ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------------
TRẦN THỊ CƢƠNG
CHẤT LƢỢNG GIÁO DỤC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
CHO CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP TỈNH
Ở HẢI DƢƠNG
LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa Xã hội Khoa học
Hà Nội - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------------
TRẦN THỊ CƢƠNG
CHẤT LƢỢNG GIÁO DỤC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
CHO CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP TỈNH
Ở HẢI DƢƠNG
LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa Xã hội Khoa học
Mã số: 60 22 03 08
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Đức Bách
Hà Nội - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của PGS,TS Nguyễn Đức Bách. Các số liệu trong luận văn là
chính xác, tôi xin chịu mọi trách nhiệm trước nhà trường và pháp luật nếu
phát hiện đây là công trình nghiên cứu của người khác.
Hà Nội, ngày
tháng năm 2014
Học viên
Trần Thị Cƣơng
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng trân trọng và biết ơn sâu sắc tới PGS. TS Nguyễn
Đức Bách - Người đã hướng dẫn tận tình và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn
Thạc sỹ này. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong khoa Triết –
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc Gia Hà Nội
cùng các thầy cô bộ môn thuộc Chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội Khoa học đã
giảng dạy, cung cấp cho tôi những kiến để tôi hoàn thành luận văn Thạc sỹ
này trong điều kiện tốt nhất.
Hà Nội, ngày
tháng năm 2014
Học viên
Trần Thị Cƣơng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài ....................................... 3
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn....................................................... 6
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn. .................................. 6
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn ..................... 7
6. Những đóng góp của luận văn ................................................................ 7
7. Ý nghĩa của luận văn ............................................................................... 8
8. Kết cấu của luận văn................................................................................ 8
NỘI DUNG....................................................................................................... 9
Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIÁO DỤC LÝ
LUẬN CHÍNH TRỊ ĐỐI VỚI ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP
TỈNH ................................................................................................................. 9
1.1 Quan niệm về “lý luận chính trị” và “giáo dục lý luận chính trị” .... 9
1.1.1 Quan niệm về “ lý luận chính trị”.................................................. 9
1.1.2 Quan niệm về “chất lượng giáo dục lý luận chính trị” ............. 14
1.2 Quan niệm về đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh quản lý và chất lƣợng giáo
dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt do cấp tỉnh quản lý ............ 27
1.2.1 Quan niêm về “đội ngũ cán bộ chủ chốt do cấp tỉnh quản lý” .. 28
1.2.2 Quan niệm về chất lượng giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán
bộ chủ chốt do cấp tỉnh quản lý ................................................................. 33
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG, PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ
YẾU NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG GIÁO DỤC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT DO CẤP TỈNH QUẢN LÝ Ở
HẢI DƢƠNG TRONG THỜI GIAN TỚI .................................................. 38
2.1 Khái quát về tỉnh Hải Dƣơng và đội ngũ cán bộ chủ chốt do cấp
tỉnh quản lý ở Hải Dƣơng ......................................................................... 38
2.1.1 Khái quát một số đặc thù của tỉnh Hải Dương ............................. 38
2.1.2 Đội ngũ cán bộ chủ chốt do cấp tỉnh quản lý và cơ sơ vật chất cho
công tác giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh
quản lý ở Hải Dương ............................................................................... 40
2.2 Thực trạng chất lƣợng giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp tỉnh quản lý ở Hải Dƣơng .................................................. 44
2.2.1 Nhiệm vụ trọng yếu của công tác giáo dục lý luận chính trị cho
đội ngũ cán bộ chủ chốt do cấp tỉnh quản lý ở Hải Dương .................. 44
2.2.2 Thực trạng chất lượng giáo dục chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ
chốt do cấp tỉnh quản lý ở Hải Dương ................................................... 51
2.2.3 Một số vấn đề đặt ra trong công tác giáo dục lý luận chính trị cho
đội ngũ cán bộ chủ chốt do cấp tỉnh quản lý ở Hải Dương .................. 60
2.3 Phƣơng hƣớng và những giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục nâng cao
chất lƣợng giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt do
cấp tỉnh quản lý ở Hải Dƣơng trong thời gian tới. ................................. 63
2.3.1 Phương hướng ................................................................................ 63
2.3.2 Những giải pháp chủ yếu ............................................................... 65
KẾT LUẬN .................................................................................................... 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 75
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ là
vấn đề có tính thời sự và cấp bách, nhất là giai đoạn hiện nay, thời kỳ cả nước
đang đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, mở rộng hội nhập
quốc tế đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là thời kỳ chúng ta có nhiều cơ hội tiếp cận
những tri thức mới, tiếp tục đổi mới tư duy đúng đắn hơn, trong đó có tư duy lý
luận chính trị. Chúng ta từng bước nâng cao hơn nữa công tác giáo dục lý luận
chính trị cho phù hợp với tình hình mới.
Thứ nhất, công tác tư tưởng, lý luận là bộ phận hữu cơ trong toàn bộ
công tác xây dựng Đảng để bảo đảm Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng
và tổ chức, làm cho Đảng thực sự tiêu biểu về bản lĩnh, đạo đức, trí tuệ của
giai cấp công nhân và của dân tộc, có đủ năng lực đề ra đường lối, chiến
lược, sách lược đúng đắn, sáng tạo, đưa cách mạng Việt Nam vững bước
đi lên.
Quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mở rộng hội nhập
quốc tế vừa là thời cơ vừa là thách thức, khó khăn mới đối với công tác giáo
dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt. Bên cạnh nhiều cán bộ chủ
chốt có phẩm chất, năng lực làm công tác lãnh đạo hiện nay, cũng có một bộ
phận không nhỏ đã suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, như Nghị
Quyết Trung ương 4 khóa XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ. Vì vậy
việc nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ
chốt góp phần làm trong, sạch bộ máy lãnh đạo, quản lý các cấp ở nước ta.
Thứ Hai, thực tiễn phong phú sinh động của cách mạng Việt Nam cho
chúng ta nhiều bài học lớn về công tác tư tưởng, lý luận. Đó là bài học phải
tập trung xây dựng Đảng về chính trị, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
kiên định những nguyên tắc cơ bản của Đảng, luôn luôn chủ động, tích cực
1
tiến công trên mặt trận tư tưởng, lý luận. Kết hợp chặt chẽ công tác tư tưởng
với công tác tổ chức, công tác kiểm tra, bài học phát huy sức mạnh tổng hợp
của công tác tư tưởng, lý luận. v.v. Những kinh nghiệm quý báu đó cần được
vận dụng và phát huy mạnh mẽ trong điều kiện mới.
Thứ ba, hiện nay công tác giáo dục lý luận chính trị đang đứng trước
những thuận lợi mới, đồng thời phải đối mặt với những khó khăn thách thức
to lớn, cục diện chính trị thế giới thay đổi, chủ nghĩa tư bản hiện đại đang tìm
cách chi phối đời sống chính trị, kinh tế thế giới. Các thế lực thù địch tiếp tục
đẩy mạnh "diễn biến hòa bình" kết hợp bạo loạn lật đổ với những thủ đoạn và
biện pháp vừa trắng trợn vừa tinh vi, thâm hiểm trên tất cả các lĩnh vực chính
trị, kinh tế, tư tưởng, văn hóa, xã hội... mưu toan xóa bỏ sự lãnh đạo của
Đảng, xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Các phần tử phản động lợi dụng
tôn giáo ráo riết hoạt động phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, kích động biểu tình
chống đối, gây mất ổn định chính trị.
Thứ ba, cơ chế thị trường một mặt làm cho mỗi con người trong xã hội
tích cực, năng động, nhạy bén hơn, mặt khác nó cũng kích thích tâm lý cá
nhân chỉ quan tâm đến lợi ích vật chất đơn thuần, coi nhẹ giá trị tinh thần, chỉ
coi trọng lợi ích cá nhân cục bộ bản vị, quan tâm lợi ích nhất thời, trước mắt,
coi nhẹ lợi ích cơ bản, lâu dài.
Thứ tư, đất nước mở cửa, thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa các
quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực trong bối cảnh
toàn cầu hóa kinh tế diễn ra mạnh mẽ. Hội nhập kinh tế, giao lưu văn hóa là
quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh rất quyết liệt, vừa có mặt tích cực, vừa có
mặt tiêu cực không thể xem thường. Những quan điểm chính trị phản động,
có điều kiện xâm nhập vào nước ta nếu không có những giải pháp phòng
ngừa, sẽ làm băng hoại các giá trị đạo đức, gây tổn thương bản sắc văn hóa
dân tộc, mất ổn định chính trị.
2
Thứ năm, bên cạnh những chuyển biến tích cực đáng mừng, vẫn còn
những biểu hiện rất đáng lo ngại là niềm tin của không ít người vào lý tưởng
cao đẹp, vào sự tất thắng của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội … bị giảm
sút, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không
nhỏ cán bộ, Đảng viên, trong đó có cả cán bộ trung, cao cấp chưa được khắc
phục. Thái độ thờ ơ về chính trị, bàng quan trước thời cuộc có xu hướng lan
rộng. Các hoạt động tâm linh, mê tín dị đoan, các tệ nạn xã hội khác đang rộ
lên ở nhiều nơi và đang bị lợi dụng như là một mũi tiến công vào các vấn đề
lý luận chính trị hiện nay.
Trong thực trạng trên, vấn đề chất lượng giáo dục lý luận chính trị cho
đôi ngũ cán bô chủ chốt là vấn đề cần quan tâm giải quyết hàng đầu, trước hết
là đội ngũ cán bộ chủ chốt, trong đó có cấp tỉnh - thành, nếu họ có được nhận
thức lý luận chính trị đúng đắn và kiên định thì họ mới có thể vừa làm gương,
vừa có khả năng tuyên truyền, thuyết phục cán bộ, Đảng viên cấp thấp hơn và
quần chúng tin tưởng và tham gia vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc
xã hội chủ nghĩa của chúng ta.
Để góp một phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng giáo dục lý luận
chính trị cho cán bộ, Đảng viên, cho dù chỉ giới hạn trong một tỉnh, chúng tôi
chọn đề tài “Chất lượng giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp tỉnh ở Hải Dương” làm luận văn Thạc sỹ chuyên ngành chủ nghĩa xã
hội khoa học.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản
Việt Nam chỉ rõ: Mọi cán bộ Đảng viên, trước hết là cán bộ chủ chốt, phải có
kế hoạch thường xuyên học tập, nâng cao trình độ lý luận chính trị, kiến thức
và năng lực hoạt động thực tiễn. Quy định số 54 – QĐ/TW ngày 12/5/1999
của Bộ Chính trị khóa VIII về chế độ học tập lý luận chính trị trong Đảng ghi
rõ: Đảng viên là cán bộ lãnh đạo chủ chốt phải học xong chương trình trung
3
học chính trị tại các Trường chính trị tỉnh, thành phố. Bên cạnh đó một số
những đề tài nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận văn, ví dụ như;
- Đổi mới giáo dục lý luận cho cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị
cấp xã các tỉnh Nam Bộ, (2003), Lê Hạnh Thông, Luận án Tiến sĩ Triết học,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ quản lý doanh
nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay (1998), Trần Thị Yến Ninh, Luận văn
Thạc sỹ Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
- Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ giảng dạy lý luận MácLênin ở các Trường Chính trị Tỉnh (2001), Luận án Tiến sĩ, Học Viện Chính
Trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở
tỉnh Hưng Yên trong giai đoạn hiện nay, (2004) Nguyễn Hồng Lê, Luận văn
Thạc sĩ Triết học.
- Xây dựng Đảng về tư tưởng chính trị, (1999), GS. Nguyễn Đức Bình,
Tạp chí Đảng Cộng Sản
- Tạo bước chuyển biến mới trong việc học tập lý luận chính trị của
cán bộ Đảng viên, (1999), PGS.TS Nguyễn Phú Trọng; Tạp chí Cộng Sản.
- Tích cực đổi mới nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
phục vụ sự nghiệp cách mạng (2009), PGS.TS Nguyễn Hữu Cát, Tạp chí Lý
luận Chính trị.
- Nhận thức đúng đắn về CNXH là định hướng quan trọng trong công
cuộc đổi mới ở Việt Nam (2004) PGS.TS Nguyễn Đức Bách; Tạp chí
Lý luận Chính trị.
- Về một số biểu hiện tự diễn biến trong nội bộ ta cần đề phòng và khắc
phục (2004), PGS.TS.Nguyễn Đức Bách, Tạp chí Tuyên Giáo số 11/2011.
- Về nhận thức, bổ sung, phát triển các luận điểm trong chủ nghĩa xã
hội khoa học, (2007) PGS.TS Nguyễn Đức Bách, Tạp chí Lý luận Chính trị.
4
- Nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục lý luận
chính trị trong tình hình mới, (2004), Nguyễn Khoa Điềm, Tạp chí Lý luận
Chính trị
- Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh đối với việc giáo dục đội ngũ cán
bộ Đảng viên hiện nay (2004), Hoàng Trang và Phạm Ngọc Anh đồng chủ
biên, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo
cấp cơ sở ở Trường Chính trị Tỉnh (2005), Trần Ngọc Uẩn, Tạp chí Lịch sử
Đảng
- Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (2001), Nguyễn Phú Trọng,
Nxb Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
- Sách kỷ yếu Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác tư tưởng, lý luận,
(2008), NXB, Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia.
- Đổi mới hoạt động kiểm tra trong quản lý chuyên môn đối với các
Trung tâm Bồi dưỡng lý luận chính trị cấp huyện tỉnh Hải Dương (2011),
Nguyễn Mạnh Thắng, Tạp chí tuyên giáo, phòng giáo dục lý luận chính trị
tỉnh Hải Dương
- Trong các công trình nghiên cứu, những vấn đề đã đề cập tới đã triển
khai chỉ đáp ứng được phần nào đó, còn việc thực chất chúng ta phát triển đi
sâu về các cấp, các cán bộ lãnh đạo chủ chốt thì còn chưa đáp ứng được yêu
cầu. Hiện nay, vấn đề suy thoái đạo đức của đội ngũ cán bộ chủ chốt đang là
vấn đề thời sự mà gần đây nhất là Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI đã đề
cập tới và chúng ta đang tiến hành triển khai sâu rộng từ Trung ương đến địa
phương và nhất là chưa có đề tài nào đề cập đến vấn đề, thực trạng chất lượng
giáo dục lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh Dải Dương quản lý
Trong thực trạng đó, đề tài Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành chủ nghĩa
xã hội khoa học mà chúng tôi lựa chọn có ý nghĩa cấp thiết về mặt lý luận và
5
thực tiễn, chúng tôi mong được đóng góp nhỏ bé vào việc nâng cao chất
lượng giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt do cấp tỉnh quản
lý ở Hải Dương trong những năm tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1 Mục định
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề về nhận thức lý luận và khảo sát thực
trạng chất lượng giáo dục lý luận chính trị đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt do
cấp tỉnh quản lý ở Hải Dương, đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ
yếu nhằm nâng cao chất lượng công tác giáo dục lý luận chính trị ở Hải
Dương trong thời gian tới.
3.2 Nhiệm vụ
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về “lý luận chính trị”, “giáo dục lý luận
chính trị”, “đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh”, “nâng cao chất lượng giáo dục
lý luận chính trị”.và những tiêu chí đánh giá về chất lượng giáo dục lý luận
chính trị
- Khảo sát, đánh giá, nhận định khái quát về thực trạng chất lượng giáo
dục lý luận chính trị đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt do cấp tỉnh quản lý ở Hải
Dương và những vấn đề đặt ra của việc giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ
cán bộ chủ chốt tỉnh quản lý ở Hải Dương khoảng 10 năm qua.
- Đề xuất phương hướng và những nhóm giải pháp chủ yếu nhằm nâng
cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt do cấp
tỉnh quản lý ở Hải Dương trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn.
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Nhận thức về giáo dục lý luận chính trị và quá trình nâng cao chất lượng
giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt do cấp tỉnh quản lý trong
tình hình hiện nay.
6
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Xét về khách thể nghiên cứu, luận văn chủ yếu khảo sát về thực trạng
quá trình nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị chủ yếu là cho số
lượng cán bộ chủ chốt do cấp tỉnh quản lý ở tỉnh Hải Dương do Trường Chính
trị Tỉnh giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng (không bao gồm một số cán bộ được cử
đi đào tạo ở cấp Trung ương và do cấp Trung ương quản lý). Xét về khoảng
thời gian nghiên cứu thực tiễn, luận văn chỉ tập trung khảo sát chủ yếu trong
vòng 10 năm qua và hiện nay. (Từ đại hội IX đến đại hội XI của Đảng ta)
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1 Cơ sở lý luận
Đề tài dựa trên quan điểm Mác – Lênin, Hồ Chí Minh và Đảng Cộng
sản Việt Nam về “lý luận chính trị”, “giáo dục lý luận chính trị”,
Cơ sở thực tiễn: Đề tài dựa trên tình hình giáo dục lý luận chính trị tỉnh
Hải Dương, thông qua các báo cáo, số liệu của các cơ quan có thẩm quyền.
Bên cạnh đó đề tài dựa trên sự kế thừa, sử dụng kết quả của các đề tài trước.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Vận dụng ý nghĩa phương pháp luận khoa học của
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử (lịch sử cụ thể; lịch sử - lôgic, toàn
diện, vận động và phát triển…).
- Luận văn còn sử dụng tổng hợp các phương pháp phân tích - tổng hợp,
phương pháp hệ thống, thống kê, so sánh, phương pháp điều tra xã hội học…
6. Những đóng góp của luận văn
- Làm rõ một số nội dung cơ bản của các “khái niệm công cụ” liên quan
đến đề tài: “Lý luận chính trị”, “ giáo dục lý luận chính trị”, “ nâng cao chất
lượng giáo dục lý luận chính trị”,“đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh”.
- Trên cơ sở khảo sát, nhận định khái quát về chất lượng giáo dục lý
luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt do cấp tỉnh quản lý ở Hải Dương
hiện nay mà đề xuất phương hướng và nhóm giải pháp nhằm nâng cao chất
7
lượng giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp do cấp tỉnh
quản lý ở Hải Dương những năm tới.
7. Ý nghĩa của luận văn
- Luận văn góp phần nâng cao nhận thức và năng lực tổ chức thực tiễn
trước hết và trực tiếp nhất là cho những cơ quan và những người làm công
tác giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt do cấp tỉnh quản lý
ở Hải Dương nói riêng và cũng đóng góp một phần cho cả đất nước ta nói
chung.
- Luận văn là tài liệu tham khảo cần thiết cho việc nghiên cứu lý luận, nhất
là cho chuyên ngành chủ nghĩa xã hội trên cả nước ta.
8. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm có phần mở đầu, phần nội dung gồm có 2 chương với 5
tiết, phần kết luận, phần danh mục tài liệu tham khảo và một số phụ lục khác..
8
NỘI DUNG
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
GIÁO DỤC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ ĐỐI VỚI ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP TỈNH
1.1 Quan niệm về “lý luận chính trị” và “giáo dục lý luận chính trị”
1.1.1 Quan niệm về “ lý luận chính trị”
Thứ nhất, quan niệm về lý luận. Để làm rõ quan niệm về “lý luận
chính trị” trước hết chúng ta tìm hiểu quan niệm về “lý luận”. Từ những góc
độ khác nhau, phương diện khác nhau đến những quan niệm khác nhau.
Chúng ta biết đến với những cụm từ như : Lý luận văn học, lý luận nghệ
thuật, lý luận tôn giáo… Theo yếu cầu của sự phát triển khách quan và không
ngừng của cuộc sống con người, mọi lĩnh vực đều phải có cơ sở khoa học lý
giải và soi sáng.
Dưới góc độ khoa học triết học có thể quan niệm “lý luận” là một hệ
thống những tri thức khoa học được khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn phản
ánh những mối quan hệ bản chất, tất nhiên mang tính quy luật của sự vật, hiện
tượng trong thế giới khách quan và được biểu đạt bằng hệ thống những khái
niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật…
Lý luận, với tư cách là một khoa học, có tính khái quát cao, thể hiện
bản chất sự vật, hiện tượng và do vậy lý luận khoa học bao giờ cũng có tính
hệ thống. Xuất hiện trên cơ sở của hoạt động thực tiễn, lý luận quay trở lại chỉ
đạo hoạt động thực tiễn và là cơ sở lý luận cho hoạt động thực tiễn. Vậy cơ sở
của lý luận chính là thực tiễn.
Về vai trò, tác dụng của lý luận đối với một Đảng Cộng sản, V. I. Lênin
đã có luận điểm cơ bản, có giá trị phổ biến và lâu dài rằng: “Không có lý luận
cách mạng thì không có phong trào cách mạng” và “Nếu không có một lý
9
luận tiên phong dẫn đường thì một Đảng vô sản không thể làm tròn vai trò
của một chiến sỹ tiên phong”. [43, 241]
Như chúng ta đã quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, rằng: Lý luận mà
tách rời thực tiễn là lý luận suông và ngược lại thực tiễn không có lý luận là
thực tiễn mù quáng. Dĩ nhiên lý luận đóng vai trò tích cực thì phải là lý luận
mang giá trị có sức thuyết phục khoa học đúng đắn. Lý luận sai lầm thì sẽ dẫn
đến những sai lầm trong hoạt động của con người. Tính đúng đắn hay sai lầm
của lý luận chỉ có thể kiểm nghiệm qua thực tiễn.
Trong các bài viết, bài nói chuyện của mình, Hồ Chí Minh đề
cập rất nhiều đến vấn đề lý luận, có ý nghĩa định hướng cho công tác
tư tưởng, lý luận trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
Theo Hồ Chí Minh, "lý luận” là sự tổng kết những kinh nghiệm của
loài người, là sự tổng hợp những tri thức về tự nhiên, xã hội tích lũy lại trong
quá trình lịch sử và lý luận Mác - Lênin là sự tổng kết kinh nghiệm đấu tranh
cách mạng của giai cấp công nhân thế giới. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối
làm việc”, Hồ Chí Minh nói một cách cụ thể: "lý luận là đem thực tế
trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc đấu tranh, xem xét, so
sánh thật kỹ lưỡng, rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng
minh với thực tế” [53, 233].
Lý luận được khái quát từ những kinh nghiệm thực tiễn, nhưng lý luận
là trình độ cao hơn về chất so với kinh nghiệm. Tri thức lý luận thể hiện trong
hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật. Khác với kinh nghiệm, lý luận
mang tính trừu tượng và khái quát cao, nhờ đó, nó đem lại sự hiểu biết sâu sắc
về bản chất, tính tất nhiên, tính quy luật của các sự vật, hiện tượng khách
quan, nó thể hiện tính chân lý sâu sắc hơn, chính xác hơn, hệ thống hơn, nghĩa
là có tính bản chất sâu sắc hơn và do đó, phạm vi ứng dụng của nó cũng phổ
biến hơn, rộng hơn nhiều so với tri thức kinh nghiệm. Chính C.Mác và
10
Ph.Ăngghen cũng từng chỉ rõ: “Sự quan sát theo kinh nghiệm tự nó không
bao giờ có thể chứng minh được đầy đủ tính tất yếu và nhiệm vụ của nhận
thức lý luận là quy sự vận động bề ngoài chỉ biểu hiện trong hiện tượng về sự
vận động bên trong thực sự” [15, 343].
Thứ hai, quan niệm về chính trị. Theo thực tiễn lịch sử của nhân loại thì
chính trị chỉ xuất hiện khi xã hội tư hữu ra đời, có sự phân hoá thành các giai
cấp. Đó là những hoạt động xoay quanh vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền
lực của các giai cấp, nhất là giai cấp thống trị vì lợi ích của mình.
Phản ánh và phân tích khoa học một cách khách quan và rất đúng với
thực tiễn lịch sử nhân loại có tính quy luật như vậy, V.I. Lênin đã có một luận
điểm rất nổi tiếng và có giá trị lâu dài, cho đến khi nhân loại không còn chế
độ tư hữu - áp bức - bóc lột và giai cấp, đó là luận điểm: “Chính trị là biểu
hiện tập trung của kinh tế” [45, 149].
Chính trị theo nghĩa cụ thể hơn là hoạt động của con người trong xã hội
có nhà nước, trước hết là những hoạt động, nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền
hạn, quyền lợi…của mỗi công dân theo luật pháp, gìn giữ và điều chỉnh
những luật lệ chung mà những luật lệ này tác động trực tiếp lên cuộc sống của
những người góp phần làm ra, gìn giữ và điều chỉnh những luật lệ chung đó.
Trong bất kỳ xã hội nào thì cũng cần những luật lệ chung để hoạt động nhịp nhàng
và khoa học, tránh tình trạng vô tình hay cố ý xâm phạm quyền lợi, lợi ích, tài sản,
sức khỏe hay thậm chí tính mạng của người khác hay của cộng đồng
Thứ ba, quan niệm về lý luận chính trị. Đây môt bộ phận nằm trong các
loại lý luận khoa học của nhân loài đó là lý luận của các loại khoa học nói
chung (triết học, kinh tế học, sử học, văn học, văn hóa vv…). Mọi loại lý luận
khoa học đều thể hiện qua hệ thống các phạm trù, khái niệm cơ bản, các quy
luật và tính quy luât của mỗi khoa học đó. Nhưng, lý luận chính trị chỉ nảy
sinh khi loài người có chế độ tư hữu, các giai cấp, các Đảng Chính trị và các
Nhà nước gắn với các hệ tư tưởng của các giai cấp thống trị xã hội.
11
Vậy thực chất lý luận chính trị là loại lý luận dựa trên cơ sở một hệ tư
tưởng của môt giai cấp, nhất là giai cấp thống trị - lãnh đạo xã hội, suy cho
cùng là phản ánh quyền lực, lợi ích kinh tế của giai cấp đó. Là hệ thống
những phạm trù, khái niệm, quy luật, tính quy luật...phản ánh về các giai cấp,
các quan hệ giai cấp trong xã hội có giai cấp, phản ánh cuộc đấu tranh giai
cấp (hoặc liên minh giai cấp)...nhằm thực hiện quyền lực, vị thế và các lợi ích,
nhất là lợi ích kinh tế của các giai cấp, trong đó có một giai cấp duy nhất
thống trị (lãnh đạo) xã hội, ở một quốc gia dân tộc nhất định.
Song, một vấn đề rất cơ bản tiếp theo và đáng quan tâm nhất là quyền
lực, lợi ích cơ bản của giai cấp thống trị xã hội nào đó có thống nhất về căn
bản với quyền lực và lợi ích cơ bản của nhân dân lao đông và cả dân tộc của
mỗi quốc gia hay không? Vấn đề nầy mang bản chất và mục đích của giai cấp
thống trị...thường đã bị các giai cấp tư hữu - áp bức - bóc lột, nhất là giai cấp
tư sản che đậy. Bởi vì, quyền lực và lợi ích của các giai cấp đó về cơ bản là
không thống nhất với lợi ích của đại đa số nhân dân lao động và toàn dân tộc
trong một quốc gia.
Đối với Việt Nam (các Đảng cộng sản, các nước theo xu hướng xã hội
chủ nghĩa – cộng sản chủ nghĩa) thì “lý luận chính trị” theo học thuyết MácLênin, lập trường, quan điểm đường lối cách mạng và cương lĩnh của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và
của dân tộc Việt Nam.
Thứ tư, quan niệm về giáo dục lý luận chính trị. Trong tác phẩm
“Nhiệm vụ của Đoàn Thanh niên ...” , V.I. Lênin đã nhấn mạnh một luận
điểm nổi bật về ý nghĩa và yêu cầu chung nhất của giáo dục lý luận chính trị
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội – Chủ nghĩa Cộng sản, đó là:
“Theo một nghĩa nào đó, có thể nói rằng, nhiệm vụ xây dựng thật sự xã hội
Công sản chính là của thanh niên ....Vì vậy, tất cả thanh niên muốn đi theo
chủ nghĩa Cộng sản thì đều phải học chủ nghĩa Cộng sản” [46, 354].
12
Thậm chí, trong công tác giáo dục lý luận chính trị, V.I. Lênin còn có
một luận điểm trực tiếp nói về giáo dục, tuyên truyền, bảo về chủ nghĩa xã hội
khoa học, đó là: “Đảng Cộng sản không chỉ lãnh đạo cuộc đấu tranh kinh tế
mà cả cuộc đấu tranh chính trị, không được xao lãng một phút nào cái mục
đích cuối cùng của chúng ta, phải giáo dục, tuyên truyền, bảo vệ, tránh khỏi
mọi sự xuyên tạc và phát triển hơn nữa hệ tư tưởng của giai cấp vô sản - học
thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học, tức là chủ nghĩa Mác” [43, 336].
Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về giáo dục lý luận chính
trị luôn có ý nghĩa về mặt nhận thức và chỉ đạo thực tiễn sâu sắc đối với sự
nghiệp cách mạng Việt Nam.
Nhìn chung tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục không chỉ bó hẹp trong
việc giáo dục tri thức, học vấn cho con người, mà còn bao quát rộng rãi nhiều
mặt, nhiều lĩnh vực, trong đó có giáo dục lý luận chính trị. Những tư tưởng
đó rất sâu xa nhưng vô cùng sinh động, thiết thực, nhằm đào tạo ra những con
người toàn diện, vừa "hồng" vừa "chuyên", có tri thức, lý tưởng, đạo đức, sức
khoẻ, thẩm mỹ…
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, việc giáo dục và giáo dục lý luận chính
trị đối với hoạt động thực tiễn luôn luôn gắn bó chặt chẽ với nhau, có sự
thống nhất hữu cơ, không thể tách rời nhau.
Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy được vai trò của công tác giáo
dục lý luận chính trị từ rất sớm. Người chỉ rõ: Phải bồi dưỡng giảng viên lý
luận cho các chi bộ. Tất cả các Đảng viên phải cố gắng học tập, coi việc học
tập lý luận chính trị là nhiệm vụ quan trọng của mình, bởi Hồ Chí Minh coi
đối tượng học tập lý luận chính trị trước hết là cán bộ, Đảng viên, hội viên
chủ chốt của các đoàn thể; cán bộ các ngành chuyên môn của chính quyền,
của quần chúng nhân dân. Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng,
Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành, đồng thời cũng đem
tình hình của quần chúng báo cáo cho Đảng để đặt chính sách cho đúng. Vì
13
vậy mà Người nhấn mạnh rằng: Cán bộ là gốc của mọi công việc. Do đó,
Người khẳng định huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng. Người ví “lý
luận là trí khôn của Đảng. Đảng không có lý luận thì khác nào người không
có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam” [52, 268].
Bên cạnh đó, theo Người để nâng cao chất lượng hiệu quả công tác
giáo dục lý luận chính trị cần phải nâng cao phương pháp dạy học của người
thầy trong giáo dục lý luận chính trị. Trong bài diễn văn khai mạc lớp lý luận
khóa I Trường Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh đã quán triệt tư tưởng đối với
cán bộ đi học lý luận chính trị. Bác căn dặn: “Việc học tập lý luận Chính trị
không phải nhằm biến các đồng chí thành những người lý luận suông mà
nhằm làm thế nào cho công tác của các đồng chí được tốt hơn, nghĩa là các
đồng chí phải học tập tinh thần của chủ nghĩa Mác-Lênin để áp dụng lập
trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt những vấn đề
thực tế trong cách mạng của chúng ta. Như thế học tập lý luận cốt để áp dụng
vào thực tế” [51, 58]
Có lý luận nhưng phải đưa lý luận chính trị đó vào thực tiễn để kiểm
nghiệm thực tế. Người cán bộ giảng dạy công tác lý luận chính trị đòi hỏi phải
có một nền tảng lý luận và vốn thực tiễn phong phú để kiểm nghiệm lý luận
và nâng nhận thức lý luận lên một tầm cao mới và có như thế thì người giảng
viên mới có thể thực hiện mục tiêu giáo dục lý luận cho học viên mục đích
học để vận dụng chứ không phải học vì lý luận.
1.1.2 Quan niệm về “chất lượng giáo dục lý luận chính trị”
Thứ nhất, quan niệm về “chất lượng”. đã có khá nhiều quan niệm, định
nghĩa khác nhau về “chất lượng”. Mỗi định nghĩa và khái niệm đó nhằm
phản ánh yêu cầu, tiêu chí cho từng ngành, từng lĩnh vực hoặc các bên liên
quan. Đồng thời quan niệm, định nghĩa về “chất lượng” lại thay đổi theo thời
gian và theo sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước, mỗi địa phương, mỗi
ngành hay mỗi lĩnh vực. Vậy tựu chung lại có thể đưa ra quan điểm gần nhất,
14
chung nhất về “chất lượng” như sau: “ Chất lượng là sự đáp ứng các chuẩn
mực đề ra, là ngưỡng các yêu cầu đối với chất lượng, là đặt ra mức chuẩn với
các tiêu chí nhất định”
Thứ hai, quan niệm về chất lượng giáo dục lý luận chính trị. Từ quan
niệm về “chất lượng” như trên đã nêu, có thể đưa ra quan niệm: “chất lượng
giáo dục lý luận chính trị là sự đáp ứng được các mục tiêu, yêu cầu về chất
lượng đối với công tác giáo dục lý luận chính trị của từng địa phương, từng
quá trình cách mạng hay giai đoạn lịch sử cụ thể”. Vậy để có thể thấy các tiêu
chí, yêu cầu về chất lượng giáo dục lý luận chính trị phải dựa trên tình hình cụ
thể của từng địa phương trong giai đoạn và hoàn cảnh lịch sử cụ thể, từ đó
xây dựng lên những tiêu chí phù hợp và thực hiện cho thật tốt, đạt được
ngưỡng yêu cầu đã đề ra. Trong tình hình hiện nay về chất lượng giáo dục lý
luận chính trị được đánh giá dự trên những tiêu chí cụ thể sau:
- Trước hết phải căn cứ vào mục tiêu và yếu cầu của giáo dục lý luận
chính trị trong quá trình cách mạng hoặc trong mỗi giai đoạn lịch sử
cụ thể
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa X: Về công tác tư tưởng, lý
luận và báo chí trước yêu cầu mới, Đảng ta xác định: Công tác giáo dục lý
luận chính trị là một bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng trong toàn bộ hoạt
động của Đảng, là lĩnh vực trọng yếu để xây dựng, bồi đắp nền tảng chính trị
của chế độ, tuyên truyền, giáo dục, động viên và tổ chức nhân dân thực hiện
các nhiệm vụ cách mạng, khẳng định và nâng cao vai trò tiên phong của Đảng
về chính trị, lý luận, trí tuệ, văn hoá và đạo đức; thể hiện vai trò đi trước, mở
đường trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cũng do nhận thức được
tầm quan trọng, ý nghĩa to lớn của công tác lý luận trong công cuộc đổi mới
toàn diện đất nước hiện nay, nhất là trong xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng, tại Đại hội XI, Đảng chỉ
rõ: Tạo môi trường dân chủ thảo luận, tranh luận khoa học, khuyến khích tìm
15
tòi, sáng tạo, phát huy trí tuệ của cá nhân và tập thể trong nghiên cứu lý luận.
Khẩn trương ban hành quy chế dân chủ trong nghiên cứu lý luận Chính trị.
Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan nghiên cứu lý luận, cải tiến tổ
chức nghiên cứu lý luận phù hợp hơn với nhu cầu thực tiễn. Đồng thời, để
phát huy tốt vai trò, tác dụng của công tác tư tưởng trong tình hình mới, nhất
là đối với việc đấu tranh chống diễn biến hoà bình và tự diễn biến, trong Văn
kiện Đại hội XI, Đảng ta khẳng định: Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi
âm mưu và hoạt động diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch. Chủ động
phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hoá
trong nội bộ ta, khắc phục sự suy thoái cán bộ, Đảng viên chính trị, đạo đức,
lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, Đảng viên.
Xác định rõ ý nghĩa, tầm quan trọng, mục tiêu, của công tác giáo dục lý
luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt để họ có khả năng định hướng phát
triển kinh tế xã hội của địa phương, của các ngành, các cơ quan sao cho đạt
kết quả phát triển ngày càng cao.
Có thể khẳng định, nắm vững những đặc điểm cơ bản của công tác
tưởng, lý luận có thể vững tin hơn và điều quan trọng là, có thể giải thích và
nắm bắt được xu hướng vận động, biến đổi thường xuyên của thực tiễn xã
hội. Cũng trên cơ sở đó, thấy được vị trí, vai trò to lớn của công tác tư tưởng,
lý luận và có phương thức hoạt động phù hợp để công tác này ngày càng tác
động tích cực đến thực tiễn chính trị - xã hội cũng như mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội.
Kinh nghiệm lịch sử đã chứng minh rằng, mọi hoạt động thực tiễn có
tính chất cách mạng lớn, muốn tiến triển nhanh chóng và giành được thắng lợi
trọn vẹn, thì đều phải có tư tưởng, lý luận tiên phong so với thời kỳ đó soi
sáng, dẫn dắt. Không có tư tưởng, lý luận đúng đắn định hướng, chúng sẽ tiến
triển chậm chạp, mò mẫm, lâu đi đến thắng lợi, hoặc khi đã giành được thắng
lợi rồi, cũng không giữ thắng lợi được lâu và trở nên thất bại hay liên tục tái
16
thất bại. Công tác tư tưởng, lý luận của Đảng Cộng sản luôn luôn có vai trò
quan trọng đối với việc chỉ đạo thực tiễn, kể từ khi chưa giành được chính
quyền cho đến khi đã giành được chính quyền và thiết lập chế độ xã hội mới.
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, thực tiễn luôn luôn vận động, biến đổi,
luôn luôn tự vạch đường đi cho chính mình, song nếu không có tư tưởng, lý
luận đúng đắn, khoa học soi đường, thì sự vận động, biến đổi hay con đường
tự vạch ra của thực tiễn sẽ dễ bị chệch hướng so với mục tiêu đã xác định
đúng. Cũng vì xuất phát từ thực tiễn cách mạng, thực tiễn công tác lao động
sản xuất, học tập và chiến đấu của toàn Đảng, toàn dân mà công tác lý luận
của Đảng luôn bám sát mục tiêu, nhiệm vụ, yêu cầu mới của cách mạng, của
các quá trình hoạt động thực tiễn xã hội trong giai đoạn mới, lý luận nghiên
cứu, tổng kết về mặt thực tiễn, trên cơ sở đào sâu nghiên cứu, tổng kết lý luận,
và qua đó, góp phần bổ sung, phát triển đường lối của Đảng, đường lối đó sẽ
lại tiếp tục soi rọi thực tiễn.
- Chất lượng giáo dục lý luận chính trị thể hiện qua việc tổ chức và
quản lý tốt quá trình dạy và học lý luận chính trị.
V.I. Lênin đưa ra luận điểm: Không có lý luận cách mạng thì cũng
không có phong trào cách mạng; nêu Đảng nào được một lý luận tiên phong
dẫn đường thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong. Những
luận điểm nổi tiếng đó không chỉ những người làm công tác tư tưởng, lý luận của
Đảng Cộng sản mới biết đến, mà dường như hầu hết các Đảng viên Cộng sản làm
công tác lãnh đạo.
Công tác giáo dục lý luận chính trị có vai trò hết sức quan trọng trong
việc tạo nên sức mạnh, sự đồng thuận trong xã hội để đạt mục tiêu đã được
đặt ra. Cơ sở lý luận của tầm quan trọng này chính là ở sự độc lập tương đối,
sự tác động trở lại của nhận thức, tư tưởng và lý luận đó với thực tiễn. Đặc
biệt, xuất phát từ tầm quan trọng của tư tưởng, lý luận cách mạng đối với sự
nghiệp giải phóng giai cấp, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Cộng sản,
17
đã rất đề cao công tác lý luận, bởi nếu không phát triển được công tác lý luận
thì sẽ không tiến lên được một bước nào cả trong công tác tuyên truyền, cổ
động vì vậy mà yếu tố tổ chức và quản lý trong công tác giáo dục lý luận
chính trị là hết sức cần thiết.
Thực hiện chương trình, kế hoạch giảng dạy, thời lượng giảng dạy và
chất lượng bài giảng đối với các học viên là những cán bộ chủ chốt. Đã là
giảng viên lý luận chính trị phải có phẩm chất chính trị tốt. Phẩm chất đó thể
hiện ở sự trung thành tuyệt đối với mục tiêu và con đường xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam mà Đảng ta, dân tộc ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
lựa chọn.
Trong công tác giáo dục lý luận chính trị, người giảng viên lý luận chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới, thách thức
mới đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, khi tình hình thế giới, trong nước
đang có những diễn biến rất phức tạp, hơn lúc nào hết người giảng viên lý
luận phải có bản lĩnh chính trị vững vàng và kiên định. Kiên quyết đấu
tranh, phê phán những quan điểm sai trái, phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh.
Phẩm chất chính trị đó còn thể hiện ở việc người giảng viên lý luận
phải luôn có phẩm chất đạo đức trong sáng, mẫu mực và trung thực. Đối với
người giảng viên lý luận, đạo đức đó vừa là sự thể hiện ở bản lĩnh, vừa là ý
thức tự giác trong việc tu dưỡng và rèn luyện, giải quyết tốt các mối quan hệ
xã hội, đề cao tính tổ chức, kỷ luật, thực hiện nghiêm các quy chế, quy định
của Đảng và Nhà nước.
Cùng với ý thức tự giác rèn luyện của cá nhân, vai trò của tổ chức cũng
rất quan trọng. Như chúng ta đã biết, ý thức đạo đức được hình thành và phát
triển thông qua các hình thức giáo dục trực tiếp và giáo dục gián tiếp, thông
qua quá trình kết hợp chặt chẽ giữa chủ thể (những người có trách nhiệm) với
tự giáo dục của cá nhân, trong đó chủ thể giáo dục là điều kiện, là tiền đề cho
18
tự giáo dục. Về phía tổ chức, cần phải coi việc giáo dục nâng cao phẩm chất
chính trị, ý thức đạo đức cho đội ngũ cán bộ giảng dạy là một công việc
thường xuyên và thực hiện có hệ thống. Phải kịp thời phát hiện và xử lý
những hiện tượng tiêu cực, chú trọng công tác quản lý cán bộ, tạo mọi điều
kiện cần thiết cho cán bộ phấn đấu, tu dưỡng và rèn luyện.
Nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn của đội ngũ giảng viên có thể
coi là nhiệm vụ hàng đầu, là điều kiện có tính quyết định cho sự tồn tại và
phát triển chất lượng đào tạo giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ học viên.
Để nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn, ngoài việc nắm vững, trang bị và
cập nhật những kiến thức cơ bản, kiến thức chuyên ngành theo chiều sâu,
người giảng viên còn phải đồng thời với việc trang bị những kiến thức liên
ngành để có tầm hiểu biết rộng, đủ sức luận giải những vấn đề lý luận và thực
tiễn đang đặt ra. Mặt khác, mỗi cán bộ, giảng viên còn phải không ngừng
nâng cao bản lĩnh nghề nghiệp, phải thực sự tâm huyết trong việc nghiên cứu,
giảng dạy, phải tự vươn lên để khẳng định vị thế của mình, khắc phục mọi
biểu hiện thoả mãn, tự kiêu, thiếu tích cực, thiếu nhạy bén ...
Năng lực chuyên môn của người giảng viên còn được thể hiện bởi
phương pháp sư phạm của họ. Người giảng viên lý luận chính trị cần phải
được trang bị một cách có hệ thống những kỹ năng giảng dạy, nghiên cứu
khoa học, cách tiếp cận thực tiễn và cách thu phục các đối tượng cảm thụ kiến
thức trong việc giảng dạy lý luận chính trị.
Như vậy, người giảng viên lý luận chính trị là người không chỉ truyền
thụ kiến thức cho người học mà còn là người luôn biết khơi dậy và phát huy
trí tuệ của người học. Trong giảng dạy lý luận chính trị, nhất là đối với những
học viên là cán bộ chủ chốt, để góp phần nâng cao trình độ, năng lực chuyên
môn của đội ngũ giảng viên, về phía tổ chức, nhà trường cũng cần thiết phải
có sự đầu tư, quan tâm thoả đáng.
19