Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Nghiên cứu khả năng hạ đường huyết của cây chuối hột Musra barjoo Sieb lên chuột gây tiểu đường type 2 (luận án thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (972.68 KB, 65 trang )

IH
TRƢ

QU

GI H N I



Ọ T

-----------------------

NGUYỄN THỊ DUYÊN

NGHIÊN CỨU KHẢ Ă
Ƣ NG HUYẾT CỦA CÂY
CHUỐI HỘT MUSRA BARJOO SIEB LÊN CHUỘT GÂY
TIỂU Ƣ NG TYPE 2

U

VĂ T

S KHO

ăm 2016





MỞ ẦU
Bệnh đái tháo đường ( T ) là bệnh phổ biến ở các nước phát triển và
cả các nước đang phát triển, ở nước ta bệnh có xu hướng tăng dần. Cùng với
bệnh ung thư và tim mạch,

T

là một trong ba bệnh có số người mắc tăng

nhanh nhất. T cũng có tỉ lệ tử vong cao nhất trong các bệnh nội tiết do gây
ra nhiều biến chứng nguy hiểm. Bệnh có nguyên nhân nội tiết với biểu hiện là
các rối loạn chuyển hóa, điển hình là tăng glucose huyết do thiếu hụt insulin
tuyệt đối hoặc tương đối hay do không đáp ứng với insulin. Bệnh thường kèm
theo các biến chứng cấp gây tử vong hoặc các biến chứng lâu dài như các
bệnh lý về tim mạch, mắt, thận, thần kinh [1, 5, 31].
Ở Việt Nam, các bệnh nhân mắc bệnh mãn tính thường có xu hướng sử
dụng thuốc ông Y hoặc thuốc Y học cổ truyền do chúng có độc tính thấp, rẻ
tiền và sẵn có. Sử dụng cây cỏ trong vườn nhà để làm thuốc cũng là truyền
thống lâu đời của dân tộc ta, nó đã để lại những kinh nghiệm quí báu trong
chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho nhân dân.
Chuối hột (Musra barjoo Sieb) là loài cây có mặt ở nhiều nơi trên đất
nước ta. Nhân dân ta đã theo kinh nghiệm dân gian để chữa một số bệnh như:
hắc lào, đau răng, sỏi thận, trĩ, mụn nhọt, tiêu chảy,

T , … bằng các bộ

phận khác nhau của cây.
ể góp phần làm sáng tỏ hơn tác dụng điều trị

T của cây chuối hột,


chúng tôi tiến hành đề tài “Nghiên cứu khả năng hạ đường huyết của cây
chuối hột Musra barjoo Sieb lên chuột gây tiểu đường type 2” với mục tiêu:
- Nghiên cứu ảnh hưởng của dịch chiết các phân đoạn quả và củ chuối
hột trên mô hình chuột gây T type 2.
- Phân lập và xác định cấu trúc một số hợp chất hóa học có trong dịch
chiết các bộ phận cây chuối hột.


Chƣơng 1. TỔ

QU

1.1. Bệnh đái tháo đƣờng
1.1.1.

hái niệm
ái tháo đường (Diabetes mellitus) là một bệnh rối loạn chuyển hóa

đặc trưng bởi nồng độ glucose máu tăng thường xuyên và mãn tính do tụy
sản xuất thiếu insulin (thiếu insulin tuyệt đối) hoặc do giảm tác dụng của
insulin (thiếu insulin tương đối) bởi các nguyên nhân khác nhau với cơ chế
bệnh sinh phức tạp [1, 5].
Tăng glucose máu mãn tính thường kết hợp với sự hủy hoại, rối loạn và
sự suy yếu chức năng của nhiều cơ quan trong cơ thể. Những rối loạn chuyển
hóa này có thể gây hôn mê và tử vong trong thời gian ngắn nếu không được
điều trị kịp thời. Hậu quả muộn của các rối loạn chuyển hóa này là gây tổn
thương các mạch máu nhỏ và mạch máu lớn dẫn đến mù mắt, hoại tử thận,
hoại tử chi, nhiễm trùng, tổn thương thần kinh [5, 30].
1.1.2. Phân loại và cơ chế bệnh sinh

Hơn 2000 năm trước, bệnh

T

đã được mô tả trong y văn cổ, kể từ

đó đến nay đã có rất nhiều cách phân loại bệnh
nhiều thời kỳ,

T

T

khác nhau. Trải qua rất

được các nhà nghiên cứu phân chia thành rất nhiều loại

khác nhau.
ến năm 1980 các chuyên gia nghiên cứu về bệnh
phân loại bệnh

T

T

của WHO đã

dựa vào các chỉ tiêu lâm sàng, dịch tễ học và các yếu tố

di truyền. Sự phân loại này đã được bổ sung và thay đổi chút ít vào năm 1985,

phân thành

T

phụ thuộc insulin (loại bắt buộc phải dùng insulin) và

T

không dùng thuốc chữa [5, 13, 14].
ho đến năm 1997, Ủy ban chuyên gia về chuẩn đoán và phân loại
bệnh

T

của WHO đưa ra đề nghị về cách phân loại bệnh

T

mới dựa


trên những tiến bộ về khoa học đó là dựa vào nguyên nhân sinh bệnh và đã
được dùng phổ biến đến ngày nay. T được chia thành hai loại như sau [5, 14]:
1.1.2.1. Bệnh đái tháo đường type 1
Bệnh

T

type 1 còn được gọi là bệnh


T

phụ thuộc insulin

(Insulin-dependent diabete), qua trung gian miễn dịch, hoặc là dạng khởi phát
lứa tuổi vị thành niên.
Hệ thống miễn dịch của cơ thể đã sinh ra các kháng thể chống lại hoặc
phá hủy tế bào β của đảo tụy sản xuất insulin. Khi không có insulin, tế bào sẽ
không sử dụng được glucose, do đó glucose trong máu sẽ tăng rất cao và
thường dẫn đến những biến chứng lâu dài.
Nghiên cứu trên những cặp sinh đôi cùng trứng, tỷ lệ
những cặp này từ 30 – 40%.

T

type 1 ở

iều này chứng tỏ không phải tất cả các trường

hợp là di truyền và còn có những yếu tố môi trường trong biểu hiện bệnh. Một
số yếu tố môi trường làm thay đổi chức năng của tế bào  như: virus (quai bị,
rubella, coxsackie virus B4); một số chất hóa học (thuốc diệt chuột
nitrophenylurea) và những chất phá hủy tế bào (hydrogen cyanid có trong
tapioca bị hỏng và cây sắn).
Gen nhạy cảm với bệnh

T

ở người chủ yếu nằm trong nhánh ngắn


của nhiễm sắc thể số 6.
T type 1 có thể xảy ra ở bất cứ độ tuổi nào, nhưng thường gặp ở trẻ
em và thanh niên. Người bị T type 1 bắt buộc phải dùng insulin hằng ngày
để điều hòa hàm lượng glucose trong máu. Ngoài ra người bệnh còn phải phối
hợp sử dụng thuốc với một chế độ dinh dưỡng và tập luyện hợp lý giúp ổn
định lượng glucose huyết, kéo dài cuộc sống [1, 5, 10, 14, 15].
1.1.2.2. Bệnh đái tháo đường type 2
ây là dạng
nhân bị

T

thường gặp nhất, chiếm khoảng 80-90% số bệnh

T . Thông thường, với bệnh

T

type 2, trong cơ thể vẫn còn sản


xuất insulin, nhưng insulin được sản xuất ra không đủ hoặc các tế bào không
thể sử dụng nó. iều này được gọi là đề kháng insulin. Theo thời gian, đường
huyết sẽ tăng cao trong máu.
Hiện tượng kháng insulin tập trung nhiều ở gan và các loại mô ngoại vi
với nhiều hình thức kháng khác nhau như: giảm khả năng ức chế sản xuất
glucose ở gan, giảm khả năng thu nạp glucose ở mô ngoại vi, giảm khả năng
sử dụng glucose ở các cơ quan. Do đó, khi xét nghiệm, người ta vẫn thấy sự
có mặt của insulin trong máu. Ngoài ra, nồng độ insulin trong máu của một số
bệnh nhân


T

type 2 còn rất cao, nguyên nhân là do ở những bệnh nhân

này, tế bào đích không đáp ứng với insulin hoặc đáp ứng ở mức độ thấp, nên
nồng độ insulin phải cao hơn mức bình thường mới có thể đưa đến một đáp
ứng bình thường [1, 5, 14, 15].
T type 2 có thể diễn biến theo các giai đoạn sau:
+ Giai đoạn 1: Mặc dù nồng độ glucose trong máu vẫn ở mức bình
thường, nhưng bắt đầu có hiện tượng kháng insulin vì hàm lượng insulin tăng
cao hơn bình thường trong máu.
+ Giai đoạn 2: Tình trạng kháng insulin có xu hướng mạnh dần và xuất
hiện hiện tượng tăng nồng độ glucose trong máu sau bữa ăn.
+ Giai đoạn 3: Sự kháng insulin không thay đổi nhưng sự bài tiết
insulin giảm dần và gây tăng nồng độ glucose huyết lúc đói. ác triệu chứng
của bệnh T bắt đầu biểu hiện ra bên ngoài.
T type 2 có tính di truyền mạnh, có nghĩa là bệnh có khuynh hướng
phát triển theo gia đình. Một số loại gen đã được xác định và một số khác
đang trong giai đoạn nghiên cứu được nghi ngờ là nguyên nhân gây ra

T

type 2. Tuy nhiên trong đời sống hằng ngày, có rất nhiều yếu tố nguy cơ có
thể dẫn đến bệnh

T

type 2 đã được đề cập đến, bao gồm như: tăng huyết


áp, tăng triglyceride (mỡ) máu, T thai kỳ hoặc sinh con nặng hơn 4kg, chế


độ ăn nhiều chất béo, uống nhiều rượu, ngồi nhiều, béo phì hoặc thừa cân,
chủng tộc, đặc biệt khi có những người thân bị T type 2 hoặc bị

T thai

kỳ, tuổi tác. Trong đó, béo phì và ít vận động là hai yếu tố nguy cơ được nhắc
đến nhiều nhất là có thể làm phát triển bệnh T type 2 [5, 13].
1.1.2.3. Một số loại ĐTĐ khác
T

Ngoài hai loại

thường gặp nhất là

T

type 1 và

T

type 2 ra

thì hiện nay người ta còn phân biệt một số loại bệnh T khác như:
ĐTĐ thai kỳ:
ây là dạng T xảy ra ở một số phụ nữ mang thai và sẽ biến mất sau
khi sinh. Có thể gây ra các biến chứng cho mẹ và con trong quá trình mang
thai. Phụ nữ bị


T

thai kỳ có nhiều khả năng phát triển thành bệnh

T

type 2 [13].
Một số type ĐTĐ khác:
Một bệnh nhân có thể có đồng thời nhiều đặc điểm của nhiều type khác
nhau. Ví dụ, trong

T

tự miễn âm ỉ (latent autoimmune diabetes in adults

(LADA)), còn gọi là T type 1.5 hay T

đôi, bệnh nhân có đặc điểm của

cả T type 1 và type 2.
Phần lớn bệnh nhân LADA vẫn tiết đủ insulin khi mới được chẩn đoán
giống như

T

type 2 nhưng trong vòng vài năm sau bệnh nhân cần insulin

để kiểm soát đường huyết. Trong LADA, giống như trong T type 1, tế bào
 của tuyến tụy không sản xuất insulin vì hệ thống miễn dịch của cơ thể tấn

công và phá hủy tế bào . Các chuyên gia cho rằng

T LADA là dạng diễn

tiến chậm của T type 1.
Nguyên nhân của những type

T

khác này có thể được gây ra bởi:

Khiếm khuyết về gen của tế bào , như là T khởi phát ở người trẻ (MODY).
Bệnh tuyến tụy hay tổn thương tuyến tụy, như viêm tụy hay xơ hóa tụy.


Sản xuất quá nhiều hormone đối kháng insulin do bệnh lý khác như:
hormone cortisol trong hội chứng Cushings; những thuốc giảm hoạt động của
insulin như là glucocorticoids, hay hóa chất phá hủy tế bào ; nhiễm trùng,
như là bệnh sởi hay virus cytomegalo bẩm sinh; những rối loạn tự miễn hiếm,
như là hội chứng stiff-man, một bệnh tự miễn của hệ thần kinh trung ương [27].
1.1.3. Tỉ lệ mắc bệnh
Trên thế giới, hàng năm có tới hàng triệu người mắc

T . Tỉ lệ phát

triển bệnh gia tăng theo sự phát triển của đời sống kinh tế, vì vậy gây ảnh
hưởng rất lớn tới sự phát triển của kinh tế và cộng đồng. Hiện nay,

T


đã

trở nên phổ biến ở nhiều nước đang trong giai đoạn hiện đại hóa và công
nghiệp hóa. Bệnh T chiếm tỉ lệ 3-7% người trưởng thành ở các nước châu
Âu. Gần đây, WHO đã báo động trên toàn thế giới về sự phát triển và mối
nguy hại của bệnh này: Năm 1985 thế giới có 30 triệu người mắc

T ; đến

năm 1994 con số này tăng lên 98,9 triệu người. Năm 2003 có khoảng 140
triệu người đang mắc

T . Theo ước tính của Viện Nghiên cứu

T

Quốc

tế: năm 2025 có khoảng 300 triệu người mắc T [13, 22, 31].
Ở Việt Nam, theo thống kê của một số bệnh viện ở các thành phố lớn,
T

là bệnh thường gặp nhất và có tỉ lệ tử vong cao nhất trong các bệnh nội

tiết. Tỉ lệ bệnh nhân điều trị tăng lên từ năm này qua năm khác, ở thành thị
cao hơn nông thôn.

T

người cao tuổi (90-95%).


type 2 chiếm đa số bệnh nhân và thường gặp ở
T

trẻ dưới 40 tuổi [13, 22, 31].

type 1 chiếm tỉ lệ nhỏ và thường gặp ở người


1.1.4. ỏc xột nghim húa sinh chn oỏn bnh T
1.1.4.1. Glucose huyt
Tháng 6 năm 1997, tại hội nghị th-ờng niên của Hội ĐTĐ Mỹ tại
Boston đã công bố tiêu chí chẩn đoán mới của bệnh ĐTĐ. Tiêu chí này đ-ợc
WHO công nhận vào năm 1998. Nội dung của tiêu chí là [13]:
- Mẫu đ-ờng huyết t-ơng bất kỳ 200mg/dl kết hợp với các triệu
chứng của tăng đ-ờng huyết.
- Đ-ờng huyết t-ơng lúc đói 126mg/dl (sau 8 giờ không ăn).
- Đ-ờng huyết t-ơng sau 2 giờ uống 75g glucose 200mg/dl.
1.1.4.2. Glucose niu
ngi bỡnh thng, trong nc tiu khụng cú ng. Ngng ng
thn trung bỡnh l 160-180mg/ml (8,9-10mmol/l). Khi ng huyt tng cao
vt quỏ ngng ng thn tc l vt quỏ kh nng tỏi hp thu glucose ca
thn, glucose s cú trong nc tiu. Ngng ng thn thay i khỏc nhau
i vi tng cỏ th. Trong mt s trng hp bnh lý ca thn mc dự ng
huyt bỡnh thng nhng vn cú ng trong nc tiu. Ngc li, ngi
cao tui thng cú ngng ng thn cao nờn ớt thy ng niu trong khi
ng huyt khỏ cao. Do ú xột nghim glucose niu ch cú giỏ tr khi tin
hnh ng thi vi xột nghim glucose huyt [5, 12, 14, 27].
1.1.4.3. Ceton niu
Th ceton c hỡnh thnh trong c th l do tng phõn hy lipid to ra.

Th ceton gm 3 thnh phn: Acetoacetat, Aceton, -Hydroxybutyrat; cỏc
thnh phn ny c o thi qua nc tiu. ngi bỡnh thng khụng cú
ceton trong nc tiu. Trong trng hp nhim toan chuyn húa do
th o thi nhiu ceton ra nc tiu.
cho tỡnh trng hụn mờ nhim toan.

T , c

õy l du hiu rt cú giỏ tr bỏo trc


Hiện nay, có thể xác định glucose huyết, glucose niệu hay ceton niệu
một cách nhanh chóng, chính xác bằng các dụng cụ như que thử glucose niệu,
ceton niệu, máy và kit đo glucose huyết [5, 12, 14, 27].
1.1.4.4. Định lượng insulin và C-peptit trong máu
Insulin và C-peptit huyết được định lượng bằng phương pháp RI
(Radioimmuno Assay- ịnh lượng miễn dịch phóng xạ) hoặc ELISA. C-peptit
được bài tiết cùng tiền insulin (Proinsulin) từ tế bào β tiểu đảo tụy, đây là yếu
tố liên kết giữa nhánh A và B của Proinsulin. C-peptit được bài tiết qua thận ở
trạng thái nguyên vẹn, không bị biến đổi.

ịnh lượng C-peptit sẽ đánh giá

chính xác khả năng bài tiết insulin của tụy [5, 12, 14, 27].
1.1.4.5. Các xét nghiệm khác
Ngoài các xét nghiệm trên còn có các xét nghiệm khác để chẩn đoán
xác định và theo dõi tiến triển bệnh trong điều trị như: Hb

1c


(Glycosylated

hemoglobin), Albumin glycosylated và protein huyết thanh, protein niệu, β2Microglobulin [5, 12, 14, 27].
1.1.5. Biến chứng T
Biến chứng tim: đây là biến chứng nặng, thường là xơ cứng mạch vành
gây cơn đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim.
Biến chứng ngoài da: ngứa toàn thân, ngứa sinh dục, mụn nhọt ngoài
da, u mỡ vàng, hoại tử mỡ, viêm da thể cứng bì teo.
Biến chứng mắt: nhiễm khuẩn mắt, liệt nhãn cầu gây nhìn đôi, viêm
đỏ mống mắt, bệnh võng mạc, thiên đầu thống chảy máu, trường hợp nặng
có thể mù.
Hoại tử do

T : đây là biến chứng muộn của bệnh do lâu ngày bị bỏ

qua không điều trị. Thường là hoại tử ở chi dưới nhưng cũng có thể ở các tạng
như: tim, võng mạc, não, thận.


Biến chứng thần kinh: đau dây thần kinh tọa, trụ; rối loạn cảm giác sâu,
mất phản xạ gân xương; liệt cơ.
Biến chứng thận: gây protein niệu, đái máu vi thể, hội chứng thận hư.
Biến chứng răng: là một trong các biến chứng sớm, thường là viêm lợi
và rụng răng.
Biến chứng phổi: áp xe phổi, đây là biến chứng rất dễ gặp.
Hôn mê: là biến chứng nặng nhất và thường gây tử vong. Bệnh nhân có
thể hôn mê do

T


như hôn mê do nhiễm toan, ceton, do tăng thẩm thấu

hoặc có thể hôn mê do hạ glucose huyết vì quá liều insulin [5, 14, 27].
1.1.6. iều trị T
1.1.6.1. Chế độ không dùng thuốc
Chế độ ăn uống: việc điều trị

T

bằng chế độ ăn cần tuân theo

nguyên tắc: tổng số calo đưa vào phải cung cấp một năng lượng tương xứng
để đạt tới duy trì cân nặng tối ưu cho bệnh nhân và giữ tình trạng sức khỏe tốt nhất.
Vận động thể lực: vận động thể lực làm tăng nhạy cảm của insulin do
tăng số lượng và chất lượng của receptor insulin của tế bào. Thể dục làm giảm
một số biến chứng của bệnh [14, 27, 35].
1.1.6.2. Chế độ dùng thuốc
Ở Việt Nam có hai hướng sử dụng thuốc là:
1.1.6.2.1. Sử dụng thuốc tân dược: Theo ®-êng dïng vµ nguån gèc, c¸c thuèc
h¹ glucose m¸u ®-îc chia thµnh hai nhãm chÝnh:
- Insulin
- Các thuốc hạ glucose huyết đường uống
a. Insulin: Insulin ngoại sinh được sử dụng khi tụy không sản xuất đủ insulin
để điều hòa chuyển hóa glucid. Insulin dùng trong điều trị

T

type 1 hoặc



type 2 khi dùng thuốc uống hạ đường huyết không còn tác dụng. ơ chế tác
dụng của insulin bao gồm [14, 27, 35]:
- Tăng cường vận chuyển glucose từ máu vào tế bào, tăng cường
oxyhóa glucose tạo năng lượng và chuyển glucose thành glycogen dự trữ.
- Tăng cường tổng hợp protein bằng cách chuyển acid amin vào tế bào.
- Tăng cường chuyển hóa glucose thành chất béo dự trữ.
b. Các thuốc hạ glucose huyết đường uống
- Sulphonylurea: (tolbutamid, gliclazid) là thuốc dùng đầu tiên ở bệnh
nhân

T

type 2 không béo phì. Trong cơ thể, Sulphonylurea được gắn lên

thụ thể đặc hiệu nằm ở màng tế bào β tiểu đảo Langerhan và kích thích giải
phóng insulin. Khả năng kích thích giải phóng insulin của sulphonylurea trên
tế bào β phụ thuộc vào khả năng gắn với các thụ thể. Do đó sulphonylurea chỉ
có tác dụng khi tế bào β không bị tổn thương [14, 27, 35].
- Biguanide: (metformin) dùng cho bệnh nhân béo phì. Thuốc làm tăng
tác dụng của insulin tại thụ thể và sau thụ thể, tăng sử dụng glucose ở tổ chức
ngoại vi, đặc biệt là ở tế bào cơ. Thuốc làm giảm tạo glucose ở gan, giảm hấp
thu glucose ở ruột. Tuy nhiên, nhóm này không có tác dụng đối với sự bài tiết
insulin ở tụy. Do đó, nên phối hợp với sulphonylurea hoặc với insulin trong
điều trị [35].
- Các thuốc ức chế men α-glucosidase: (acarbose, miglitol) là
pseudotetrasaccharide có nguồn gốc từ vi khuẩn. Ở niêm mạc ruột non, thuốc
ức chế cạnh tranh men tiêu hóa tinh bột α-glucosidase, do đó làm chậm sự hấp
thu carbohydrate.
- Meglitinide: (repaglinide) thuốc làm giảm glucose huyết bằng cách
kích thích tiết insulin từ tế bào β tụy còn hoạt động.

- Thiazolidinedione hay Glitazon: (troglitazone, rosiglitazone) trong
nhân tế bào của những mô nhạy cảm với insulin (mô mỡ, mô cơ, mô gan) có


mt loi c th l PP R (Per-oxisome proliferator-activated receptor
gamma). Cỏc glitazon to phc hp vi th th PP R, qua ú thỳc y s
iu hũa sao chộp gen giỳp tng hp mt s protein lm t bo tng ỏp ng
vi hot tớnh ca insulin. Thuc cú tỏc dng lm gim trc tip tỡnh trng
khỏng insulin, ci thin chc nng t bo , lm gim ỏng k nng insulin
ni sinh do ú gõy h glucose huyt [35].
1.1.6.2.2. S dng thuc cú ngun gc dc liu
- ỏi thỏo ng theo quan nim ụng Y:
Bệnh ĐTĐ trong y học cổ truyền gọi là chứng tiêu khát mà nguyên
nhân chủ yếu là do ăn uống không điều độ, ăn nhiều các chất cay nóng, béo,
ngọt, do lao lực, do căng thẳng thần kinh tạo thành hoả nhiệt, uất nhiệt làm
phần âm của các phủ tạng: phế, vị, thận bị hao tổn. Hải Th-ợng Lãn Ông
trong cuốn Y Trung Quân Kiện có viết: chứng bệnh tiêu khát phần nhiều do
hoả làm tiêu hao chân âm 5 chất dịch bị khô cạn mà sinh ra [4].
Bệnh ĐTĐ trong y hc c truyn chia ra làm ba mức độ khác nhau: Nếu
bệnh nhân thích uống n-ớc nhiều thì bệnh chủ yếu ở th-ợng tiêu do phế âm
h-; nếu thích ăn nhiều bệnh chủ yếu ở trung tiêu do vị âm h- gây đói và gầy;
nếu bị đi tiểu nhiều thì bệnh chủ yếu ở phần hạ tiêu do thận âm h- không tàng
trữ đ-ợc tinh hoa của ngũ cốc, không chủ đ-ợc thuỷ gây tiểu nhiều và n-ớc
tiểu có đ-ờng [4, 7, 8].
Muốn chữa bệnh phải trị cả gốc và ngọn: trị ngọn là trị chứng khát
n-ớc, đói, tiểu nhiều. Trị gốc là trị phế, tỳ, thận là những cơ quan có chức
năng chuyển hoá và điều tiết trong cơ thể.
- Cỏc thuc ụng y s dng trong iu tr T :
S dng thuc cú ngun gc thc vt trong phũng v cha bnh l thúi
quen, kinh nghim v truyn thng ca ngi dõn Vit Nam v mt s nc

trờn th gii. Mt nghiờn cu v vn s dng tho dc thng xuyờn cho


bệnh nhân

T

ở Marốc đã cho thấy liệu pháp thực vật là kinh tế nhất và

hiệu quả hơn thuốc hiện đại [4]. Có rất nhiều loài cây đã được dùng theo kinh
nghiệm dân gian để làm giảm nhẹ triệu chứng cũng như biến chứng của bệnh
T :

ải xoong (Nasturium officinale Brassicaceae); Mướp đắng

(Mormordica charantia Cucurbitaceae); Bồ công anh (Taraxacum officinale
Asteraceae); Dứa (Ananas sativus); Ổi (Psidium guajava); Rau má (Celltela
asiatica); Ngò tàu (Eryngium foetidum Apiaceae); Quỉ trâm thảo (Bidens pilosa
Asteraceae); Củ cải trắng (Ravanus sativus); Bạch truật (Atractiloides
macrocephala Asteraceae); Cam thảo nam (Scoparia ducis Scrophulariaceae);
Dừa cạn (Catharanthus roseus

pocynaceae); Hoài sơn (Dioscorea persimilis

Dioscoreaceae); Ngọc trúc (Polygotanum officinale Liliaceae), Chuối hột
(Musra barjoo Sieb),… [7, 8, 9].
Ở Việt Nam cũng như trên thế giới, một số cây đã và đang được nghiên
cứu để chứng minh tác dụng hạ glucose huyết như Mướp đắng (Mormordica
charantia Cucurbitaceae); Chuối hột (Musra barjoo Sieb); Thổ phục linh
(Smilax glabra Smilacaceae); Hương nhu tía (Ocimum sanctum Lamiaceae);

Kha tử (Terminalia chebula); Tri mẫu (Anemarrhena asphodeloides); Tỏi
(Alium sativa Liliaceae); Mỏ quạ (Cudnaria tricuspidata Moraceae); Dừa cạn
(Catharanthus roseus Apocynaceae); Lô hội (Aloe vera Liliaceae); Cỏ mực
steraceae);

(Eclipta alba

ơn kim (Bidens polisa var. radiata Asteraceae);

Nhân sâm (Panax ginseng raliaceae),… Các nghiên cứu này đã cho thấy kết
quả khá khả quan, có thể dần dần đưa vào sử dụng trên lâm sàng [4, 7, 8, 9].
1.1.7. Các yếu tố nguy cơ dẫn đến bệnh T
Bệnh

T

có 4 nhóm nguy cơ lớn: di truyền, nhân chủng, hành vi lối

sống và nhóm nguy cơ chuyển tiếp (các nhân tố trung gian).


1.1.7.1. Các yếu tố gen
Có vai trò quan trọng trong bệnh

T

type 2. Những người có bố, mẹ

hoặc anh chị em ruột của mình bị bệnh T có nguy cơ mắc bệnh cao gấp 46 lần những người khác. Nguy cơ này sẽ cao hơn khi cả hai bên nội ngoại đều
có người mắc bệnh T .

Khi bố hoặc mẹ mắc T thì tỷ lệ nguy cơ là 30%;
Khi cả bố và mẹ đều mắc T thì nguy cơ là 50%;
Trường hợp sinh đôi cùng trứng, nếu một người mắc bệnh thì người kia
sẽ được xếp vào nhóm bị đe dọa thật sự đối với bệnh T [26, 27, 30].
1.1.7.2. Các yếu tố nhân chủng học (giới, tuổi, chủng tộc)
Theo sắc tộc: Tỷ lệ mắc bệnh và tuổi mắc bệnh
tộc. Ở Tây âu, tỷ lệ mắc bệnh

T

thay đổi theo sắc

T type 2 ở người da vàng cao hơn người da

trắng từ 2-4 lần; tuổi mắc bệnh ở người da vàng trẻ hơn, thường trên 30 tuổi,
người da trắng thường hơn 50 tuổi.
Theo độ tuổi: đây là yếu tố được xếp lên vị trí đầu tiên trong số các yếu
tố nguy cơ của bệnh

T

type 2. Khi cơ thể già đi, đặc biệt là từ 50 tuổi trở

lên, thì các chức năng tụy nội tiết cũng bị suy giảm theo và khả năng tiết
insulin của tụy cũng bị giảm. Khi đó, nồng độ glucose trong máu có xu hướng
tăng, đồng thời sự nhạy cảm của các tế bào đích với kích thích của insulin
giảm đi. Khi tế bào tụy không còn khả năng tiết insulin đủ với nhu cầu cần
thiết của cơ thể, glucose máu khi đói tăng và bệnh T thực sự xuất hiện [26,
27, 30].
1.1.7.3. Các yếu tố hành vi, lối sống

Béo phì
Bệnh béo phì được tổ chức Y tế thế giới định nghĩa là tình trạng tích
lũy mỡ quá mức và không bình thường tại một số vùng cơ thể hay toàn than


tới mức ảnh hưởng tới sức khỏe. WHO thường dùng chỉ số khối cơ thể (Body
Mass Index – BMI) để nhận định tình trạng béo gầy. Công thức tính BMI là:
BMI = W/(H)2
W: Cân nặng cơ thể (kg)
H: Chiều cao cơ thể (m)
- BMI: 20-25 là bình thường;
- BMI ≥ 25 là thừa cân;
- BMI ≥ 30 là béo phì.
ó là chỉ số dành cho người châu Âu và châu Mỹ, người châu Á, BMI
bình thường có giới hạn từ 18,5 – 23,0. Theo chỉ số khối cơ thể BMI, nguy cơ
mắc bệnh T được xếp loại như sau:
- BMI < 18,5: không có nguy cơ,
- 18,5 < BMI < 22,9: nguy cơ thấp,
- 23,0 < BMI < 24,9: có nguy cơ ở mức trung bình,
- 25,0 < BMI < 29,9 (béo độ 1): nguy cơ cao,
- BMI ≥ 30,0 (béo phì độ 2): nguy cơ rất cao.
T

type 2 rất phổ biến ở những người béo phì. Tỷ lệ những người

béo phì bị

T type 2 đang gia tăng ở các nước trên toàn thế giới, không chỉ

ở lứa tuổi trên 40 mà còn gặp cả ở những người đang trong độ tuổi thanh

thiếu niên [14, 15, 17, 30].
Kháng insulin tồn tại cả ở gan và các mô ngoại vi, có thể xuất phát từ
những bất thường trong các phân tử liên quan đến con đường truyền tín hiệu
insulin. Mặc dù nguyên nhân có thể từ những nhân tố không có mặt trong con
đường truyền tín hiệu insulin, nhưng chúng làm rối loạn hay biến đổi một số
phân tử trong mạng lưới này [15, 24, 25].
Trong trường hợp này, các cytokine như yếu tố hoại tử mô TNF-α tạo
ra tình trạng kháng insulin bằng cách bất hoạt một số phân tử trong con đường
truyền tín hiệu insulin thong qua một số cơ chế như:


- Photphoryl hóa các gốc serin chủ chốt, giảm độ nhạy cảm của thụ thể
insulin, khiếm khuyết trong hoạt tính của IR tyrosine kinase và giảm hoạt tính
của IRSI và P13 kinase.
- Giảm hoạt hóa một số phân tử như: thụ thể γ hoạt hóa quá trình tăng
sinh peroxisome (PPAR-γ) hoặc leptin.
Các nghiên cứu cũng chỉ ra adiponectin/ACRP30 và resistin chính là
các phân tử làm trung gian cho quá trình kháng insulin. Tuy nhiên vẫn chưa
rõ rằng liệu tình trạng kháng insulin trong béo phì có phải là cơ chế thích nghi
với sự dư thừa năng lượng hay đó là những hiệu ứng không mong muốn của
tình trạng nhiễm độc lipid trong một hệ thống vốn sinh ra để tồn tại trong điều
kiện thiếu năng lượng? Nói cách khác, có thể dưới điều kiện nhiễm độc lipid,
các cơ chế ban đầu được tạo ra cho các mục đích khác như apotosis hay bảo
vệ vật chủ, lại bị hoạt hóa không chính xác.
Người ta đã tìm thấy sự giảm khả năng hoạt động của insulin tại thụ
thể do giảm gắn insulin vào các thụ thể. Những bất thường ở điểm gắn này
đã được tìm thấy là do có biến đổi về cấu trúc ở các gen điều hòa tổng hợp
insulin và các thụ thể đặc hiệu gắn insulin.

ã có những bằng chứng cho


thấy có sự suy giảm số lượng các thụ thể insulin ở người bệnh

T

type 2,

chủ yếu là ở các tế bào mô mỡ [15, 24, 25].
Ít hoạt động thể lực
Các nghiên cứu trên thế giới đã cho thấy, việc tập luyện thể lực thường
xuyên có tác dụng làm giảm nồng độ glucose huyết tương ở bệnh nhân

T

type 2, đồng thời giúp duy trì sự bình ổn của lipid máu, huyết áp, cải thiện
tình trạng kháng insulin, và một điều tuyệt vời nữa là cải thiện tích cực về mặt
tâm lý [27, 30].


Chế độ ăn
Nhiều nghiên cứu cho thấy tỷ lệ mắc bệnh

T

tăng cao ở những

người có chế độ ăn nhiều chất béo bão hòa, nhiều carbonhydrat tinh chế.
Ngoài ra, các chế độ ăn này thiếu vitamin, các yếu tố vi lượng góp phần làm
thúc đẩy sự tiến triển bệnh ở những người trẻ cũng như người cao tuổi.


ặc

biệt ở người già mắc bệnh T , cơ thể có sự tăng sản xuất gốc tự do (là nhân
tố làm tăng quá trình lão hóa cơ thể), do vậy việc bổ sung các chất chống oxi
hóa như vitamin , E sẽ phần nào giúp cải thiện được hoạt động của insulin
và quá trình chuyển hóa [27, 30].
Các yếu tố khác
Stress: Tình trạng Stress kéo dài do áp lực từ công việc, căng thẳng
trong cuộc sống hàng ngày là một “tay nội gián” cho bệnh

T . Lối sống

công nghiệp và hiện đại hóa: Từ phương tiện đi lại hiện đại hơn làm giảm cơ
hội vận động; công việc văn phòng, các bữa ăn với thức ăn nhanh nhiều năng
lượng,… đây là những yếu tố tiếp tay cho sự tấn công của bệnh T vào loài
người của xã hội hiện đại [27, 30].
Các yếu tố chuyển hóa và các loại nguy cơ trung gian
- Rối loạn đường máu lúc đói, rối loạn dung nạp glucose
- Kháng insulin
1.2. huối hột
Chuối hột (còn gọi chuối hạt, chuối chát) có tên khoa học là: Musra
barjoo Sieb, hay Musa brachycarpa, Musa seminifera Musaceae (họ Chuối Musaceae) [7, 8, 9].


Hình 1. Cây chuối hột
1.2.1. ặc điểm thực vật và phân bố
Chuối hột thuộc lớp thực vật một lá mầm. Cây thân giả, cao 2-4m, to,
màu xanh. Lá to có phiến dài, xanh hơi mốc mốc, bẹ xanh. Buồng hoa nằm
ngang, mo đỏ sẫm, không quấn lên, có phác hoa dạng ghé tạo thành buồng
chuối ở tận ngọn, có nhiều hoa trong một buồng, hoa sắp thành hai hàng tạo

thành nải chuối. ác hoa đực nằm ở nải trên ngọn (ngọn của buồng), còn ở
phần gần cọng của phác hoa (gốc của buồng) là hoa lưỡng tính. Quả có
cạnh, thịt quả nạc chứa nhiều hạt to 4-5mm. Mỗi quả chứa trung bình 15-25
hạt. Bộ phận thường dùng là củ, quả, thân. Có thể thu hái các bộ phận của
cây quanh năm.
Cây mọc hoang hoặc được trồng ở nhiều nơi trên đất nước ta, đặc biệt
là vùng rừng núi phía Bắc và các tỉnh miền Trung. Người dân ở đây thường
dùng lá để gói bánh, quả để ăn và làm gia vị, thân để nuôi gia súc. Theo kinh
nghiệm dân gian, một số người đã sử dụng các bộ phận khác nhau của cây để
làm thuốc [7, 8, 9].


1.2.2. Thành phần hóa học
Năm 1987, J.Horry và M.Ray (Pháp) đã nghiên cứu và xác định trong lá
bắc của cây có anthocianin. Trong đó, delphinidin và cyanidin là các
anthocianidin chính.
Năm 1995, Kong. L & cộng sự (Trung Quốc) đã nghiên cứu phân lập
enzyme polyphenol oxydase trong vỏ quả chuối.
Năm 1998, T.Kamo & cộng sự (Nhật Bản) xác định được phytoalexin;
1,2,3,4-tetrahydro-6,7-dihydroxy-1-(4'-hydroxycinnamyliden) naphthalen-2on; 2-(4'-methoxyphenyl)-1,8-naphthalic anhydrid; 2-phenyl-1,8-naphthalic
anhydrid trong quả.
Năm 1991 M. li (Ấn

ộ) công bố ba Neo-clerodan Diterpenoid phân

lập được từ hạt Musa balbisiana là: musabalbisian A, B, C. Cấu trúc của các
thành phần này cũng đã được xác định bằng phương pháp phân tích quang
phổ và phương pháp hóa học.
Ở Bộ môn Dược liệu - Khoa Dược, ại học Y Dược, TP Hồ Chí Minh,
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh và Bùi Mỹ Linh đã nghiên cứu xác định thành phần

hóa học của hạt chuối hột. Kết quả cho thấy, trong hạt chuối hột có các chất:
saponin, coumarin, tanin, flavonoid anthocianosid và hợp chất uronic, tinh
dầu, phytosterol …
1.2.3. Tác dụng của cây chuối hột
Theo cuốn “450 vị thuốc nam có tên trong bản Dược thảo Trung Quốc”
(Nhà xuất bản Y học - 1963) thì tác dụng sinh lý của chuối hột với nhiều
phương pháp khác nhau, các phần của cây chuối hột (gồm hạt, quả, củ) được
sử dụng để chữa trị rất nhiều loại bệnh:
- Trị đau răng, lợi có mủ: Vỏ hoặc củ chuối hột, da trăn, cam thảo nam
đồng lượng đốt toàn tính cùng phèn phi, tán bột, trộn dầu dừa bôi vào chân răng.


- Trị nóng sốt phát cuồng, nói sảng: Thân chuối xẻ đôi, bỏ giun đất vào
nướng kĩ, ép lấy nước uống.
- Trị sỏi đường niệu: hạt, quả xanh sắc nước uống; nước trích từ thân
cây, uống mỗi sáng một chén, dùng 1-2 tháng.
- Trị chứng viêm loét dạ dày: Chuối hột già thái mỏng, phơi khô, tán
bột uống với nước nóng.
- Trị chứng trĩ ra máu: nõn chuối hột nướng nóng chườm vào hậu môn;
nõn chuối tiêu, bột khô của trái chuối hột đem giã nát gói vào lá chuối non,
nướng cho nóng đắp vào hậu môn.
- Trị mụn nhọt: Khi nhọt đã hình thành, sưng, nóng, đỏ, đau nhức
nhiều; củ chuối rửa sạch giã nát với muối rồi đắp lên nhọt mỗi ngày.
- Giải độc thực phẩm: quả xanh thái mỏng, ăn sống cùng với các rau
sống khác, trừ được các chất độc trong rau sống hay trong thịt cá.
- Trị bệnh đường ruột: Ăn quả chín, nhai cả hạt trị giun; vỏ quả 4-8g
sắc uống trị kiết lị.
- An thai: Củ chuối, rễ móc mỗi thứ 20g sắc uống.
- Chữa sản hậu tê thấp, chân tay tê dại: Hoa chuối thái nhỏ, sao vàng hạ
thổ, sắc lấy nước uống, bã đắp vào nơi tê đau.

- Cầm máu: Thân cây giã nát đắp vào vết thương chảy máu.
- Trị T :
+ Uống nước trích từ thân cây chuối hột mỗi sáng.
+ Trái chuối hột già hoặc vừa chín, xát mỏng, phơi khô, sắc uống thay
nước trong ngày.
+ Củ chuối giã nát lấy nước uống.
+ c bươu rửa sạch bung với củ chuối ăn chữa bệnh T .


1.3. Một số hợp chất tự nhiên ở thực vật
1.3.1. Saponin
Saponin là một loại glicozid tự nhiên thường gặp trong nhiều loài thực
vật. Dưới tác dụng của axit loãng và enzyme trong thực vật, vi khuẩn, saponin
bị thủy phân thành các phần gồm genin gọi là sapogenin và phần đường gồm
một hoặc nhiều phân tử đường.
Dựa vào cấu trúc của phần sapogenin, người ta chia saponin ra làm 3
nhóm lớn là triterpenoid saponin, steroid saponin và glicoancaloid dạng
steroid.
Tác dụng sinh học: saponin có tác dụng long đờm, chữa ho (viễn chí,
cát cánh, cam thảo, thiên môn, mạch môn); saponin có mặt trong các vị thuốc
bổ như nhân sâm, tam thất…; saponin làm tăng tính thấm của tế bào, có tác
dụng chống viêm, kháng khuẩn, kháng nấm, ức chế vius [18].
1.3.2. Flavonoid
ác flavonoid là lớp chất phổ biến trong thực vật.
được cấu tạo gồm hai vòng benzene

húng là hợp chất

, B được kết nối bởi 1 dị vòng


với

ác flavonoid là dẫn xuất của 2-phenol chroman

khung cacbon C6-C3-C6.
(flavan) [14].

5
4'

6'
8
7
A

B

1
O

3'

2

1'

C

2'


3

6
5

4
Flavan (2-phenyl chroman)

ác flavonoid có ở trong tất cả các bộ phận của cây, bao gồm quả,
phấn, hoa, rễ, … Một số flavonoid có hoạt tính sinh học thể hiện ở khả năng
chống oxi hóa.


Tác dụng sinh học [18]:
- Flavonoid có khả năng kìm hãm quá trình oxy hóa dây chuyền sinh ra
bởi gốc tự do hoạt động. Những flavonoid có các nhóm hydroxyl sắp xếp ở vị
trí octo dễ dàng bị oxy hóa dưới tác dụng của các enzyme polyphenoloxydaza
tạo thành các semiquinon hoặc quinon. Semiquinon hoặc quinon là những gốc
tự do bền vững, chúng có thể nhận điện tử và hydro từ chất cho khác nhau để
trở lại dạng hydroquinone. ác chất này có khả năng phản ứng với các gốc tự
do hoạt động sinh ra trong quá trình sinh lý và bệnh lý để tiêu diệt chúng.
- Flavonoid có khả năng điều hòa hoạt độ enzyme do khả năng liên kết
với nhóm amin trong phân tử protein, làm thay đổi cấu hình không gian của
enzyme, do đó tạo hiệu ứng điều hòa dị lập thể.
- Flavonoid có tính kháng khuẩn, kháng virus, tăng khả năng đề kháng
của cơ thể do kích thích lympho bào, tăng sản xuất interferon.
- Flavonoid có hoạt tính của vitamin P, làm tăng tính bền và đàn hồi
của thành mạch, giảm sức thấm của mao mạch. Flavonoid còn có tác dụng
chống ung thư do kìm hãm các enzyme oxy hóa khử, kìm hãm phân bào, phá
vỡ cân bằng trong các quá trình trao đổi chất của tế bào ung thư.

- Flavonoid có hoạt tính chống T .
1.3.3. Alkaloid
Alkaloid là hợp chất hữu cơ chứa nitơ, đa số có nhân dị vòng, có tính
kiềm, thường gặp ở thực vật và đôi khi cả ở động vật, thường có hoạt tính
sinh học mạnh và cho phản ứng hóa học với một số thuốc thử, gọi là thuốc
thử chung của alkaloid.
Tác dụng sinh học: Alkaloid được hình thành từ các sản phẩm của quá
trình trao đổi chất như protein. Ở trong cây, alkaloid được coi như là chất dự
trữ cho qua trình tổng hợp protein, các chất bảo vệ cây, tham gia sự chuyển
hóa hydro ở các mức độ khác nhau [14, 18].


1.3.4. Tanin
Tanin là những hợp chất phenol có trọng lượng phân tử cao, có chứa cả
nhóm chức hydroxyl và các nhóm chức khác như cacboxyl, có khả năng tạo
phức với protein và các phân tử khác trong điều kiện môi trường đặc biệt.
Tanin được cấu tạo dựa trên axit gallic và axit tanic. Tanin có hai nhóm
chính là tanin thủy phân và tanin ngưng tụ.
Tác dụng sinh học: Tanin là chất cầm rửa do có tác dụng giảm sự bài
tiết trong ống tiêu hóa, kết tủa protein tạo thành một màng che niêm mạc.
Tanin chữa ngộ độc kim loại nặng, chống ung thư. Tanin ở nồng độ cao ức
chế hoạt động của các enzyme nhưng ở nồng độ thấp chúng thường kích hoạt
enzyme. Tanin còn có tác dụng diệt khuẩn, cầm máu, giảm đau [14, 18].


Chƣơng 2. Ố TƢỢ

VÀ P ƢƠ

P ÁP


ỨU

2.1. ối tƣợng nghiên cứu
2.1.1. Mẫu thực vật
Cây chuối hột được thu hái ở Tân Yên – Bắc Giang vào tháng 10 năm 2009.
2.1.2. ối tƣợng động vật
Chuột nhắt trắng chủng Swiss, cân nặng từ 18-22g do Viện Vệ sinh
dịch tễ Trung ương cung cấp.
2.1.3. Hóa chất và thiết bị nghiên cứu
2.1.3.1. Dụng cụ và thiết bị tách chiết
Các dụng cụ và thiết bị dùng cho tách chiết và tinh chế các hợp chất:
- Bình chiết
- Máy cô quay chân không
- èn tử ngoại hai bước sóng 254 và 368nm
- Tủ sấy chân không
- Micropipet
- Bình sắc ký loại phân tích và điều chế
- Cột sắc ký pha thường các loại đường kính
- Máy phun dung dịch thuốc thử
- Bếp điện
- Máy đo đường huyết hiệu Onetouch Johnson.
2.1.3.2. Dụng cụ và thiết bị xác định cấu trúc
- Máy phổ cộng hưởng từ hạt nhân NMR AM500 FT-NMR
spectrometer
- Máy sắc ký lỏng cao áp ghép nối khối phổ (ESI) AGILENT 1100 LCMSD Trap spectrometer
- Thiết bị đo điểm nóng chảy Kofler micro-hotstage
- Thiết bị đo độ quay cực JASCO DIP-1000 KUY polarimeter



2.1.3.3. Hóa chất
- STZ (streptozotocin), Sigma. ST. Louse.
- Silica gel 60 (0,04-0,063 mm) Merck.
- Silica gel pha đảo ODS hoặc YMC (30-50 µm, FuJislisa Chemical Ltd.).
- Bản mỏng tráng sẵn pha ngược RP18 F254s (Merck).
- Bản mỏng điều chế pha thường DC-Alufolien 60 F254 (Merck).
- Các loại dung môi hữu cơ như methanol, ethanol, ethylacetat,
chloroform, n-hexan, aceton, … là hoại hóa chất tinh khiết của Merck.


×