Tải bản đầy đủ (.doc) (190 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ sự vận DỤNG PHÉP BIỆN CHỨNG DUY vật của ĐẢNG TA TRONG GIAI đoạn đổi mới HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (649.14 KB, 190 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội được Đại hội VII của Đảng thông qua đã xác định: "Đảng lấy chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
cho hành động,...". Kết luận này được rút ra từ kết quả tổng kết thực tiễn sáu
mươi năm thực hiện Chính cương vắn tắt, Luận cương năm 1930 của Đảng.
Nhưng, theo Lênin, sợi chỉ đỏ của toàn bộ chủ nghĩa Mác chính là phép biện
chứng duy vật - khoa học phản ánh đúng đắn biện chứng khách quan của sự
vật, hiện tượng. Hoạt động của con người chỉ có kết quả, khi lấy biện chứng
khách quan của sự vật, hiện tượng làm điểm xuất phát.
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn vận dụng sáng tạo phép biện chứng
duy vật, và do đó, đã góp phần xây dựng một cách đúng đắn các đường lối,
nghị quyết phát triển đất nước. Thực tiễn những thành quả vĩ đại của cách
mạng nước ta do Đảng lãnh đạo đã chứng minh điều đó. Tuy nhiên, trong quá
trình lãnh đạo cách mạng, đã có lúc Đảng ta chưa thực sự quán triệt phép biện
chứng duy vật, gây hậu quả cho sự phát triển của đất nước. Đã có lúc Đảng ta
mắc phải bệnh giáo điều, kinh nghiệm, chủ quan duy ý chí, coi thường các
quy luật khách quan của sự phát triển xã hội trong quá trình hoạch định cũng
như chỉ đạo đường lối phát triển đất nước.
Sự nghiệp đổi mới của chúng ta đang diễn ra trong những điều kiện
mới chưa từng có trong lịch sử nhân loại, chúng ta đang thực sự phải nhận
thức và giải quyết nhiều vấn đề phức tạp nhất trong lịch sử không chỉ ở nước
ta, mà mang tính quốc tế của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thật vậy, đường lối cách mạng của nước ta trước hết phải xuất phát từ
hiện thực đất nước và thời đại; mặt khác, phải dựa trên nền tảng tư tưởng là



2

chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ những kinh nghiệm thành
công của chúng ta và của thế giới...
Xét từ phương diện thứ nhất, hiện thực khách quan mà chúng ta lấy đó
làm điểm xuất phát để đề ra đường lối đổi mới, hoàn thiện và triển khai thực
hiện tự chúng đã hết sức biện chứng, đầy mâu thuẫn. Chủ nghĩa xã hội với tư
cách là cái mới tiêu biểu cho xu thế phát triển khách quan của nhân loại lại đang
trong cơn khủng hoảng và thoái trào. Chủ nghĩa tư bản đã lỗi thời trong lịch sử
phát triển của nhân loại thì lại đang đứng ở tầm cao về kinh tế, về khoa học công nghệ, về thị trường và còn nhiều tiềm năng thích nghi để phát triển. Cuộc
cách mạng khoa học - công nghệ vừa mang lại cho con người nhiều yếu tố thuận
lợi cho việc nhận thức tự nhiên, cải tạo xã hội để ngày càng có được sự phát triển
bền vững, xét cả từ phương diện quan hệ con người với tự nhiên lẫn quan hệ
giữa con người với con người - thì mặt trái của nó cũng mang lại không ít nguy
cơ cho sự tồn tại của tự nhiên lẫn bản thân con người. Toàn cầu hóa khiến cho cả
thế giới ngày càng trở thành một thị trường, một chỉnh thể mà trong môi trường
đó, mỗi quốc gia riêng biệt chỉ có thể phát triển được, khi tự đặt mình là một yếu
tố của cộng đồng thế giới, do vậy, sự xích lại gần nhau ngày càng gia tăng. Mặt
khác, xét từ nhiều phương diện, toàn cầu hóa hiện nay đang bị chủ nghĩa tư bản
chi phối, nên mâu thuẫn dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, sự phân cực giàu nghèo ngày
càng gia tăng dẫn tới sự phân ly và phân cực chưa từng thấy trong lịch sử. Còn
tình hình đất nước như chúng ta đã biết: Hơn 15 năm đổi mới, chúng ta đã có
nhiều thành tựu đáng kể: kinh tế có bước tăng trưởng khá; văn hóa - xã hội có
những khởi sắc nhất định; an ninh - quốc phòng được tăng cường và củng cố,
độc lập - chủ quyền quốc gia được bảo đảm; đối ngoại không ngừng được rộng
mở... Mặt khác, như Đại hội IX của Đảng đã nhận định bốn nguy cơ mà Hội
nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khóa VII nêu ra đang có nhiều diễn biến phức tạp.
Công cuộc đổi mới càng được triển khai sâu sắc bao nhiêu, chúng ta càng phải
giải quyết nhiều vấn đề mới và phức tạp bấy nhiêu: bảo đảm vai trò lãnh đạo duy
nhất của Đảng ta là tiền đề chính trị tất yếu để xác lập, củng cố, tăng cường nền



3

dân chủ xã hội chủ nghĩa lại đang dựa trên nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần với cơ cấu giai cấp - xã hội, cơ cấu lợi ích ngày càng đa dạng, phong phú,
trong đó không chỉ có khác nhau, có cả mâu thuẫn, thậm chí mâu thuẫn đối
kháng. Mục tiêu cuộc cách mạng mà chúng ta đang thực hiện là hình thành một
xã hội có đầy đủ những nhân tố bảo đảm thực hiện trong thực tế lý tưởng: "Dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", thì hiện thực đất nước
vẫn thuộc nhóm quốc gia nghèo nhất thế giới; sự phân cực xã hội ngày một gia
tăng; tình trạng quan liêu - tham nhũng còn quá nặng nề; một bộ phận cán bộ,
đảng viên thoái hóa, biến chất, phai nhạt lý tưởng, cơ hội về chính trị. Trong khi
xem nội lực là chính thì chất lượng đào tạo con người đang xuống cấp đến mức
báo động, nguồn lực con người chưa có điều kiện thuận lợi để phát huy...
Xét từ phương diện thứ hai, mặc dù nhận thức của chúng ta về chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng đúng đắn hơn, nhưng
không chỉ khuynh hướng phủ nhận một số giá trị của di sản kinh điển đó, mà
cả sự xa rời, cả sự giáo điều hóa cũng chưa bị đẩy lùi; năng lực nhận thức và
vận dụng sáng tạo di sản đó còn xa so với nhu cầu thực tiễn đổi mới. Hơn
nữa, ngày nay chúng ta đang phải giải quyết nhiều vấn đề mà đương thời các
nhà kinh điển mácxít chưa gặp phải.
Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội trong những năm vừa qua lại làm
nảy sinh hàng loạt vấn đề cần được giải đáp về mặt lý luận mà không có sẵn
lời giải đáp từ di sản lý luận của các nhà kinh điển. Phải xây dựng chế độ
công hữu như thế nào; với những hình thức và bước đi thế nào để tạo nên sự
thống nhất hữu cơ giữa sở hữu xã hội với sở hữu cá nhân người lao động?
Hoặc vấn đề nhà nước phải thực hiện kế hoạch hóa như thế nào để ngăn ngừa
tình trạng tập trung quan liêu đang có xu thế quay trở lại? ...
Quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới trong những năm qua, sự vận

dụng phép biện chứng duy vật của Đảng đã có bước trưởng thành quan


4

trọng, đã đóng góp to lớn việc hoạch định những vấn đề hệ trọng của dân
tộc.
Tuy nhiên, như thực tiễn đã chứng tỏ, bệnh chủ quan, duy ý chí không
những chưa được loại bỏ mà ngược lại, đôi lúc nơi này, nơi khác nổi trội bởi
những quyết sách và những giải pháp còn mang tính nóng vội, thiếu cơ sở
khoa học và lại được triển khai một cách vội vàng, thiếu cân nhắc, gây hậu
quả nghiêm trọng cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Những khuyết
điểm đó là hậu quả của bệnh chủ quan nhưng trong đó chủ yếu là sự yếu kém
về lý luận của Đảng. Chúng ta biết rằng, bệnh chủ quan trong tư duy chính trị
và bệnh giáo điều trong công tác lý luận là trở ngại trực tiếp và chủ yếu đối
với việc hoạch định và chỉ đạo những quyết định kinh tế, chính trị xã hội của
Đảng. Đến lượt mình, hoạt động hoạch định và chỉ đạo các quyết định chính
trị của Đảng trở thành một nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những hạn chế, yếu
kém về phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian đổi mới vừa qua.
Thực tiễn đổi mới thời gian qua cũng cho thấy sự cần thiết phải kiên quyết
đấu tranh khắc phục bệnh giáo điều. Cần nhấn mạnh rằng, trong lĩnh vực tư
tưởng, khi chúng ta chưa khắc phục triệt để được giáo điều cũ thì, lại phải đối
mặt với khuynh hướng giáo điều mới. "Trong Đảng vừa có những biểu hiện
bảo thủ, không chịu đổi mới, vừa có khuynh hướng đổi mới nóng vội, rập
khuôn cách làm của các nước..." [29. 48]. Chúng ta không thể đổi mới thành
công nếu rời xa lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
rơi vào chủ nghĩa xét lại, bệnh giáo điều...
Như vậy, có thể nói, những vấn đề kinh tế, chính trị... nảy sinh trong
quá trình của đổi mới không thể giải quyết chỉ bằng triết học, nhưng cũng
không thể giải quyết thành công nếu thiếu tư duy biện chứng mácxít. Vì vậy,

quán triệt phép biện chứng duy vật, là một trong những điều kiện quan trọng
góp phần vào thành công của sự nghiệp đổi mới.


5

Từ trình bày trên cho thấy, việc vận dụng có hiệu quả phép biện chứng
duy vật để nhận thức đúng hiện thực khách quan vốn đã biện chứng lại đang ở
giai đoạn tính biện chứng đó bộc lộ ở mức phức tạp chưa từng có trong lịch
sử trở thành rất bức thiết. Việc nhận thức và phát triển sáng tạo di sản kinh
điển mácxít, làm giàu có thêm tiềm năng của phép biện chứng duy vật - một
bộ phận cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và vận
dụng sáng tạo phương pháp luận đó nhằm đưa công cuộc đổi mới tiếp tục tiến
lên trở thành một vấn đề bức xúc hơn lúc nào hết.
Thực tiễn đã xác nhận, khi nào Đảng ta nâng cao hiệu quả vận dụng
những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và phép biện chứng
duy vật nói riêng thì khi đó cách mạng nước ta giành được thắng lợi to lớn.
Ngược lại, khi nào phép biện chứng duy vật không được vận dụng triệt để,
sáng tạo trong việc đề ra các quyết định chính trị và trong chỉ đạo thực hiện
các quyết định đó thì thành quả của cách mạng bị hạn chế.
Thực tiễn đang tiếp tục đặt ra cho giới lý luận vấn đề hết sức cấp bách,
đó là đi sâu hơn nữa trong việc tìm tòi, tiếp thu di sản các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó hạt nhân là phép biện
chứng duy vật, đồng thời phát triển sáng tạo nó trong điều kiện mới của thời
đại nói chung và của Việt Nam nói riêng, nhằm làm luận cứ cho Đảng ta
trong hoạch định và tổ chức thực hiện đường lối đổi mới đất nước. Do đó,
việc nhận thức sâu sắc phép biện chứng duy vật cũng như hoạt động vận dụng
sáng tạo phép biện chứng đó là một trong những điều kiện quan trọng để
Đảng lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới đất nước.
Xuất phát từ những nhận thức trên đây, chúng tôi chọn vấn đề: "Sự vận

dụng phép biện chứng duy vật của Đảng ta trong giai đoạn đổi mới hiện nay"
làm đề tài luận án của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài


6

Liên quan đến đề tài này, đã có nhiều công trình nghiên cứu ở những
góc độ khác nhau, chúng tôi chia thành hai nhóm cơ bản sau:
Nhóm thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về phép biện
chứng duy vật, gồm có một số công trình:
"Phép biện chứng mác-xít với tư cách là phương pháp luận khoa học
phổ biến" của Pla-tôn-nốp, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1982.
"Phương pháp nhận thức biện chứng" của A.D. Sép-tu-lin, Nhà xuất
bản sách giáo khoa Mác - Lênin, 1997.
"Phép biện chứng với tính cách là phương pháp luận của nhận thức
khoa học" của Lê Hữu Tầng, Tạp chí Triết học, 3/1980 v.v...
Trong những công trình trên, các tác giả đã đạt được những kết quả trong
việc khái quát nội dung, thực chất của phép biện chứng duy vật, vai trò phương
pháp luận phổ biến của nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Nhóm thứ hai, nghiên cứu từ những góc độ khác nhau: Vận dụng lý luận
của phép biện chứng duy vật trong việc nghiên cứu về thời kì quá độ, trong đổi
mới ở Việt Nam.
Hoạt động nghiên cứu lý luận được đẩy mạnh từ sau Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI. Nhiều hội thảo khoa học đề cập đến những vấn đề lý luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin liên quan đến công cuộc đổi mới ở nước ta đã được
triển khai. Chẳng hạn, năm 1988 có hội thảo với chủ đề "Đổi mới tư duy lý
luận dưới ánh sáng nghị quyết đại hội VI của Đảng" tại Học viện Nguyễn Ái
Quốc. Hội nghị đã tập trung thảo luận nội dung về đổi mới tư duy lý luận làm
tiền đề cho sự nghiệp đổi mới.

"Triết học với sự nghiệp đổi mới" của tập thể tác giả: Phạm Thành, Lê
Hữu Tầng, Hồ Văn Thông, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1990.
"Một số vấn đề lý luận về thời kỳ quá độ ở Việt Nam" của tập thể các tác
giả, các nhà lãnh đạo, Nhà xuất bản Tư tưởng văn hóa, Hà Nội, 1991.


7

"Những vấn đề lý luận cấp bách về chủ nghĩa xã hội", Nhà xuất bản Tư
tưởng văn hóa, Hà Nội, 1991 của tập thể tác giả.
"Thử vận dụng lý luận về mâu thuẫn trong thời kỳ quá độ ở nước ta".
của Phạm Ngọc Quang, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1991.
"Về khả năng bỏ qua một hình thái kinh tế xã hội" (trong tập "Về sự
phát triển của xã hội ta hiện nay" của Vũ Văn Viên, Nhà xuất bản Khoa học
xã hội, Hà Nội, 1991.
"Sự chuyển đổi mô hình kinh tế ở nước ta hiện nay và quan niệm của
Mác về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội" của Vũ Văn Viên, Tạp chí Triết
học số 1-1993.
"Quá trình hình thành và phát triển quan điểm lý luận của Đảng ta về
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội" của tập thể tác giả các nhà khoa học trong
nước, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.
"Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đất
nước" của Nguyễn Trọng Phúc, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.
"Đổi mới tư duy lãnh đạo của Đảng trên một số lĩnh vực cơ bản" của
Phạm Ngọc Quang, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001 v.v...
Những công trình nghiên cứu lý luận trên đây đã đề cập đến nhiều vấn
đề, nhiều phạm vi và những cách tiếp cận khác nhau về phép biện chứng duy
vật, về chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ, về đổi mới mô hình phát triển của
xã hội ta và sự nghiệp đổi mới đất nước. Tuy nhiên, về vai trò của phép biện
chứng duy vật để Đảng ta hoạch định và chỉ đạo thực hiện đường lối đổi mới

thì còn ít công trình đề cập một cách có hệ thống. Do đó, luận án sẽ cố gắng
trình bày tương đối có hệ thống vai trò của phép biện chứng duy vật trong việc
hoạch định và tổ chức thực hiện đường lối, nghị quyết của Đảng. Đồng thời,
trình bày thực trạng vận dụng phép biện chứng duy vật của Đảng ta trong hơn 15


8

năm đổi mới vừa qua và bước đầu nêu lên những giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả vận dụng phép biện chứng duy vật, đáp ứng sự phát triển của đất nước.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Trên cơ sở làm rõ vai trò của phép biện chứng duy vật trong việc xây
dựng và triển khai đường lối của Đảng ta, những ưu điểm và khuyết điểm về
việc vận dụng phép biện chứng duy vật trong những năm đổi mới vừa qua,
luận án trình bày một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả của việc vận
dụng phép biện chứng duy vật trong giai đoạn đổi mới hiện nay.
Để thực hiện được mục đích trên, luận án giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Vai trò của phép biện chứng duy vật trong việc xây dựng và tổ chức
thực hiện đường lối, nghị quyết của Đảng.
- Những kết quả và hạn chế trong việc vận dụng phép biện chứng duy
vật trong hơn 15 năm đổi mới vừa qua.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả vận dụng
phép biện chứng duy vật trong việc hoàn thiện đường lối đổi mới và chỉ đạo
thực hiện đường lối đó.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận của luận án là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Hồ Chí Minh
về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Luận án sử dụng các phương pháp phân tích và tổng hợp, lôgíc và lịch
sử, kết hợp gắn lý luận với thực tiễn để làm rõ các luận cứ lý luận, thực tiễn

mà luận án đặt ra.
5. Những đóng góp mới của luận án


9

Góp phần làm rõ hơn vai trò của phép biện chứng duy vật trong việc
xây dựng và tổ chức thực hiện các Nghị quyết của Đảng. Trên cơ sở đó, từ
giác độ phép biện chứng duy vật, khảo sát những thành tựu và hạn chế của
Đảng ta trong việc xây dựng và chỉ đạo thực hiện đường lối đổi mới trong
thời quan qua. Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của vận
dụng phép biện chứng duy vật trong hoạch định và chỉ đạo đường lối đổi mới
hiện nay, góp phần đưa sự nghiệp đổi mới thành công.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Luận án góp phần làm rõ Đảng ta vận dụng phép biện chứng duy vật
trong việc xây dựng và chỉ đạo thực hiện đường lối đổi mới. Bước đầu đề
xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả việc vận dụng phép biện
chứng duy vật của Đảng ta trong xây dựng và tổ chức thực hiện các Nghị
quyết của Đảng trong thời kỳ đổi mới đất nước.
- Những kết quả của luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo
phục vụ nghiên cứu, giảng dạy cho cụm bài phép biện chứng duy vật, về vai
trò của phép biện chứng duy vật trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam và cụm
bài hình thái kinh tế - xã hội.
- Luận án cũng có ý nghĩa gợi ý đối với những người làm công tác quản
lý kinh tế, xã hội về việc vận dụng phép biện chứng duy vật trong hoạt động
của mình.
- Luận án cũng có thể góp phần tìm hiểu sự phát triển tư duy biện
chứng của Đảng ta trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới trên một số
lĩnh vực chủ yếu.
7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án
gồm 3 chương, 10 tiết.


10

Chương 1
VAI TRÒ CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
TRONG VIỆC XÂY DỰNG VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
ĐƯỜNG LỐI, NGHỊ QUYẾT CỦA ĐẢNG

Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho toàn bộ hoạt động của Đảng, của dân tộc ta. Nhưng, theo
Lênin, sợi chỉ đỏ của toàn bộ chủ nghĩa Mác chính là phép biện chứng duy
vật với tư cách là khoa học phản ánh đúng đắn biện chứng khách quan của tự
nhiên, xã hội và tư duy. Sự vận động và phát triển của bản thân các sự vật và
hiện tượng - trong đó có chính trị, khi nói tới xã hội có giai cấp - do biện
chứng khách quan của bản thân các sự vật, hiện tượng đó quy định. Hoạt
động của con người - trong đó có hoạt động chính trị- chỉ có kết quả, khi lấy
biện chứng khách quan của sự vật và hiện tượng làm điểm xuất phát.
Vận dụng quan điểm lý luận chung đó vào luận án này, có thể khẳng
định rằng, các đường lối, nghị quyết của Đảng chỉ được xem là đúng và nhờ
vậy có khả năng được tổ chức thực hiện có hiệu quả nhằm thúc đẩy sự phát
triển tiến bộ xã hội, khi các đường lối, nghị quyết đó là kết tinh của việc phản
ánh đúng đắn biện chứng khách quan của sự phát triển xã hội. Muốn vậy, việc
quán triệt những quan điểm cơ bản của phép biện chứng duy vật trong việc
xây dựng và tổ chức thực hiện các đường lối, nghị quyết của Đảng là một
trong những điều kiện hết sức quan trọng. Khi giải thích vì sao Mác và Ăngghen
đã đưa ra được những đường lối chiến lược cách mạng đúng đắn cho phong
trào vô sản quốc tế, Lênin giải thích rằng đó chính là vì hai ông đã "vận dụng

phép biện chứng duy vật... vào chính sách và sách lược của giai cấp công
nhân - đó là điều mà Mác và Ăngghen chú ý nhiều nhất; đó là cống hiến căn
bản nhất và mới nhất của hai ông, và đó là bước tiến thiên tài của hai ông trong
lịch sử của tư tưởng cách mạng [73, tr. 326-327] (tác giả luận án nhấn mạnh).


11

Để nắm được tinh thần cơ bản đó, việc làm sáng tỏ vai trò của phép
biện chứng duy vật trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện các đường lối,
nghị quyết làm cho các quyết định của Đảng phù hợp với bản chất biện chứng
của đời sống chính trị thực tiễn có vị trí cực kỳ quan trọng. Nhưng trước khi
làm sáng tỏ nội dung đó thì việc khái quát thực cất của phép biện chứng duy
vật là lôgíc cần thiết của luận án.
1.1. THỰC CHẤT CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT

Ngay từ rất sớm, trong lịch sử triết học đã xuất hiện hai phương pháp
đối lập nhau trong việc xem xét thế giới: phương pháp biện chứng và phương
pháp siêu hình.
Trong thời kỳ cổ đại đã xuất hiện phép biện chứng chất phác mà đỉnh
cao của nó là phép biện chứng cổ đại Hy Lạp. Phép biện chứng này được rút
ra từ quá trình trực quan cảm tính, mà kết quả của nó là đã xây dựng được
nhiều quan điểm biện chứng khoa học. Theo quan điểm biện chứng đó, thế
giới là một chỉnh thể thống nhất trong tính toàn vẹn của nó. Giữa các bộ phận
của nó có mối liên hệ qua lại, quy định lẫn nhau trong sự không ngừng vận
động, phát triển.
Nhận xét mặt tích cực và hạn chế của quan điểm biện chứng chất phác
thời cổ đại, Ph.Ăngghen cho rằng, trong quan điểm đó chúng ta thấy một bức
tranh về sự chằng chịt vô tận của những mối liên hệ... trong đó không có cái
gì là đứng nguyên, không thay đổi, mà tất cả đều vận động biến đổi, phát sinh

rồi mất đi. Nhưng cách nhìn ấy vẫn không đủ để giải thích những chi tiết hợp
thành bức tranh toàn bộ.
Sau này, nhờ vào phương pháp phân tích để khám phá các bộ phận
khác nhau của thế giới, trong khi khắc phục được một phần nào đó hạn chế
của phép biện chứng chất phác cổ đại thì người ta lại rơi vào khuynh hướng
tuyệt đối hóa phương pháp phân tích trong nhận thức thế giới. Từ đó ra đời


12

phương pháp tư duy siêu hình - một phương pháp mang tính đặc thù của
những thế kỷ XVI, XVIII.
Từ giữa thế kỷ XVIII trở đi, những thành quả của khoa học tự nhiên
mang lại đã chứng minh rằng, tự nó, thế giới vốn tồn tại một cách biện chứng.
Quan điểm siêu hình đã bị khoa học tự nhiên phủ định. Nhưng sự phủ định quan
điểm siêu hình lúc này lại dẫn tới sự mở đầu và sự xác lập của phép biện chứng
duy tâm mà đỉnh cao là phép biện chứng duy tâm khách quan của Hêghen.
Theo Hêghen, giới tự nhiên và xã hội loài người chỉ là sự tồn tại khác
của "ý niệm", do sự tha hóa của ý niệm mà thành. Ý niệm luôn luôn vận động
và phát triển không ngừng. Thừa nhận sự phát triển (mặc dù sự phát triển theo
Hêghen là sự phát triển của ý niệm) - đó là đóng góp to lớn của Hêghen trong
lịch sử triết học. Song do bị chi phối bởi chủ nghĩa duy tâm khách quan,
Hêghen đã rút ra kết luận hoàn toàn sai lầm: biện chứng của ý niệm quy định
biện chứng của các sự vật và hiện tượng. Và như vậy, đó là phép biện chứng
"lộn đầu xuống đất" và do đó, không thể dùng được.
Kế thừa có chọn lọc những thành quả của các nhà triết học tiền bối
trong lịch sử, mà trực tiếp nhất là phép biện chứng của Hêghen và quan điểm
duy vật của Phoiơbắc; dựa trên sự khái quát những thành quả mới nhất của khoa
học đương thời cũng như thực tiễn lịch sử loài người, vào giữa thế kỷ XIX,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã sáng lập ra triết học duy vật biện chứng, trong đó

hạt nhân là phép biện chứng duy vật và về sau được V.I. Lênin phát triển.
Phép biện chứng duy vật đã khái quát một cách đúng đắn những quy luật
vận động và phát triển chung nhất của thế giới. Nhờ vậy, C.Mác và Ph.Ănghen đã
khắc phục được những hạn chế vốn có của phép biện chứng tự phát thời cổ
đại cũng như những sai lầm của phép biện chứng duy tâm khách quan thời cận
đại, làm cho phép biện chứng trở thành khoa học. Phép biện chứng duy vật có
sự thống nhất về cơ bản giữa biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan.
Tức là có sự thống nhất giữa biện chứng của bản thân sự vật, hiện tượng, quá


13

trình tồn tại độc lập và ở bên ngoài ý thức con người với tư duy biện chứng của
quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc của con người.
Trong mối quan hệ giữa biện chứng khách quan và biện chứng chủ
quan thì: biện chứng khách quan của bản thân đối tượng được phản ánh quy
định biện chứng chủ quan. Ngược lại, biện chứng chủ quan cũng có tính độc
lập tương đối của nó so với biện chứng khách quan. Nghĩa là, cái được phản
ánh và cái phản ánh không bao giờ trùng khít với nhau hoàn toàn, quá trình tư
duy, nhận thức còn có những quy luật vốn có của nó.
Phép biện chứng duy vật được tạo thành từ một loạt những nguyên lý,
những quy luật và những cặp phạm trù được khái quát từ hiện thực. Cho nên,
có khả năng phản ánh đúng sự liên hệ, sự vận động và phát triển của tự nhiên,
xã hội và tư duy. Bởi vậy, Ph.Ăngghen đã định nghĩa: Phép biện chứng... là
môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển
của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy.
Có thể thấy rằng, phép biện chứng mácxít có sự hơn hẳn và mới về
chất so với tất cả các hình thức của phép biện chứng đã có trong lịch sử ở
những nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, phép biện chứng duy vật có sự gắn bó hữu cơ giữa thế giới

quan duy vật và phép biện chứng. Nếu như phép biện chứng chất phác thời cổ
đại đã có sự gắn bó giữa thế giới quan duy vật và phép biện chứng nhưng chỉ
là sự gắn bó ở trình độ thấp, trực quan, cảm tính chứ chưa đi vào bản chất của
thế giới; còn phép biện chứng của Hêghen là phép biện chứng dựa trên cơ sở
thế giới quan duy tâm, thì phép biện chứng mácxít có sự thống nhất hữu cơ
giữa thế giới quan duy vật và pháp biện chứng trên cơ sở căn cứ khoa học
vững chắc.
Thứ hai, phép biện chứng duy vật có tính phê phán. Bản thân học thuyết
của chủ nghĩa Mác trong đó có phép biện chứng duy vật là hệ thống lý luận


14

có tính phê phán. Nó phê phán những hạn chế, sai lầm của phương pháp tư
duy siêu hình, của các phép biện chứng đã có trong lịch sử, và do đó, trở
thành khoa học và cách mạng. Đồng thời, phép biện chứng duy vật luôn luôn
có sự phê phán chính mình. Nếu như Hêghen coi sự phát triển có tính giới
hạn, ví như nhà nước Phổ là giới hạn cuối cùng của sự hoàn thiện, cũng như
hệ thống triết học của ông là một hệ thống đã được hoàn tất, thì ngược lại, các
nhà sáng lập phép biện chứng duy vật đã nhiều lần nhấn mạnh rằng, phép biện
chứng của các ông là một hệ thống mở chứ không phải một cái gì đã hoàn bị,
nhất thành bất biến. Chính bản chất cách mạng của phép biện chứng duy vật
đã đặt ra yêu cầu phép biện chứng duy vật phải thường xuyên được phê phán
nhằm bổ sung, điều chỉnh cùng với sự phát triển của thời đại.
Thứ ba, phép biện chứng duy vật có sự thống nhất giữa tính khoa học
và tính cách mạng. Phép biện chứng chất phác thời cổ đại tuy có những đóng
góp nhất định, nhưng do những hạn chế của mình nên chưa thực sự có tính
khoa học và tính cách mạng; còn phép biện chứng của Hêghen đã phản ánh
sai lệch bản chất của thế giới cũng như quy luật vận động, phát triển của nó.
Ngược lại, phép biện chứng duy vật là phép biện chứng phản ánh đúng đắn,

khách quan những quy luật nội tại của thế giới, do đó, phép biện chứng duy
vật trở thành khoa học, nó giữ vai trò phương pháp luận cho hoạt động cách
mạng cải tạo thế giới của con người theo đúng các quy luật khách quan của
thế giới. Tính khoa học và tính cách mạng của phép biện chứng duy vật đã
được các giai cấp, các tầng lớp, các lực lượng tiến bộ của loài người chứng
minh bằng thực tiễn cách mạng.
Thứ tư, phép biện chứng duy vật luôn gắn bó với sự phát triển của
khoa học. Khoa học tự nhiên là một trong những tiền đề xuất hiện học thuyết
cách mạng của chủ nghĩa Mác nói chung và phép biện chứng duy vật nói
riêng. Sự gắn bó của phép biện chứng duy vật với sự phát triển của khoa học
đã làm cho phép biện chứng luôn luôn được làm giàu thêm, được mài sắc


15

hơn. Đồng thời, phép biện chứng duy vật ngày càng phát huy vai trò phương
pháp luận phổ biến của nó đối với sự phát triển của khoa học. Ngày nay,
những thành tựu mới của khoa học hiện đại đang làm thế giới thay đổi từng
ngày, từng giờ, điều đó đặt ra cho những người mácxít phải thường xuyên làm
giàu hơn phép biện chứng duy vật bằng những thành tựu khoa học đó.
Thứ năm, phép biện chứng duy vật luôn được bổ sung bằng sự tổng
kết thực tiễn.
Việc khái quát nội dung cơ bản thế giới quan của phép biện chứng duy
vật cho phép rút ra yêu cầu cơ bản của phương pháp luận biện chứng duy vật là:
Thứ nhất, tự nhiên được coi như một chỉnh thể thống nhất, trong đó các sự
vật, hiện tượng phụ thuộc lẫn nhau, chế ước lẫn nhau; tất cả đều liên hệ với
nhau, tác động lẫn nhau. Nội dung thế giới quan này đặt ra yêu cầu, muốn
hiểu được bản chất của sự vật, hiện tượng thì trong nhận thức cũng như trong
hoạt động thực tiễn phải quán triệt quan điểm "toàn diện". Phải xem xét tất cả
các mặt, các yếu tố, các khâu trung gian gián tiếp, các quá trình và tất cả các mối

liên hệ đang diễn ra trên cơ sở của thực tiễn; trong tính lịch sử cụ thể của vấn đề.
Với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận trong hoạt động thực tiễn,
nguyên lý về mối liên hệ phổ biến đòi hỏi để cải tạo sự vật, chúng ta phải bằng
hoạt động thực tiễn của mình, hiện thực hóa bằng nhiều biện pháp, nhiều
phương tiện khác nhau Thứ hai, tự nhiên ở trong trạng thái vận động không
ngừng, biến hóa và đổi mới, trong đó luôn luôn có những sự vật, hiện tượng
đang chết đi và biến đi, thì đồng thời, lại có những sự vật, hiện tượng khác
phát sinh và phát triển; tất cả đều vận động và biến hóa. Vì vậy, nguyên lý thế
giới quan này đặt ra yêu cầu về mặt phương pháp luận là, muốn nắm bắt đúng
đắn khuynh hướng vận động, biến đổi và phát triển của sự vật, hiện tượng thì
trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải có quan điểm "phát triển". Điều
đó có nghĩa là, khi xem xét các sự vật, hiện tượng, phải đặt nó trong sự vận
động, sự phát triển, phải phát hiện ra các xu hướng biến đổi, chuyển hóa của


16

chúng. Liên quan đến vấn đề này, V.I.Lênin cho rằng, lôgíc biện chứng đòi
hỏi phải xét sự vật trong sự phát triển, trong sự tự thân vận động (...) trong sự
biến đổi của nó.
Quan điểm phát triển với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận để
nhận thức sự vật cũng hoàn toàn đối lập với quan điểm bảo thủ, trì trệ, định
kiến. Hơn nữa, quan điểm phát triển cũng đòi hỏi không chỉ thấy sự vật như là
cái đang có, mà còn phải nắm được khuynh hướng phát triển trong tương lai
của nó. Sự phát triển của các sự vật và hiện tượng trong thực tiễn là một quá
trình biện chứng đầy mâu thuẫn. Do vậy, quan điểm phát triển được vận dụng
vào quá trình nhận thức cũng đòi hỏi chúng ta phải thấy được tính quanh co,
phức tạp của quá trình phát triển như là một hiện tượng phổ biến.
Vận dụng quan điểm phát triển với tư cách là nguyên tắc phương pháp
luận của hoạt động thực tiễn nhằm thúc đẩy sự vật phát triển theo quy định vốn

có của nó, đòi hỏi chúng ta phải tìm ra mâu thuẫn của chính sự vật và bằng hoạt
động thực tiễn mà giải quyết mâu thuẫn. Đồng thời, sự phát triển biện chứng của
các quá trình hiện thực và của tư duy được thực hiện thông qua những tích lũy
về lượng mà tạo ra sự thay đổi về chất, theo khuynh hướng phủ định của phủ
định.
Khái quát ý nghĩa phương pháp luận của phép biện chứng duy vật,
V.I. Lênin cho rằng, để có tri thức đúng về sự vật, bản thân sự vật phải được
xem xét trong những quan hệ của nó và trong sự phát triển của nó.
Tóm lại, là một học thuyết khoa học, tiến bộ và cách mạng, phép biện
chứng duy vật đã vạch ra những quy luật phổ biến về sự vận động, phát triển
của thế giới - tự nhiên, xã hội và tư duy. Mỗi nguyên lý, phạm trù, quy luật
của phép biện chứng duy vật đều có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng. Vì
vậy, chúng phải được vận dụng tổng hợp, linh hoạt, mềm dẻo trong nhận thức
cũng như trong hoạt động thực tiễn.


17

Phép biện chứng duy vật, với tư cách là phương pháp luận của hoạt
động cải tạo hiện thực, đòi hỏi phải được vận dụng một cách sáng tạo trong
những hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Ph. Ăngghen coi phương pháp của tư duy
biện chứng như nghệ thuật vận dụng các khái niệm mà thực chất của nghệ
thuật đó là "phân tích cụ thể mỗi tình hình cụ thể".
Nắm vững những nguyên tắc phương pháp luận của phép biện chứng
duy vật không chỉ là một nhân tố cơ bản để hình thành thế giới quan khoa
học, mà còn là một điều kiện tiên quyết cho sự sáng tạo của chính đảng cách
mạng.
Các nguyên lý, các quy luật, các cặp phạm trù của phép biện chứng
duy vật đem lại cho con người giá trị định hướng trong nhận thức và cải tạo
hiện thực. Giá trị này thể hiện ở các khía cạnh sau:

- Nhờ có phép biện chứng duy vật, khi tiến hành nghiên cứu và hoạt
động thực tiễn, con người có thể dự đoán được những hình thái và xu hướng
vận động cơ bản của đối tượng; có thể xác định được những nét khái quát,
những mốc, những bước ngoặt cơ bản mà hoạt động nhận thức cũng như hoạt
động thực tiễn phải trải qua.
- Phép biện chứng duy vật giúp con người trong khi tiến hành hoạt
động nhận thức và cải tạo hiện thực tránh được tình trạng mò mẫm, lầm lạc,
không có lý luận, phương pháp luận dẫn đường. Giá trị định hướng của phép
biện chứng duy vật còn được thể hiện ở việc lựa chọn các hình thức, phương
thức tiến hành, đồng thời có khả năng đưa ra được những dự kiến, những tình
huống cũng như những phương pháp tương ứng cho việc giải quyết các vấn
đề được quan tâm
- Phép biện chứng duy vật giúp chúng ta phát hiện những vấn đề mới
nảy sinh trong quá trình nghiên cứu và lý giải được một cách khoa học những
hiện tượng mới trong thực tiễn cuộc sống. Bởi vì, thế giới là vô cùng, vô tận


18

và do đó, càng đi sâu vào nghiên cứu các đối tượng khác nhau của thế giới,
càng cần phải có thế giới quan triết học khoa học, trong đó phép biện chứng
duy vật giữ vị trí hàng đầu.
Ngày nay, hơn bao giờ hết, phép biện chứng duy vật vẫn là phương
pháp luận của việc xây dựng các lý thuyết khoa học và tìm kiếm các thành tựu
khoa học mới cũng như giải quyết những vấn đề mới của sự biến đổi, phát
triển tất yếu đang diễn ra trong xã hội loài người.
Chúng ta cần lưu ý rằng, cũng như bất kỳ môn khoa học nào, lý luận
của phép biện chứng duy vật không phải là hệ thống giáo điều, bất biến, mà là
hệ thống tri thức không ngừng phát triển và do đó, nó đòi hỏi phải được bổ sung
và hoàn thiện hơn nữa trong quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn của loài

người. Hơn nữa, phép biện chứng duy vật là phương pháp phổ biến, cho nên
nó không thể giữ vai trò là phương tiện duy nhất giải quyết trực tiếp tất cả
các vấn đề cụ thể của cuộc sống. Để giải pháp những vấn đề do thực tiễn đặt
ra, người ta có thể có nhiều con đường, với những phương pháp, phương tiện
tương ứng với mỗi con đường đó. Tuy nhiên, con người không thể thành công
nếu họ lảng tránh, hoặc coi thường những vấn đề chung thuộc về phương
pháp luận phổ biến. Chỉ khi nào các nguyên lý lý luận và phương pháp luận
của phép biện chứng duy vật được vận dụng một cách triệt để, sáng tạo vào
thực tiễn cụ thể thì khi đó con người mới có thể thành công trong hoạt động
của mình.
Như trên đã đề cập, phép biện chứng duy vật chỉ phát huy vai trò của
nó khi được con người nhận thức và vận dụng trong thực tiễn. Vận dụng quan
điểm lý luận chung đó vào luận án này, việc làm sáng tỏ vai trò của phép biện
chứng duy vật trong việc xây dựng và thực hiện đường lối, nghị quyết của
Đảng là hoàn toàn cần thiết.
1.2. VAI TRÒ CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG TRONG QUÁ TRÌNH XÂY
DỰNG ĐƯỜNG LỐI, NGHỊ QUYẾT CỦA ĐẢNG


19

1.2.1. Khái niệm về đường lối, nghị quyết của Đảng
Các nghị quyết là sự cụ thể hóa của đường lối. Do vậy, để có quan niệm
đúng đắn về "nghị quyết", chúng ta không thể không chú ý làm sáng tỏ bản
thân khái niệm "đường lối".
Đường lối chiến lược cách mạng vô sản - như Lênin đã xác định - là
khoa học và nghệ thuật lãnh đạo chính trị của giai cấp công nhân trong cuộc
đấu tranh nhằm cải biến bằng cách mạng đối với xã hội cũ, từng bước hình
thành xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Nó xác
định những mục tiêu chủ yếu, những phương hướng chủ yếu trong cuộc

đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân, của chính đảng thuộc giai cấp đó
và của các lực lượng cách mạng nói chung ở một giai đoạn lịch sử tương đối
dài.
Đường lối cũng chỉ ra những kẻ thù chủ yếu, những người bạn đồng
minh của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh để đạt được mục tiêu. Nó cũng
chỉ ra những động lực, những hình thức, những phương tiện chủ yếu để đạt
được những mục tiêu chiến lược của giai đoạn chiến lược cách mạng.
Độ dài lịch sử của đường lối cũng có thể rất khác nhau. Chẳng hạn, đường
lối cách mạng dân tộc dân chủ do Đảng ta đề xướng bao quát một thời kỳ lịch
sử từ năm 1930 đến năm 1954 đối với miền Bắc, từ năm 1930 đến 30-4-1975
đối với miền Nam. Nhưng cũng có thể có đường lối cho một giai đoạn cách
mạng cụ thể. Chẳng hạn, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội có thể có
đường lối chung cho toàn bộ quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, cũng có
thể có đường lối cho từng giai đoạn ứng với nhiệm kỳ của từng Đại hội Đảng.
Các đường lối có tính giai đoạn như vậy là sự vận dụng, sự cụ thể hóa
đường lối chung của toàn bộ quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhưng
chúng cũng có thể là sự phát triển căn bản đường lối chung đó cho phù hợp
với những điều kiện lịch sử khách quan đã thay đổi, cũng như với những nhận


20

thức mới có tính bước ngoặt đối với tiến trình cách mạng. Song, dù độ dài ngắn
có khác nhau, nhưng mọi đường lối của Đảng đều đề cập tới những mục tiêu,
nhiệm vụ có tính chiến lược cho từng giai đoạn cách mạng, nó bao quát toàn
diện tất cả các mặt của cuộc đấu tranh, nó có ý nghĩa trong phạm vi cả nước.
Còn nghị quyết, ở cấp Trung ương, là văn kiện cô đúc về nhận định
tình hình, quyết định chủ trương, quan điểm, chính sách và giải pháp lớn về
một hoặc nhiều lĩnh vực công tác của Đảng; ở cấp đảng bộ các ngành, các
địa phương..., nó là sự cụ thể hóa nghị quyết của Trung ương hay của đảng ủy

cấp trên thành những mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể cho một lĩnh vực của đời
sống xã hội, cho một địa bàn, khu vực của đất nước, địa phương của cơ sở..
Nghị quyết cũng có nhiều phạm vi bao quát khác nhau và được thông
qua ở nhiều cấp khác nhau.
Giữa đường lối, nghị quyết có sự đồng nhất và khác nhau. Với nghĩa là
sự cụ thể hóa của đường lối vào một ngành, một địa phương, một cơ sở... thì
giữa những nghị quyết Trung ương cũng như của các đảng bộ các cấp, các
ngành và đường lối có sự tương đồng về những nội dung cơ bản. Nhưng, xét
về mức độ của tính toàn diện, về tính bao quát, về phạm vi tác động, về mức
độ của tính phổ biến... thì so với đường lối, mọi nghị quyết đều mang tính
giới hạn. Các nghị quyết chỉ đề cập tới những mục tiêu, nhiệm vụ, những
động lực, những giải pháp... thích ứng với từng ngành, từng địa phương, từng
cơ sở. Phạm vi bao quát của nghị quyết càng hẹp bao nhiêu, những nội dung
trên càng mang tính cụ thể bấy nhiêu.
Yêu cầu cơ bản của đường lối, nghị quyết:
Phát hiện, đúng đắn và kịp thời đề ra các giải pháp nhằm giải quyết có
hiệu quả những vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra góp phần thúc đẩy sự
phát triển của xã hội theo đúng quy luật khách quan của nó là yêu cầu cơ bản
nhất của đường lối, nghị quyết.


21

Sứ mệnh lịch sử của đường lối, nghị quyết chủ yếu không phải ở giải
thích thế giới đúng như nó đang tồn tại - mặc dù việc "giải thích" như thế là
một nội dung rất cần thiết, mà chủ yếu ở vai trò cách mạng hóa hiện thực để
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Bản thân các vấn đề mà đường lối, nghị quyết hướng tới cũng không
ngừng vận động, biến đổi. Do vậy, một nghị quyết được xem là đúng không
chỉ khi nó phù hợp với trạng thái hiện có của vấn đề, mà còn phải bao quát

được triển vọng biến đổi và phát triển của nó. Không tính đến điều đó, rất có
thể có nghị quyết chỉ đúng cho trước mắt, nhưng lại có hại cho tương lai.
Điều đó giải thích vì sao Đảng ta đã nhiều lần lưu ý rằng, quá trình thực hiện
đường lối đổi mới phải quan tâm dự báo tình hình, kịp thời phát hiện và giải
quyết đúng đắn những vấn đề mới nảy sinh. Một chủ trương, một chính sách,
một biện pháp dù là đúng đắn, trong quá trình thực hiện cũng nhất định nảy
sinh những vấn đề mới, những thuận lợi và khó khăn mới. Cho nên, đường
lối, nghị quyết của Đảng cần dự kiến trước để chủ động ngăn ngừa, giải
quyết.
Phạm vi tác động trực tiếp của nghị quyết là có hạn. Nhưng ảnh hưởng
của nó thường vượt ra ngoài giới hạn đó. Do vậy, một nghị quyết có thể đúng
cho bộ phận, nhưng có thể mang lại hậu quả tiêu cực cho toàn thể. Trong
trường hợp đó, các nghị quyết ấy đã sai ngay từ đầu. Do vậy, để có nghị quyết
đúng, phải chống tư tưởng cục bộ, phải đặt vấn đề cục bộ trong mối tương
quan với toàn cục. Nói cách khác, một nghị quyết đúng phải là kết quả phản
ánh chính xác trạng thái hiện tồn của sự vật lẫn triển vọng của nó; trong khi
thúc đẩy sự phát triển của bộ phận, nghị quyết đó phải có tác động tích cực
đến toàn bộ. Ở đây, nguyên tắc tính toàn diện là yêu cầu không thể thiếu được
khi thông qua một nghị quyết của cấp ủy đảng các cấp.


22

Một đường lối, nghị quyết có khả năng thực hiện được hay không, điều
đó tùy thuộc có tính quyết định vào sự đồng tình của nhân dân khi tiếp nhận
nghị quyết.
Với tư cách là một phạm trù tư tưởng, "đồng tình" lại do mối quan hệ
lợi ích quy định. "Lý tưởng mà xa rời lợi ích, thì lý tưởng tự bôi nhọ mặt
mình" (Mác). Đường lối, nghị quyết dù có hay đến mấy, có vẽ ra một triển
vọng huy hoàng bao nhiêu, mà không thể hiện được lợi ích chính đáng của

nhân dân, đều không thể giành được sự hưởng ứng của họ. Khi đó mọi nghị
quyết sẽ "tắt ngấm" do gặp phải sự thờ ơ, lãnh đạm của nhân dân. Bởi vậy,
việc thực hiện nghị quyết đó sẽ chỉ là ảo tưởng của người lãnh đạo mà thôi.
Điều đó giải thích vì sao trong Cương lĩnh mới nhất của Đảng ta khẳng định:
"Mọi chủ trương, chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích của nhân dân,
kết hợp hài hòa các lợi ích".
Nghị quyết phải thể hiện được ý chí, nguyện vọng của nhân dân.
Nhưng với tư cách là lực lượng lãnh đạo, Đảng không thể hạ mình xuống mức
giác ngộ trung bình của quần chúng. Mọi nghị quyết của Đảng phải trở thành
công cụ nâng cao trình độ của nhân dân lên tầm của đội tiên phong cách mạng.
Thực tế chứng minh rằng, cả sự theo đuôi quần chúng lẫn "duy ý chí" vượt
quá xa tầm của quần chúng đều làm mất động lực thực hiện đường lối, nghị
quyết của Đảng.
Như vậy, nét đặc trưng của đường lối, nghị quyết là ở chỗ chúng phải
bắt nguồn từ thực tiễn cuộc sống, phản ánh đúng hiện thực khách quan, vượt
trước quần chúng để định hướng cho họ đáp ứng kịp thời lợi ích chính đáng
(cả trước mắt và lâu dài) của nhân dân.
Trong chặng đường hiện nay của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta, khi còn tồn tại một cơ cấu lợi ích đầy mâu thuẫn, thậm chí có cả đối
kháng, các nghị quyết của Đảng cần trở thành công cụ kết hợp hài hòa các lợi
ích chính đáng đối lập nhau đó vì thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Chỉ trong


23

chừng mực như vậy, các nghị quyết mới có thể đi vào mọi tầng lớp nhân dân,
động viên được sự nỗ lực của mọi người thực hiện có hiệu quả các nghị quyết
của Đảng. Bất kỳ sự cường điệu lợi ích một bộ phận cư dân đều làm nguy hại
tới lợi ích chính đáng của các bộ phận khác, và do đó, hạn chế khả năng thực
hiện nghị quyết.

Con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, như Lê-nin nói, không bao giờ
thẳng tắp như đại lộ Nép-xki. Trái lại, trên đường đi tới đích, cách mạng phải
không ngừng đấu tranh với vô vàn những khó khăn khách quan và chủ quan,
phải khắc phục những cản trở từ bên ngoài lẫn những yếu kém từ bên trong
của chính lực lượng đang tiến hành cách mạng. Do vậy, nghị quyết của Đảng
phải làm sao phát huy được tinh thần cách mạng tiến công, tinh thần tự lực tự
cường của nhân dân. Đảng lãnh đạo chính quyền không chỉ cần động viên
nhân dân bằng một triển vọng huy hoàng mà cách mạng sẽ mang lại, hay bằng
những thành công đã đạt được ngày hôm qua - đành rằng đó cũng là những
vấn đề rất cần thiết, mà còn phải làm cho nhân dân thấy cả những khó khăn
đang và sẽ phải nếm trải. Sự chuẩn bị đầy đủ về tư tưởng như vậy có ý nghĩa
quan trọng nhằm chống chủ nghĩa chủ quan - khi cách mạng mới giành được
thắng lợi, lẫn sự bi quan, thất vọng - khi cách mạng tạm thời gặp khó khăn.
Tùy theo phạm vi lãnh đạo, các nghị quyết của cấp ủy đảng khác nhau
có cấp độ bao quát khác nhau. Tính đúng đắn của nghị quyết, do đó, cũng
được đo bằng mức độ phù hợp với khuôn khổ sự vật mà nghị quyết tác động.
Mặc dù vậy, trong bất kỳ trường hợp nào, một khi nghị quyết của tổ chức
đảng cấp trên đã được xác định đúng đắn, nghị quyết của tổ chức đảng cấp
dưới
dứt khoát không được đối lập lại, vì điều đó sẽ làm tiêu tan hiệu lực của nghị
quyết cấp trên. Đó cũng là một nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ một quy luật tồn tại và phát triển quan trọng nhất của chính đảng Mác - Lênin.


24

1.2.2. Quán triệt những yêu cầu của phép biện chứng trong việc xây
dựng đường lối, nghị quyết
Xây dựng đường lối, nghị quyết là công việc gắn bó hữu cơ với chức
năng lãnh đạo của Đảng. Bởi vì, trong quá trình lãnh đạo nhằm cải biến xã hội
luôn xuất hiện những vấn đề mới mà cơ quan lãnh đạo cần giải quyết để thúc

đẩy xã hội tiến lên. Xây dựng đường lối, nghị quyết là hành động tất yếu của
cơ quan lãnh đạo, việc thực hiện có hiệu quả nghị quyết đúng đắn sẽ cho phép
chuyển "trạng thái hiện có" sang "trạng thái cần phải có" theo quy luật phát
triển nội tại của xã hội.
Khi đã trở thành lực lượng lãnh đạo đối với toàn xã hội, đường lối, các
nghị quyết của Đảng trở thành cơ sở cho mọi nghị định, chủ trương của chính
quyền các cấp; mọi đường lối, nghị quyết của Đảng đều tác động trực tiếp tới
đời sống của nhân dân, tới tương lai, hạnh phúc của họ. Do tầm quan trọng
như vậy, Lênin nhấn mạnh rằng vì chính trị là vấn đề có liên quan tới "vận
mệnh của hàng triệu con người" [85, tr. 150], cho nên Đảng "không được phạm
sai lầm về chính trị" [90, tr. 136].
Để điều đó được thực hiện trong thực tế, đường lối, các nghị quyết của
Đảng phải được luận chứng một cách khoa học và đáp ứng những lợi ích sống
còn của nhân dân. Việc quán triệt những yêu cầu cơ bản của phép biện chứng
duy vật vào xây dựng đường lối, các nghị quyết của Đảng là một trong những
cơ sở để có những đường lối, nghị quyết đúng đắn.
Phép biện chứng duy vật đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc xây
dựng đường lối, các nghị quyết của Đảng được thể hiện ở chỗ:
Một là, giúp phát hiện ra những mâu thuẫn, những động lực của sự phát
triển xã hội. Nhờ đó, có thể xác định được chiều hướng chung của sự phát
triển lịch sử cũng như vai trò và thái độ của các lực lượng xã hội chủ yếu. Tất


25

cả những điều đó tạo thành cơ sở xuất phát để xây dựng và tổ chức thực hiện
các nghị quyết của Đảng.
Thật vậy, muốn có đường lối, nghị quyết đúng, trước hết phải phản ánh
chính xác thực trạng tình hình, nhận thức đúng lĩnh vực hiện thực mà đường
lối, nghị quyết cần tác động để thúc đẩy sự phát triển của nó. Trong khi đó,

như Lênin đã nói, "Điều kiện của một sự nhận thức về tất cả các quá trình của
thế giới trong sự "tự vận động" của chúng ta, trong sự phát triển tự phát của
chúng, trong đời sống sinh động của chúng là sự nhận thức chúng với tư cách
là sự thống nhất của các mặt đối lập" [77, tr. 379]. Điều khẳng định đó của
Lênin có ý nghĩa phương pháp luận đặc biệt quan trọng, khi chúng ta đặt vấn
đề làm sao nhận thức đúng trạng thái khách quan của xã hội ở từng nấc thang
phát triển tương ứng - cái tạo thành cơ sở chủ yếu nhất để đề ra đường lối,
chính sách được luận chứng một cách khoa học nhằm thúc đẩy sự phát triển
của đất nước nói chung, của các ngành, các địa phương nói riêng.
Mở rộng hơn nữa tư tưởng vừa nêu, Lênin cho rằng trong quá trình đưa
ra các quyết định chính trị, Đảng phải tính đến biện chứng khách quan của sự
vật. Về vấn đề này, Người viết: "Ở từng giai đoạn phát triển, trong từng lúc,
sách lược của giai cấp vô sản phải tính đến biện chứng khách quan" của xã
hội [83, tr. 92]. (Tác giả luận án nhấn mạnh).
Trong phép biện chứng, lý luận về sự thống nhất của các mặt đối lập là
hạt nhân của nó. "Tính biện chứng của sự phát triển xã hội, như Lênin đã
khẳng định, diễn ra trong mâu thuẫn và thông qua các mâu thuẫn" [71, tr. 77-78].
Nhận thức được những mâu thuẫn của xã hội, tìm ra những phương hướng
đúng đắn để giải quyết mâu thuẫn cũng như tổ chức hoạt động để giải quyết
các mâu thuẫn một cách thực tế tạo thành thực chất của mọi quyết định chính
trị và việc tổ chức thực hiện chúng trong quá trình các mạng xã hội chủ nghĩa
nói chung, quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay nói riêng.


×