Tải bản đầy đủ (.docx) (70 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ VAI TRÒ của KINH tế tư NHÂN TRONG PHÁT TRIỂN KINH tế và CỦNG cố QUỐC PHÒNG TRÊN địa bàn TỈNH VĨNH PHÚC HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (358.35 KB, 70 trang )

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Kinh tế tư nhân là một bộ phận hợp thành của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong suốt
thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN là một trong những nội dung lớn của đường lối phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện
nay.
Trải qua hơn 16 năm thực hiện đường lối đổi mới, xây dựng đất nước, khu vực kinh tế tư
nhân đã chứng tỏ là lực lượng quan trọng của sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá và phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chính vì vậy, nó đã và đang thực sự trở thành vấn đề thu hút
sự quan tâm của các nhà quản lý và các nhà nghiên cứu trong việc đánh giá đúng vai trò, xu
hướng phát triển của kinh tế tư nhân cả trên phương diện lý luận và thực tiễn; trên cơ sở đó làm
cho kinh tế tư nhân tham gia có hiệu quả vào quá trình thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN hiện nay.
Để đáp ứng với đòi hỏi của thực tiễn, ngày 18/ 3/ 2002, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá IX đã ra Nghị quyết: " Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến
khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân”. Đây là lần đầu tiên Đảng Cộng sản
Việt Nam có Nghị quyết riêng để chỉ đạo và có các giải pháp tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân
phát triển mạnh và đúng hướng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
Với lợi thế là một tỉnh nằm kề tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng- Quảng Ninh, gần sân
bay quốc tế Nội Bài, có đường sắt Hà Nội - Lào Cai và quốc lộ số 2 chạy qua, Vĩnh Phúc đã và
đang nỗ lực phấn đấu, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế trong đó có kinh tế tư nhân phát
triển, đáp ứng nhu cầu công cuộc xây dựng kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng của tỉnh.
Song trong thực tế, nhận thức của các tầng lớp nhân dân trên địa bàn về vai trò của kinh tế
tư nhân trong sự phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng vẫn chưa có được một sự thống
nhất cao. Do vậy mà cịn khơng ít rào cản sự phát triển kinh tế tư nhân trong thực tế ở Vĩnh
Phúc. Để góp phần tạo ra sự chuyển biến mới trong nhìn nhận, đánh giá vai trò của kinh tế tư
nhân, tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay phát triển, tác giả chọn đề tài “
Vai trò của kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng trên địa bàn
tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp cao học.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài




Cho đến nay, đánh giá về vai trò của kinh tế tư nhân ở nước ta nói chung đã được Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khố IX xác định. Đồng thời cũng có
nhiều tác giả nghiên cứu vai trò của kinh tế tư nhân ở các góc độ khác nhau, cả trên phương diện
lý luận và số liệu thực tiễn. Những kết quả nghiên cứu này đã được đăng tải ở một số tạp chí
trung ương và địa phương; điển hình như: “ Kinh tế tư nhân và xu hướng phát triển của nó trong
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam” của PGS,TS Nguyễn Đình Kháng, đăng
trên tạp chí Lý luận số 4/2002; “ Mấy vấn đề lý luận từ thực tiễn phát triển kinh tế tư nhân phi
nông nghiệp” của giáo sư Đào Xuân Sâm đăng trên tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 292, tháng
9/2002;" Vai trị của kinh tế tư nhân đối với quá trình phát triển kinh tế của nước ta hiện nay",
của PGS.TS Phạm Ngọc Kiểm, đăng trên tạp chí Kinh tế và phát triển số 3/2002.v.v…
Tuy nhiên cho đến nay, việc nghiên cứu, đánh giá một cách tồn diện vai trị của kinh tế
tư nhân trong phát triển kinh tế và củng cố quốc phịng trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc thì
vẫn chưa có cơng trình khoa học nào nghiên cứu và cơng bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Mục đích của luận văn
Luận giải vai trò của kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng trên
địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay; đề xuất những giải pháp khuyến khích kinh tế tư nhân phát
triển, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng của tỉnh trong thời gian tới.
- Nhiệm vụ của luận văn
+ Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế
và củng cố quốc phòng trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay.
+ Đề xuất giải pháp tiếp tục khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển có lợi cho phát triển
kinh tế và củng cố quốc phòng trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
- Đối tượng nghiên cứu
Kinh tế tư nhân được xem xét ở khía cạnh vai trị của nó trong phát triển kinh tế và củng cố
quốc phòng trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
- Phạm vi nghiên cứu
+ Kinh tế tư nhân ở tỉnh Vĩnh Phúc.

+ Thời gian khảo sát thực trạng từ năm tái lập tỉnh (1997) cho đến nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu


- Cơ sở lý luận
Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về nền kinh tế nhiều thành phần
trong thời kỳ quá độ lên CNXH và các quan điểm về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Bên cạnh
đó, đề tài cịn dựa vào các văn kiện của Đảng uỷ, UBND tỉnh Vĩnh Phúc về những vấn đề liên
quan.
- Cơ sở thực tiễn
Tác giả đã khai thác các số liệu phản ánh sự phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Phúc được thể hiện trong các văn kiện của cấp uỷ, UBND tỉnh và một số huyện; cơ quan
quân sự tỉnh, một số huyện về những vấn đề mà luận văn quan tâm. Mặt khác, luận văn còn dựa
vào kết quả khảo sát của tác giả trong quá trình đi thực tế ở tỉnh Vĩnh Phúc tháng7/2003
- Phương pháp nghiên cứu
Ngoài những phương pháp chung trong suốt q trình nghiên cứu các mơn khoa học xã hội
và nhân văn như: chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp sử
dụng trong khoa học kinh tế, luận văn còn chú trọng phương pháp lơgíc, lịch sử, phân tích tổng
hợp, thống kê, so sánh, phỏng vấn trao đổi.v.v…
5. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác tuyên truyền
trong tỉnh; đồng thời có thể làm tư liệu tham khảo trong giảng dạy mơn Kinh tế chính trị ở các
nhà trường đào tạo của tỉnh và học viện, nhà trường trong quân đội.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 2 chương, 4 tiết, phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các
phụ lục.

Chương 1
KINH TẾ TƯ NHÂN - LỰC LƯỢNG QUAN TRỌNG TRONG PHÁT

TRIỂN KINH TẾ VÀ CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH VĨNH
PHÚC HIỆN NAY


1.1. Quan niệm về kinh tế tư nhân và sự phát triển kinh tế tư nhân trên
địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 1997- 2002
1.1.1. Quan niệm về kinh tế tư nhân
Trong di sản lý luận của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nghiên cứu rất sâu
sắc nền kinh tế dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất nhưng chưa đưa ra thuật
ngữ" kinh tế tư nhân" mà chỉ đề cập đến sở hữu tư nhân. Theo các Ông, sở hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất là cơ sở nảy sinh và tồn tại của các hình thức kinh tế tư
hữu. Điều đó đã được Ph.Ăngghen trình bày rất rõ trong tác phẩm:"Nguồn gốc của
gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước". Trong tác phẩm này, Ph.Ăngghen đã
chứng minh sự ra đời sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là kết quả phát triển lâu
dài của lực lượng sản xuất và kinh tế gia đình cá thể là loại hình kinh tế tư hữu đầu
tiên dựa trên chế độ sở hữu tư nhân ấy. Ph. Ăngghen viết:" Chế độ một vợ một
chồng là hình thức gia đình đầu tiên căn cứ vào điều kiện kinh tế, tức là thắng lợi
của sở hữu tư nhân đối với sở hữu công cộng nguyên thuỷ và tự phát" [ 1,104].
C.Mác và Ph. Ăngghen cũng đã chỉ ra rằng, sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất tồn
tại trong nhiều phương thức sản xuất khác nhau và việc xoá bỏ sở hữu tư nhân về
tư liệu sản xuất cùng các hình thức kinh tế tương ứng phải là một quá trình lâu dài,
gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Ph.Ăngghen cho rằng" Cuộc cách
mạng của giai cấp vơ sản đang có tất cả các triệu chứng là sắp nổ ra, sẽ chỉ có thể
cải tạo xã hội hiện nay một cách dần dần và chỉ khi nào tạo ra được khối lượng tư
liệu sản xuất cần thiết cho việc cải tạo đó thì khi ấy mới thủ tiêu được chế độ tư
hữu".[2, 469]. Theo đó, các hình thức kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất vẫn cịn tồn tại trong q trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH.
Kế tục và phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen trong hoàn cảnh lịch
sử mới, V.I.Lênin cho rằng: Sự tồn tại của nhiều TPKT trong thời kỳ quá độ lên
CNXH là một tất yếu, cụ thể là ở nước Nga, vẫn còn tồn tại các TPKT nơng dân

kiểu gia trưởng, sản xuất hàng hố nhỏ, chủ nghĩa tư bản tư nhân, chủ nghĩa xã hội


[22, 248]. Sự tồn tại nhiều TPKT trong thời kỳ quá độ đặt ra yêu cầu phải thực hiện
những chính sách phù hợp để khai thác tối đa nguồn lực xã hội cho cơng cuộc kiến
thiết đất nước. Chính sách kinh tế mới( NEP) do V.I.Lênin đề xướng và tổ chức
thực hiện ở nước Nga những năm 20 của thế kỷ XX đã tạo điều kiện và môi trường
phù hợp để các TPKT, trong đó có các hình thức kinh tế tư nhân phát triển đáp ứng
nhu cầu của công cuộc khôi phục kinh tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga
lúc bấy giờ. Theo V.I. Lênin, sự tồn tại của nhiều TPKT trong thời kỳ quá độ lên
CNXH không phải là đặc điểm riêng của nước Nga.
Như vậy, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin tuy chưa đưa ra thật
ngữ" kinh tế tư nhân" nhưng họ đã khẳng định sự tồn tại khách quan của sở hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất và của các hình thức kinh tế dựa trên chế độ tư hữu. Các
hình thức kinh tế này đã tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất và tiếp tục còn
tồn tại trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Do vậy, cần phải đánh giá đúng vị trí, vai
trị của kinh tế tư nhân để từ đó có chính sách sử dụng, khuyến kích nó phát triển
phục vụ cho cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN ở nước ta. Đó cũng
chính là cơ sở lý luận quan trọng để khẳng định sự tồn tại của kinh tế tư nhân trong
thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta nói chung, ở tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng.
Hiện nay trên thế giới, khái niệm kinh tế tư nhân được sử dụng rộng rãi trong
cụm từ " khu vực kinh tế tư nhân ". Theo thông lệ của thống kê quốc tế, nền kinh tế
của các quốc gia thường được chia thành 2 khu vực: khu vực kinh tế nhà nước và
khu vực kinh tế tư nhân. Khu vực kinh tế nhà nước bao gồm toàn bộ kết quả hoạt
động kinh tế của các đơn vị thuộc sở hữu nhà nước hoặc các doanh nghiệp mà Nhà
nước nắm trên 50% cổ phần. Số còn lại thuộc khu vực kinh tế tư nhân. Như vậy, nội
dung của kinh tế tư nhân rất rộng cả về hình thức sở hữu và ngành nghề mà các chủ
thể đó tham gia vào sản xuất, kinh doanh.
Nghiên cứu các chính sách phát triển kinh tế của Trung Quốc có thể thấy,
nhận thức về vị trí, vai trị của kinh tế tư nhân ở Trung Quốc trong từng thời kỳ có



sự khác nhau nên sự phát triển của kinh tế tư nhân ở nước này cũng có nhiều giai
đoạn thăng trầm. Theo nghiên cứu của hai tác giả là: PGS,TS Diêu Dương thuộc
trung tâm kinh tế thế giới - Đại học Bắc Kinh và Hạ Tiểu Viên, nghiên cứu viên Sở
nghiên cứu thể chế quản lý kinh tế thuộc Văn phòng cải cách thể chế Quốc Vụ
Viện Trung Quốc [14], thì trong 25 năm gần đây, các chính sách của Đảng cộng
sản Trung Quốc đối với kinh tế tư nhân thường xuyên được hoàn thiện. Theo sự
nghiên cứu của hai tác giả, giai đoạn 1978 - 1987, là giai đoạn khôi phục kinh tế tư
nhân ở Trung Quốc, lúc đầu doanh nghiệp tư nhân khơng được cơng nhận mà chỉ
có hộ kinh doanh cá thể được phép hoạt động và có vị trí bổ xung cho khu vực
kinh tế nhà nước. Trong bài phát biểu nhân dịp kỷ niệm lần thứ 30 ngày quốc
khánh nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, ông Diệp Kiếm Anh đã tuyên bố
rằng:" Kinh tế cá thể ở thành thị và nông thôn là thành phần kinh tế gắn liền và bổ
xung cho nhà nước xã hội chủ nghĩa ". Tháng 8/1980, Đảng cộng sản Trung Quốc
đã chỉ rõ:" Hiến pháp đã qui định rõ ràng mọi cá thể có thể tiến hành các hoạt động
kinh doanh hợp pháp mà khơng mang tính chất bóc lột; những hoạt động đó là một
thành phần bổ xung không thể thiếu được cho kinh tế nhà nước xã hội chủ nghĩa và
chúng tiếp tục có những đóng góp đáng kể trong giai đoạn sắp tới. Vì vậy, thành
phần kinh tế này cần được khuyến khích phát triển. Các cơ quan hữu quan cần nỗ
lực hỗ trợ kinh tế cá thể và khơng được có hành vi cản trở hoặc phân biệt đối xử".
Tháng 7/1981, Quốc Vụ Viện Trung Quốc đã ban hành một số chính sách liên quan
đến kinh tế cá thể phi nông nghiệp, quy định phạm vi hoạt động, đối tượng được
phép hoạt động, quy mô sử dụng đất đai, nguồn cung ứng nguyên vật liệu, xác định
giá cả, tài chính, thuế, bảo vệ tài sản cũng như địa vị xã hội, cụ thể là:
- Về phạm vi hoạt động: Hộ cá thể được phép hoạt động trong các lĩnh vực
như: thủ công nghiệp, bán lẻ, dịch vụ, cung cấp thực phẩm, sửa chữa và các hoạt
động giao thơng khơng có động cơ. Trong bản bổ xung sau đó có thêm các lĩnh vực



hoạt động giao thơng có động cơ, bán xỉ một số sản phẩm nông nghiệp và sản
phẩm công nghiệp.
- Đối tượng được phép hoạt động phải là những người không hoạt động trong
lĩnh vực nơng nghiệp, chưa có việc làm và cán bộ nghỉ hưu.
- Quy mơ: Nhìn chung chỉ được phép hoạt động ở quy mơ gia đình nhưng
khơng được th q 5 cơng nhân.
- Đất đai: Chính quyền địa phương tạo điều kiện cho những đối tượng được
phép hoạt động dưới hình thức mượn hoặc thuê.
- Về cung ứng vật liệu và giá cả: Nguồn cung ứng có thể từ phía nhà nước
hoặc trên thị trường; nếu sử dụng đầu vào khơng do nhà nước cung ứng, thì sản
phẩm có thể bán theo giá thị trường.
- Tài chính: Đối tượng được phép hoạt động có thể mở tài khoản hoặc vay
ngân hàng, có thể xin miễn thuế trong trường hợp kinh doanh khó khăn.
- Bảo vệ tài sản và địa vị xã hội: Nhà nước bảo vệ thu nhập và tài sản hợp
pháp của cá thể; họ có đủ quyền như cơng dân bình thường.
Từ năm 1988, khái niệm " kinh tế tư nhân" đã chính thức có mặt trong các
Văn kiện của nhà nước Trung Quốc. Tháng 4/1988 Đại hội đại biểu nhân dân tồn
quốc đã thơng qua Hiến pháp sửa đổi, mà điều 11 của Hiến pháp đã khẳng định: "
Nhà nước Trung Quốc cho phép kinh tế tư nhân được tồn tại và phát triển trong
phạm vi luật pháp quy định. Kinh tế tư nhân là một thành phần bổ xung cho kinh tế
nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước bảo vệ những quyền và thu nhập hợp pháp
của Doanh nghiệp tư nhân và có sự hướng dẫn, giám sát, điều chỉnh đối với kinh tế
tư nhân ". Tháng 6/1988, Hội đồng nhà nước đã có quy định tạm thời về Doanh
nghiệp tư nhân, trong đó xác định: Doanh nghiệp tư nhân là một tổ chức hoạt động
vì lợi nhuận, do tư nhân sở hữu và thuê 8 công nhân trở lên. Bản Hiến pháp sửa đổi
3/1999 cũng đã khẳng định:" Kinh tế tư nhân và kinh tế cá thể là những thành phần


quan trọng trong nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc ". Thừa
nhận tầm quan trọng của kinh tế tư nhân và khuyến khích kinh tế tư nhân phát

triển, Nhà nước Trung Quốc tuyên bố bảo đảm những tài sản và thu nhập hợp pháp
của khu vực kinh tế tư nhân.
Theo nghiên cứu của PGS, TS Đỗ Hoài Nam, Viện kinh tế học - Trung tâm
khoa học xã hội nhân văn quốc gia thì: " Nhà nước Trung Quốc thực hiện chính
sách đối xử bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp, khơng phân biệt thuộc cơng
hữu hay phi cơng hữu, nhằm khuyến khích sự phát triển lành mạnh của các doanh
nghiệp. Trung Quốc rất quan tâm đến việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, ban hành
luật bảo vệ quyền tư hữu, kiện tồn các chính sách kinh tế vĩ mô để tạo lập môi
trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp " [24, 60]. Theo khuyến cáo
mới nhất của Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Hồ Cẩm Đào thì tại Hội
nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc vào tháng 10/2003
tới sẽ thảo luận sửa đổi Hiến pháp; trong đó điều 13 của Hiến pháp hiện hành sẽ dự
định sửa ý "bảo đảm quyền sở hữu tài sản" thành "bảo đảm sở hữu tư nhân". Điều
đó gắn liền với những đánh giá mới về vai trò của kinh tế tư nhân. Như vậy, trong
các văn bản pháp quy ở Trung Quốc thời kỳ này, kinh tế tư nhân đã được quan
niệm là một thành phần kinh tế trong nền kinh tế nhiều thành phần của thời kỳ quá
độ. Tuy nhiên trong thực tế ở Trung Quốc hiện nay, khái niệm kinh tế tư nhân còn
được hiểu rất khác nhau. Hai tác giả: Diêu Dương và Hạ Tiểu Viên [14] cho rằng
hiện nay ở Trung Quốc, 5 định nghĩa sau đây được sử dụng để nói đến kinh tế tư
nhân:
1. Khu vực phi nhà nước: Bao gồm tất cả các đối tượng không thuộc sở hữu
của nhà nước trong lĩnh vực công nghiệp cũng như nông nghiệp. Định nghĩa này
bao hàm cả khu vực kinh tế dựa trên sở hữu tập thể.
2. Khu vực phi nhà nước, phi nông nghiệp: Bao gồm các đối tượng không
thuộc sở hữu nhà nước nhưng loại trừ lĩnh vực nông nghiệp. Định nghĩa này chỉ


hẹp hơn định nghĩa thứ nhất về lĩnh vực kinh doanh, nhưng vẫn bao gồm cả kinh tế
tập thể.
3. Khu vực kinh tế tư nhân: Bao gồm những đối tượng không thuộc sở hữu

nhà nước nhưng loại trừ doanh nghiệp tập thể. Định nghĩa này dựa trên sự phân
loại rõ hình thức sở hữu, nhưng khơng loại trừ hình thức sở hữu của tư nhân nước
ngoài.
4. Khu vực kinh tế tư nhân trong nước: Bao gồm các đối tượng không thuộc
sở hữu nhà nước nhưng loại trừ những doanh nghiệp có vốn đầu tư của nước ngồi.
Định nghĩa này khắc phục được hạn chế của định nghĩa thứ 3, nhưng không khác
mấy định nghĩa thứ nhất.
5. Doanh nghiệp tư nhân: Bao gồm những đối tượng không thuộc sở hữu nhà
nước nhưng loại trừ những hộ cá thể (doanh nghiệp có ít hơn 8 công nhân) hay gọi
là hộ công thương cá thể. Định nghĩa này chỉ bảo vệ loại hình doanh nghiệp mà
không trực tiếp đi vào luận bàn khái niệm kinh tế tư nhân và còn lẫn với doanh
nghiệp tập thể.
Sự tồn tại nhiều định nghĩa khác nhau về kinh tế tư nhân nói trên chứng tỏ
việc đưa ra một định nghĩa hoàn chỉnh về kinh tế tư nhân khơng phải là dễ, do tính
phức tạp của chính các đơn vị kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân trong nền kinh tế
nhiều thành phần đang còn vận động phức tạp. Tuy nhiên hiện nay ở Trung Quốc
đã có sự phân biệt rất rõ kinh tế hộ cá thể và doanh nghiệp tư nhân với ranh giới ấn
định là 8 công nhân. Đây là điều khác với nước ta. Đồng thời ở Trung Quốc cũng
đã có bộ luật hồn chỉnh cho cả doanh nghiệp cá thể, doanh nghiệp tư nhân, công
ty hợp doanh, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần làm cơ sở pháp lý cho
sự phát triển của kinh tế tư nhân.
Ở nước ta, cho đến trước khi có Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khoá IX về kinh tế tư nhân thì sự bàn luận về khái niệm


kinh tế tư nhân khá rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên các diễn
đàn khoa học và chưa có được sự thống nhất. Khái niệm kinh tế tư nhân lúc thì
được đặt trong cụm từ "Khu vực kinh tế tư nhân" lúc được dùng với cụm từ
"Thành phần kinh tế tư nhân". Ngay trong các Niên giám thống kê hiện nay (của
quốc gia hoặc các địa phương) cũng thường sử dụng hai cách phân loại:

Một là, chia toàn bộ nền kinh tế thành hai khu vực: 1, khu vực kinh tế trong
nước bao gồm: Kinh tế nhà nước trung ương, kinh tế nhà nước địa phương và kinh
tế ngoài nhà nước; và 2, khu vực kinh tế có vốn đầu tư của nước ngồi. Cách chia
thứ nhất đem gộp tất cả các thành phần kinh tế ngồi nhà nước vào một cụm,
khơng phân biệt hình thức sở hữu cụ thể.
Hai là, chia theo thành phần kinh tế cụ thể như: kinh tế nhà nước, kinh tế tập
thể, kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể; kinh tế hỗn hợp, kinh tế có vốn đầu tư của nước
ngoài. Cách thứ hai này xem kinh tế tư nhân là một TPKT và không bao gồm kinh
tế cá thể, tiểu chủ.
Tháng 4/2001, Tổng cục thống kê lần đầu tiên tiến hành điều tra trên quy mơ
tương đối tồn diện khu vực kinh tế tư nhân và quy ước khu vực kinh tế tư nhân
với nội dung sau:
a.Về lĩnh vực sản xuất kinh doanh: Kinh tế tư nhân bao gồm những hộ gia
đình hoặc Doanh nghiệp tư nhân tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh
doanh phi nông nghiệp như công nghiệp; giao thông vận tải; xây dựng; chế biến
nông lâm sản; thương mại; dịch vụ; du lịch.
b.Về mô hình thức tổ chức: Kinh tế tư nhân gồm các hộ kinh doanh cá thể và
các Doanh nghiệp tư nhân (Doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn,
Công ty cổ phần, Công ty hợp doanh).
Việc quy ước của Tổng cục thống kê về lĩnh vực sản xuất kinh doanh của
kinh tế tư nhân chỉ thu hẹp vào lĩnh vực phi nông nghiệp không phải là các tác giả


của Tổng cục thống kê quan niệm kinh tế tư nhân chỉ hoạt động trong lĩnh vực
kinh tế phi nông nghiệp như định nghĩa thứ hai của các tác giả Trung Quốc, mà do
những hạn chế về khả năng tài chính và lực lượng huy động cho cuộc điều tra đã
không cho phép mở rộng việc điều tra cả các hộ kinh doanh trong lĩnh vực nông
nghiệp. Do vậy, quan niệm trên dừng lại ở sự quy ước. Tuy nhiên, việc nêu lên mơ
hình tổ chức của kinh tế tư nhân cũng đã cho thấy khá rõ quan niệm về kinh tế tư
nhân là một khu vực kinh tế, bao gồm cả kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản

tư nhân.
Trong các Văn kiện của Đảng ta, khái niệm kinh tế tư nhân cũng đã xuất hiện
trong các Văn kiện của Đại hội đại biểu Đảng lần thứ VI, VII khi xác định 5 thành
phần kinh tế của nước ta là: Kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế gia đình,
kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước. Nhưng đến các Đại hội VIII và IX của
Đảng, khái niệm này khơng được nói đến trong hệ thống các TPKT mà được xác
định cụ thể là kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân.
Trên cơ sở tổng kết 15 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước và tiếp tục
cụ thể hoá đường lối do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đề ra, Hội
nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã ra Nghị quyết "Về tiếp
tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư
nhân", trong đó đã xác định rõ quan niệm của Đảng ta về kinh tế tư nhân, vai trị,
vị trí của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và những
chủ trương giải pháp tháo gỡ cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích kinh tế tư
nhân phát triển. Đây là lần đầu tiên Đảng ta có một Nghị quyết riêng lãnh đạo việc
phát triển kinh tế tư nhân trong công cuộc xây dựng CNXH. Sự ra đời của Nghị
quyết Trung ương 5 đã giải quyết một cách cơ bản về những nhận thức, đánh giá
về kinh tế tư nhân và các giải pháp tạo điều kiện để kinh tế tư nhân phát triển, đóng
góp thiết thực vào thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược trong thời kỳ mới.


Trước hết, về khái niệm kinh tế tư nhân, Nghị quyết Trung ương 5 đã nêu rõ:
"Kinh tế tư nhân bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân hoạt
động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp của tư
nhân đã phát triển rộng khắp trong cả nước"[16, 55]. Theo đó, khái niệm kinh tế tư
nhân được sử dụng với tư cách là một khu vực kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về
tư liệu sản xuất, hoạt động dưới các hình thức tổ chức kinh doanh như: Doanh
nghiệp tư nhân, Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty hợp doanh,
các hộ kinh doanh cá thể. Các Doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp của các tổ chức
chính trị - xã hội khi chuyển đổi thành Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần

sẽ không nằm trong khu vực kinh tế tư nhân. Như vậy, theo Nghị quyết Trung ương
5, kinh tế tư nhân không phải là một thành phần kinh tế, mà là phạm trù chỉ nhóm
TPKT bao gồm hai TPKT là kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân,
trong đó kinh tế tư bản tư nhân là TPKT hoạt động gắn liền với bóc lột giá trị thặng
dư.
Trong thời gian qua cũng đã tồn tại quan niệm coi kinh tế tư nhân là một
TPKT. Điều đó đã dẫn tới sự đồng nhất giữa kinh tế cá thể, tiểu chủ với kinh tế tư
bản tư nhân; đánh đồng bản chất của hai thành phần kinh tế này, xố nhồ ranh
giới giữa bóc lột và khơng bóc lột. Đó là quan điểm khơng khoa học. Cần phải thấy
rằng, mặc dù kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân đều dựa trên sở hữu
tư nhân, nhưng là hai TPKT khác nhau về bản chất của quan hệ sản xuất. Tuy
nhiên cũng cần thấy rằng, kinh tế tư bản tư nhân trong hệ thống kinh tế thị trường
định hướng XHCN, có những đặc điểm khác với kinh tế tư bản tư nhân trong hệ
thống kinh tế TBCN. Trong hệ thống kinh tế thị trường định hướng XHCN những
tư liệu sản xuất chủ yếu thuộc sở hữu toàn dân; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo và các TPKT đều chịu sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN thì những
hiện tượng tiêu cực của kinh tế tư bản tư nhân như: bóc lột quá mức, cạnh tranh
không lành mạnh sẽ từng bước được khắc phục; quan hệ giữa người chủ doanh


nghiệp với người lao động sẽ được điều chỉnh bởi pháp luật của Nhà nước XHCN
nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Hiện nay việc xác định các tiêu chí phân biệt kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế
tư bản tư nhân ở nước ta vẫn còn đang trong giai đoạn nghiên cứu. Đảng ta cho
rằng: "Thực tế đến nay ở nước ta chưa xác định được tiêu chí thế nào là kinh tế cá
thể, tiểu chủ, thế nào là kinh tế tư bản tư nhân nên cũng chưa thể phân định rõ ranh
giới hai thành phần kinh tế này" [17, 42]. Ở thời điểm hiện nay, nhiều nhà nghiên
cứu kinh tế của ta cho rằng, phân biệt rạch ròi các thành phần kinh tế cá thể, tiểu
chủ và tư bản tư nhân cịn khó khăn; nếu khơng thận trọng trong xử lý vấn đề này
thì có thể tạo nên những rào cản việc huy động các nguồn lực xã hội vào phát triển

sản xuất kinh doanh. Do vậy, xét về mặt kinh tế việc phân định rạch ròi thành phần
kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân trong điều kiện hiện nay là chưa
cần thiết mà cứ để chung chúng vào khái niệm kinh tế tư nhân là đủ. Trong thực
tiễn việc chủ sở hữu tư nhân lựa chọn mơ hình tổ chức sản xuất, kinh doanh nào để
thực hiện kinh doanh theo khuôn khổ của pháp luật là quyền của họ. Nếu quy mơ
sở hữu nhỏ, người chủ sở hữu có thể lựa chọn loại hình hộ kinh doanh cá thể (đăng
ký kinh doanh theo tinh thần Nghị định 66 của HĐBT); nếu quy mơ sở hữu lớn
hơn, thì có thể lựa chọn loại hình Doanh nghiệp tư nhân, hoạt động theo Luật
Doanh nghiệp; cịn nếu muốn mở rộng quy mơ kinh doanh, các chủ sở hữu sẽ liên
kết với nhau dưới hình thức Cơng ty cổ phần. Điều này hồn toàn phù hợp với sự
khẳng định của Đảng ta trên văn bản cũng như trên thực tế: các doanh nghiệp
không phân biệt các hình thức sở hữu và các TPKT đều bình đẳng trước pháp luật;
Nhà nước có trách nhiệm tạo những điều kiện thuận lợi để thúc đẩy, huy động các
nguồn lực vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước theo yêu cầu bảo đảm tăng
trưởng, ổn định và cơng bằng.
Về vai trị của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN của nước ta, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5, khoá IX


cũng đã khẳng định rằng: "Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của
nền kinh tế quốc dân, phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong
phát triển kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa" [16, 57]. Vai trị
của nó đã được khẳng định là: "Đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế, huy
động các nguồn lực xã hội vào sản xuất kinh doanh, tạo thêm việc làm, cải thiện
đời sống nhân dân, tăng ngân sách nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị xã hội của đất nước. Cùng với các thành phần kinh tế khác, sự phát triển của kinh
tế tư nhân đã góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy phân công lao động
xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố, phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng thêm số lượng công nhân
lao động và doanh nhân Việt Nam, thực hiện các chủ trương xã hội hoá y tế, văn hoá,
giáo dục".v.v… [16, 55, 56]. Như vậy, kinh tế tư nhân ở nước ta từ chỗ chỉ được

xem là tồn tại tạm thời và giới hạn trong một số lĩnh vực, ngành, nghề nhất định;
thì nay đã được Đảng, Nhà nước ta khẳng định bằng Nghị quyết về sự tồn tại lâu
dài trong suốt thời kỳ quá độ của khu vực này, không giới hạn về quy mô, địa bàn,
ngành, nghề mà luật pháp không cấm. Đây là quan điểm nhất quán của Đảng và
Nhà nước ta, bảo đảm cho mọi người trong xã hội yên tâm sản xuất kinh doanh,
mở rộng đầu tư, làm giàu cho mình và cho đất nước. Nhà nước tơn trọng và bảo
đảm quyền tự do kinh doanh theo pháp luật, bảo hộ quyền sở hữu tài sản hợp pháp
của công dân; khuyến khích, hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi và định hướng, quản lý
sự phát triển của kinh tế tư nhân theo pháp luật. Các hộ kinh doanh cá thể được
Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ để phát triển cả ở nơng thơn và thành thị;
khuyến khích các hộ liên kết hình thành các tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh
cho Doanh nghiệp nhà nước hoặc phát triển lớn hơn. Nhà nước tạo môi trường
kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý và tâm lý xã hội… để các Doanh
nghiệp tư nhân phát triển rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh
mà pháp luật khơng cấm. Nhà nước bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của người
lao động và người sử dụng lao động, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người sử


dụng lao động và người lao động trên cơ sở pháp luật và tinh thần đoàn kết, tương
thân, tương ái, chăm lo bồi dưỡng giáo dục cho các chủ doanh nghiệp nâng cao
lòng yêu nước, tự hào dân tộc, gắn bó với lợi ích của đất nước và sự nghiệp xây
dựng CNXH.
Trên cơ sở quan niệm chung của Đảng ta về phát triển kinh tế tư nhân, các
địa phương đã cụ thể hoá trong việc ban hành các quy định, cấp giấy phép kinh
doanh, tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân ở địa phương phát triển. Cho đến nay, ở
tỉnh Vĩnh Phúc mặc dù chưa có Nghị quyết riêng về phát triển kinh tế tư nhân,
nhưng vấn đề phát triển kinh tế tư nhân đã được đặt trong chủ trương phát triển
nhiều TPKT ở tỉnh. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lần thứ XIII đã
xác định: "Phải phát huy cao độ sức mạnh của toàn Đảng, tồn dân trong tỉnh, khai
thác mọi tiềm năng, trí tuệ và nguồn lực của các thành phần kinh tế, khắc phục khó

khăn yếu kém, tận dụng mọi thuận lợi và thời cơ để phát triển kinh tế - xã hội một
cách hiệu quả, vững chắc" [18, 53]. Trong thực tế, Vĩnh Phúc đã và đang có nhiều
chính sách ưu đãi, kêu gọi đầu tư và tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển,
góp phần vào giải quyết các chương trình phát triển kinh tế mà Đại hội Đảng bộ
tỉnh lần thứ XIII đề ra, quyết tâm đưa Vĩnh Phúc phát triển thành một tỉnh giàu có
và phồn vinh của cả nước.
Tóm lại: Chủ trương khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển ở tỉnh Vĩnh
Phúc nằm trong chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần trong cả nước, trên
cơ sở nhận thức đúng đắn hơn vai trò của kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế
và củng cố quốc phịng. Việc phân tích, mổ xẻ khái niệm kinh tế tư nhân xét về nội
dung, hình thức, tiêu chí phân định kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư
nhân vẫn còn được tiếp tục, nhưng những kết luận quan trọng của Hội nghị lần thứ
5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về kinh tế tư nhân là chỗ dựa tin cậy
để tác giả luận văn xem xét, đánh giá vai trò của kinh tế tư nhân đối với công cuộc
phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng hiện nay.


1.1.2. Thực trạng sự phát triển của kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh Vĩnh
Phúc thời gian 1997- 2002
Khảo sát tình hình kinh tế tư nhân ở Vĩnh Phúc có thể đánh giá một cách
khái quát sự phát triển kinh tế tư nhân kể từ khi tái lập tỉnh đến nay là phát triển
mạnh cả về số lượng và quy mơ sản xuất kinh doanh. Vị trí kinh tế tư nhân ở Vĩnh
Phúc ngày càng được khẳng định vì đã thu hút được một lực lượng lao động ngày
càng lớn hơn, giá trị tăng thêm tạo ra và mức đóng góp cho ngân sách từ khu vực
này ngày một cao hơn, sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn các doanh nghiệp nhà
nước trên địa bàn. Tuy nhiên tốc độ phát triển và năng suất lao động của kinh tế tư
nhân còn thấp, phân bố cơ cấu ngành nghề chưa hợp lý, công nghệ sản xuất lạc
hậu, chất lượng lao động thấp, lao động thủ công vẫn là chủ yếu. Điều đó hồn
tồn phù hợp với tình hình kinh tế tư nhân nói chung trên phạm vi cả nước mà
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khố IX đã nhận

định. Có thể dẫn ra tình hình cụ thể kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc
như sau:
- Số lượng các cơ sở kinh tế tư nhân tăng rất nhanh, nhất là loại hình doanh
nghiệp.
Năm 1996 (trước khi tái lập tỉnh Vĩnh Phúc) trên địa bàn có 95 doanh
nghiệp, gồm 26 Cơng ty trách nhiệm hữu hạn và 59 Doanh nghiệp tư nhân thì đến
ngày 31/12/2002 đã có 549 doanh nghiệp gồm 176 Doanh nghiệp tư nhân, 350
Công ty trách nhiệm hữu hạn và 23 Công ty cổ phần. Như vậy, sau 6 năm, số lượng
doanh nghiệp thuộc kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh đã tăng hơn 5,7 lần. Số các cơ
sở kinh doanh cá thể (chỉ xét các ngành nghề phi nông nghiệp, cũng đã tăng lên từ
21.594 cơ sở vào năm 1996 lên hơn 37 nghìn cơ sở vào thời điểm 1/7/2002, tăng
hơn 1,7 lần [10, 2-3] và [9, 1].
- Cơ cấu ngành nghề sản xuất kinh doanh đa dạng hơn trước.


Nếu năm 1999, doanh nghiệp tư nhân hoạt động ở 6 ngành kinh tế thì đến
năm 2002 đã có mặt ở 12 ngành. Phát triển mạnh nhất là ngành vận tải và ngành
dịch vụ tư vấn như: tư vấn pháp luật, tư vấn phát triển công nghệ thông tin, môi
giới kinh doanh bất động sản, giới thiệu việc làm, tham gia xuất khẩu lao động…
Những năm trước, khu vực cá thể tập trung vào các ngành thương nghiệp, sửa chữa
nay đã phát triển ở các ngành dịch vụ khác như giáo dục, y tế, văn hoá…
Về sự phân bố và cơ cấu doanh nghiệp theo ngành năm 2002 có thể tham
khảo biểu 1.1 sau đây.
Biểu 1.1. Cơ cấu doanh nghiệp phân bố theo ngành năm 2002
(100%)
Số

Ngành

Tỷ lệ %


TT
1.

Nông, lâm, thuỷ sản

1,5%

2.

Công nghiệp, xây dựng

55,9%

3.

Dịch vụ

42,6%

Nguồn: Cục thống kê Vĩnh Phúc Đánh giá tình hình phát triển kinh tế tư nhân
sau 3 năm (2000-2002) thực hiện Luật Doanh nghiệp ở Vĩnh Phúc [9, 1].
Biểu 1.1 cho thấy các doanh nghiệp tư nhân tập trung vào hai ngành chính là
cơng nghiệp, xây dựng và dịch vụ.
- Các Doanh nghiệp tư nhân đã mạnh dạn bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất
kinh doanh ở nhiều lĩnh vực.
Tại thời điểm ngày 31/12/2001 tổng vốn sản xuất kinh doanh của các Doanh
nghiệp thuộc kinh tế tư nhân là 772,8 tỷ đồng, gấp 2,2 lần so với lượng vốn mà các



doanh nghiệp đã đăng ký; bình quân thực tế một doanh nghiệp có 2.841,3 triệu
đồng vốn.
Theo kết quả điều tra vốn đầu tư phát triển năm 2000, các doanh nghiệp đã
đầu tư 418,3 tỷ đồng, gồm 305,2 tỷ đồng cho xây dựng cơ bản; 73,2 tỷ đồng bổ
xung vốn lưu động. Theo kết quả Tổng điều tra cơ sở kinh tế hành chính sự nghiệp
năm 2002 thì năm 2001, các doanh nghiệp thuộc kinh tế tư nhân thực hiện được
227,4 tỷ vốn đầu tư phát triển, trong đó có 135 tỷ đồng cho xây dựng cơ bản. Một
số doanh nghiệp đã đầu tư hàng chục tỷ đồng cho đổi mới công nghệ như Công ty
trách nhiệm hữu hạn Vĩnh Phúc, Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoa Cương [9, 2].
Riêng Công ty nhiệm hữu hạn Vĩnh Phúc đã đầu tư 100 tỷ đồng để đưa dây truyền
sản xuất gạch ốp lát công nghệ ITALIA vào hoạt động [10, 4].
- Sự phát triển nhanh về số lượng và quy mô sản xuất của kinh tế tư nhân đã
tạo thêm nhiều chỗ làm mới và nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho người
lao động.
Đến ngày 31/12/2001, các Doanh nghiệp thuộc kinh tế tư nhân đã giải quyết
việc làm cho 5.614 người. So với năm 1999, tổng số lao động trong các Doanh
nghiệp đã tăng gần 1,6 lần, bình quân năm 2000-2002 tăng gần 900 người. Đến
ngày 1/7/2002 trên địa bàn tỉnh có gần 57 nghìn lao động cá thể trong các ngành
nghề phi nơng nghiệp, tăng hơn 14 nghìn người so với 1999. Sự phát triển nhanh
của kinh tế tư nhân trong 3 năm (2000-2002) đã tạo ra 17,6 nghìn chỗ làm mới,
góp phần quan trọng giải quyết bức xúc về việc làm của người lao động ở Vĩnh
Phúc [9, 2].
Thu nhập bình quân của lao động trong doanh nghiệp thuộc kinh tế tư nhân
cũng tăng từ 510 nghìn đồng/tháng (năm 2000) lên 569 nghìn đồng/tháng (năm
2001) và 626 nghìn đồng/tháng (năm 2002). Lao động khu vực hộ cá thể có thu
nhập bình qn tháng từ năm 2000 đến năm 2002 là 388 nghìn đồng, 414 nghìn


đồng và 468 nghìn đồng. Mức tăng về thu nhập của người lao động như vậy là phù hợp
với tốc độ tăng trưởng của kinh tế tư nhân [9, 2].

- Ngày càng có nhiều cơ sở kinh tế tư nhân làm ăn có hiệu quả, đóng góp
đáng kể cho ngân sách tỉnh.
Năm 2000, điều tra hoạt động của 132 doanh nghiệp cho thấy: có 122 doanh
nghiệp có lãi, chiếm 92,4%; 3 Doanh nghiệp hoà vốn, chiếm 2,3% và 7 doanh nghiệp
lỗ, chiếm 5,3%. Tổng tích luỹ tài chính đạt 18.154 triệu đồng, trong đó lợi nhuận là
9.594 triệu đồng và 8.560 triệu đồng là thuế sản xuất. Tích luỹ bình quân một lao
động đạt 7,43 triệu đồng (Doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh là 3,59 triệu
đồng); lợi nhuận bình quân cho một lao động đạt 3,93 triệu đồng (Doanh nghiệp nhà
nước là 630 nghìn đồng). Nộp ngân sách bình quân của Doanh nghiệp tư nhân là 3,5
triệu đồng/ người (Doanh nghiệp nhà nước là 5,08 triệu đồng). Nếu tính trên vốn, các
doanh nghiệp thuộc kinh tế tư nhân cứ đầu tư 1000 đồng tiền vốn thì tích luỹ tài chính
được 60 đồng (Doanh nghiệp nhà nước là 49 đồng), sinh lời được 30 đồng ( Doanh
nghiệp nhà nước là 10 đồng). Như vậy, so với doanh nghiệp nhà nước thì hiệu quả sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc kinh tế tư nhân cao hơn [9, 2-3] và [10,
4].
Năm 2001, các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân nộp ngân
sách nhà nước được gần 36 tỷ đồng; bình quân một doanh nghiệp nộp 132,3 triệu
đồng; bình quân một lao động nộp 7,8 triệu đồng, tăng 2,2 lần so với năm 2000.
Các khoản nộp ngân sách của kinh tế tư nhân năm 2002 đạt gần 50 tỷ đồng, chiếm
31,6% nguồn thu từ kinh tế của địa phương, chiếm 3,1% tổng thu ngân sách trên
địa bàn [ 9, 3].
- Tuy nhiên, sự phát triển của kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh từ khi tái lập
cho đến nay vẫn bộc lộ nhiều hạn chế, tập trung chủ yếu ở những mặt sau:
Một là: Cơ cấu và phân bố cơ sở kinh tế tư nhân còn bất hợp lý.


Số cơ sở kinh tế tư nhân hoạt động theo ngành kinh tế, nhất là doanh nghiệp
quá tập trung vào ngành xây dựng ( chiếm 36,8%) và ngành thương nghiệp (chiếm
31,5%); số cơ sở sản xuất, chế biến nông, lâm, thuỷ sản cịn rất ít (chỉ chiếm 1,5%
trong tổng số các doanh nghiệp).

Phân bố cơ sở kinh tế tư nhân theo lãnh thổ vẫn tập trung chủ yếu ở thị xã
Vĩnh Yên ( 40% ), Mê Linh (27,9%) và vùng đô thị, do vậy chênh lệch về phát
triển kinh tế giữa các vùng ngày một lớn hơn; vùng nông thôn, trung du, miền núi
cịn gặp nhiều khó khăn. Biểu 1.2 cho thấy, số lượng doanh nghiệp thuộc kinh tế tư
nhân thành lập mới năm 2001 trên địa bàn tỉnh vẫn tập trung chủ yếu vào thị xã
Vĩnh Yên và Mê Linh: 71 doanh nghiệp trong tổng số 132 doanh nghiệp mới thành
lập.
Biểu 1.2. Số lượng doanh nghiệp hạch toán kinh tế độc lập thành lập mới
năm 2001 trên địa bàn tỉnh phân phân theo lãnh thổ
S

Tổ
Huyện, thị

ố TT

ng số

1
.
2
.

Huyện

Tam

Huyện

Bình


Xuyên
5

.

Lập

Dương
4

.

Huyện

Thạch
3

.

Thị xã Vĩnh n

Huyện

Tường

Vĩnh

Chia ra
Ngồi nhà

nước

39

37

4

4

13

13

10

10

20

20

Có vốn đầu tư nước
ngồi
2


6
.
7

.

HuyệnYên Lạc

14

14

Huyện Mê Linh

36

34

2

Nguồn: Cục thống kê Vĩnh Phúc, Niên giám thống kê Vĩnh Phúc, năm 2001,
Nxb Thống kê, H.2002[12, 30].
Hai là: Doanh nghiệp tư nhân đăng ký quá nhiều ngành và lĩnh vực kinh
doanh trong điều kiện vốn sản xuất kinh doanh không lớn nên đầu tư dàn trải, tính
chun mơn hố thấp, gây khó khăn cho cơng tác quản lý của các cơ quan chức
năng. Nếu trước đây, mỗi doanh nghiệp trung bình chỉ đăng ký 3 ngành và lĩnh vực
kinh doanh, thì nay trung bình là 5 ngành và lĩnh vực kinh doanh, cá biệt có doanh
nghiệp đăng ký tới 12 ngành và lĩnh vực kinh doanh [10, 5].
Ba là: Quy mơ cịn nhỏ bé, vốn sản xuất bình quân một doanh nghiệp đến
ngày 31/12/2001 đạt 2.841,3 triệu đồng so với năm 2000, giảm 14%; bình quân
một lao động là 146,6% triệu đồng, giảm 23,6%. Điều đó cho thấy: tuy số lượng
doanh nghiệp tăng cao nhưng đa số có quy mơ nhỏ nên vốn sản xuất kinh doanh
bình quân giảm xuống. Xét về số lao động cũng thấy tình hình tương tự. Có 22%
doanh nghiệp sử dụng dưới 5 lao động; 25,8% sử dụng từ 5- 9 lao động; 40,9% sử

dụng từ 10 - 49 lao động, 9,8% sử dụng từ 50 đến 199 lao động; chỉ có 1,5% sử
dụng từ 200 đến 499 lao động [ 10, 3].
Bốn là: Trình độ kỹ thuật và cơng nghệ sản xuất cịn thấp. Theo điều tra ngày
1/4/2001 thì năm 2000, trong 132 doanh nghiệp được điều tra chỉ có 8 doanh
nghiệp tạm xếp vào trình độ tiên tiến, chiếm 6,1%; cịn lại ở trình độ trung bình và
lạc hậu, nhiều doanh nghiệp sử dụng công nghệ đã thanh lý, thải loại từ các thành
phần kinh tế khác.[9, 4].


Năm là: Ý thức pháp luật trong đăng ký kinh doanh, trong sản xuất kinh
doanh còn yếu kém.
Vốn đăng ký với nhà nước chỉ bằng 42% so với thực tế doanh nghiệp đưa
vào sản xuất kinh doanh. Tại thời điểm 31/12/ 2001, số vốn đăng ký của các doanh
nghiệp là 325,2 tỷ đồng, nhưng thực tế đưa vào sản xuất kinh doanh là 772,8 tỷ
đồng. Hiện tượng này dẫn đến việc khai man kết quả sản xuất, gây khó khăn cho
công tác quản lý của cơ quan nhà nước.
Việc sản xuất kinh doanh mặt hàng không đúng với đăng ký còn phổ biến.
Khi thay đổi ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh, địa điểm kinh doanh không kịp
thời đăng ký bổ xung với cơ quan chức năng. Hiện tượng buôn lậu, trốn thuế, buôn
bán hàng giả, hàng kém chất lượng vẫn diễn biến phức tạp.
Phần lớn các cơ sở kinh tế tư nhân chưa quan tâm đúng mức đến môi trường
sinh thái, đến vệ sinh an toàn thực phẩm, an tồn lao động, phịng chống cháy nổ...
Chưa quan tâm đúng mức đến đời sống vật chất, tinh thần của người lao động như:
điều kiện lao động không bảo đảm, trả công cho lao động thấp, không bồi thường
cho người lao động khi xảy ra tai nạn hoặc doanh nghiệp tự ý huỷ hợp đồng lao
động… Tỷ lệ doanh nghiệp thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế thấp.
Đến ngày 31/12/2002 trên địa bàn tỉnh chỉ có 20/549 Doanh nghiệp tư nhân nộp
bảo hiểm xã hội cho người lao động, bằng 3,6% tổng số.
Hiện tượng vi phạm Pháp lệnh kế tốn và thống kê cịn phổ biến. Đa số
doanh nghiệp không chấp hành chế độ báo cáo kế toán, báo cáo thống kê theo quy

định của pháp luật. Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ không thực hiện chế độ kế
toán. Riêng thực hiện chế độ báo cáo thống kê bằng văn bản cho ngành thống kê
của tỉnh mới đạt dưới 30% tổng số các doanh nghiệp [9, 5].
Tóm lại, sự phát triển của kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc những
năm 97-2002 đã có nhiều khởi sắc, khẳng định được vị trí, vai trị trong phát triển


kinh tế xã hội của tỉnh. Mặc dù sự phát triển đó cịn có những hạn chế, mà ngun
nhân một phần từ chính bản chất của các cơ sở kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân;
một phần là do thời gian để kinh tế tư nhân phát triển chưa dài, sự quản lý của Nhà
nước còn nhiều điểm chưa phù hợp… Tuy nhiên, mảng sáng của bức tranh kinh tế
tư nhân trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc vẫn là gam màu chủ đạo. Điều đó sẽ cịn được
làm sáng tỏ trong phần phân tích vai trị của kinh tế tư nhân trong thực hiện hai
nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trên địa bàn tỉnh.
1.2.Vai trò của kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng trên
địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc
1.2.1. Những căn cứ lý luận phân tích vai trị của kinh tế tư nhân trong phát triển kinh
tế và củng cố quốc phòng
Sự tồn tại khách quan của kinh tế tư nhân trong thời kỳ quá độ lên CNXH (xét trên phạm
vi cả nước cũng như trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc) đã được khẳng định từ Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI và tiếp tục quán triệt ở các Đại hội VII,
VIII, IX. Theo đó, Đảng ta đã coi sự phát triển nhiều thành phần kinh tế là một chiến lược, một
chủ trương nhất quán nhằm khai thác tối đa mọi nguồn lực xã hội, phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Thực trạng phát triển của kinh tế tư nhân trên phạm vi cả nước cũng như trên địa bàn Vĩnh
Phúc với gam màu tươi sáng là chủ đạo đã khẳng định trên thực tế vị trí, vai trị của kinh tế tư
nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Thế nhưng, trong thực tế khơng phải là
khơng có những đánh giá lệch lạc về vai trò của khu vực kinh tế này. Đã có những lạc quan quá
mức dẫn đến tô hồng sự phát triển của kinh tế tư nhân, phủ nhận vai trò chủ đạo của kinh tế nhà
nước, cổ vũ việc đẩy nhanh sự tư nhân hoá nền kinh tế, coi kinh tế tư nhân là đầu tàu, là động lực

chủ yếu để phát triển kinh tế, giải quyết công bằng xã hội, củng cố nền quốc phòng. Cũng lại tồn
tại những mặc cảm đối với kinh tế tư nhân dẫn đến sự quan tâm không đúng mức, cịn có sự
phân biệt đối xử giữa kinh tế tư nhân và kinh tế nhà nước, gây phiền hà sách nhiễu đối với kinh
tế tư nhân. Suy cho đến cùng, những hạn chế đó đều do chưa đứng vững trên lập trường của chủ
nghĩa Mác-Lênin khi xem xét đánh giá vai trò của khu vực kinh tế năng động này.
Để có sự xem xét đúng đắn vai trị của kinh tế tư nhân đối với phát triển kinh tế, củng cố
quốc phòng (xét trên phạm vi cả nước cũng như trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc ) cần phải dựa chắc
trên những luận cứ chính sau đây:


Một là, quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất.
Theo đó, sự vượt trước hay tụt hậu, đi sau của quan hệ sản xuất đối với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất đều trở thành rào cản, ngáng trở sản xuất phát triển làm triệt tiêu các động
lực phát triển. Điều này đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt
Nam khẳng định, được thực tiễn những năm trước đổi mới (1986) chứng minh rõ. Ngược lại, sự
phù hợp của các hình thức quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất lại có
tác dụng kích thích, mở đường cho sản xuất phát triển. Kinh tế phát triển, đến lượt nó lại là điều
kiện để ổn định xã hội, phát triển các lĩnh vực khác của xã hội.
Đi lên CNXH từ một nền kinh tế còn chậm phát triển, sản xuất nhỏ còn phổ biến, trình độ
kỹ thuật, cơng nghệ cịn ở nhiều cấp độ thì chế độ tư hữu chưa hết thời, chưa trở thành " xiềng
xích" ngáng trở sự phát triển của lực lượng sản xuất. Ngược lại nó cịn có vai trị tích cực trong
phát triển sản xuất, cải thiện đời sống của nhân dân, ổn định xã hội. Tất cả mọi sự mong muốn
chủ quan xoá bỏ chế độ tư hữu bằng mệnh lệnh đều phải trả giá, đều thất bại và trái với tư tưởng
của các nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học. Trả lời câu hỏi số 16: Có thể xố bỏ chế độ tư
hữu ngay lập tức được không? Ph.Ăngghen (trong tác phẩm" Những nguyên lý của Chủ nghĩa
cộng sản") đã khẳng định rằng: "Không, không thể được, cũng y như không thể làm cho lực
lượng sản xuất hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng nền sản xuất công
hữu" [ 2, 469].
Hai là, kinh tế là cơ sở vật chất của quốc phòng, là nhân tố suy cho đến cùng quyết định

sức mạnh của nền quốc phòng.
Sự phát triển của kinh tế thể hiện tập trung ở tốc độ tăng trưởng, cơ cấu ngành nghề và sản
phẩm, trình độ cơng nghệ, thu nhập quốc dân, chế độ kinh tế.v.v… sẽ là nhân tố chi phối mạnh
mẽ đến xây dựng các tiềm lực chính trị - tinh thần, kinh tế, khoa học - kỹ thuật, quân sự của nền
quốc phịng tồn dân. Trong khi khơng tuyệt đối hố vai trị của nhân tố kinh tế đối vơí sức mạnh
quân sự của Nhà nước, Ph.Ăngghen và V.I Lênin đã hơn một lần nhấn mạnh sự phụ thuộc của
quân sự, quốc phòng vào kinh tế, đặc biệt là trong điều kiện chiến tranh hiện đại thì sự phụ thuộc
đó càng tăng lên.
Ba là, Nền quốc phòng mà chúng ta xây dựng là nền quốc phịng tồn dân, dựa vào sức
mạnh của tồn dân mà sức mạnh của nó là sức mạnh tổng hợp nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc
với tư duy mới:


"Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự
an tồn xã hội và nền văn hố; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa;
bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia dân tộc" [ 15, ]. Theo tư duy này, việc xem xét vai
trò của kinh tế tư nhân trong sự phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng cần phải tính đến khả
năng khai thác và huy động sức dân cho công cuộc kiến thiết kinh tế và củng cố quốc phịng;
đồng thời cần tính đến cả những tác động trực tiếp và những tác động gián tiếp từ kinh tế đến tất
cả các lĩnh vực tạo thành nội dung bảo vệ Tổ quốc theo tư duy mới. Đó là sự tác động rất tồn
diện theo cả hai chiều hướng: tăng thêm điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp củng cố quốc phòng
và tạo ra những thách thức mới cho sự nghiệp ấy.
Tóm lại, ba luận điểm trên đây là những luận điểm cơ bản nhất làm chỗ dựa cho sự phân
tích vai trị của kinh tế tư nhân. Chỉ có thể dựa chắc trên những luận điểm cơ bản ấy, việc đánh
giá vai trò của kinh tế tư nhân trong sự nghiệp phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng mới
tránh khỏi những nhận định phiến diện.
1.2.2. Vai trị tích cực của kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế và củng cố quốc
phòng trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc
Từ khi thực hiện chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, khu vực kinh tế tư nhân ở
nước ta đã được quan tâm phát triển. Chỉ thị 100/CT - TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng

khoá IV (1981) và Nghị quyết 10/NQ - TW của Bộ chính trị Ban Chấp hành Trung ương khoá VI
(1988) đã cho phép khoán sản phẩm cuối cùng đến người lao động, hộ nông dân trở thành đơn vị
kinh tế tự chủ là những bước đột phá cho kinh tế tư nhân phát triển trên lĩnh vực nông nghiệp.
Đối với khu vực phi nông nghiệp, sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân được phát triển mạnh
nhờ có Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Cơng ty, Luật khuyến khích đầu tư trong nước và sau
này là Luật Doanh nghiệp. Trong những năm qua, kinh tế tư nhân nói chung đã có những bước
phát triển đáng kể và từng bước khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế nhiều thành
phần ở nước ta. Trên cơ sở đó chủ trương chung của cả nước, kinh tế tư nhân ở Vĩnh Phúc đã
được chính quyền địa phương quan tâm tạo điều kiện để phát triển. Đặc biệt gần đây, Hội đồng
nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc đã ra Nghị quyết:" Về việc quy định chính sách ưu đãi đầu tư trên địa
bàn tỉnh", tạo điều kiện thuận lợi để khơi dậy năng lực phát triển kinh tế ở địa phương, trong đó
đã khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển. Sự phát triển của kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Phúc đã có vai trị quan trọng trong phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng của tỉnh được
thể hiện trên các nội dung sau đây:


×