và đội ngũ cán bộ chính trị. Nghị quyết là cơ sở tạo ra sự chuyển biến vững
chắc, toàn diện trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị nói chung và
các CU, CTV nói riêng; nâng cao chất lượng các hoạt động CTĐ, CTCT; góp

phần xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, làm cơ sở nâng cao chất
lượng tổng hợp và khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang và làm
thất bại âm mưu “phi chính trị hoá” quân đội của các thế lực thù địch.
TCCT trong sách “Lịch sử Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt
Nam, Tập II (1975 - 2004)” [138], đã khái quát quá trình xây dựng, phát triển và


17
chỉ đạo các hoạt động CTĐ, CTCT trong toàn quân của Cơ quan TCCT giai
đoạn (1975 - 2004). Ngoài những nội dung đánh giá về sự trưởng thành vượt bậc
của cơ quan TCCT về mọi mặt, các tác giả đã đề cập và làm rõ sự quan tâm lãnh
đạo, chỉ đạo của Đảng ủy, chỉ huy TCCT đối với công tác xây dựng đội ngũ cán
bộ chính trị các cấp. TCCT là cơ quan tham mưu chiến lược cho Bộ Chính trị,
Ban Chấp hành Trung ương và ĐUQSTW về đổi mới và hoàn thiện cơ chế lãnh
đạo của Đảng đối với quân đội, về xây dựng cơ quan chính trị các cấp và xây
dựng đội ngũ cán bộ chính trị; đồng thời, là cơ quan chủ trì triển khai thực hiện
các vấn đề liên quan đến công tác cán bộ theo đúng chức năng, nhiệm vụ. Vì
vậy, các tác giả khẳng định: “Tổng cục Chính trị đã góp phần quan trọng trong
xây dựng được đội ngũ cán bộ chính trị và hệ thống cơ quan chính trị trong toàn
quân có phẩm chất chính trị và năng lực vận động, tập hợp, lãnh đạo, động viên
quần chúng thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao”[138, tr. 718].
1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về nội dung công tác xây dựng
đô ôi ngũ cán bô ô chính trị
Tác giả Nguyễn Xuân Miện trong bài viết “Quy hoạch cán bộ cấp chiến
dịch, chiến lược trong Quân đội nhân dân” [121], đã tập trung làm rõ những
yêu cầu mới đòi hỏi phải coi trọng công tác quy hoạch, nhất là quy hoạch cán
bộ cấp chiến dịch, chiến lược. Đây là đội ngũ cán bộ giữ cương vị lãnh đạo,
chỉ huy, quản lý ở các cơ quan, đơn vị chiến lược của Bộ; là lực lượng nòng
cốt trong hoạch định, tổ chức thực hiện đường lối quân sự, quốc phòng của
đất nước và là nhân tố có ý nghĩa quyết định trong tổ chức thực hiện thắng lợi

nhiệm vụ chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng, huấn luyện, sản xuất... của
quân đội ta. Theo tác giả, công tác quy hoạch nhằm “tạo sự chủ động, có tầm
nhìn xa, khắc phục tình trạng hẫng hụt, bảo đảm tính kế thừa, phát triển và sự
chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ cán bộ, giữ vững sự đoàn kết
và ổn định chính trị; là bước chuẩn bị từ xa và tạo được nguồn cán bộ để xây


18
dựng đội ngũ đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội cả trước mắt và lâu dài”
[121, tr. 11] là vấn đề quan trọng hàng đầu hiện nay.
Học viện Chính trị quân sự trong đề tài về “Nghiên cứu những giải pháp
nâng cao chất lượng nguồn đào tạo chính trị viên trong quân đội giai đoạn hiện
nay” [97]; tác giả Lê Trọng Bình trong “Tiếp tục đổi mới công tác tạo nguồn,
tuyển chọn học viên đào tạo ở các học viện, trường sĩ quan quân đội” [7];
Nguyễn Tiến Hải trong “Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của tổ chức và cá
nhân tham gia tạo nguồn chính trị viên” [90]; Nguyễn Văn Bạch trong “Tạo
nguồn cán bộ tại chỗ Quân khu 7 - Thực trạng và giải pháp” [2] và Đậu Văn
Nậm trong “Công tác tạo nguồn sĩ quan cấp phân đội của lực lượng vũ trang
miền Đông Nam bộ trong giai đoạn hiện nay” [133]. Các tác giả đã luận giải
những vấn đề liên quan đến nguồn đào tạo; đồng thời, đề ra những yêu cầu, tiêu
chuẩn về chất lượng nguồn và công tác tạo nguồn đào tạo cán bộ quân đội. Có
nhiều yếu tố tác động đến chất lượng nguồn đào tạo, trong đó nhận thức, trách
nhiệm của các tổ chức, cá nhân ở các đơn vị cơ sở có ảnh hưởng trực tiếp và
quan trọng hàng đầu.
Riêng đối với công tác tạo nguồn cán bộ chính trị vẫn còn một số tồn tại:
“Cơ cấu nguồn đào tạo chính trị viên còn nhiều hạn chế, bất cập. Trước hết là cơ
cấu vùng miền còn mất cân đối lớn, đã diễn ra nhiều năm nhưng chưa khắc phục
được. Khó khăn và thiếu nhất vẫn là nguồn thuộc các dân tộc ít người, nguồn
đào tạo cán bộ tại chỗ” [97, tr. 57]. Việc lựa chọn nguồn ở một số đơn vị cơ sở
còn có hiện tượng thụ động, chưa chọn được những người hội đủ các tố chất.

Số lượng nguồn từ địa bàn phía Nam còn ít, “từ năm 2000 đến năm 2005, số thí
sinh các tỉnh trên địa bàn Quân khu 7 đã đăng kí dự thi là 677, trong đó chỉ có 80
thí sinh trúng tuyển vào đào tạo sĩ quan chính trị” [97, tr. 151]. Những hạn chế
nêu đã phản ánh những thiếu sót trong tạo nguồn, không chỉ trong từng đơn
vị, từng địa bàn mà ở cả phạm vi toàn quân.


19
Đổi mới công tác tạo nguồn đào tạo góp phần nâng cao chất lượng xây
dựng đội ngũ cán bộ chính trị hiện nay đòi hior cần có sự vào cuộc của các lực
lượng trong việc nâng cao nhận thức và tinh thần trách nhiệm đối với công tác
định hướng nghề nghiệp quân sự cho thanh niên; làm rõ đặc điểm, con
đường hình thành và xu hướng vận động phát triển của nguồn đào tạo cán bộ
chính trị dưới sự tác động của yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
Tổng cục Chính trị trong sách “Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam trong thời kỳ mới”
[167]; Trường Sĩ quan Chính trị trong “Nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ
chính trị cấp phân đội trong tình hình mới” [190] và Học viện Chính trị trong
sách “Chuẩn hoá, hiện đại hoá đào tạo cán bộ chính trị Quân đội nhân dân
Việt Nam hiện nay” [105], đã tập trung làm rõ một số vấn đề có tính quy luật
chi phối đến quá trình đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chính trị. Đây là
những cơ sở, điều kiện để bổ sung và hoàn thiện những mục tiêu, yêu cầu
mới, góp phần nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ chính trị quân đội trong thời kì mới.
Chuẩn hóa, hiện đại hóa đào tạo đội ngũ cán bộ chính trị chính là việc xác
lập và thực hiện những tiêu chí cơ bản, làm cho công tác đào tạo phát triển
đúng hướng, phù hợp với yêu cầu chung của hệ thống giáo dục quốc dân và
những tiêu chuẩn đặc thù của quân đội; đồng thời, đáp ứng yêu cầu nâng cao
phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ chính trị và thực tiễn xây dựng, chiến
đấu của quân đội. Trong đó, tập trung “quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng,

của Quân ủy Trung ương về giáo dục và đào tạo, tiếp tục đổi mới mục tiêu,
chương trình, nội dung và phương pháp đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội.
Trên cơ sở những tư duy mới về giáo dục của Đảng, yêu cầu của sự nghiệp
đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới” [190, tr. 6]. Chuẩn
hóa nội dung, chương trình đi đôi với tăng cường cập nhật những kiến thức


20
mới cả về lý luận và thực tiễn; giải quyết tốt mối quan hệ giữa đào tạo và
nghiên cứu khoa học trong quá trình đào tạo. Ưu tiên xây dựng đội ngũ cán
bộ, giảng viên đủ về số lượng, có cơ cấu hợp lý, chất lượng ngày càng cao và
từng bước hiện đại hóa các trang, thiết bị dạy học.
Tác giả Nguyễn Đình Minh trong bài viết về “Giải pháp nâng cao chất
lượng đào tạo đội ngũ cán bộ chính trị trong quân đội” [125]; Nguyễn Văn Tài
trong “Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ chính trị
quân đội trong tình hình mới” [151]; Nguyễn Hoàng trong“Một số vấn đề về đổi
mới công tác đào tạo cán bộ quân đội trong giai đoạn hiện nay” [95]; Nguyễn
Văn Tượng trong “Mấy giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo học viên người
dân tộc thiểu số ở Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay” [191] và Nguyễn Bá
Dương trong bài “Giải pháp phân cấp, khắc phục trùng lặp nội dung trong đào
tạo chính ủy, chính trị viên” [43]. Các tác giả đều khẳng định: Để xây dựng đội
ngũ cán bộ chính trị có đầy đủ những đặc trưng nhân cách tiêu biểu của người
cán bộ của Đảng và những phẩm chất, năng lực đặc thù của người cán bộ chính
trị, nhất thiết phải trải qua quá trình đào tạo, bồi dưỡng rất công phu ở cả nhà
trường và đơn vị. Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chính trị những năm
qua đã có sự chuyển biến và đạt được kết quả tích cực, góp phần phát triển đội
ngũ cán bộ chính trị một cách vững chắc, toàn diện. Tuy nhiên, vẫn còn một số
hạn chế như: Mục tiêu, yêu cầu và quy mô đào tạo chưa ngang tầm với yêu cầu
nhiệm vụ xây dựng quân đội; chưa quan tâm đúng mức đến công tác bồi dưỡng
chuyên môn cho cán bộ chính trị công tác ở các ngành cụ thể như: Cán bộ, tuyên

huấn...
Vì vậy, đổi mới công tác đào tạo ở các nhà trường là vấn đề hết sức cấp
thiết; trước hết, phải bắt đầu từ đổi mới tư duy và triển khai quyết liệt nhiều giải
pháp, với những bước đi thích hợp, vững chắc. Trong đó, tập trung đổi mới nội
dung, chương trình đào tạo theo hướng cập nhật những vấn đề cần thiết cả lý


21
luận và thực tiễn, khắc phục triệt để sự trùng lặp về nội dung giữa các cấp học và
môn học. Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý; đổi mới
mạnh mẽ phương pháp dạy học và thực hiện đa dạng hóa các loại hình đào tạo.
Thực hiện tốt hơn nữa việc kết hợp thi tuyển với cử tuyển con em các dân tộc
thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; có chính sách ưu tiên tuyển
chọn nguồn đào tạo cán bộ chính trị theo cơ cấu vùng miền.
Học viện Chính trị trong sách “Nâng cao chất lượng đào tạo chính ủy,
chính trị viên trong thời kỳ mới” [99] và tác giả Lê Minh Vụ trong “Nâng cao
chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội
nhân dân Việt Nam hiện nay” [197]; Nguyễn Tiến Quốc trong “Coi trọng phát
triển bản lĩnh chính trị và năng lực sáng tạo trong đào tạo chính ủy, chính trị
viên quân đội hiện nay” [145] ; Nguyễn Đình Minh trong bài “Nâng cao chất
lượng đào tạo chính ủy, chính trị viên theo Nghị quyết 51 của Bộ Chính trị”
[127]. Các tác giả đều khẳng định: Đô âi ngũ CU, CTV trong QĐNDVN là
người chủ trì về chính trị tại các cơ quan, đơn vị trong toàn quân. Với tư cách
là người chủ trì về chính trị, đội ngũ CU, CTV cần phải được chuẩn bị đầy đủ
về phẩm chất và năng lực để thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ được giao.
Quá trình chuẩn bị này cơ bản được tiến hành khi đội ngũ cán bộ chính trị
đang học tập, rèn luyện tại các nhà trường. Thực tiễn đó đòi hỏi các nhà
trường cũng phải thường xuyên đổi mới nội dung, chương trình; nâng cao
mục tiêu, yêu cầu đào tạo, nhằm xây dựng đội ngũ CU, CTV một cách toàn
diện. Tính từ năm 2005 đến năm 2010, “Học viện Chính trị đã đào tạo được

3.500 chính uỷ trung, sư đoàn và hơn 3.300 chính trị viên đại đội” [127, tr. 20];
tuy nhiên, năng lực chủ trì về chính trị của một số CU, CTV so với những yêu
cầu mới đặt ra có mặt còn hạn chế.
Nhằm khắc phục những hạn chế nêu trên, cùng với quá trình chuẩn hóa,
hiện đại hóa chương trình, nội dung và phương pháp đào tạo đối với từng cấp


22
học và loại hình đào tạo cần dựa vào đặc thù nhiệm vụ của từng quân, binh
chủng và cơ quan quân sự địa phương để có nội dung, chương trình đào tạo phù
hợp. Nâng cao chất lượng nguồn đào tạo CU, CTV đi đôi với “coi trọng công tác
phát triển bản lĩnh chính trị và năng lực sáng tạo của người cán bộ chính trị nói
chung và các chính ủy, chính trị viên nói riêng” [145, tr. 6]; quan tâm bồi dưỡng
năng lực tư duy sáng tạo và nâng cao khả năng nghiên cứu khoa học; gắn công
tác đào tạo tại trường với bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ thông qua các hoạt động
thực tiễn ở từng cơ quan, đơn vị cho đội ngũ CU, CTV.
Tác giả Hoàng Văn Thanh trong bài viết “Phối hợp giữa nhà trường và
đơn vị trong bồi dưỡng nhân cách chính ủy, chính trị viên hiện nay” [154];
Phạm Đình Bộ trong “Bồi dưỡng năng lực công tác của đội ngũ cán bộ chính
trị cấp phân đội binh chủng hợp thành trong Quân đội nhân dân Việt Nam
hiện nay” [16] và Nguyễn Văn Chỉnh trong “Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ cơ sở người dân tộc thiểu số trong quân đội - Mấy vấn đề cần quan tâm”
[17]. Theo các tác giả, để đội ngũ cán bộ chính trị luôn thực hiện tốt nhiệm vụ,
chức trách được giao, góp phần thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 51 của Bộ
Chính trị phải gắn chặt giữa đào tạo ở nhà trường với bồi dưỡng đội ngũ cán bộ
chính trị thông qua hoạt động thực tiễn ở từng cơ quan, đơn vị.
Trong thực tế, đội ngũ cán bộ chính trị cấp phân đô iâ chiếm số lượng khá
lớn và là lực lượng nòng cốt tiến hành CTĐ, CTCT ở cơ sở, nhưng do “được đào
tạo từ nhiều nguồn khác nhau; trình độ, năng lực không đồng đều; đa số tuổi đời
còn trẻ, chưa trải qua chiến đấu, kinh nghiệm và vốn sống còn ít; điều kiện công

tác còn gặp nhiều khó khăn” [16, tr. 51], nên vẫn tồn tại nhiều hạn chế về năng
lực và kinh nghiệm công tác. Đáng chú ý, cán bộ chính trị cấp phân đội là người
dân tộc thiểu số còn ít về số lượng và hạn chế về trình độ học vấn…
Theo các tác giả, việc bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chính trị là trách nhiệm của
tất cả các lực lượng trong quân đội, trong đó nhà trường và đơn vị là hai chủ thể


23
chính. Sự phối hợp chặt chẽ giữa hai chủ thể này bảo đảm cho việc xác định đúng
về quy trình, mục tiêu và là cơ sở để tiến hành đào tạo, bồi dưỡng một cách thống
nhất, đồng bộ và có hiệu quả cao. Quá trình kết hợp này là sự cụ thể hoá những
yêu cầu từ thực tiễn đơn vị vào mô hình, mục tiêu đào tạo của nhà trường. Tuy
nhiên, nhà trường chỉ trang bị những kiến thức cơ bản, làm cơ sở phát triển tư
duy độc lập, sáng tạo và khả năng tự học, tự rèn cho cán bộ. Việc phát huy vai
trò của tất cả các lực lượng tham gia rèn luyện, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chính trị
có ý nghĩa hết sức to lớn; đồng thời, tạo điều kiện để cán bộ phát huy khả năng
của mình trong công tác, những hoạt động thực tiễn ở đơn vị là sự khảo nghiệm
đúng đắn nhất đối với khả năng của mỗi người cán bộ.
Tác giả Khăm súc Phôn sa vẳn trong bài về “Góp phần nâng cao năng
lực hoạt động công tác đảng, công tác chính trị của đội ngũ cán bộ chính trị ở
các đơn vị Quân đội nhân dân Lào” [111], đã chỉ rõ, trong Quân đội nhân dân
Lào, đội ngũ cán bộ chính trị đóng vai trò là lực lượng nòng cốt tiến hành các
hoạt động CTĐ, CTCT. Hiện nay, Quân đội nhân dân Lào đang nhất quán thực
hiện chế độ hai thủ trưởng, thủ trưởng quân sự và thủ trưởng chính trị. Tuy
nhiên, do nhu cầu về tổ chức, biên chế nên cán bộ chính trị được bổ nhiệm làm
thủ trưởng chính trị ở đơn vị từ cấp đại đội đến cấp sư đoàn và tương đương.
Góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị có đủ năng lực, phẩm chất
và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; đồng thời, quán triệt và thực hiện tốt
Nghị quyết số 113 của Bộ Chính trị Đảng Nhân dân cách mạng Lào Về tăng
cường công tác tổ chức, xây dựng Đảng và cán bộ trong điều kiện mới, tác giả

đã đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hơn nữa năng lực hoạt
động CTĐ, CTCT cho đội ngũ cán bộ chính trị ở các đơn vị. Theo tác giả,
trước hết phải tạo ra sự chuyển biến rõ nét trong nhận thức của cấp uỷ đảng và
người chỉ huy ở tất cả các cấp đối với vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ chính
trị; quan tâm hơn nữa đến công tác bồi dưỡng kiến thức một cách toàn diện,


24
chú trọng vào kiến thức tay nghề CTĐ, CTCT. Cùng với đó là việc phát huy
vai trò tích cực của cá nhân mỗi cán bộ chính trị, quyết tâm vượt mọi khó
khăn để tự học, tự rèn, không ngừng nâng cao trình độ mọi mặt, đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ của Quân đội nhân dân Lào trong giai đoạn cách mạng mới.
Tác giả Vũ Văn Luận trong bài viết “Đào tạo, bồi dưỡng gắn với sử dụng
cán bộ trong quân đội ” [117]; Lê Viết Hảo trong “Những vấn đề cần hoàn thiện
về xếp hai cán bộ chính trị đại đội, tiểu đoàn” [92] và Vũ Văn Luận trong
“Chuẩn bị tốt đội ngũ cán bộ để bổ nhiệm chính ủy, chính trị viên - Khâu then
chốt có ý nghĩa quyết định hiệu lực cơ chế mới” [118]. Các tác giả đều khẳng
định: Để nâng cao chất lượng xây dựng đội ngũ cán bộ phải gắn chặt giữa quá
trình đào tạo với sử dụng; đặc biệt, phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa khả
năng đào tạo với nhu cầu sử dụng cán bộ cả trước mắt và lâu dài. Trong đó, với
từng nhóm cán bộ cần có công tác quy hoạch, đào tạo và sử dụng một cách khoa
học, tạo sự phát triển vững chắc, đồng bộ giữa các nhóm và các thế hệ cán bộ.
Ngay từ năm 1999, chủ trương của ĐUQSTW về xếp hai cán bộ chính trị
ở các tiểu đoàn, đại đội đủ quân đã từng bước khắc phục tình trạng cán bộ chính
trị vừa “mỏng” và “yếu”; đồng thời, “tạo điều kiện thuận lợi để đội ngũ cán bộ
chính trị trao dồi, cọ sát, tích lũy kiến thức, kinh nghiệm trong quá trình công
tác” [92, tr. 64]. Vì vậy, đến đầu năm 2006, “nhìn chung cán bộ chính trị cấp tiểu
đoàn, đại đội được bồi dưỡng, rèn luyện, trưởng thành, nâng cao được phẩm
chất, năng lực, thực hiện tốt chức trách nhiệm vụ, mối quan hệ công tác; đã góp
phần thiết thực nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị,

tăng cường quản lý, giáo dục bộ đội ở đơn vị cơ sở” [118, tr. 47]. Những kết quả
này là kinh nghiệm bước đầu góp phần nâng cao chất lượng xây dựng đội ngũ
cán bộ chính trị, trọng tâm là đội ngũ CU, CTV. Qua phân tích chất lượng cán bộ
chính trị các cấp để chuẩn bị xếp CU, CTV cho thấy: “97% phó sư đoàn trưởng
về chính trị; 94% phó chỉ huy trưởng về chính trị bộ chỉ huy quân sự tỉnh (thành
phố); 91% phó chỉ huy trưởng về chính trị cấp trung đoàn, lữ đoàn, huyện; 76%


25
phó tiểu đoàn trưởng về chính trị; 76% phó đại đội trưởng về chính trị dự kiến
xếp được chính uỷ, chính trị viên các cấp” [118, tr. 48]. Đây là yếu tố quyết định
nhất đến thắng lợi trong quá trình thực hiện Nghị quyết 51 của Bộ Chính trị.
Tác giả Nguyễn Việt Quân trong bài về “Xây dựng đội ngũ cán bộ Quân
khu 9 đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quân sự, quốc phòng và kinh tế - xã hội trong
tình hình mới” [142]; Phùng Văn Mười trong “Chất lượng đội ngũ chính trị
viên ở các trung đoàn bộ binh đủ quân thuộc Quân khu 9” [131] và Phạm Văn
Bé Tư trong “Xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị cơ quan quân sự huyện ở
Quân khu 9 trong giai đoạn hiện nay” [187]. Các tác giả đã làm rõ: Địa bàn
Quân khu 9 có vị trí chiến lược cả về kinh tế - quốc phòng của đất nước.
Những năm gần đây, Đảng uỷ, Bộ Tư lệnh Quân khu 9 đã quan tâm lãnh đạo,
chỉ đạo xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp vững mạnh, góp phần bảo đảm cho
các đơn vị hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
Đối với đội ngũ cán bộ chính trị nói riêng, nhất là các cán bộ công tác ở
đơn vị đủ quân trên địa bàn Quân khu 9 đã có những chuyển biến tích cực.
Qua khảo sát thực tiễn cho thấy: Đội ngũ cán bộ chính trị luôn có bản lĩnh
chính trị vững vàng, đạo đức lối sống mẫu mực, phát huy tốt tinh thần trách
nhiệm, luôn nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Các đồng chí CU,
CTV đều được tín nhiệm bầu giữ cương vị bí thư cấp ủy, thực sự là người chủ
trì về chính trị ở đơn vị cơ sở.
Bên cạnh đó, trình độ, năng lực của một số chính trị viên còn hạn chế; việc

giải quyết mối quan hệ giữa chính trị viên với người chỉ huy còn nhiều bất cập;
có chính trị viên còn có biểu hiện ỷ lại, dựa dẫm vào mệnh lệnh hành chính.
Trong công tác xây dựng đô iâ ngũ cán bộ vẫn còn một số hạn chế như: Sự thiếu
hụt về nguồn cán bộ kế câ nâ , nhất là đối với các cơ quan chỉ huy quân sự huyện ở
vùng sâu, vùng xa; số cán bô â được đào tạo cơ bản còn thiếu; có hiê nâ tượng vừa
thừa, vừa thiếu cùng mô tâ đối tượng cán bộ ở mô tâ số cơ quan... Đây không chỉ là
những hạn chế, khó khăn của riêng Quân khu 9 mà cũng là những hạn chế ở các


26
cơ quan, đơn vị khác trong toàn quân. Tuy nhiên, do đặc điểm của từng đơn vị
khác nhau nên mức độ, tính chất của những hạn chế cũng khác nhau.
Tác giả Bùi Văn Huấn trong bài viết “Quân đội phấn đấu thực hiện tốt một
số trọng tâm công tác chính sách trong tình hình mới” [107] và Trần Văn Minh
trong “Nghiên cứu, hoàn thiện chính sách tiền lương đối với quân đội” [130].
Các tác giả đều nhất trí đánh giá: Công tác chính sách là một trong những nội
dung quan trọng của CTĐ, CTCT. Trong những năm qua, công tác chính sách
quân đội, chính sách hậu phương quân đội đã được triển khai thực hiện toàn
diện, đồng bộ và đạt hiệu quả thiết thực, góp phần động viên các tầng lớp
nhân dân tham gia vào sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng - an
ninh và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời, trực tiếp nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần của cán bộ, chiến sĩ và các đối tượng chính sách.
Tuy nhiên, công tác chính sách vẫn bộc lộ những hạn chế nhất định
như: “Một số nội dung nghiên cứu, tham mưu, đề xuất chưa bảo đảm tiến độ;
chính sách thu hút nhân tài chưa được quan tâm đúng mức. Trách nhiệm của
một số cấp ủy, chỉ huy đơn vị trong chỉ đạo thực hiện có mặt còn hạn chế”
[107, tr. 10]. Để thực hiện tốt công tác chính sách, cấp uỷ, chỉ huy các cấp
trong quân đội phải tiếp tục quán triệt sâu sắc các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo
của Đảng, định hướng cải cách chính sách của Nhà nước, trên cơ sở đó đề ra
chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác chính sách một

cách phù hợp. Trước hết, cần thực hiện tốt các chính sách đối với quân nhân
tại ngũ; phấn đấu tạo sự công bằng giữa các đối tượng cán bộ. Nghiên cứu,
hoàn thiện chính sách tiền lương và bổ sung các chế độ đãi ngộ khác đối với
đội ngũ cán bộ các cấp trong quân đội.
Tác giả Vũ Hữu Luận trong bài “Phát huy truyền thống, ngành Chính
sách quân đội phấn đấu thực hiện tốt nhiệm vụ trong tình hình mới” [119];
Trần Văn Minh trong “Động viên và kết hợp các nguồn lực, từng bước cải


27
thiện, bảo đảm nhà ở cho cán bộ quân đội” [129]; Hồ Thủy trong “Bảo hiểm
xã hội Bộ Quốc phòng góp phần thực hiện tốt chính sách quân đội trong thời
kỳ mới” [160] và Phan Tiến Hạc trong“Thực hiện công tác chính sách ở Binh
đoàn Cửu Long” [89]. Các tác giả đều cho rằng: Thực hiện công tác chính sách
là trách nhiệm của tất cả các lực lượng; tuy nhiên, phát huy vai trò của các cơ
quan chuyên môn, có chức năng quản lý nhà nước về công tác chính sách là
yếu tố quyết định hàng đầu. Sự vào cuộc thống nhất và tích cực của lãnh đạo,
chỉ huy các cơ quan, đơn vị và các ngành chuyên môn trong toàn quân sẽ tạo
chuyển biến tích cực đối với công tác chính sách cán bộ. Đổi mới và nâng
cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả công tác chính sách đối với cán bộ quân
đội nói chung và đội ngũ cán bộ chính trị nói riêng sẽ góp phần bảo đảm cho
đội ngũ cán bộ các cấp thực sự an tâm công tác; đồng thời, tạo sức thu hút
đối với thanh niên và học sinh khi chọn nghề sĩ quan.
1.3. Nhóm các công trình nghiên cứu về giải pháp nâng cao chất
lượng xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị
Tác giả Lê Văn Dũng trong bài viết “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác cán bộ trong quân đội hiện nay” [40]; Ngô Xuân Lịch trong
“Tiếp tục đổi mới toàn diện công tác cán bộ đáp ứng yêu cầu mới” [114]; Phạm
Văn Long trong “Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ quân đội trong tình hình
mới”[116] và Nguyễn Văn Động trong bài “Công tác cán bộ quân đội trong

thời kì mới” [87]. Các tác giả đã khẳng định: Sự lãnh đạo của các tổ chức đảng
có vai trò quyết định nhất đến kết quả xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp. Hướng
tới mục tiêu “xây dựng đội ngũ cán bộ có số lượng, cơ cấu hợp lý; có bản lĩnh
chính trị vững vàng, trình độ, kiến thức chuyên môn ngày càng cao, năng lực tổ
chức thực tiễn tốt, thực sự là lực lượng nòng cốt xây dựng quân đội cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại” [87, tr. 22]. Cần tiếp tục thực hiện tốt
phương hướng “xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung


×