Tải bản đầy đủ (.doc) (134 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ VAI TRÒ NHẬN THỨC KHOA học TRONG HOẠT ĐỘNG QUÂN sự của sĩ QUAN QUÂN đội NHÂN dân VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (577.51 KB, 134 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhận thức khoa học là thành quả vĩ đại của trí tuệ con người, có vai trò đặc
biệt quan trọng trong mọi lĩnh vực hoạt động xã hội. Cuộc cách mạng KH - CN
hiện đại là một trong những nhân tố tác động có ý nghĩa quyết định sự tăng
trưởng kinh tế và bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia; nó tạo động lực và đặt
ra yêu cầu cao phát huy vai trò nhận thức khoa học trong hoạt động của con
người trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Quân sự là một trong các lĩnh vực
nhạy cảm với những thành tựu KH - CN mới nhất, luôn đòi hỏi cao về sự vận
dụng, phát huy vai trò nhận thức khoa học. ảnh hưởng của cuộc cách mạng KH CN đã làm cho nhận thức khoa học trở nên đặc biệt quan trọng trong hoạt động
quân sự ở các cấp, các đối tượng, trong đó có sĩ quan phân đội.
Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam "cách mạng, chính qui, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại" là yêu cầu khách quan, là nhiệm vụ cơ bản, lâu dài và cấp thiết
hiện nay. Hiện thực hoá phương hướng đó phải trên cơ sở sức mạnh tổng hợp của
nhiều nhân tố, trong đó khoa học và nhận thức khoa học đóng vai trò nền tảng.
V.I.Lênin đã khẳng định: không có khoa học hiện đại thì không có quân đội hiện
đại. Hơn nữa, phân đội là nơi trực tiếp phải đương đầu với những âm mưu, thủ
đoạn thâm độc, xảo quyệt trong chiến lược “diễn biến hoà bình” và cuộc tiến công
xâm lược bằng vũ khí công nghệ cao của địch. Điều đó đòi hỏi sĩ quan phân đội
phải có khả năng, trình độ nhận thức tương xứng để hiểu rõ đối tác, đối tượng, nắm
vững tình hình, nhiệm vụ, tổ chức khoa học hoạt động thực tiễn ở đơn vị.
Hiện nay, cuộc đấu tranh tư tưởng, đạo đức, lối sống... đang diễn ra hết sức
gay go, quyết liệt để “giành giật trái tim, khối óc con người”. Cuộc đấu tranh này
vừa có ý nghĩa cơ bản, lâu dài, vừa có tính cấp thiết trong các đơn vị của lực lượng
vũ trang. Sĩ quan phân đội là lực lượng cán bộ trẻ, trực tiếp lãnh đạo, chỉ huy toàn
diện ở trung đội, đại đội, tiểu đoàn; do vậy, họ phải có tri thức, trí tuệ cao để nhận
thức được tính chất phức tạp của tình hình, thường xuyên củng cố vững chắc trận
địa chính trị, tư tưởng trong đơn vị.


Trong thực tiễn, sĩ quan phân đội cơ bản đã được đào tạo qua các nhà trường


quân đội, có tinh thần nhiệt huyết cách mạng, có hệ thống tri thức tổng hợp cùng tư
duy khoa học sáng tạo và ngày càng chứng tỏ là nguồn sức mạnh quan trọng của
toàn bộ quá trình trưởng thành, chiến thắng của quân đội. Nhưng, họ cũng bộc lộ
những hạn chế không nhỏ về nhận thức khoa học. Để khắc phục những hạn chế ấy,
cần khẳng định đúng đắn vai trò nhận thức khoa học trong hoạt động quân sự của sĩ
quan phân đội, từ đó tìm ra những giải pháp khả thi nhằm phát huy mạnh mẽ vai
trò đó.
Những vấn đề lý luận và thực tiễn trên đây là lý do chủ yếu để tác giả luận án
lựa chọn và thực hiện đề tài “Vai trò nhận thức khoa học trong hoạt động quân
sự của sĩ quan phân đội quân đội ta hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nhận thức khoa học, vai trò nhận thức khoa học trong hoạt động nói chung,
cũng như trong hoạt động quân sự nói riêng, đã được nhiều công trình khoa học
trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu; trong đó có những công trình tiêu biểu
(xếp theo thứ tự năm công bố) như sau:
Về vấn đề nhận thức và nhận thức khoa học gồm có: Nguyễn Trọng Chuẩn
(1978), “Phép biện chứng duy vật với tính cách là lôgíc học và phương pháp luận của
nhận thức khoa học hiện đại”, Tạp chí Triết học, 22(3); Ngô Đình Xây(1993), Phương
pháp nhận thức khoa học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Lê Hữu Nghĩa, Phạm
Duy Hải (1998), Tư duy khoa học trong cách mạng khoa học - công nghệ, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Duy Quý (1999), Nhận thức thế giới vi mô, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội; Lê Văn Quang (2001), Phát triển ý thức chính trị xã hội chủ nghĩa
trong xã hội và quân đội thời kỳ đổi mới, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội v.v..
Về vấn đề nhận thức khoa học trong hoạt động quân sự, nhận thức khoa
học đối với sĩ quan quân đội, trong đó có sĩ quan phân đội gồm có: Đặng Vũ
Hiệp (1995), “Nâng cao năng lực trí tuệ - một công việc cấp bách trong xây dựng
Quân đội nhân dân trong giai đoạn cách mạng mới”, Tạp chí Quốc phòng toàn
dân (4); Đào Văn Tiến (1998), Nâng cao năng lực tư duy sáng tạo của sĩ quan



cấp phân đội Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ quân sự,
Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội; Nguyễn Bá Dương (1999), Đặc điểm quá
trình phát triển tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan cấp phân đội Quân đội nhân
dân Việt Nam trong nhận thức nhiện vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay, Luận án Tiến sĩ
quân sự, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội v.v..
Ở nước ngoài có các công trình liên quan đến đề tài nghiên cứu như:
V.I.Kúptchốp (1976), Vai trò của triết học trong nhận thức khoa học, (người dịch Đỗ
Bá), thư viện Học viện Chính trị quân sự; A.X.Gientốp, T.R.Côndrátcốp,
E.A.Khơmencô (chủ biên 1969), Những vấn đề phương pháp luận của lý luận và
thực tiễn quân sự, Nxb Quân đội nhân dân dịch và phát hành, 1976, Hà Nội;
I.A.Gruđinhin (1971), Phép biện chứng và lĩnh vực quân sự hiện đại, Nxb Quân đội
nhân dân dịch và phát hành, 1976, Hà Nội v.v..
Tất cả các công trình trên đã tiếp cận nhiều góc độ khác nhau về nhận
thức khoa học và vai trò của nó trong thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;
đề cập đến những ảnh hưởng của chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa giáo điều
trong hoạt động quân sự của sĩ quan phân đội, v.v.. Đó là nguồn tài liệu lý
luận, thực tiễn để tác giả trực tiếp kế thừa trong quá trình nghiên cứu. Tuy
nhiên, chưa công trình nào nghiên cứu có hệ thống về vai trò nhận thức khoa
học trong hoạt động quân sự của sĩ quan phân đội quân đội ta hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích: Làm rõ vai trò nhận thức khoa học trong hoạt động quân sự của sĩ
quan phân đội và đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy vai trò nhận thức khoa
học trong hoạt động quân sự của sĩ quan phân đội hiện nay.
Nhiệm vụ:
- Làm rõ thực chất vai trò nhận thức khoa học trong hoạt động quân sự của sĩ
quan phân đội.
- Lập luận những vấn đề phương pháp luận phát huy vai trò nhận thức khoa
học trong hoạt động quân sự của sĩ quan phân đội.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản phát huy vai trò nhận thức khoa học trong hoạt
động quân sự của sĩ quan phân đội hiện nay.



4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận - thực tiễn:
- Cơ sở lý luận của luận án là hệ thống các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam, các nghị quyết của Đảng uỷ Quân sự Trung ương, chỉ thị của Bộ Quốc phòng
và Tổng cục Chính trị về xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội nói chung và xây dựng
sĩ quan phân đội nói riêng.
- Cơ sở thực tiễn của luận án là thực tế phát huy vai trò nhận thức khoa học
trong hoạt động quân sự của sĩ quan phân đội quân đội ta hiện nay thông qua các
tài liệu, số liệu đã được tổng kết và điều tra trực tiếp của tác giả.
Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận mácxít, luận án sử
dụng tổng hợp các phương pháp nhận thức khoa học của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời kết hợp với các phương pháp điều tra
xã hội học, thống kê, chuyên gia...
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học
- Làm sâu sắc thêm tính đặc thù của nhận thức khoa học trong lĩnh vực quân
sự và vai trò của nó trong hoạt động quân sự của sĩ quan phân đội.
- Phân tích một số vấn đề có tính quy luật và yêu cầu phát huy vai trò nhận
thức khoa học trong hoạt động quân sự của sĩ quan phân đội hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò nhận thức khoa học
trong hoạt động quân sự của sĩ quan phân đội hiện nay.
6. Ý nghĩa của luận án
- Góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn trong đào tạo, giáo dục, bồi
dưỡng sĩ quan phân đội; có thể dùng làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy trong các
nhà trường và đơn vị cơ sở quân đội.
- Góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động quân sự của sĩ quan phân đội quân
đội ta hiện nay.
7. Kết cấu của luận án

Gồm mở đầu, 3 chương (7 tiết), kết luận, danh mục công trình của tác giả,
danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.


Chương 1
NHẬN THỨC KHOA HỌC VÀ VAI TRÒ NHẬN THỨC KHOA HỌC
TRONG HOẠT ĐỘNG QUÂN SỰ CỦA SĨ QUAN PHÂN ĐỘI QUÂN ĐỘI TA
1.1. Nhận thức khoa học và đặc thù của nó trong lĩnh vực quân sự
1.1.1. Nhận thức khoa học
Trong lịch sử triết học, cuộc đấu tranh xung quanh vấn đề con người có thể
nhận thức, phản ánh được thế giới khách quan hay không, và cơ sở nền tảng của
nhận thức là gì... luôn diễn ra gay go, phức tạp với nhiều quan điểm khác nhau.
Chủ nghĩa duy vật trước Mác với các đại biểu như Hêracơlit, Đêmôcrit,
Bêcơn, Hôpxơ, đặc biệt là Phơbách đã đấu tranh quyết liệt chống lại chủ nghĩa duy
tâm, cố gắng lý giải bản chất nhận thức trên lập trường duy vật. Họ thừa nhận khả
năng nhận thức của con người đối với thế giới và coi nhận thức là sự phản ánh thế
giới khách quan vào bộ óc người. Có thể nói rằng, các nhà duy vật trước Mác đã có
nhiều công lao trong xây dựng và phát triển nhận thức luận duy vật. Song, do hạn
chế bởi điều kiện xã hội và trình độ nhận thức nên những quan điểm triết học của
họ chưa triệt để và thiếu cơ sở khoa học, còn mang tính siêu hình, trực quan, máy
móc trong giải quyết các vấn đề về nhận thức, chưa phản ánh đúng bản chất, mối
quan hệ giữa các giai đoạn nhận thức. Đặc biệt, hạn chế lớn nhất của chủ nghĩa duy
vật trước Mác là không đề cập được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, nên
giải thích một cách siêu hình mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể nhận thức.
Phơbách đánh giá cao vai trò của cảm giác trong nhận thức và chỉ ra nguồn
gốc, cơ sở khách quan của nó, song, lý luận nhận thức của ông còn mang tính duy
giác luận, trực quan, cảm tính, chỉ thừa nhận yếu tố sinh vật trong cảm giác của con
người mà không thấy mặt xã hội của nó. Tuy đánh giá cao vai trò của lý trí, nhưng
ông lại cho rằng “tư duy là cảm giác phổ biến”, là “sự lĩnh hội số nhiều, còn cảm
giác là lĩnh hội số ít, cái riêng lẻ, đơn nhất”. Ông không phân biệt được sự khác

nhau về bản chất giữa nhận thức cảm tính với nhận thức lý tính, hiểu chưa đầy đủ
về vai trò thực tiễn là cơ sở của nhận thức, nên đồng nhất cảm giác với tư duy, phủ
nhận vai trò tích cực của ý thức.


Trái với chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm xuất phát từ việc không thừa
nhận thế giới vật chất tồn tại độc lập với ý thức nên đã phủ định khả năng nhận
thức thế giới của con người, hoặc nếu thừa nhận thì cho đó chỉ là sự áp đặt, chi phối
từ những lực lượng “siêu nhiên”, và kết quả nhận thức không phải sự phản ánh hiện
thực khách quan.
Các nhà duy tâm khách quan, mặc dù không phủ nhận khả năng nhận thức thế
giới, song luôn coi nhận thức không phải là sự phản ánh hiện thực khách quan, mà
chỉ là “tự nhận thức” của ý niệm, còn tư tưởng là sự tồn tại ở đâu đó ngoài con
người. Hêghen (1770-1831) đã coi "ý niệm tuyệt đối" là linh hồn của nhận thức
khoa học chân chính; nhận thức của con người là “ý niệm tuyệt đối tự nhận thức
bản thân mình"; “ý niệm tuyệt đối” phát triển từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện
đến hoàn thiện, và đến triết học Hêghen thì hoàn chỉnh, trở thành tri thức tuyệt đối.
Theo Hêghen, khái niệm là sản phẩm của bản chất, bản chất là sản phẩm của tồn
tại, và tồn tại là sản phẩm của “ý niệm tuyệt đối”. Ông đã đề cập đến thực tiễn như
một tác nhân phát triển của xã hội và tiến trình lịch sử và cho rằng: trong công
nghiệp, con người là mục đích của chính bản thân mình; con người đối xử với tự
nhiên như cái gì đó lệ thuộc mình và đặt dấu ấn hoạt động của mình trong tự
nhiên... Tuy nhiên, Hêghen vẫn quy “thực tiễn” vào hoạt động tinh thần; hơn nữa,
do chưa thoát khỏi lập trường giai cấp nên ông không đánh giá đúng về thực tiễn,
đặc biệt là vai trò sản xuất vật chất đối với sự phát triển xã hội.
Các nhà duy tâm chủ quan hoàn toàn thủ tiêu khách thể khi đề cập đến nhận
thức luận. Họ cho rằng, tất cả mọi cái đang tồn tại đều là "phức hợp cảm giác" của
con người, nên nhận thức chẳng qua là sự tự nhận thức của cảm giác, biểu tượng
trong cái tôi của con người về chính cái "phức hợp cảm giác". Nhìn chung, chủ
nghĩa duy tâm chủ quan đã tuyệt đối hoá “cảm giác” cái “tôi”, cảm giác của “tôi”

sinh ra tất cả, sự nhận thức thế giới do cảm giác của "tôi" quyết định. Beccơli
(1685-1753) đã sử dụng quan niệm về "đặc tính có trước", "đặc tính có sau" của
Lốccơ về sự vật, lấy kinh nghiệm cảm tính làm điểm xuất phát cho triết học của
mình. Theo ông, kinh nghiệm cảm tính là tổng hợp các cảm giác, và cảm giác
không phải là sự phản ánh thực tại khách quan mà chính nó là thực tại khách quan


chân chính, “tồn tại có nghĩa là cảm giác được”, đối tượng nhận thức và cảm giác
chỉ là một. Tất cả mọi cái từ cảm giác mà ra, và sự vật là sự kết hợp của những cảm
giác chủ quan; không có chủ thể thì không có khách thể. Cũng như Beccơli, nhà
duy tâm chủ quan và nhà bất khả tri luận Hium đã tuyệt đối hoá vai trò của cảm
giác; ông còn nhấn mạnh rằng, những tri giác đầu tiên (cảm giác) là những ấn
tượng trực tiếp của kinh nghiệm bên ngoài, tri giác thứ hai là những hình ảnh cảm
tính của trí nhớ và các đối tượng kinh nghiệm bên trong, còn ý thức lý luận chỉ là
sự sao chép các ấn tượng trong phạm vi của ý thức. Như vậy, theo ông, nhận thức
chỉ là quá trình tâm lý xảy ra trong con người; thậm chí mối liên hệ nhân quả cũng
không phải là quy luật của tự nhiên mà chỉ là thói quen tâm lý.
Những nhà bất khả tri luận khẳng định thế giới là không thể biết được; lý trí
con người có tính chất hạn chế và ngoài giới hạn của cảm giác, con người không
thể biết được gì. Những khái niệm, phạm trù có tính "tiên nghiệm, tiên thiên" là
những năng lực có sẵn trong chủ thể sáng tạo ra mà không có nội dung từ hiện
thực. E.Cantơ đã từng chia ra thế giới “vật tự nó” và thế giới “hiện tượng” và cho
rằng con người chỉ nhận thức được “hiện tượng”, còn “vật tự nó” thuộc về “siêu
nghiệm”, tuyệt đối không biết được, không phải là đối tượng nhận thức; cảm giác
chủ quan là nguồn gốc duy nhất của nhận thức, là cái đứng giữa chủ thể và “vật tự
nó”. Chủ nghĩa bất khả tri là một trào lưu triết học gây tác hại lớn cho sự phát triển
của tri thức, cho hoạt động khoa học và hoạt động thực tiễn của con người.
Chủ nghĩa thực chứng - biến tướng của chủ nghĩa bất khả tri - đã quy nhiệm
vụ của nhận thức về sự mô tả các tri giác cảm tính với tính cách là thực tại duy
nhất, coi kinh nghiệm và khoa học là tổng hợp những cảm giác, biểu tượng và thí

nghiệm chủ quan, phủ nhận những quy luật khách quan của tự nhiên và xã hội,
khoa học chỉ còn có tác dụng mô tả. Thực chứng luận phục hồi bất khả tri luận của
Hium và các quan điểm duy tâm khác, cố chứng minh rằng, nhận thức không thể
vượt ra ngoài phạm vi tri giác, việc đề ra vấn đề tồn tại của thế giới bên ngoài,
khách quan độc lập với tri giác là không khoa học, là "thiếu tri thức thực chứng"(!)
Như vậy, nhận thức, trong đó có nhận thức khoa học, đã được các trường phái
triết học trước Mác luận giải với nhiều góc độ khác nhau. Song, chỉ có quan điểm


mácxít mới phản ánh được một cách triệt để khoa học về vấn đề này.C.Mác và
Ph.Ăngghen đã đưa ra những quan điểm, nguyên tắc nền tảng khi trình bày về lý
luận nhận thức. C.Mác đã vạch ra khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy
vật kể cả chủ nghĩa duy vật của Phơbách: “... sự vật, hiện thực, cái có thể cảm giác
được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực quan, chứ
không được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người, là thực tiễn, không
được nhận thức về mặt chủ quan”[59, tr.9]; đồng thời, ông phê phán chủ nghĩa duy
tâm đã tuyệt đối hoá vấn đề tư duy, tuyệt đối hoá “lực lượng tinh thần” ngoài con
người. C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra quan điểm đúng đắn về thực tiễn, vai trò của
nó đối với nhận thức, nhận thức khoa học; hai ông đã thực hiện bước ngoặt cách
mạng trong lý luận nói chung và lý luận nhận thức nói riêng. C.Mác và Ph.Ăngghen
đã khẳng định: nhận thức là sự thu nhận tri thức vào ý thức con người; đời sống xã
hội về bản chất là có tính thực tiễn; ý thức, nhận thức chỉ là sự phản ánh hiện thực
khách quan vào đầu óc con người, v.v..
V.I.Lênin đã kế tục tư tưởng vĩ đại của C.Mác và Ph.Ăngghen, đồng thời phát
triển sâu sắc lý luận về nhận thức và nhận thức khoa học là bộ phận cấu thành hệ
thống triết học mácxít hoàn chỉnh. Người viết: "Nhận thức là sự phản ánh giới tự
nhiên bởi con người. Nhưng đó không phải là một phản ánh giản đơn, trực tiếp,
hoàn chỉnh, mà là một quá trình cả một chuỗi những sự trừu tượng, sự cấu
thành, sự hình thành các khái niệm, quy luật...”, "Nhận thức là quá trình, xâm nhập
(của trí tuệ) vào giới tự nhiên...", "Nhận thức là sự tiến gần mãi mãi và vô tận của tư

duy đến khách thể..."[55, tr.207]. Đặc biệt, trong tác phẩm "Chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán", V.I.Lênin kết luận:
“1) Có những sự vật tồn tại độc lập với ý thức của chúng ta, độc lập với
cảm giác của chúng ta, ở ngoài chúng ta...
2) Dứt khoát là không có và không thể có bất kỳ sự khác nhau nào về
nguyên tắc giữa hiện tượng và vật tự nó. Chỉ có sự khác nhau giữa cái đã nhận
thức và cái chưa được nhận thức...


3) Trong lý luận nhận thức, cũng như trong tất cả những lĩnh vực khác của
khoa học, cần suy luận một cách biện chứng, nghĩa là đừng giả định rằng nhận
thức của chúng ta là bất di bất dịch và có sẵn...” [44, tr.117].
Với các kết luận trên, V.I.Lênin đã chỉ ra những vấn đề bản chất nhất của
nhận thức khoa học như: đối tượng nhận thức, khả năng nhận thức thế giới khách
quan của con người và biện chứng phức tạp của quá trình nhận thức. Điều đó
khẳng định rõ tính thứ nhất của vật chất và làm rõ vấn đề cơ bản của triết học trên
lập trường duy vật biện chứng. Hơn thế, trong khi khái quát về nhận thức khoa học
và khả năng nhận thức của con người đối với thế giới khách quan, V.I.Lênin đã phê
phán sâu sắc các quan điểm duy vật siêu hình, duy tâm, thuyết không thể biết.
Lý luận nhận thức trong triết học Mác-Lênin là một trong những thành quả
vĩ đại của khoa học triết học được vận dụng, phát triển đa dạng bởi nhiều công
trình nghiên cứu sau này. Nhà triết học Nga V.I.Kuptchop chỉ ra rằng, nhận thức
khoa học có thể chia thành kết quả nhận thức và quá trình thu nhận tri thức đó
[38, tr.6]. Nếu tiếp cận một quá trình, hoặc kết quả phản ánh và tái hiện hiện
thực vào trong tư duy; quá trình con người nhận biết, hiểu biết thế giới khách
quan; hoặc kết quả của quá trình đó thì có nhận thức đúng và nhận thức sai [114,
tr.1241]. Nhìn một cách tổng quát thì có thể thấy: nhận thức khoa học được hình
thành một cách tự giác và mang tính trừu tượng, khái quát ngày một cao; thể
hiện tính năng động, sáng tạo của tư duy trừu tượng; phản ánh dưới dạng lôgíc
trừu tượng những thuộc tính, kết cấu, những mối quan hệ bản chất, những quy

luật của thế giới khách quan. Nhận thức khoa học hướng tới nắm bắt quy luật,
bản chất của hiện thực chứ không dừng lại cái bề ngoài, cái ngẫu nhiên, cái
đơn nhất. Nhận thức khoa học được thể hiện trong các phạm trù, quy luật của
khoa học, và đến lượt mình, các phạm trù, quy luật đó lại trở thành chỗ dựa,
thành công cụ của nhận thức khoa học [35, tr.368-369].
Tựu trung lại, theo quan điểm mácxít thì nhận thức là một quá trình phản ánh
biện chứng hiện thực khách quan vào đầu óc con người trên cơ sở thực tiễn. Nhận
thức khoa học được tiếp cận với tư cách là một loại hình nhận thức trong nhận
thức luận mácxít để phân biệt với nhận thức thông thường, nhận thức không khoa


học và những bộ phận của nó như kinh nghiệm khoa học, lý luận khoa học, phương
pháp tư duy khoa học, v.v... Nhận thức khoa học là quá trình phản ánh tự giác,
tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của con người thông qua thực tiễn;
nhằm đạt tới hệ thống tri thức đúng đắn về tự nhiên, xã hội và các lĩnh vực cụ
thể khác, nâng cao khả năng tư duy và hiệu quả hoạt động thực tiễn.
Nhận thức khoa học có cấu trúc phức tạp và có thể tiếp cận theo nhiều góc
độ: theo nguồn gốc (chủ thể, khách thể, thực tiễn), theo trình độ (trực quan khoa
học, kinh nghiệm khoa học, lý luận khoa học), theo các vòng khâu (cảm tính, lý
tính), hoặc theo các giai đoạn của quá trình nhận thức... Để luận giải đúng đắn vai
trò nhận thức khoa học trong hoạt động quân sự của sĩ quan phân đội quân đội ta
hiện nay, cần tiếp cận cấu trúc nhận thức khoa học từ các thành tố: tri thức khoa
học, phương pháp tư duy khoa học, khả năng vận dụng khoa học hệ thống tri thức
vào thực tiễn.
Tri thức khoa học vừa là tiền đề, điều kiện, là cơ sở "vật liệu cơ bản" hay "hệ
tế bào" của nhận thức khoa học để con người khám phá những tri thức mới, vận
dụng giải quyết một cách khoa học các vấn đề trong thực tiễn; vừa là kết quả và
mục đích của quá trình nhận thức.
Con người cải biến tự nhiên thông qua hoạt động thực tiễn, đó là hoạt động
diễn ra ngoài đầu óc của con người, song được dẫn dắt, chỉ đạo bởi "bộ não thông

minh", bởi tri thức. Ph.Bêcơn, nhà sáng lập ra triết học duy vật Anh, đã chỉ ra tri
thức là sức mạnh, sức mạnh là tri thức, và khẳng định rằng: con người cần phải
thống trị, phải làm chủ thế giới tự nhiên; điều đó thực hiện được hay không tất cả
phụ thuộc vào sự hiểu biết của con người.
Tri thức, với tư cách thành tố của nhận thức khoa học, bao gồm toàn bộ những
hiểu biết sâu sắc và phong phú, đa dạng của con người về thế giới khách quan.
Khác với những nhận biết thông thường, tri thức khoa học phải đúng đắn, chân
thực; phản ánh những hình thái vận động của tự nhiên, xã hội và tư duy; được khái
quát từ thực tiễn và luôn được thực tiễn kiểm nghiệm. Tri thức khoa học có thể
được tiếp cận dưới nhiều góc độ. Nếu đi vào các lĩnh vực cụ thể, với các đối tượng
cụ thể thì có các loại tri thức phản ánh các nhóm, các bộ phận và các sự vật, hiện


tượng khác nhau. Đi vào phạm vi của nó, có tri thức phản ánh về thế giới vĩ mô,
"đại vĩ mô" hoặc vi mô, “siêu vi mô”; tri thức mang tính phổ quát, phản ánh những
vấn đề chung nhất của thế giới khách quan hoặc tri thức về các sự vật, hiện tượng
cụ thể. Song, xét ở trình độ phản ánh của tri thức, luận án đã đề cập tới tri thức
khoa học như một chỉnh thể bao gồm: trực quan khoa học, kinh nghiệm khoa học,
lý luận khoa học.
Tri thức trực quan khoa học là quá trình và kết quả phản ánh trực tiếp thế giới
khách quan của chủ thể, "khái niệm gọi là trực quan khi nó gắn kết với các sự vật
cho phép cảm nhận trực tiếp được"[89, tr.112]. Nội hàm của tri thức trực quan khoa
học phản ánh các mặt, các bộ phận bên ngoài sự vật, hiện tượng, thông qua các
hình thức cảm giác, tri giác, biểu tượng. Cảm giác là cơ sở nền tảng cho các giai
đoạn nhận thức tiếp theo, như V.I.Lênin khẳng định: "Tiền đề đầu tiên của lý luận
về nhận thức chắc chắn là chỗ cho rằng, cảm giác là nguồn gốc duy nhất của hiểu
biết của chúng ta"[44, tr.147]. Tri giác cao hơn cảm giác bởi đạt tới trình độ phản
ánh tổng thể các mặt, các bộ phận bên ngoài của sự vật, hiện tượng. Còn biểu
tượng là "hình ảnh lưu giữ của cảm giác"... Tuy nhiên, tri thức trực quan khoa học
không đồng nhất với trực quan “thuần” cảm tính. Cảm giác, tri giác, biểu tượng với

tư cách thành tố của trực quan khoa học đã vượt qua "cảm tính thuần tuý" để thể
hiện rõ trình độ khoa học của mình, "...không có cơ sở nào để phủ định sự phản ánh
cảm tính, coi thường vai trò của nó như là nấc thang đặc thù của nhận thức, mà nó
có ý nghĩa cơ bản, trong sự hình thành tư duy khoa học"[25, tr.45].
Kinh nghiệm khoa học là những tri thức khoa học được đúc rút trực tiếp từ
lao động sản xuất, hoạt động chính trị - xã hội hoặc thực nghiệm khoa học dưới
sự chỉ đạo của nhận thức lý tính. "Trong kinh nghiệm, cái quan trọng chính là trí
tuệ mà người ta dùng để tiếp xúc với hiện thực. Một trí tuệ vĩ đại thực hiện được
những kinh nghiệm vĩ đại và thấy được cái gì là quan trọng trong sự vận động
muôn vẻ của các hiện tượng"[2, tr.687]. Tuy nhiên, kinh nghiệm khoa học chưa
đạt tới trình độ khái quát thành hệ thống lý luận, mà chỉ là sự tiếp tục với chất
lượng mới của trực quan khoa học, vẫn dựa trên cơ sở cảm tính nhưng đồng thời là
cơ sở, điều kiện của nhận thức lý luận, là cầu nối giữa thực tiễn với lý luận khoa học.


Lý luận khoa học là trình độ cao của nhận thức, mang tính trừu tượng, khái
quát cao, phản ánh đối tượng nghiên cứu bằng cách “tước bỏ” những mặt, những
thuộc tính không bản chất. Đó là quá trình chủ thể phản ánh đạt đến bản chất, quy
luật bên trong của sự vật, hiện tượng; trên cơ sở đó xây dựng các giả thuyết, lý
thuyết khoa học và dự báo khoa học. Những hình thái cơ bản nhất của lý luận khoa
học bao gồm: khái niệm, phán đoán, suy lý.
Như vậy, với tư cách bộ phận cấu thành của nhận thức khoa học, tri thức khoa
học bao gồm nhiều tầng bậc khác nhau, song có mối quan hệ thống nhất biện
chứng với nhau. Tri thức trực quan khoa học và kinh nghiệm khoa học phải có sự
dẫn dắt của lý luận khoa học. Trong quá trình nhận thức khoa học, bản thân "trực
quan sinh động" đã được gắn chặt với tư duy, “Một số kết quả của tư duy gắn liền
với nhận thức kinh nghiệm đến mức giờ đây, nếu thiếu chúng, ta không thể nào
diễn đạt được các cảm giác và tri giác”[113, tr.11]. Song, tri thức trực quan khoa
học luôn đóng vai trò cơ sở trực tiếp hình thành kinh nghiệm khoa học, và đến lượt
nó, kinh nghiệm khoa học lại là cơ sở cho lý luận khoa học. Đồng thời, sự gắn bó

hữu cơ giữa trực quan khoa học với kinh nghiệm khoa học và lý luận khoa học phải
được đặt trên cơ sở thực tiễn.
Trong hệ thống tri thức, xét từ góc độ các khoa học, thì tri thức triết học
"đương nhiên là có tính chất nền tảng về mặt lý luận, và có tính cấp bách về mặt
thực tiễn"[38, tr.6], "có khả năng vũ trang cho các nhà khoa học thế giới quan và
phương pháp luận tối ưu để người ta có thể xử lý mối quan hệ giữa cái đã biết và
cái chưa biết nhằm tiếp tục chiếm lĩnh những bí ẩn vô tận của thế giới"[89,
tr.14]. Nhà triết học xôviết P.V.Pôpốp đã nhấn mạnh, phép biện chứng với tư
cách là phương pháp luận của nhận thức khoa học không chỉ phản ánh những
quy luật của tự nhiên và xã hội mà cả những quy luật của tư duy. Những
nguyên lý có tính chất phương pháp luận duy vật biện chứng cũng đã được
sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực nhận thức khoa học [81, tr.412]. Tuy nhiên,
cùng với tri thức triết học thì tri thức của các khoa học và sự tương tác của các
khoa học khác nhau cũng đóng vai trò động lực trực tiếp bên trong của sự phát


triển liên tục hệ thống tri thức khoa học, cũng như đối với nhận thức khoa học
nói chung.
Phương pháp tư duy khoa học là thành phần cơ bản trong cấu trúc nhận thức
khoa học, giữ vai trò trực tiếp quy định hiệu quả quá trình tiếp nhận, hình thành,
phát triển và phát huy tri thức khoa học.
Những người theo chủ nghĩa duy tâm coi phương pháp tư duy như một phạm
trù thuần tuý chủ quan, là tổng hoà các quy tắc do lý trí con người tự ý đặt ra, để
"tiện" cho hoạt động nhận thức. Trái lại, theo quan điểm duy vật biện chứng,
phương pháp tư duy là những cách thức chung nhất của tư duy trong tiếp cận hiện
thực, nghiên cứu các sự vật, hiện tượng của tự nhiên, xã hội trong sự vận động,
phát triển, biến hoá không ngừng. Phương pháp tư duy khoa học phải được hiểu
như một hệ thống tổng hợp các cách thức, biện pháp tư duy nhất định được tổ chức,
sắp xếp sao cho có thể phối hợp được với các tri thức “nền” và tri thức tiền đề,
đóng vai trò như các công cụ, phương tiện nhằm "sản xuất" ra những tri thức mới

cần thiết từ hệ thống tri thức khoa học đã có.
Tiếp cận phương pháp tư duy khoa học cần quan tâm tới đặc tính sáng tạo của
tư duy, bao gồm tính độc lập, tính phê phán, tính mềm dẻo, linh hoạt, kiên định...,
cũng như làm rõ các hình thức của tư duy như khái niệm, phạm trù, phán đoán...
Phương pháp tư duy khoa học còn chứa đựng tổng hợp các thao tác tư duy khoa
học bảo đảm cho nhận thức đi từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất ít sâu sắc đến
bản chất sâu sắc hơn; nhận thức cảm tính đạt tới trình độ trực quan khoa học và đi
tới nhận thức lý tính; nhận thức kinh nghiệm đạt tới trình độ kinh nghiệm khoa học
và đi tới lý luận khoa học. Không có thao tác tư duy sẽ không có tư duy khoa học giai đoạn phát triển ở trình độ cao của nhận thức. Đó là lý do xác định thao tác tư
duy khoa học là thành phần cốt lõi nhất của phương pháp tư duy khoa học.
Hệ thống phương pháp tư duy khoa học bao gồm các phương pháp lý thuyết
và phương pháp thực nghiệm. Trong các phương pháp lý thuyết ngày càng được sử
dụng rộng rãi hiện nay, cần phải chú ý phương pháp trừu tượng hoá và khái quát
hoá, bởi đó là một trong các công cụ chủ yếu để đạt tới chân lý, nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động của con người. Các phương pháp giả định - suy diễn, phương


pháp tiền đề - kết luận, phương pháp thuật toán - toán học không ngừng được
nghiên cứu và hoàn chỉnh thêm. Các phương pháp hệ thống - cấu trúc, hình thức
hoá và mô hình hoá... ngày càng có vai trò quan trọng trước sự phát triển mạnh mẽ
của khoa học hiện đại. Tuy nhiên, ý nghĩa của các phương pháp thực nghiệm (quan
sát, thí nghiệm, đo đạc) cũng không hề giảm ngay cả khi vai trò của phương pháp
lý thuyết ngày càng tăng, hơn nữa còn nhằm bảo đảm tính chân thực của các
phương pháp lý thuyết. Một số thực nghiệm cụ thể nào đó, thậm chí còn có thể
quyết định một hướng nghiên cứu, hoặc một lý thuyết đang hình thành. Trình độ
thực nghiệm sẽ ngày càng tinh vi, phức tạp với các dụng cụ, phương tiện ngày càng
hiện đại cùng với quá trình phát triển nhận thức, đặc biệt trong KH - CN hiện đại.
Khả năng vận dụng khoa học hệ thống tri thức vào thực tiễn là một thành tố
đặc biệt quan trọng, một bộ phận không thể thiếu trong cấu trúc của nhận thức khoa
học; nhờ nó, các thành phần khác mới bộc lộ hết giá trị hiện thực của mình.

V.I.Lênin đã chỉ rõ: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy
trừu tượng đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý,
của sự nhận thức thực tại khách quan”[55, tr.179]. Đồng thời, quá trình vận dụng
khoa học hệ thống tri thức trong thực tiễn có ý nghĩa trực tiếp cải tạo, biến đổi hiện
thực khách quan và điều này đã được C.Mác chỉ rõ: "Các nhà triết học đã chỉ giải
thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới"[59,
tr.12].
Nhận thức khoa học là một quá trình mà mục đích là chân lý; thực tiễn là cơ sở,
động lực, là tiêu chuẩn của chân lý. Thông qua thực tiễn, nhận thức phát huy được
vai trò chỉ đạo hoạt động của con người trong cải tạo hiện thực khách quan; đồng
thời, nhận thức được kiểm nghiệm, bổ sung, phát triển ngày càng hoàn thiện. Tuy
nhiên, không phải mọi sự vận dụng tri thức khoa học vào thực tiễn đều được bao
hàm trong phạm trù nhận thức khoa học. Sự áp đặt lý thuyết một cách thô thiển, gán
ghép, cứng nhắc vào cuộc sống không những không đem lại hiệu quả mà còn hoàn
toàn bộc lộ tính không khoa học của quá trình nhận thức và thực tiễn. Quá trình vận
dụng tri thức khoa học tuân theo những phương thức, trình tự khoa học, phù hợp với
quy luật phát triển khách quan và đòi hỏi của thực tiễn, đem lại hiệu quả trên hiện


thực - quá trình đó mới được chuyển hoá thành yếu tố của nhận thức khoa học. Vì
vậy, xa rời hoặc tuyệt đối hoá thực tiễn sẽ rơi vào nhận thức luận của chủ nghĩa duy
tâm hoặc duy vật tầm thường.
Các thành tố trên đây của nhận thức khoa học có mối liên hệ thống nhất biện
chứng, tác động qua lại và chuyển hoá lẫn nhau, thúc đẩy nhau phát triển. Trong
đó, nếu tri thức khoa học là cơ sở ban đầu, "kho tàng dự trữ năng lượng" cần thiết
cho các thành tố sau, thì phương pháp tư duy khoa học là "hệ công cụ" cần thiết để
"giải phẫu" hệ tri thức đang có và tiếp tục tìm kiếm chân lý, đồng thời khả năng vận
dụng đúng đắn hệ thống tri thức vào thực tiễn là thành tố "hoạt hoá" hệ thống tri
thức khoa học, làm cho nhận thức khoa học thực sự xuất phát từ thực tiễn và quay
trở lại phục vụ hoạt động thực tiễn. Tuyệt đối hoá hay phủ nhận một trong các

thành tố đó sẽ dẫn tới sai lầm trong nhận thức và tác động tiêu cực đến hoạt động
thực tiễn. Quá trình phát huy vai trò nhận thức khoa học trong các lĩnh vực hoạt
động thực chất là quá trình phát triển, hoàn thiện, làm sống động từng thành tố,
song phải bảo đảm sự thống nhất ngày càng bền chặt giữa các thành tố, bởi sự vận
động, biến đổi của mỗi thành tố không tách rời trong cấu trúc tổng thể của nó.
Nhận thức khoa học không chỉ có cấu trúc phức tạp mà còn có những đặc
trưng riêng so với nhận thức thông thường, cho nên cần phân định rõ những đặc
trưng ấy mới có thể tạo cơ sở phương pháp luận để phân tích vai trò của nhận thức
khoa học trong thực tiễn.
Đặc trưng thứ nhất: Nhận thức khoa học mang tính khách quan, thông qua
một quá trình được định hướng tự giác, tích cực, sáng tạo nhằm tiếp cận chân lý.
Nhận thức khoa học hướng tới sự nghiên cứu nhằm phản ánh đúng bản chất
và sự vận động, phát triển theo quy luật khách quan của các khách thể trong tự
nhiên, xã hội, tư duy tồn tại độc lập với chủ thể, do vậy luôn có tính khách
quan. Xuất phát từ bản thân khách thể và đối tượng nghiên cứu từ hiện thực khách
quan, nhận thức khoa học phản ánh trung thành các sự vật, hiện tượng, quá trình
như vốn có của nó chứ không phải xuất phát từ ý muốn chủ quan để áp đặt cho
thực tế. Thái độ tôn trọng sự thật hoàn toàn đối lập với thái độ phiến diện, định
kiến, không trung thực, nguỵ biện. Tính khách quan trong nhận thức khoa học còn


thể hiện ở sự tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan của chủ thể nhận
thức. Những ấn phẩm cá nhân và những định hướng giá trị của nhà khoa học có vai
trò sáng tạo quan trọng, song kết quả nghiên cứu lại không phụ thuộc ý muốn chủ
quan của người nghiên cứu. Quá trình nhận thức phải dựa vào sự thật và lý trí con
người chứ không thể dựa vào những ảo tưởng chủ quan và thông tin sai lệch.
Việc tiếp cận chân lý khách quan luôn thông qua quá trình được định
hướng một cách tự giác, tích cực. Điều đó đòi hỏi các nhà khoa học cùng với
việc nắm vững các phương tiện, thiết bị tiên tiến và hiện đại, phương pháp
nghiên cứu phù hợp với yêu cầu cụ thể của các ngành khoa học, còn phải luôn

có định hướng giá trị đúng đắn. Chủ thể nhận thức khoa học là người có khả
năng trí tuệ cao, bao gồm khả năng quan sát, ghi nhớ, tưởng tượng sáng tạo;
năng lực trừu tượng hoá, khái quát hoá; năng lực phát triển tư duy và vận dụng
thực tiễn... để nhờ đó nắm bắt được cái bản chất, quy luật bị che lấp trong sự
hỗn độn của các hiện tượng ngẫu nhiên. Chủ thể nhận thức khoa học còn phải
được đào tạo, tự đào tạo, rèn luyện thường xuyên về tri thức tự nhiên và xã hội,
về ngôn ngữ, về lôgíc... phù hợp với các nhiệm vụ nghiên cứu.
Nhận thức khoa học không diễn ra một cách tức thì, đạt ngay kết quả trọn vẹn
xong xuôi, mà là một quá trình biện chứng phức tạp trên cơ sở thực tiễn. Quá trình
đó xa lạ với biểu hiện giản đơn, công thức cứng nhắc, bất biến, những thói quen dễ
dãi, những đường mòn, tính thụ động và lệ thuộc. Đây là một trong những quan
điểm cơ bản nhất của nhận thức luận mácxít, đối lập với quan điểm duy tâm hoặc
siêu hình về nhận thức.
Đặc trưng thứ hai: Nhận thức khoa học mang tính hệ thống, có luận cứ và sự
sáng tạo tri thức khoa học mới.
Tính hệ thống là đặc trưng quan trọng để phân biệt nhận thức khoa học với
nhận thức thông thường cũng như các loại hình nhận thức khác. Khách thể nhận
thức luôn tồn tại trong tính hệ thống, nên hoạt động nhận thức của chủ thể chỉ đạt
tới chân lý khi không những tôn trọng tính hệ thống của khách thể mà còn phải thể
hiện ra với tính cách là một hệ thống. Nói cách khác, tính hệ thống của nhận thức
khoa học, tức là tính hệ thống - chủ thể, suy đến cùng là hình ảnh chủ quan của tính


hệ thống - khách thể. Nó được thể hiện trong tất cả các giai đoạn, các thành phần
cấu trúc của nhận thức như mục đích (mục đích trước mắt, lâu dài; mục đích chiến
lược, chiến thuật...), phương pháp (phương pháp phổ biến, đặc thù, đơn nhất...),
phương tiện (phương tiện vật thể, phi vật thể...). Sản phẩm của nhận thức khoa học
gồm hệ thống khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật cùng phản ánh hiện thực
khách quan trong một hệ thống toàn vẹn, chuyển hoá, không bất biến. Tính hệ
thống của nhận thức khoa học còn được thể hiện trong mọi thành phần cấu trúc của

nó.
Nhận thức khoa học còn mang tính có luận cứ và được chứng minh. Tính có
luận cứ của tri thức khoa học được thể hiện trước hết bởi sự kiểm tra bằng thực
nghiệm, thực tiễn. Đồng thời, tri thức khoa học còn được chứng minh bằng các tiêu
chí lôgíc hợp thành hệ chuẩn riêng do nhận thức khoa học tạo ra nhằm chế định các
phương thức chứng minh.
Nhận thức khoa học luôn gắn với việc khám phá ra các hiện tượng, quá trình,
quy luật, “các điểm nút trong một màng lưới” nảy sinh những tri thức khoa học mới
mà nhận thức thông thường không có được, đó là "quá trình phản ánh biện chứng,
tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào đầu óc của con người"[30,
tr.74]. Mặt khác, thông qua so sánh các luận điểm đã được chứng minh là chân lý,
có thể rút ra tri thức khoa học mới. Nhận thức khoa học hiện đại có thể và (cần
phải) được xem xét với tư cách là kết quả của toàn bộ quá trình phát sinh, phát triển
của hoạt động tư duy, mang trong mình những tri thức đã có trong lịch sử; và nó
cũng không dừng ở đó mà tiếp tục sáng tạo tri thức khoa học mới. Ngay cả hệ
thống lý luận của C.Mác cũng được V.I.Lênin đòi hỏi không nên coi là "một cái gì
đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt
nền móng cho môn khoa học mà những người XHCN cần phải phát triển hơn nữa
về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu so với cuộc sống"[42, tr.232].
Đặc trưng thứ ba: Nhận thức khoa học đòi hỏi yêu cầu cao về tính trừu tượng
hoá, khái quát hoá và cụ thể hoá.
Nhận thức khoa học có vai trò giải quyết nhiệm vụ thực tiễn nên nó luôn đòi
hỏi phải được định hình bởi các khái niệm, phạm trù, quy luật, phản ánh ngày càng


sâu sắc thế giới khách quan thông qua những bước trừu tượng hoá, khái quát hoá
và cụ thể hoá. Quá trình đi từ nhận thức tiền khoa học đến nhận thức khoa học phải
thông qua các thao tác tư duy, đặc biệt là sự trừu tượng hoá, khái quát hoá. Chính
vì vậy, trừu tượng hoá, khái quát hoá là sự thể hiện đặc trưng của nhận thức khoa
học mà nhiều loại hình nhận thức khác không nhất thiết phải đề cập.

Trừu tượng hoá được thực hiện trong mối quan hệ chặt chẽ với khái quát hoá.
Khi trừu tượng hoá một vài thuộc tính, hay các mối liên hệ trong một loạt khách
thể, thì nhất định sẽ tạo ra điều kiện để khái quát hoá nhằm xác định liên hợp các
thuộc tính vào một lớp chung, thể hiện ra như cái chung trong một loạt khách thể
riêng. Trừu tượng hoá không những có mối quan hệ chặt chẽ với khái quát hoá, mà
còn có mối quan hệ chặt chẽ với cụ thể hoá. Bởi vì, quá trình nghiên cứu lý luận
trước hết phải tách ra từ khách thể các mối liên hệ dưới dạng trừu tượng khoa học.
Song, chỉ dừng ở các trừu tượng khoa học sẽ không thể cho ta một quan niệm toàn
vẹn về bản chất của khách thể nghiên cứu; do vậy, cần phải tái tạo lại khách thể
trong tính toàn vẹn và phức tạp của các mối quan hệ, liên hệ. Quá trình này trong
nghiên cứu được gọi là phương pháp đi từ trừu tượng tới cụ thể.
Trừu tượng hoá, khái quát hoá và cụ thể hoá có mối quan hệ chặt chẽ và được
áp dụng cả trong khoa học xã hội và khoa học tự nhiên. Đồng thời, đây là những
phương thức đặc trưng cho tính biện chứng phức tạp của quá trình nhận thức khoa
học, và có thể phân biệt với nhận thức thông thường và một số loại hình nhận thức
khác.
Đặc trưng thứ tư: Nhận thức khoa học đòi hỏi yêu cầu cao trong sử dụng
ngôn ngữ, chuyên môn hoá về sử dụng phương pháp và phương tiện.
Để nghiên cứu, mô tả khách thể, nhận thức khoa học không chỉ sử dụng
ngôn ngữ tự nhiên (hệ thống ký hiệu âm thanh và sau đó là chữ viết), mà còn
phải sử dụng và không ngừng phát triển ngôn ngữ chuyên biệt (là hệ thống ký
hiệu bổ trợ được tạo ra bằng cách riêng trên cơ sở của ngôn ngữ tự nhiên được
chuyên hoá). Đặc biệt nhận thức ở trình độ lý luận, chủ thể nghiên cứu khách thể
một cách gián tiếp thông qua “thực nghiệm tư tưởng”, nên tất yếu phải có hệ


thống ngôn ngữ khoa học. Hệ thống ngôn ngữ này được xây dựng chặt chẽ, rõ
ràng và được sử dụng tương đối nhất quán, có tính chuyên môn hoá cao giúp
nhận thức khoa học phản ánh ngày càng chính xác và đầy đủ đối tượng nghiên
cứu của từng ngành khoa học, đồng thời làm cho nhận thức khoa học được biểu

hiện thành hệ thống nhờ vốn từ hiện đại, phong phú, đa dạng cùng với cấu trúc
ngữ ngôn khoa học và tinh tế. Ngôn ngữ là "vỏ vật chất" của tư duy, là hình thức
trực tiếp của tư duy, làm cho tư duy được rõ ràng, xác định không chỉ trong việc
biểu đạt những tư tưởng, nội dung ra bên ngoài mà còn là công cụ của quá trình
nhận thức khoa học. Với hệ thống ngôn ngữ khoa học, con người có thể vận
dụng các tri thức đã có, xây dựng những suy lý để đi đến tri thức mới, đồng thời
làm cho tri thức trở thành tài sản chung của xã hội, làm cho hoạt động tư duy có
tính kế thừa và nhận thức khoa học được biểu hiện thành hệ thống.
Cùng với yêu cầu cao về ngôn ngữ, phương pháp nhận thức khoa học đóng
vai trò to lớn, thiếu nó thì tư duy và khả năng nhận thức của con người không thể
phát triển. Song, trong nhận thức khoa học, không có phương pháp “vạn năng”,
cũng không thể có một phương pháp "độc nhất vô nhị" tiếp cận chân lý. Các
phương pháp nhận thức khoa học không những được dùng phổ biến, mà còn được
"chuyên hoá". Khi thu nhận tri thức kinh nghiệm, thường sử dụng phương pháp
quan sát và thực nghiệm; còn khi phát triển lý thuyết khoa học, cần sử dụng các
phương pháp phân tích, tổng hợp, quy nạp, diễn dịch... Khách thể nghiên cứu của
nhận thức khoa học rất phong phú, đa dạng, cho nên phương pháp của nó cũng
phong phú, đa dạng. Có phương pháp phổ biến, phương pháp đặc thù và phương
pháp nhận thức của khoa học cụ thể. Các khoa học khác nhau về đối tượng nghiên
cứu có tính độc lập tương đối về phương pháp nghiên cứu, nên cùng với xác định
đối tượng nghiên cứu, phải xác định phương pháp nhận thức khoa học. Song mỗi
sự vật, hiện tượng, quá trình khách quan đều có các thuộc tính phổ biến, đặc thù và
đơn nhất, cho nên khi tiếp cận, không thể tuyệt đối hoá một phương pháp nào.
Nhận thức ở trình độ kinh nghiệm dựa trên sự tác động trực tiếp tới khách thể
nhận thức của nhà nghiên cứu, sự tác động đó thể hiện qua quan sát và thực nghiệm
khoa học, qua các công cụ thiết bị. Do vậy, tính chuyên môn hoá của việc sử dụng


các phương tiện kỹ thuật cũng được đề cao trong nhận thức khoa học. Hệ thống
máy móc, trang thiết bị là cầu nối giữa chủ thể và khách thể nhận thức, trực tiếp tác

động đến khách thể, giúp quá trình nhận thức khoa học trở nên hiệu quả hơn trong
việc khám phá những thuộc tính mới của khách thể, kể cả trong điều kiện khó
khăn, phức tạp. Xã hội và khoa học càng phát triển thì càng có sự phụ thuộc lẫn
nhau giữa nhận thức khoa học với phương tiện kỹ thuật hiện đại. Các phương tiện
vật chất ngày càng tham gia trực tiếp và đóng vai trò đắc lực đối với quá trình tiếp
nhận tri thức khoa học. Cách mạng KH - CN hiện đại phát triển đòi hỏi phải quan
tâm đặc biệt tới việc sử dụng phương tiện kỹ thuật theo hướng chuyên môn hoá
trong nhận thức khoa học. Máy móc, phương tiện kỹ thuật được sử dụng trong
nhận thức khoa học ngày càng trở nên hiện đại như: máy tính điện tử, máy gia tốc,
các thiết bị quan sát và đo đạc... Tuy nhiên, xét đến cùng, con người làm ra máy
móc không phải để máy móc thống trị trở lại, mà để hỗ trợ đắc lực cho trí tuệ của
mình, nâng trí tuệ lên tầm cao mới.
Đặc trưng thứ năm: Nhận thức khoa học có mối liên hệ chặt chẽ với thực tiễn
và thực nghiệm.
Nhận thức khoa học luôn gắn với thực tiễn, đây là đặc trưng căn bản để phân
định giữa nhận thức luận duy vật với nhận thức luận duy tâm. Hơn thế, nếu như
giữa nhận thức thông thường với thực tiễn có sự liên hệ “gần gũi”, trực tiếp với đời
sống hiện thực, thì sự gắn bó giữa nhận thức khoa học với thực tiễn bao giờ cũng
mang tính khái quát sâu sắc hơn. Kết quả phản ánh thực tiễn của nó không những
nhất thiết phải được kiểm nghiệm bằng thực tiễn mà còn đạt trình độ lý luận khoa
học cao hơn nhận thức thông thường, nhằm định hướng khoa học cho thực tiễn
phát triển.
Thực nghiệm khoa học là một trong những hình thức cơ bản của hoạt động
thực tiễn, một trong các tiêu chuẩn kiểm tra chân lý. Ở trình độ kinh nghiệm của
nhận thức khoa học, thực nghiệm khoa học còn là phương tiện chính và cơ bản,
đồng thời còn là phương pháp có vai trò đặc biệt quan trọng, vì: “Kiểu nhận thức
khoa học có ưu điểm lớn là dựa vào lý trí và phương pháp thực nghiệm nên có khả
năng to lớn nhận thức thế giới và cải tạo thế giới”[80, tr.119]. Phương pháp thực



nghiệm khoa học, với tư cách là “sự chất vấn đối với tự nhiên”, là phương pháp
quan trọng nhất của nhận thức kinh nghiệm nhằm nghiên cứu khách thể bằng sự tác
động trực tiếp vào chúng. Thực nghiệm khoa học có vai trò to lớn không chỉ trong
việc thu thập các sự kiện khoa học mà còn cả trong việc khẳng định hay bác bỏ giả
thuyết, biến giả thuyết thành lý thuyết khoa học. Thực nghiệm được sử dụng rộng
rãi không chỉ trong khoa học tự nhiên mà cả trong khoa học xã hội.
1.1.2. Đặc thù của nhận thức khoa học trong lĩnh vực quân sự
Lĩnh vực quân sự vừa là khách thể đặc thù của nhận thức khoa học, vừa là cơ
sở thực tiễn quy định trực tiếp tính đặc thù của nhận thức khoa học trong lĩnh vực
này.
Lĩnh vực quân sự là một phạm trù lịch sử mang tính đặc thù của xã hội, xuất
hiện và mất đi cùng với việc xuất hiện và mất đi của giai cấp, nhà nước. Lĩnh vực
quân sự bao gồm toàn bộ hoạt động thực tiễn quân sự và nhận thức quân sự, có tác
động ảnh hưởng qua lại mạnh mẽ đối với các lĩnh vực khác như kinh tế, chính trị,
văn hoá, tư tưởng, khoa học, v.v.. Đặc thù của hoạt động trong lĩnh vực quân sự thể
hiện tập trung ở các mối quan hệ đặc biệt giữa con người với con người trong sử
dụng công cụ đặc biệt - vũ khí, trang bị kỹ thuật nhằm tiêu diệt đối phương, sử
dụng biện pháp đặc biệt - biện pháp bạo lực; ở khả năng chuyển hoá, biến động
nhanh của môi trường hoạt động, chứa đựng sự hy sinh, gian khổ, ác liệt và mất
mát; ở sự đối kháng giai cấp tập trung một cách trực tiếp và nguy hiểm nhất. Lĩnh
vực quân sự còn chứa đựng nhiều yếu tố bất ngờ, nhiều hiện tượng “đánh lừa” bản
chất, là “vương quốc của các ngẫu nhiên”, nên đòi hỏi cao đối với con người và tổ
chức về trình độ nhận thức khoa học.
Tất cả những yếu tố đặc thù đó đều góp phần quy định tính đặc thù của nhận
thức khoa học trong lĩnh vực quân sự. Tuy nhiên, để làm rõ hơn tính đặc thù ấy, tất
yếu phải phân tích mối liên hệ biện chứng giữa lý luận quân sự và thực tiễn quân
sự, bởi đây chính là mối liên hệ cơ bản và khái quát nhất của toàn bộ các hoạt động
trong lĩnh vực quân sự.
Đứng vững trên quan điểm duy vật biệt chứng về giải quyết vấn đề cơ bản của
triết học, trực tiếp là sự thống nhất biện chứng giữa lý luận và thực tiễn - nguyên lý



xuất phát của triết học mácxít, cho ta tiền đề xuất phát có ý nghĩa quyết định để giải
quyết mối liên hệ giữa lý luận quân sự và thực tiễn quân sự. Khác với các trường
phái triết học khác, triết học mácxít đã chỉ ra sự thống nhất biện chứng giữa lý luận
và thực tiễn, đồng thời chỉ ra vai trò của lý luận và thực tiễn trong sự thống nhất đó.
Về mặt thực tiễn, V.I.Lênin nhấn mạnh: "Thực tiễn cao hơn nhận thức (lý luận), vì
nó có ưu điểm không những của tính phổ biến, mà cả của hiện thực trực tiếp"[55,
tr.230]. Thực tiễn quyết định quá trình nhận thức (lý luận), là mục đích của nhận
thức, là cơ sở, động lực của nhận thức, là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Thực
tiễn còn tạo ra những điều kiện biến lý luận từ sức mạnh tinh thần thành sức
mạnh vật chất, hiện thực hoá tinh thần - lý luận. Các nhà kinh điển mácxít đã chỉ
rõ vai trò kim chỉ nam của lý luận đối với hoạt động thực tiễn, "không có lý luận
cách mạng sẽ không có phong trào cách mạng". Theo Hồ Chí Minh, thực tiễn
không có lý luận là thực tiễn mù quáng, lý luận không có thực tiễn là lý luận
suông. Người cho rằng; "trong lúc học tập lý luận, chúng ta cần nhấn mạnh: lý
luận phải liên hệ với thực tế. Thống nhất giữa lý luận với thực tiễn là một
nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác-Lênin"[70, tr.496].
Tiếp cận mối liên hệ giữa lý luận quân sự với thực tiễn quân sự phải dựa trên
cơ sở những nguyên tắc lý luận nói trên. Với ý nghĩa là toàn bộ hoạt động vật chất
diễn ra ngoài đầu óc của chủ thể, thực tiễn quân sự gắn với thời gian, không gian,
điều kiện hoàn cảnh quân sự cụ thể, bao gồm thực tiễn chiến đấu, bảo đảm chiến
đấu, sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật quân sự, thực
tiễn công tác chính trị, tư tưởng...; trong đó, thực tiễn chiến đấu và sẵn sàng chiến
đấu là những hình thức cơ bản nhất. Các hoạt động đó với tư cách là hoạt động
thực tiễn quân sự khi được lý luận, tư tưởng quân sự dẫn dắt. Còn lý luận quân sự,
với ý nghĩa là giai đoạn cao của nhận thức khoa học trong lĩnh vực quân sự, luôn
mang tính khái quát, trừu tượng, nhằm vạch ra bản chất, quy luật của các sự vật,
hiện tượng, quá trình quân sự; trên cơ sở đó xây dựng các giả thuyết, lý thuyết khoa
học, dự báo khoa học về sự vận động trong lĩnh vực quân sự. Chính vì vậy, lý luận

quân sự chỉ có ý nghĩa hiện thực khi thấm sâu vào thực tiễn quân sự; và ngược lại,
thực tiễn quân sự chỉ mang tính lịch sử - xã hội nhằm cải biến những đối tượng


khách quan trong lĩnh vực quân sự khi được lý luận quân sự dẫn dắt. Cũng như các
lĩnh vực khác, trong lĩnh vực quân sự, nếu tuyệt đối hoá lý luận sẽ rơi vào lý luận
suông, giáo điều hoặc chủ nghĩa kinh viện, làm cho lý luận quân sự trở thành các
luận điểm không có sức sống; song, tuyệt đối hoá thực tiễn sẽ rơi vào phiêu lưu, mù
quáng, không có triển vọng, thậm chí rơi vào chủ nghĩa thực dụng, cơ hội, xét lại.
Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn quân sự bao hàm hai vòng khâu gắn
bó hữu cơ với nhau. Vòng khâu thứ nhất, từ thực tiễn quân sự đến lý luận quân sự,
và từ lý luận quân sự qua thực tiễn đến lý luận quân sự hoàn chỉnh hơn, được coi là
quá trình hình thành lý luận quân sự - quá trình không chỉ làm biến đổi thực tiễn
quân sự, mà còn biến đổi bản thân lý luận quân sự. Vòng khâu thứ hai, từ lý luận
quân sự đến thực tiễn quân sự, và từ thực tiễn quân sự khái quát thành lý luận để
chỉ đạo thực tiễn quân sự hiệu quả hơn, được coi là quá trình "vật chất hoá lý luận
quân sự" - quá trình không chỉ làm cho lý luận quân sự phát triển mà còn làm biến
đổi thực tiễn quân sự. Hai vòng khâu này đan bện chặt chẽ với nhau làm cho mối
liên hệ giữa lý luận và thực tiễn quân sự vận động và phát triển không ngừng.
Thông qua hoạt động thực tiễn quân sự, các mối quan hệ, các thành phần, các
thuộc tính... trong lĩnh vực quân sự được bộc lộ, cung cấp cho chủ thể quân sự
những nhận biết để từ đó khái quát thành lý luận quân sự, đồng thời làm cho chủ
thể quân sự biến đổi, phát triển năng lực trí tuệ của mình. Thực tiễn quân sự luôn
luôn vận động, biến đổi không ngừng, thường xuyên xuất hiện những đối tượng
mới, những tình huống mới buộc chủ thể quân sự phải nâng cao khả năng nhận
thức đáp ứng yêu cầu thực tiễn quân sự đặt ra. Thực tiễn quân sự còn có vai trò
kiểm nghiệm lý luận quân sự, làm cho nhận thức của chủ thể được "cọ sát", “đấu
tranh với nhau” để đúc kết thành lý luận quân sự. Nhận thức quân sự qua kiểm
nghiệm bằng thực tiễn quân sự mới khẳng định được tính chân lý. Tiêu chuẩn thực
tiễn trong kiểm tra nhận thức vừa có tính tuyệt đối (tính xác định) vì nó là tiêu

chuẩn khách quan cao nhất để kiểm nghiệm lý luận quân sự, vừa có tính tương đối
(tính không xác định) vì nó luôn vận động, phát triển và là quá trình in đậm dấu ấn
chủ quan của con người. Việc quán triệt quan điểm thực tiễn giúp chúng ta tránh


những sai lầm cực đoan như chủ nghĩa giáo điều, bảo thủ hoặc chủ nghĩa chủ quan,
chủ nghĩa tương đối trong lĩnh vực quân sự.
Trong khi khẳng định “thực tiễn cao hơn lý luận”, không thể không tính đến
vai trò của lý luận quân sự đối với thực tiễn quân sự. Lý luận quân sự chỉ ra
phương hướng, mục tiêu, cách thức, biện pháp khoa học cho hoạt động thực tiễn
quân sự trong từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Các quan điểm, học thuyết quân sự
khoa học luôn luôn là kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn quân sự. Đường lối
chiến lược quân sự, hệ thống nguyên tắc nghệ thuật quân sự là căn cứ khoa học để
cụ thể hoá trong tác chiến, huấn luyện kỹ, chiến thuật, điều lệnh, điều lệ, tổ chức
xây dựng lực lượng, chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu, hạ quyết tâm trận đánh, lựa chọn
hình thức, phương pháp, phương tiện phù hợp... Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ
của vũ khí, trang bị quân sự dẫn đến những bước phát triển mới của khoa học nghệ
thuật quân sự, đồng thời đòi hỏi vai trò ngày càng tăng của lý luận quân sự. Cho
nên, các chủ thể quân sự cần thường xuyên tích cực tổng kết kinh nghiệm, phát
triển lý luận quân sự, nâng cao trình độ tri thức tổng hợp, đáp ứng yêu cầu của
thực tiễn xây dựng quân đội và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Trong mối liên hệ hữu cơ giữa lý luận và thực tiễn quân sự thì thực tiễn quân
sự bao giờ cũng giữ vai trò quyết định, đặt ra cho lý luận quân sự những nhiệm vụ
phải nhận thức. Điều đó làm cho quá trình nhận thức khoa học trong lĩnh vực quân
sự luôn vận động, biến đổi liên tục từ trình độ này lên trình độ khác cao hơn, có sự
kế tiếp liên tục các vòng khâu mới theo "vòng xoáy ốc", làm năng động hoá sự
thống nhất giữa lý luận với thực tiễn quân sự. Mặt khác, thực tiễn quân sự cũng làm
nảy sinh sự không tương ứng giữa lý luận đã có với nhu cầu mới trong nhận thức
và hoạt động. Vì thế, vấn đề đặt ra là phải thường xuyên phát hiện mâu thuẫn, giải
quyết mâu thuẫn bằng con đường phủ định biện chứng, qua đó làm cho lý luận

quân sự ngày càng hoàn thiện, phù hợp với sự phát triển mới của thực tiễn quân sự.
Tác động qua lại giữa lý luận và thực tiễn quân sự không chỉ phụ thuộc vào
đối tượng nghiên cứu như tổ chức, con người, vũ khí, trang bị kỹ thuật... mà còn
phụ thuộc vào các khâu trung gian như: thực nghiệm khoa học, quan sát khoa
học, giả thuyết khoa học, mô hình hoá... Nhờ các khâu trung gian này mà mối


liên hệ giữa lý luận với thực tiễn quân sự tồn tại trong tính hệ thống toàn vẹn, có
trật tự lôgíc, tạo ra các tiền đề giúp cho lý luận và thực tiễn tác động qua lại lẫn
nhau, làm biến đổi mọi quá trình hoạt động quân sự. Trong những khâu trung
gian đó thì kinh nghiệm quân sự được xác định như mắt khâu quan trọng
nhất. Kinh nghiệm quân sự phản ánh trực tiếp tính phong phú, nhiều vẻ của thực
tiễn quân sự, là cơ sở, dữ liệu để bổ sung, phát triển lý luận, đồng thời là bước
tất yếu của quá trình tổng kết, khái quát, hình thành nên lý luận quân sự mới, “...
bằng chứng của tính tất yếu là ở trong hoạt động của con người, trong kinh
nghiệm, trong lao động...”[2, tr.718]. Hay có thể coi kinh nghiệm quân sự là cầu
nối giữa nhận thức cảm tính với nhận thức lý tính, giữa lý luận với thực tiễn
quân sự. Tuy nhiên, phải chú ý rằng: “Sự quan sát theo kinh nghiệm tự nó không
bao giờ có thể chứng minh được đầy đủ tính tất yếu”[2, tr.718], nên cần đặt nó
trong mối liên hệ thống nhất biện chứng với lý luận, không ngừng tổng kết, khái
quát nâng kinh nghiệm lên trình độ lý luận.
Như vậy, mối liên hệ biện chứng giữa lý luận quân sự và thực tiễn quân sự thể
hiện như sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, đòi hỏi phải nhận thức
đầy đủ và quan tâm đến cả hai mặt ấy. Nếu không giải quyết một cách khoa học
mối liên hệ này thì sẽ gây ra thiệt hại không chỉ đối với thực tiễn quân sự mà còn
kìm hãm hoặc xuyên tạc lý luận quân sự, hoặc rập khuôn máy móc trong thực tiễn
quân sự. V.I.Lênin đã từng cảnh báo rằng, thiếu sót trong lý luận tất yếu dẫn tới lỗi
lầm không tránh khỏi trong thực tiễn, và ngược lại.
Tính đặc thù của hoạt động quân sự cũng như của mối liên hệ giữa lý luận và
thực tiễn quân sự là cơ sở trực tiếp nhất cho phép tiếp cận những khía cạnh cơ bản

thể hiện tính đặc thù của nhận thức khoa học trong lĩnh vực này, nhằm luận giải
đúng đắn vai trò của nhận thức khoa học trong hoạt động quân sự của sĩ quan phân
đội.
Thứ nhất, đặc thù nhận thức khoa học trong lĩnh vực quân sự thể hiện ở trí
tưởng tượng cao gắn với tư duy cụ thể.
Trí tưởng tượng có sự thống nhất với quá trình nhận thức chân lý và phản ánh
thực tại khách quan, song khác biệt ở chỗ nó dựa trên sự sáng tạo những biểu tượng


×