Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ bồi DƯỠNG ý THỨC CHÍNH TRỊ CHO đội NGŨ cán bộ ở các đơn vị cơ sở THUỘC BCH QUÂN sự THÀNH PHỐ đà NẴNG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (422.5 KB, 91 trang )

MỤC LỤC
Trang
3

MỞ ĐẦU
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC
TIỄN BỒI DƯỠNG Ý THỨC CHÍNH TRỊ CHO ĐỘI
NGŨ CÁN BỘ Ở CÁC ĐƠN VỊ CƠ SỞ THUỘC BỘ
CHỈ HUY QUÂN SỰ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
1.1. Ý thức chính trị và những vấn đề cơ bản về bồi dưỡng ý
thức chính trị cho đội ngũ cán bộ ở các đơn vị cơ sở thuộc
Bộ Chỉ huy quân sự thành phố Đà Nẵng
1.2. Thực trạng, nguyên nhân và một số kinh nghiệm bồi
dưỡng ý thức chính trị cho cán bộ ở các đơn vị cơ sở thuộc
Bộ Chỉ huy quân sự thành phố Đà Nẵng
Chương 2 PHƯƠNG HƯỚNG, YÊU CẦU VÀ MỘT SỐ GIẢI
PHÁP CƠ BẢN BỒI DƯỠNG Ý THỨC CHÍNH TRỊ
CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ Ở CÁC ĐƠN VỊ CƠ SỞ
THUỘC BỘ CHỈ HUY QUÂN SỰ THÀNH PHỐ ĐÀ
NẴNG HIỆN NAY
2.1. Phương hướng, yêu cầu bồi dưỡng ý thức chính trị cho đội
ngũ của cán bộ ở các đơn vị cơ sở thuộc Bộ Chỉ huy quân
sự thành phố Đà Nẵng hiện nay
2.2. Một số giải pháp cơ bản bồi dưỡng ý thức chính trị cho đội
ngũ cán bộ ở các đơn vị cơ sở thuộc Bộ Chỉ huy quân sự
thành phố Đà Nẵng hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT



13

13

35

50

50

59
80
82
86


Viết đầy đủ
Bộ chỉ huy quân sự
Chính trị quốc gia
Chủ nghĩa xã hội
Công tác đảng, công tác chính trị
Diễn biến hoà bình
Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng uỷ Quân sự trung ương
Lực lượng vũ trang
Nhà xuất bản
Quân đội nhân dân Việt Nam
Quân sự, quốc phòng địa phương
Quốc phòng toàn dân

Tổng cục chính trị
Vững mạnh toàn diện
Xã hội chủ nghĩa
Ý thức chính trị

Viết tắt
BCHQS
CTQG
CNXH
CTĐ,CTCT
DBHB
ĐCSVN
ĐUQSTƯ
LLVT
Nxb
QĐNDVN
QS,QPĐP
QPTD
TCTC
VMTD
XHCN
YTCT


3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ý thức chính trị có vai trò định hướng chính trị, tạo cơ sở hình thành và
phát triển các phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và các phẩm chất chiến
đấu của những người hoạt động trong lĩnh vực đấu tranh vũ trang. Do vậy,

trong quân đội, bồi dưỡng YTCT cho các đối tượng nói chung, cho đội ngũ
cán bộ nói riêng để đảm bảo quân đội trung thành tuyệt đối của với Đảng,
Nhà nước và nhân dân, tăng cường sức mạnh chiến đấu và chất lượng tổng
hợp của quân đội trong mọi tình huống, giúp cho quân đội “nhiệm vụ nào
cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”
là một nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên trong mọi thời kỳ cách mạng của
Đảng.
Hiện nay, trước những diễn biến nhanh chóng và phức tạp của tình hình quốc
tế, khu vực và yêu cầu to lớn của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, đặc biệt là
sự tiến công bằng chiến lược “DBHB” của chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc
Mỹ và sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta,
việc bồi dưỡng YTCT cho đội ngũ cán bộ càng hết sức quan trọng và cấp thiết.
Đà Nẵng là một địa bàn chiến lược của Quân khu 5 và cả nước trong
chiến tranh giải phóng dân tộc trước đây, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện
nay. Đội ngũ cán bộ ở các đơn vị cơ sở thuộc BCHQS thành phố Đà Nẵng là
bộ phận quan trọng trong đội ngũ cán bộ của địa phương, có vị trí, vai trò,
nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền địa
phương và trực tiếp chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác QS,QPĐP phù hợp
với điều kiện kinh tế - xã hội, địa lý, dân số và đặc điểm của địa bàn, xây
dựng cơ quan quân sự địa phương vững mạnh, góp phần động viên và tổ chức
nhân dân trên địa bàn tham gia xây dựng tiềm lực, sức mạnh của nền QPTD,
thế trận chiến tranh nhân dân trong chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


4
Tuy nhiên, trong điều kiện đất nước đang tham gia ngày càng sâu vào
quá trình toàn cầu hoá, mở rộng giao lưu với quốc tế với cả những thuận lợi
cơ bản và thách thức to lớn, bên cạnh những thành tựu to lớn về kinh tế, chính
trị, văn hoá- xã hội đã giành được, đời sống chính trị - xã hội của đất nước
(trong đó có thành phố Đà Nẵng) cũng xuất hiện những vấn đề phức tạp, tác

động tiêu cực của mặt trái kinh tế thị trường cùng với sự chống phá của các
thế lực thù địch đã tác động không nhỏ tới tư tưởng, tình cảm của cán bộ,
chiến sĩ, dẫn đến một bộ phận cán bộ đã có biểu hiện hoài nghi, dao động
trong nhận thức, tư tưởng; suy giảm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào
thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN trong tình hình
mới.
Bên cạnh những kết quả, ưu điểm trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ
của các cấp uỷ, chính quyền thành phố Đà Nẵng, công tác quản lý, giáo dục, rèn
luyện cán bộ các cấp nói chung, việc bồi dưỡng YTCT cho đội ngũ cán bộ ở các
đơn vị cơ sở thuộc BCHQS thành phố Đà Nẵng nói riêng vẫn bộc lộ những hạn
chế, bất cập: cấp uỷ, chỉ huy các cấp chưa đánh giá hết thực trạng tư tưởng cán bộ
thuộc quyền; nhận thức của một số cấp uỷ, chỉ huy về công tác tư tưởng nói
chung, công tác bồi dưỡng YTCT cho cán bộ cấp dưới còn đơn giản; công tác
giáo dục lý luận tiến hành còn giáo điều, xa rời thực tiễn; chưa tạo ra một môi
trường học tập, rèn luyện nghiêm túc cho đội ngũ cán bộ; năng lực đội ngũ cán bộ
làm công tác giáo dục, bồi dưỡng YTCT chưa thật sự đáp ứng được yêu cầu,
nhiệm vụ. Vì thế, bồi dưỡng YTCT cho đội ngũ cán bộ ở các đơn vị cơ sở thuộc
BCHQS thành phố Đà Nẵng, đảm bảo cho đội ngũ này luôn trung thành tuyệt đối
với Đảng, Nhà nước và nhân dân, góp phần nâng cao chất lượng tổng hợp, sức
mạnh chiến đấu, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống là
vấn đề vừa có ý nghĩa cơ bản, lâu dài vừa mang tính cấp thiết trong tình hình hiện
nay.


5
Vì thế nên tác giả chọn đề tài: “Bồi dưỡng YTCT cho đội ngũ cán bộ
ở các đơn vị cơ sở thuộc BCHQS thành phố Đà Nẵng hiện nay” nghiên cứu
nhằm góp phần xây dựng yếu tố chính trị - tinh thần, nâng cao sức mạnh tổng
hợp cho các đơn vị thuộc BCHQS thành phố Đà Nẵng, bảo đảm cho các đơn
vị sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xây dựng yếu tố chính trị - tinh thần là một trong những nội dung rất cơ
bản trong xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản; là cơ sở để xây
dựng sức mạnh tổng hợp của quân đội. Việc xây dựng quân đội về chính trị,
trong đó xây dựng, bồi dưỡng YTCT đang đặt ra những vấn đề rất mới cả về
nhận thức, tổ chức và hoạt động. Đến nay đã có nhiều công trình khoa học
nghiên cứu về nội dung xây dựng yếu tố chính trị-tinh thần cho quân đội;
trong đó có nhiều vấn đề liên quan đến hoạt động bồi dưỡng YTCT cho đội
ngũ cán bộ. Những công trình đó đã góp phần lý giải, phân tích làm rõ các
yếu tố tác động đến ý thức, phẩm chất chính trị của cán bộ, chiến sỹ đồng thời
đưa ra các giải pháp xây dựng, bồi dưỡng và nâng cao phẩm chất chính trị cho
đội ngũ cán bộ, chiến sỹ. Dưới đây là một số công trình tiêu biểu:
Các luận văn, luận án
- Nguyễn Hồng Anh (1995) Nâng cao ý thức chính trị xã hội chủ
nghĩa của Quân đội nhân dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, luận văn
thạc sĩ triết học, Hà Nội.
- Trần Xuân Bình (1997) Bản chất quá trình phát triển ý thức chính trị
xã hội chủ nghĩa của sỹ quan cấp phân đội Quân đội nhân dân Việt Nam hiện
nay, luận văn thạc sĩ triết học, Hà Nội.
- Nguyễn Quang Phát (2001) Xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị phân
đội của QĐNDVN hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh, luận án tiến sĩ xây
dựng Đảng, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội.


6
- Nguyễn Đình Tu (1998), Nâng cao bản lĩnh chính trị của sĩ quan trẻ
Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, luận án tiến sĩ triết học, Học viện
Chính trị quân sự, Hà Nội.
- Nguyễn Thanh Tuyên (2006), Bồi dưỡng niềm tin cộng sản của đội
ngũ sĩ quan trẻ Quân đội nhân dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, luận

án tiến sĩ khoa học chính trị, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội.
Nội dung các luận văn, luận án trên đã khẳng định rõ tính cấp thiết phải
nghiên cứu, luận giải sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về YTCT của
đội ngũ cán bộ, sỹ quan quân đội, đặc biệt đội ngũ kế cận. Các công trình
khoa học trên đã luận giải xác đáng những nhân tố tác động, ảnh hướng đến
phẩm chất chính trị của đội ngũ cán bộ, dự báo những xu hướng nảy sinh
trong tư tưởng, tình cảm của đội ngũ cán bộ trước những tác động sâu sắc của
đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội. Các công trình khoa học trên đề
cập khá toàn diện những vấn đề cơ bản về xây dựng đội ngũ cán bộ, sỹ quan
QĐNDVN, góp phần xây dựng quân đội về chính trị trong thời kỳ mới. Đề
xuất và kiến nghị những giải pháp cơ bản xây dựng, giáo dục, bồi dưỡng
YCTC của đội ngũ cán bộ phù hợp với đặc điểm tình hình hiện nay của đất
nước, của quân đội và các đơn vị trong toàn quân.
Những công trình trên đã gợi mở hướng nghiên cứu, chọn đề tài của tác
giả; đồng thời là nguồn tài liệu rất quan trọng để tác giả tham khảo trong quá
trình xây dựng, hoàn thiện luận văn của mình.
Các đề tài nghiên cứu khoa học
Nghiên cứu liên quan đến nội dung xây dựng yếu tố chính trị-tinh thần,
trong những năm qua, có khá nhiều đề tài, dưới đây là một số đề tài tiêu biểu
liên quan gần với luận văn của tác giả:
- Đề tài: “Tác động của những biến đổi kinh tế - xã hội ở nước ta đến
xây dựng QĐNDVN về chính trị trong giai đoạn cách mạng mới”, Đề tài


7
khoa học cấp Bộ Quốc phòng, TCCT, Nxb QĐND, Hà Nội, 2000.
- Đề tài: “Định hướng giá trị nhân cách đội ngũ sĩ quan trẻ QĐNDVN
hiện nay”, Đề tài khoa học cấp Bộ Quốc phòng, Học viện Chính trị quân sự Bộ Quốc phòng Hà Nội, 2001.
- Đề tài: “Nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực hoạt động thực tiễn của
cán bộ chủ trì CTĐ,CTCT ở đơn vị cơ sở ”, Đề tài khoa học cấp Bộ Quốc phòng.

Chủ nhiệm đề tài: TS Trần Danh Bích, Học viện Chính trị Quân sự, 2004.
Các đề tài trên đã đề cập khá toàn diện những vấn đề lý luận và thực tiễn
liên quan đến YTCT; làm rõ khái niệm, cấu trúc, biểu hiện và những bài học
kinh nghiệm, trong xây dựng, giáo dục, bồi dưỡng các phẩm chất chính trị của
đội ngũ cán bộ các cấp trong quân đội. Đồng thời từ những phân tích, lý giải
thực trạng, nguyên nhân, chỉ ra những yếu tố tác động đến YTCT; dự báo xu
hướng biến đổi của YCTC, đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm bồi dưỡng,
giáo dục, nâng cao YTCT, bản lĩnh chính trị, niềm tin cộng sản chủ nghĩa và
năng lực hoạt động thực tiễn của cán bộ chủ trì CTĐ,CTCT ở đơn vị cơ sở góp
phần xây dựng quân đội vững mạnh toàn diện theo hướng cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ và từng bước hiện đại, trong đó lấy xây dựng chính trị làm cơ sở.
Các đề tài trên đã cung cấp nhiều thông tin quan trọng và góp phần
không nhỏ trong việc định hướng cho tác giả xây dựng và tiến hành công
trình khoa học của mình.
Các sách tham khảo, chuyên khảo
Các sách tham khảo, chuyên khảo là những công trình khoa học nghiên
cứu một cách sâu sắc và có hệ thống về những vấn đề liên quan đến xây dựng,
bồi dưỡng YTCT cho đội ngũ cán bộ của Đảng, của quân đội, khẳng định
YTCT là nội dung cốt lõi để hình thành nhân tố chính trị-tinh thần, khẳng định
vai trò và giá trị to lớn của YTCT trong sự hình thành sức mạnh chiến đấu của
quân đội và sự nghiệp xây dựng đất nước, xây dựng quân đội hiện nay.


8
Mặc dù nghiên cứu từ những góc độ khác nhau; song, các công
trình khoa học trên đã luận giải sâu sắc những vấn đề có tính cấp thiết
trong việc xây dựng, bồi dưỡng YTCT cho đội ngũ cán bộ quân đội thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng
XHCN; chỉ ra được những vấn đề mang tính quy luật và đề xuất nhiều
giải pháp nhằm xây dựng phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức của

đội ngũ cán bộ quân đội, xây dựng đội ngũ sĩ quan của quân đội trong
điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
những năm qua. Dưới đây là những công trình nghiên cứu tham khảo bổ
ích cho tác giả trong quá trình xây dựng luận văn:
Phó GS, TS Đinh Xuân Dũng (1999), Nuôi dưỡng giá trị văn hoá trong
nhân cách người chiến sỹ QĐND Việt Nam, TCCT, Nxb QĐND, Hà Nội.
Phó GS, TS Đoàn Ngọc Hải (2002), Tăng cường giáo dục lý tưởng,
truyền thống cách mạng cho đội ngũ sỹ quan trẻ Quân đội nhân dân Việt
Nam hiện nay, TCCT, Nxb QĐND, Hà Nội.
Giáo sư, Trần Nhâm (2004), Tư duy lý luận với sự nghiệp đổi mới, Nxb
CTQG, Hà Nội.
PGS, TS Lê Văn Quang (2001), Phát triển ý thức chính trị xã hội
chủ nghĩa trong xã hội và quân đội thời kỳ đổi mới, Nxb QĐND, Hà Nội.
TS Nguyễn Vĩnh Thắng và TS Nguyễn Văn Quyết(1997), Một số vấn
đề xây dựng quân đội về chính trị trong giai đoạn hiện nay, Học viện Chính
trị quân sự, Nxb QĐND, Hà Nội.
Đào Duy Tùng (1999), Một số vấn đề về công tác tư tưởng, Nxb
CTQG, Hà Nội.
Các bài báo khoa học
Đoàn Chương (1994), “Nắm chắc việc xây dựng quân đội về chính trị”,
Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số (12), tr.93-95.


9
Lê Duy Chương (2007), “Biện pháp phòng, chống âm mưu “phi chính
trị hoá” quân đội của kẻ thù trong tình hình hiện nay”, Tạp chí Giáo dục lý
luận chính trị quân sự, số 6(106), tr 26-28.
Phạm Văn Nhuận (2007), “Giáo dục, rèn luyện bản lĩnh chính trị cho
cán bộ quân đội trong hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí Giáo dục lý luận
chính trị quân sự, Học viện Chính trị, số (6)

Tô Xuân Sinh (2010), “Phát huy vai trò đội ngũ cán bộ chính uỷ, chính
trị viên trong quân đội hiện nay”, Tạp chí Giáo dục dục lý luận chính trị quân
sự, số (2) tr.47 - 50.
Trần Xuân Trường (1997), “Giác ngộ của cán bộ, chiến sĩ ta trong giai
đoạn cách mạng mới”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số (5)
Lê Minh Vụ (2003), “Xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần nhằm tăng
cường sức mạnh quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN thời
kỳ mới”, Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị quân sự, số (2)
Các bài báo khoa học trên đã tiếp cận, lý giải sự cần thiết phải xây dựng phẩm
chất chính trị- tinh thần của đội ngũ cán bộ, sĩ quan dưới nhiều góc độ; đã đề cập đến
hoạt động giáo dục, bồi dưỡng YTCT và kiến nghị những giải pháp để xây dựng
quân đội về chính trị cũng như xây dựng đội ngũ sĩ quan quân đội, nhằm đáp ứng yêu
cầu đòi hỏi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.
Nhìn tổng quát, các công trình khoa học trên, trực tiếp hoặc gián
tiếp, đều đã nghiên cứu những vấn đề về vai trò đội ngũ cán bộ chính trị,
yếu tố chính trị trong xây dựng quân đội, về công tác giáo dục chính trị
cũng như hoạt động xây dựng, bồi dưỡng YTCT của những đối tượng
khác nhau trong các đơn vị, các quân, binh chủng với cách tiếp cận, luận
giải theo những ngành khoa học riêng biệt. Tuy nhiên, cho đến nay chưa
có công trình nào đi sâu phân tích, luận giải một cách toàn diện, hệ thống
về hoạt động bồi dưỡng YTCT cho đội ngũ cán bộ ở các đơn vị cơ sở


10
thuộc BCHQS thành phố Đà Nẵng dưới góc độ khoa học chính trị.
Do vậy tác giả chọn chủ đề: “Bồi dưỡng YTCT cho đội ngũ cán bộ ở
các đơn vị cơ sở thuộc BCHQS thành phố Đà Nẵng hiện nay” là một hướng
đi thiết thực, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đang đặt ra, không trùng lặp với
các công trình đã nghiệm thu, công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu
Luận giải làm rõ những vấn đề cơ bản về lý luận, thực tiễn, đề xuất
những giải pháp cơ bản bồi dưỡng YTCT cho đội ngũ cán bộ đơn vị cơ sở
thuộc BCHQS thành phố Đà Nẵng hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải làm sáng tỏ một số vấn đề cơ bản về YTCT và bồi dưỡng
YTCT cho đội ngũ cán bộ đơn vị cơ sở thuộc BCHQS thành phố Đà Nẵng.
- Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra kinh nghiệm
bồi dưỡng YTCT cho đội ngũ cán bộ đơn vị cơ sở thuộc BCHQS thành phố
Đà Nẵng.
- Xác định yêu cầu, đề xuất một số giải pháp cơ bản bồi dưỡng YTCT cho
đội ngũ cán bộ đơn vị cơ sở thuộc BCHQS thành phố Đà Nẵng.
Đối tượng nghiên cứu
Bồi dưỡng YTCT cho đội ngũ cán bộ đơn vị cơ sở thuộc BCHQS
Thành phố Đà Nẵng.
Phạm vi nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu hoạt động bồi dưỡng YTCT cho đội ngũ cán bộ
đơn vị cơ sở thuộc BCHQS thành phố Đà Nẵng. Đối tượng tiến hành nghiên
cứu chủ yếu là đội ngũ cán bộ ở cơ quan Bộ chỉ huy quân sự thành phố và cán
bộ chủ trì các đơn vị trực thuộc BCHQS thành phố.
Các tư liệu, số liệu điều tra, khảo sát, các báo cáo tổng kết giới hạn từ


11
năm 2006 đến nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn của luận văn
Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng, các
quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Đảng uỷ Quân sự

Trung ương về xây dựng đội ngũ cán bộ QĐNDVN, các chỉ thị của Bộ trưởng
Bộ Quốc phòng, của Tổng cục Chính trị về bồi dưỡng YTCT, rèn luyện bản
lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ quân đội. Đồng thời tiếp thu, kế thừa có
chọn lọc những thành tựu lý luận của các ngành Khoa học xã hội và nhân văn
quân sự như Tâm lý học quân sự, Giáo dục học quân sự…
Cơ sở thực tiễn
Cơ sở thực tiễn của luận văn là hoạt động của các đơn vị cơ sở thuộc
BCHQS thành phố Đà Nẵng, toàn bộ hoạt động của đội ngũ cán bộ và xây
dựng đội ngũ cán bộ, trong đó có bồi dưỡng YTCT cho đội ngũ cán bộ ở các
đơn vị thuộc BCHQS thành phố Đà Nẵng; các tư liệu, số liệu báo cáo về
hoạt động của các đơn vị, tổng kết công tác đảng, công tác chính trị và công
tác cán bộ của BCHQS thành phố Đà Nẵng trong những năm qua.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận khoa học, nền tảng
lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm,
đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ nói chung, bồi dưỡng YTCT cho đội ngũ cán bộ quân đội nói riêng.
Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, luận văn sử
dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của Khoa học xã hội và nhân
văn, nhất là phương pháp nghiên cứu của chuyên ngành Khoa học xây dựng


12
Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó tập trung vào một số phương pháp cơ bản
sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Phân tích, tổng hợp, khái quát hoá
và hệ thống hoá các nguồn tài liệu liên quan đến đội ngũ cán bộ, YTCT và bồi
dưỡng YTCT cho đội ngũ cán bộ đơn vị cơ sở thuộc BCHQS thành phố Đà Nẵng

nhằm khai thác, xử lý các thông tin để xây dựng cơ sở lý luận, thực tiễn của luận
văn.
- Phương pháp lôgic - lịch sử, so sánh, tổng kết thực tiễn nhằm đánh giá
một cách toàn diện, hệ thống quá trình bồi dưỡng YTCT cho đội ngũ cán bộ đơn
vị cơ sở thuộc BCHQS thành phố Đà Nẵng trong những năm qua, rút ra những
yêu cầu, những kinh nghiệm và những định hướng trong bồi dưỡng YTCT cho
đội ngũ cán bộ đơn vị cơ sở thuộc BCHQS thành phố Đà Nẵng trong những năm
tới.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp quan sát thực tiễn: Kết hợp trong quá trình công tác trên
địa bàn và khảo sát trong thời gian thực hiện luận văn, tiến hành quan sát
hoạt động của các chủ thể bồi dưỡng YTCT cho đội ngũ cán bộ đơn vị cơ sở
thuộc BCHQS thành phố Đà Nẵng với nhiều hình thức, thời điểm khác nhau,
nhằm có thêm cơ sở để luận giải nội dung của luận văn.
Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi: Tiến hành khảo sát bằng gửi
mẫu phiếu in sẵn cho đội ngũ cán bộ đơn vị cơ sở thuộc BCHQS thành phố
Đà Nẵng nhằm tìm hiểu nhận thức, quan niệm, đánh giá của đội ngũ này về
những nội dung liên quan đến bồi dưỡng YTCT cho đội ngũ cán bộ đơn vị cơ
sở thuộc BCHQS thành phố Đà Nẵng trong những năm qua và trong thời gian
tới, qua đó có thêm căn cứ để đánh giá thực trạng bồi dưỡng YTCT cho đội
ngũ cán bộ đơn vị cơ sở thuộc BCHQS thành phố Đà Nẵng hiện nay và đề
xuất những giải pháp bồi dưỡng YTCT cho đội ngũ này trong những năm tới.
Phương pháp toạ đàm: Tiến hành tiếp xúc, trao đổi, đàm thoại với
một số cán bộ chủ trì của cơ quan quân sự địa phương và đơn vị cơ sở


13
thuộc BCHQS thành phố Đà Nẵng nhằm tìm hiểu sâu về tình hình các mặt
của đội ngũ cán bộ, đặc biệt là thực trạng YTCT của họ; qua đó nhận thức
đầy đủ những thuận lợi, khó khăn đang đặt ra trong bồi dưỡng YTCT cho

đội ngũ cán bộ này trong những năm tới để có thêm cơ sở để đánh giá thực
trạng và đề xuất các giải pháp bồi dưỡng cho phù hợp, thiết thực.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp thêm những
luận cứ khoa học cho cấp uỷ địa phương, Đảng uỷ quân sự thành phố, cấp
uỷ, cán bộ chủ trì và cơ quan chức năng của các đơn vị cơ sở thuộc
BCHQS thành phố Đà Nẵng vận dụng trong lãnh đạo, chỉ đạo và tiến hành
bồi dưỡng YTCT cho đội ngũ cán bộ ở các đơn vị cơ sở thuộc quyền, xây
dựng đơn vị VMTD đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho đội ngũ
cán bộ ở các đơn vị cơ sở thuộc BCHQS thành phố Đà Nẵng, trong
giảng dạy và học tập trong các nhà trường quân đội.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm: phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), phần kết luận, danh
mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN BỒI
DƯỠNG Ý THỨC CHÍNH TRỊ CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ Ở CÁC ĐƠN
VỊ CƠ SỞ THUỘC BỘ CHỈ HUY QUÂN SỰ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
1.1. Ý thức chính trị và những vấn đề cơ bản về bồi dưỡng ý
thức chính trị cho đội ngũ cán ở các bộ đơn vị cơ sở thuộc Bộ Chỉ huy
quân sự thành phố Đà Nẵng
1.1.1. Đội ngũ cán bộ đơn vị cơ sở thuộc Bộ Chỉ huy quân sự
thành phố Đà Nẵng
* Quan niệm về đội ngũ cán bộ đơn vị cơ sở thuộc Bộ Chỉ huy quân sự
thành phố Đà Nẵng.


14
Hiện nay, cùng với sự phát triển của cách mạng, đội ngũ cán bộ của

Đảng, Nhà nước, của quân đội và các đoàn thể cách mạng, các tổ chức chính
trị - xã hội của hệ thống chính trị ngày càng phát triển, quan niệm về đội ngũ
cán bộ cũng ngày càng chuẩn xác, hoàn thiện.
Từ điển CTĐ,CTCT Quân đội nhân dân Việt Nam định nghĩa cán bộ là
“người có nghiệp vụ chuyên môn làm việc trong cơ quan nhà nước (cán bộ
khoa học, cán bộ quản lý, cán bộ quân sự, cán bộ chính trị)”. Đây là những
“người có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức; phân biệt với người
không có chức vụ (trong cơ quan, tổ chức ấy)” [40, tr.36].
Trong quân đội, đội ngũ cán bộ được chia ra nhiều loại, nhiều ngành,
nhiều nhóm tuỳ theo những tiêu chí khác nhau. Trong đó, cán bộ cơ sở là
“cán bộ quân đội được bổ nhiệm các chức vụ lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, giáo
dục và rèn luyện bộ đội ở các đơn vị từ cấp cơ sở xuống cấp phân đội. Cơ
cấu cán bộ cơ sở gồm: cán bộ chỉ huy, cán bộ chính trị, cán bộ hậu cần, cán
bộ chuyên môn, kỹ thuật. Chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của cán bộ cơ sở là
trực tiếp tổ chức thực hiện thắng lợi trên thực tế các chủ trương, chính sách
của Đảng, Nhà nước, quân đội; nghị quyết của cấp uỷ và hướng dẫn, chỉ thị
của chính uỷ, chính trị viên, mệnh lệnh của người chỉ huy cấp trên trong
phạm vi, quyền hạn, chức trách, nhiệm vụ được giao.” [40, tr.42]
Theo đó, có thể hiểu đội ngũ cán bộ đơn vị cơ sở thuộc BCHQS thành
phố Đà Nẵng là một bộ phận cán bộ trong LLVT Quân khu 5, hoạt động trong
lĩnh vực QS,QPĐP, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ các cấp trực tiếp
quản lý, bao gồm các cán bộ giữ chức vụ lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, cán bộ
làm công tác chuyên môn về chính trị, quân sự, hậu cần, kỹ thuật.
Hiện nay, cơ cấu của đội ngũ cán bộ đơn vị cơ sở thuộc BCHQS thành
phố Đà Nẵng đã có sự mở rộng, đa dạng hơn, không chỉ là những sĩ quan mà
còn bao gồm cả quân nhân chuyên nghiệp và công chức quốc phòng bao gồm


15
các loại cán bộ: Cán bộ quân sự, cán bộ chính trị, cán bộ hậu cần, kỹ thuật,

cán bộ chuyên môn nghiệp vụ. Trong mỗi loại cán bộ được phân ra theo các
ngành, nhóm ngành phù hợp với cương vị công tác và lĩnh vực, ngành nghề hoạt
động (cán bộ chỉ huy, lãnh đạo, quản lý, cán bộ nghiệp vụ, giảng viên... )
Đội ngũ cán bộ chỉ huy các cấp chịu trách nhiệm trước cấp uỷ, người chỉ
huy cấp trên và cấp uỷ cấp mình về mọi hoạt động của cơ quan; đơn vị, trực tiếp
chỉ huy, quản lý mọi mặt của cơ quan, đơn vị theo phạm vi chức trách được giao.
Đội ngũ cán bộ chính trị, trong đó có đội ngũ chính uỷ, chính trị viên
các cấp và các trợ lý có chức năng tham mưu cho đảng uỷ, chỉ huy về các
nội dung hoạt động CTĐ,CTCT; trực tiếp chỉ đạo và tổ chức hoạt động CTĐ,
CTCT trong cơ quan, các đơn vị LLVT thuộc quyền; trực tiếp và phối hợp với
các cấp, các ngành ở địa phương thực hiện tốt chính sách xã hội và chính sách
hậu phương quân đội ở địa phương, cũng như các nhiệm vụ khác được giao.
Đội ngũ cán bộ quân sự (bao gồm đội ngũ phó chỉ huy, trưởng, phó
ban, trợ lý), là những người tham mưu cho đảng uỷ, chỉ huy và tiến hành các
nhiệm vụ về huấn luyện; xây dựng cơ quan, xây dựng LLVT vũ trang địa
phương vững mạnh; xây dựng, hoạt động tác chiến của khu vực phòng thủ.
Đội ngũ cán bộ hậu cần, kỹ thuật là những người trực tiếp tham mưu
cho đảng uỷ, chỉ huy về các mặt hoạt động bảo đảm hậu cần, kỹ thuật, tài
chính cho mọi hoạt động thường xuyên cũng như đột xuất của cơ quan; phối
hợp chỉ đạo các cấp các ngành của thành phố trong xây dựng kế hoạch bảo
đảm hậu cần, kỹ thuật cho nhiệm vụ QS,QPĐP, sẵn sàng hoàn thành tốt các
nhiệm vụ khác được giao.
Hiện tại, các đơn vị cơ sở thuộc BCHQS thành phố có đội ngũ cán bộ
hoạt động bao gồm: 4 phòng (Tham mưu, Chính trị, Hậu cần, Kỹ thuật); 8
quận, huyện (Hải Châu, Thanh Khê, Liên Chiểu, Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn,
Cẩm Lệ, Hoà Vang và huyện đảo Hoàng Sa, riêng huyện đảo Hoàng Sa chỉ có


16
,khung hành chính, giám đốc sở nội vụ là chủ tịch huyện); 1Trung đoàn 971,

1Trường Quân sự, 1 tiểu đoàn Tăng và 3 đại đội Binh chủng (công binh,
thông tin, trinh sát).
Từ cách tiếp cận trên, có thể quan niệm: Đội ngũ cán bộ đơn vị cơ sở
thuộc BCHQS thành phố Đà Nẵng là những cán bộ của Đảng hoạt động
trong lĩnh vực quân sự - quốc phòng thuộc biên chế của BCHQS thành phố
Đà Nẵng, trực tiếp tổ chức thực hiện nhiệm vụ theo chức trách được phân
công dưới sự lãnh đạo, quản lý của Đảng uỷ, Bộ Tư lệnh Quân khu 5; Thành
uỷ, UBND thành phố, sự lãnh đạo, quản lý trực tiếp của Đảng uỷ quân sự,
BCHQS thành phố, của cấp uỷ, tổ chức đảng cùng cấp.
* Vai trò đội ngũ cán bộ đơn vị cơ sở thuộc Bộ Chỉ huy quân sự thành
phố Đà Nẵng.
Thứ nhất, là đội ngũ góp phần quan trọng trong quán triệt và tổ chức
thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước,
đặc biệt là đường lối nhiệm vụ chính trị, quân sự của Đảng ở địa phương.
Khi nói về vai trò của đội ngũ cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
“Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” [25, tr.256], “Muôn việc thành công hoặc
thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém” [25, tr.240]. Người chỉ rõ cán bộ là những
người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân hiểu rõ và thi
hành. Đối với công tác QS, QPĐP đội ngũ cán bộ ở các đơn vị cơ sở thuộc
BCHQS thành phố Đà Nẵng là lực lượng quán triệt và cụ thể hoá đường lối quan
điểm, tư tưởng, nhiệm vụ chính trị, quân sự của Đảng; trực tiếp tổ chức, chỉ đạo,
chỉ huy xây dựng LLVT địa phương làm lực lượng nòng cốt cho phong trào toàn
dân đánh giặc trên địa bàn đảm nhiệm. Hiệp đồng chặt chẽ và chủ trì phối hợp
với các cơ quan, đoàn thể ở thành phố thực hiện tốt công tác QS,QPĐP. Động
viên tinh thần yêu nước và quyết tâm chiến đấu bảo vệ Tổ quốc của nhân dân
trên địa bàn; củng cố thế trận QPTD gắn với thế trận an ninh nhân dân trong
thành phố; xây dựng niềm tin của nhân dân với Đảng, chính quyền, từ đó phát


17

huy cao độ sức mạnh của nhân dân và các LLVT nhằm thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ bảo vệ thành phố, bảo vệ Tổ quốc XHCN trong tình hình mới.
Thứ hai, là lực lượng nòng cốt xây dựng các tổ chức TSVM, góp phần
quan trọng xây dựng cơ quan, đơn vị VMTD.
Xây dựng BCHQS thành phố VMTD đủ sức làm tham mưu cho cấp uỷ,
chính quyền địa phương về công tác QS,QPĐP đáp ứng yêu cầu lãnh đạo chỉ
huy, xây dựng LLVT địa phương vững mạnh là một trong những nội dung lớn
của công tác QS,QPĐP là trách nhiệm của mọi tổ chức, mọi lực lượng, nhưng
chủ yếu và trực tiếp là trách nhiệm của đội ngũ cán cơ sở bộ thuộc BCHQS
thành phố Đà Nẵng. Vai trò, trách nhiệm của họ trước hết thể hiện ở việc
nghiên cứu, nắm chắc yêu cầu công tác QS,QPĐP và tình hình mọi mặt ở địa
phương để đề xuất với Đảng uỷ quân sự thành phố và cơ quan cấp trên các
chủ trương, biện pháp xây dựng, kiện toàn các tổ chức trong cơ quan bảo đảm
có số lượng đủ, chất lượng cao, cơ cấu hợp lý, có khả năng thực hiện chức
năng, nhiệm vụ. Khi có nghị quyết của Đảng uỷ quân sự cấp trên, cấp uỷ địa
phương cùng cấp, nghị quyết của cấp uỷ, tổ chức đảng cấp mình, sự hướng
dẫn, chỉ đạo của cơ quan chức năng Quân khu, của Thành uỷ, UBND thành
phố, đội ngũ cán bộ có trách nhiệm triển khai, hướng dẫn thực hiện trong cơ
quan, đơn vị và phối hợp với các ban chức năng của cấp uỷ địa phương triển
khai hướng dẫn các ban ngành, đoàn thể địa phương thường xuyên theo dõi
nắm chắc tình hình, kịp thời phát hiện những vấn đề mới, báo cáo với Đảng
uỷ quân sự và cấp uỷ địa phương hoàn thiện chủ trương, biện pháp lãnh đạo
củng cố kiện toàn xây dựng cơ quan VMTD.
Thứ ba, là lực lượng quan trọng trong xây dựng LLVT thành phố
vững mạnh.
Lực lượng vũ trang thành phố Đà Nẵng là lực lượng nòng cốt cho phong
trào toàn dân đánh giặc ở địa phương, cùng với Công an nhân dân và các lực
lượng khác trên thành phố xây dựng thế trận nền QPTD, gắn với xây dựng thế



18
trận an ninh nhân dân vững mạnh, phòng chống “DBHB”, bạo loạn lật đổ và các
âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an
toàn xã hội ở thành phố. Đồng thời trực tiếp nghiên cứu nắm vững tình hình mọi
mặt việc xây dựng LLVT của thành phố để tham mưu cho Đảng uỷ Quân sự ra
nghị quyết lãnh đạo kịp thời, sát yêu cầu thực tiễn, bảo đảm đúng đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy định của cấp trên.
Sau khi có nghị quyết của Đảng uỷ, đội ngũ cán bộ chủ động xây dựng
kế hoạch, hướng dẫn, kiểm tra LLVT thành phố hoạt động đúng chức năng,
nhiệm vụ được giao. Kết hợp chặt chẽ xây dựng LLVT thành phố với nhiệm
vụ lao động sản xuất, công tác, thực hiện tốt các khâu quản lý, phân loại thanh
niên đến tuổi thực hiện nghĩa vụ quân sự, tuyển giao quân, đăng ký, quản lý
và sắp xếp lực lượng dự bị động viên, hướng dẫn cơ sở thực hiện quy trình
lựa chọn, kết nạp dân quân, tự vệ. Thường xuyên chăm lo xây dựng LLVT
thành phố về mọi mặt và thực hiện tốt nhiệm vụ huấn luyện, diễn tập theo quy
định. Đồng thời, chủ động phối hợp hiệp đồng và phát huy vai trò, trách
nhiệm của toàn dân tham gia xây dựng LLVT thành phố, thực hiện tốt chính
sách quốc phòng, hậu phương quân đội và tiến hành các mặt công tác góp
phần xây dựng LLVT đáp ứng yêu cầu công tác QS, QPĐP và các nhiệm vụ
chính trị trên địa bàn thành phố.
* Đặc điểm của đội ngũ cán bộ đơn vị cơ sở thuộc Bộ chỉ huy quân sự
thành phố Đà Nẵng.
Là bộ phận trong đội ngũ cán bộ quân đội hoạt động trong LLVT địa
phương, ngoài những đặc điểm chung, đội ngũ cán bộ ở các đơn vị cơ sở
thuộc BCHQS thành phố Đà Nẵng còn có những đặc điểm riêng đó là:
Số lượng không ổn định, thường xuyên biến động, vừa thừa, vừa thiếu,
số thừa không bù được cho số thiếu.
Số lượng cán bộ trong các đơn vị cơ sở thuộc BCHQS thành phố Đà



19
Nẵng về cơ bản biên chế theo quy định của Bộ Quốc phòng đối với các cơ
quan quân sự địa phương trong cả nước. Song, do vị trí địa - chính trị đặc
thù nên yêu cầu nhiệm vụ và cường độ công tác cũng như biên chế số
lượng cán bộ ở các đơn vị cơ sở thuộc BCHQS thành phố Đà Nẵng có
những nét khác biệt. Là địa bàn vừa nằm sát biển vừa mở rộng về phía tây
là vùng núi, các đơn vị cơ sở thuộc BCHQS thành phố phải thường xuyên
đối phó, phòng chống thiên tai, giải quyết điểm nóng, diễn tập khu vực
phòng thủ, xây dựng cơ sở địa bàn thành khu vực phòng thủ vững chắc.
Trong những năm qua, đội ngũ cán bộ ở các đơn vị cơ sở thuộc BCHQS
thành phố thường xuyên biến động do đi học các trường (cử đi đào tạo, bồi
dưỡng 151 đồng chí), thuộc diện cán bộ qua chiến đấu các thời kỳ nghỉ hưu
và sắp nghỉ hưu chiếm 13,6% so với tổng số; một số đồng chí sau khi đi
học đã chuyển công tác ra các đơn vị trên địa bàn Quân khu 5. Vì thế, số
lượng đội ngũ cán bộ ở các đơn vị cơ sở thuộc BCHQS thành phố Đà Nẵng
vốn đã thiếu lại càng gặp khó khăn do không ổn định. Hiện tại biên chế lực
lượng cán bộ thường trực chỉ đạt 92,13% so với yêu cầu, trên thực tế số cán
bộ thiếu 24 đồng chí [09, tr.4]. Đặc điểm này đòi hỏi quá trình bồi dưỡng
YTCT cho đội ngũ cán bộ phải bám sát yêu cầu nhiệm vụ và tình hình
thực tiễn của thành phố để tiến hành có hiệu quả.
Chất lượng đội ngũ cán bộ đơn vị cơ sở thuộc BCHQS thành phố Đà
Nẵng không đồng đều cả về trình độ năng lực, kinh nghiệm và phương
pháp, tác phong công tác.
Do yêu cầu, tính chất nhiệm vụ công tác và nhiều lý do khác nhau nên
đội ngũ cán bộ ở các đơn vị cơ sở thuộc BCHQS thành phố Đà Nẵng được
bổ sung từ nhiều nguồn. Chủ yếu được điều động từ các đơn vị chủ lực và
các cơ quan trong và ngoài Quân khu 5. Riêng đội ngũ cán bộ trẻ, mặc dù


20

100% được đào tạo qua trường, nhưng chỉ có hơn 25% là được đào tạo cơ
bản, số còn lại chủ yếu từ nguồn trung đội trưởng 801 chuyển sang đào tạo
cao đẳng. Đội ngũ này tuy có kiến thức toàn diện, song trình độ nhận thức
về công tác QS, QPĐP và các lĩnh vực khác như kinh tế, văn hoá, xã hội,
dân tộc, tôn giáo ở địa phương còn nhiều bất cập. Nhìn chung, đa số cán bộ
trẻ, hoặc mới ở các đơn vị khác chuyển về chưa quen việc nên còn lúng
túng, bị động trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ. Cùng với trình độ nhận
thức là các yếu tố về kinh nghiệm, phương pháp, tác phong công tác của đội
ngũ cán bộ cũng không đồng đều trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Số cán
bộ lâu năm, có nhiều kinh nghiệm thường có bản lĩnh chính trị vững vàng,
vận dụng tốt kiến thức được trang bị vào xử lý nhanh chóng, có hiệu quả cao
khi thực hiện các nội dung, nhiệm vụ công tác QS,QPĐP, tuy nhiên đội ngũ
này ngày càng giảm, chưa thể bổ sung, thay thế kịp.
Do đó, quá trình bồi dưỡng YTCT cho đội ngũ cán bộ ở các đơn vị
cơ sở thuộc BCHQS thành phố Đà Nẵng phải rất chú ý tới đặc thù của công
tác, địa bàn hoạt động, điều kiện, yêu cầu nhiệm vụ chính trị của từng
quận, huyện và đơn vị cũng như đặc điểm các thế hệ cán bộ trong thành
phố.
Cơ cấu đội ngũ cán bộ đơn vị cơ sở thuộc BCHQS thành phố Đà
Nẵng, đa dạng về ngành nghề và chuyên môn quân sự, tuổi quân, tuổi đời
cao; phần lớn là người địa phương; nguồn bổ sung tại chỗ hạn hẹp.
Do yêu cầu, tính chất nhiệm vụ công tác và diện bố trí cán bộ, nên đội ngũ
cán bộ ở các đơn vị cơ sở thuộc BCHQS thành phố Đà Nẵng gồm các nhóm
như: Cán bộ quân sự, cán bộ chính trị, cán bộ hậu cần, kỹ thuật; có cán bộ chủ
trì, chỉ huy quản lý cơ quan; cán bộ chỉ huy, quản lý các ban của cơ quan; cán bộ
là trợ lý, bao gồm trợ lý và trợ lý chủ chốt. Đội ngũ cán bộ ở các đơn vị cơ sở
thuộc BCHQS thành phố Đà Nẵng hầu hết là sỹ quan, cấp bậc từ thiếu uý đến


21

đại tá (số có quân hàm đại tá thuộc diện chính sách); đồng thời cũng có số cán bộ
là quân nhân chuyên nghiệp thuộc diện cán bộ quản lý.
Về học vấn và cơ cấu rất đa dạng: Có cả trình độ cử nhân đại học, cử nhân
cao đẳng và phổ thông trung học. Độ tuổi cũng không đồng đều nhất là đội ngũ
trợ lý, hầu hết đã đến tuổi nghỉ theo Luật sỹ quan hiện hành và đã hết trần quân
hàm. Số cán bộ ở độ tuổi trên 45 chiếm 37,3%; độ tuổi từ 40-45 chiếm 35,2%
[41]. Hầu hết đội ngũ cán bộ ở đây là người của địa phương và sống gần gia
đình. Nguồn bổ sung trực tiếp tại chỗ hạn hẹp do số lượng cán bộ cơ quan ít, các
đơn vị trực thuộc nhỏ, khó tạo nguồn. Đặc điểm này tạo cho đội ngũ cán bộ có
kinh nghiệm, điều kiện nắm vững tình hình địa bàn, sâu sát cơ sở; song cũng dễ
xuất hiện tình trạng cục bộ địa phương, sự chi phối của gia đình, kinh nghiệm
thuần tuý trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, chức trách. Do vậy, đòi hỏi quá
trình bồi dưỡng YTCT cho đội ngũ cán bộ ở các đơn vị cơ sở thuộc BCHQS
thành phố Đà Nẵng phải có sự phân loại đối tượng cụ thể, xác định nội dung,
hình thức cho sát hợp với đặc điểm tâm, sinh lý và trình độ văn hoá của từng đối
tượng.
Đội ngũ cán bộ đơn vị cơ sở thuộc BCHQS thành phố Đà Nẵng
đảm nhiệm nhiều công việc trên nhiều lĩnh vực và giải quyết nhiều mối
quan hệ với nhiều đối tượng khác nhau.
Do số lượng cán bộ có hạn, địa bàn hoạt động rộng, nhiều đầu mối và
do đặc thù của công tác quân QS,QPĐP nên đội ngũ cán bộ ở các đơn vị cơ sở
thuộc BCHQS thành phố Đà Nẵng ngoài chức năng chuyên môn của mình
phải kiêm nhiệm nhiều việc và phụ trách nhiều cơ sở địa bàn, trong đó có
những địa bàn khá rộng, xa trung tâm thành phố, đời sống còn khó khăn như
một số xã phía tây huyện Hoà Vang hay một số phường của quận Sơn Trà.
Quá trình thực hiện nhiệm vụ phải đảm nhiệm nhiều công việc khác nhau ở
nhiều phạm vi: vừa phải tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền địa phương về


22

công tác quân sự, quốc phòng; lãnh đạo, chỉ đạo mọi hoạt động của cơ quan
và các đơn vị cơ sở thuộc quyền; vừa phải thực hiện các nhiệm vụ do cấp uỷ,
chính quyền địa phương giao cho; đồng thời phải kiêm nhiệm nhiều chức
danh khác trong các lĩnh vực hoạt động của địa phương.
Đối tượng tác động của công tác QS,QPĐP rất đa dạng, phong phú,
gồm cả LLVT và nhân dân, với mọi tầng lớp, lứa tuổi, tôn giáo, dân tộc ở
nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau. Quá trình thực hiện nhiệm vụ, đội
ngũ cán bộ ở các đơn vị cơ sở thuộc BCHQS thành phố Đà Nẵng đồng
thời phải giải quyết nhiều mối quan hệ, với nhiều đối tượng khác nhau.
Quan hệ với cấp uỷ, chính quyền địa phương, quan hệ ngành dọc với cơ
quan quân sự cấp trên, quan hệ với các cơ quan, đơn vị liên quan trực tiếp
ở địa bàn (Công an, Biên phòng)... Do đó, để bồi dưỡng YTCT cho đội
ngũ cán bộ ở BCHQS có hiệu quả cần làm tốt công tác phối kết hợp, tạo
sức mạnh đồng bộ trong các lực lượng, các tổ chức, cơ quan trong toàn
thành phố.
1.1.2. Ý thức chính trị của đội ngũ cán bộ đơn vị cơ sở thuộc Bộ Chỉ
huy quân sự thành phố Đà Nẵng
* Quan niệm về ý thức chính trị của đội ngũ cán bộ đơn vị cơ sở thuộc
BCHQS thành phố Đà Nẵng.
Ý thức chính trị là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh các quan hệ
kinh tế, chính trị, xã hội giữa các giai cấp, các dân tộc và các quốc gia, cũng
như thái độ của các giai cấp đối với quyền lực nhà nước. Trong xã hội có giai
cấp, YTCT của một cộng đồng xã hội, một nhóm xã hội bị quy định bởi
YTCT của giai cấp; đồng thời YTCT luôn gắn với vị trí, vai trò, quyền lợi,
nghĩa vụ của họ trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội.
Ý thức chính trị là hệ tư tưởng, quan điểm, lý luận chính trị của giai
cấp về việc giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước vào việc thực hiện


23

mục tiêu lý tưởng của giai cấp; mục tiêu, lý tưởng chính trị, các quan hệ
chính trị; mục tiêu và con đường xây dựng bảo vệ Tổ quốc theo lý tưởng
của giai cấp cầm quyền.
Ý thức chính trị có vai trò định hướng chính trị, tạo cơ sở hình thành và
phát triển các phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và các phẩm chất chiến
đấu của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Đối với lực lượng vũ
trang, vấn đề xây dựng và bồi dưỡng YTCT là một trong những yêu cầu mang
tính nguyên tắc bảo đảm cho lực lượng vũ trang tuyệt đối trung thành với
Đảng, Tổ quốc, nhân dân và chế độ, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn
nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.
Từ những luận giải trên, có thể hiểu: YTCT của đội ngũ cán bộ ở
các đơn vị cơ sở thuộc BCHQS thành phố Đà Nẵng là nhận thức, tình
cảm, niềm tin của họ đối với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, Cương lĩnh chính trị, đường lối, chiến lược, sách lược của Đảng;
chính sách, pháp luật của Nhà nước; nhiệm vụ cách mạng của quân đội
và đơn vị; là thái độ nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao, góp
phần xây dựng đơn vị VMTD.
Cấu trúc YTCT của đội ngũ cán bộ đơn vị cơ sở thuộc BCHQS thành
phố Đà Nẵng bao gồm: Nhận thức chính trị, tình cảm và niềm tin chính trị,
ý chí, thái độ và trạng thái chính trị, tinh thần của xã hội và cá nhân. Trong
đó nhận thức, tình cảm, niềm tin và thái độ chính trị là những thành tố cơ
bản, cốt lõi nhất của YTCT.
Nhận thức chính trị: là những hiểu biết các vấn đề về chính trị - xã hội
của đội ngũ cán bộ về mục tiêu, lý tưởng của cách mạng; hệ tư tưởng chính
trị; các quan hệ chính trị. Nhận thức chính trị còn biểu hiện ở khả năng vận
dụng các kiến thức chính trị vào giải quyết các vấn đề chính trị - xã hội của
đội ngũ cán bộ. Nhận thức chính trị gồm hai cấp độ, đó là nhận thức chính trị


24

thực tiễn - thông thường và nhận thức chính trị lý luận - hệ tư tưởng.
Nhận thức chính trị thực tiễn - thông thường là sự phản ánh trực tiếp
những vấn đề chính trị - xã hội có liên quan tác động hàng ngày vào đội ngũ
cán bộ, qua đó hình thành ở họ những hiểu biết chính trị ở trình độ kinh
nghiệm thực tiễn thông thường. Nhận thức chính trị lý luận - hệ tư tưởng là sự
phản ánh những vấn đề chính trị - xã hội đạt tới trình độ lý luận khoa học.
Nhận thức chính trị lý luận của đội ngũ cán bộ được hình thành trên cơ
sở học tập, tiếp thu lý luận chính trị, hệ tư tưởng giai cấp; đồng thời còn là kết
quả của quá trình hoạt động thực tiễn phong phú, sinh động của bản thân họ.
Con đường hình thành nhận thức chính trị của đội ngũ cán bộ ở các
đơn vị cơ sở thuộc BCHQS thành phố Đà Nẵng là quá trình biện chứng đi từ
thấp đến cao, từ chưa đầy đủ đến ngày càng đầy đủ, đúng đắn hơn. Con
đường ngắn nhất để hình thành YTCT là thông qua học tập lý luận chính trị.
Song, YTCT đó chỉ thực sự bền vững khi được trải qua thực tiễn, được thực
tiễn kiểm nghiệm và trở thành niềm tin, động lực của mỗi cán bộ. Đây là
một đặc trưng hết sức quan trọng của quá trình hình thành, phát triển YTCT
của đội ngũ cán bộ ở các đơn vị cơ sở thuộc BCHQS thành phố Đà Nẵng.
Tình cảm chính trị là trạng thái yêu, ghét biểu hiện sự đồng tình hay
phản đối trước các vấn đề chính trị - xã hội diễn ra trong đời sống. Tình cảm
chính trị của đội ngũ cán bộ ở các đơn vị cơ sở thuộc BCHQS thành phố Đà
Nẵng hình thành trên cơ sở nhận thức sâu sắc mục tiêu, lý tưởng của giai cấp
công nhân, thông qua quá trình hoạt động thực tiễn. Tình cảm chính trị gắn
liền với đặc điểm nhân cách của mỗi cán bộ.
Tình cảm chính trị do nhận thức chính trị chi phối, quyết định, song
nó tác động mạnh mẽ trở lại thúc đẩy sự vận động, biến đổi nhận thức
chính trị và hành vi chính trị. Khi đã hình thành tình cảm chính trị sâu sắc
sẽ thôi thúc mạnh mẽ người cán bộ học tập, nghiên cứu, sáng tạo trong


25

những lĩnh vực mà họ tham gia. Sự hình thành tình cảm chính trị còn góp
phần củng cố ý chí chính trị ngày càng bền vững hơn. Vì vậy, bồi dưỡng
tình cảm chính trị là nội dung quan trọng trong hoạt động lãnh đạo, tiến
hành công tác tư tưởng của chủ thể bồi dưỡng YTCT ở các đơn vị cơ sở
thuộc BCHQS thành phố Đà Nẵng.
Niềm tin chính trị là sự tin tưởng sâu sắc vào mục tiêu, lý tưởng giai
cấp thể hiện trong sự nhận thức, hành động thực hiện đường lối, sách lược
đấu tranh bảo vệ lợi ích giai cấp. Niềm tin chính trị của đội ngũ cán bộ ở các
đơn vị cơ sở thuộc BCHQS thành phố Đà Nẵng được biểu hiện ở sự tin tưởng
vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, chế độ, tin vào sự tất thắng của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; vào sức
mạnh và khả năng hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ vững chắc Tổ quốc
của quân đội; vào sức mạnh của nhân dân, vào tình đồng chí đồng đội và kết
quả hoàn thành nhiệm vụ của họ.
Niềm tin chính trị được hình thành và phát triển trên cơ sở không
ngừng củng cố những tri thức chính trị, bồi dưỡng tình cảm chính trị trong
quá trình học tập, công tác và rèn luyện. Khi đã có niềm tin chính trị sâu sắc,
người cán bộ sẽ có sức đề kháng cao hơn, khả năng tự miễn dịch mạnh hơn,
khó tự diễn biến hơn trước mọi âm mưu chống phá nham hiểm của kẻ thù.
Ý chí và thái độ chính trị là ý thức tự giác, quyết tâm, là suy nghĩ và
hành động theo một khuynh hướng nào đó trước một sự kiện chính trị, vấn đề
chính trị xảy ra trong xã hội, trong quân đội hoặc vấn đề chính trị liên quan
đến quyền lợi, nghĩa vụ của Tổ quốc, giai cấp, chế độ và bản thân. Đối với đội
ngũ cán bộ ở các đơn vị cơ sở thuộc BCHQS thành phố Đà Nẵng, ý chí và
thái độ chính trị biểu hiện qua tinh thần trách nhiệm và những kết quả cụ thể
trong quá trình hoạt động thực tiễn học tập, rèn luyện, huấn luyện đơn vị và
thực hiện chức trách, nhiệm vụ mà bản thân họ đảm nhiệm.
Các thành tố của YTCT có mối quan hệ biện chứng với nhau nhưng vị



×