Tải bản đầy đủ (.doc) (166 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ VAI TRÒ của tư DUY BIỆN CHỨNG đối với cán bộ LÃNH đạo KINH tế TRONG QUÁ TRÌNH đổi mới ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (598.02 KB, 166 trang )

5

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực tiễn Việt Nam trong những năm vừa qua đã khẳng định rằng
cán bộ là một nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp cách mạng, là
khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Hiện nay, công cuộc đổi
mới, mà trọng tâm là đổi mới kinh tế ở nước ta chỉ có thể thắng lợi khi các
cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực cần thiết, có trình độ tư duy cao đáp
ứng được nhiệm vụ mới - đó là tư duy biện chứng mácxít.
Nhận thức rõ điều đó, nghị quyết các Đại hội Đảng lần thứ VI, VII,
VIII, cũng như các Nghị quyết 3, 4 của Ban chấp hành Trung ương Đảng,
các Nghị quyết 01, 09 của Bộ Chính trị (khóa VII) và gần đây nhất là Nghị
quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương khóa VIII đặc biệt
nhấn mạnh tầm quan trọng của tư duy, trí tuệ đối với cán bộ, nhất là cán bộ
lãnh đạo kinh tế.
Với một đội ngũ khá đông được đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau
và trưởng thành từ thực tiễn chỉ đạo sản xuất, kinh doanh, cán bộ lãnh đạo
kinh tế ở nước ta thời gian qua đã góp phần không nhỏ đưa đất nước thoát
ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những thế mạnh về phẩm chất đạo đức, kinh
nghiệm thực tiễn và năng lực tư duy, những yếu kém về tư duy lý luận, sự
lạc hậu của tư duy so với sự phát triển của thực tiễn, mà đặc biệt là sự yếu
kém về tư duy biện chứng, được biểu hiện trên các căn bệnh trong phương
pháp tư duy như lối tư duy siêu hình, kinh nghiệm chủ nghĩa, giáo điều,
bảo thủ, chủ quan duy ý chí... đã dẫn tới những sai lầm nghiêm trọng trong
chỉ đạo hoạt động kinh tế thời gian qua. Những yếu kém về tư duy biện


6



chứng, về phương pháp tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo kinh tế đang là
một vấn đề hết sức cấp bách cần phải giải quyết khi nước ta đang phát triển
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bởi lẽ, sự thành
công hay không thành công của quá trình này phụ thuộc rất nhiều vào đội
ngũ cán bộ lãnh đạo kinh tế hiện nay.
Vì vậy, vấn đề đặt ra là phải nghiên cứu một cách sâu sắc vai trò tư
duy biện chứng, cũng như đánh giá đúng những mặt mạnh, mặt yếu về
phương diện tư duy ở cán bộ lãnh đạo kinh tế, làm rõ tầm quan trọng của tư
duy biện chứng đối với cán bộ lãnh đạo kinh tế trong quá trình đổi mới
hiện nay. Trên cơ sở này, đề xuất những phương hướng, giải pháp đúng
đắn nhằm phát triển, rèn luyện, nâng cao trình độ tư duy biện chứng cho
đội ngũ cán bộ lãnh đạo kinh tế. Đây cũng là yêu cầu cấp bách mà cả lý
luận và thực tiễn hiện nay đang đặt ra. Vì những lý do đó, tác giả đã chọn
vấn đề: "Vai trò của tư duy biện chứng đối với cán bộ lãnh đạo kinh tế
trong quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay" làm đề tài luận án của mình.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài

Về mặt lý luận, vấn đề tư duy và tư duy biện chứng đã được các tác
giả trong và ngoài nước đề cập đến dưới nhiều góc độ khác nhau.
Trong lịch sử triết học trước Mác, có rất nhiều nhà triết học đã
nghiên cứu sâu sắc vấn đề tư duy mà đỉnh cao nhất là trong "Khoa học
lôgíc" của Hêghen. Kế thừa, chọn lọc và cải tạo tư tưởng của các nhà triết
học đi trước, đặc biệt là của Hêghen, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã
xây dựng phép biện chứng duy vật và đưa tư duy biện chứng lên một trình
độ khoa học mới.
Ở Liên xô trước đây, vấn đề tư duy được bàn chủ yếu trong các tài
liệu, sách báo triết học. Song, nó chủ yếu được đề cập khi các tác giả trình



7

bày về lịch sử triết học, về phép biện chứng, lôgíc học hoặc những vấn đề
của lý luận nhận thức. Xin nêu một số công trình quan trọng sau:
- I. X. Nar-xki, Gor-xki: Phép biện chứng của nhận thức khoa học,
Mát-xcơva, 1978;
N.C. Vắc-tô-min: Thực tiễn - tư duy - tri thức, Mát-xcơva, 1978.
- M. M. Rô-den-tan: Nguyên lý lôgíc biện chứng, Trường Đảng cao
cấp Nguyễn Ái Quốc, 1979;
- K. C. O-rut-jep: Lôgic biện chứng, Mát-xcơva, 1981;
- I. D. An-đrây-ep: Lôgíc biện chứng, Mát-xcơva, 1985;
- Lịch sử phép biện chứng mácxít. Từ khi xuất hiện chủ nghĩa Mác
đến giai đoạn Lênin. Nxb Tiến bộ, Mát-xcơva, 1986;
- A.P. Sep-tu-lin: Phương pháp nhận thức biện chứng, Nxb Sách
giáo khoa Mác - Lênin, Hà Nội, 1987.
Ở nước ta, nhiều cuộc hội thảo khoa học, nhiều bài viết trên tạp chí,
một số luận án đã đề cập đến vấn đề đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế,
vấn đề nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, ý nghĩa của
tư duy biện chứng đối với cán bộ lãnh đạo. Đặc biệt nhiều tác giả tập trung
tìm hiểu thực trạng tư duy của đội ngũ cán bộ đảng viên và đã nêu ra một
số căn bệnh trong phương pháp tư duy. Xin nêu một số công trình cơ bản
sau:
- Ngô Thành Dương: Một số khía cạnh về phép biện chứng duy vật,
Nxb Sách giáo khoa Mác-Lênin, Hà Nội, 1986.
- Nguyễn Văn Linh: Đổi mới tư duy và phong cách, Nxb Sự thật,
Hà Nội, 1987.
- Nguyễn Duy Quý: Đổi mới tư duy: Nội dung và phương hướng,
Triết học, số 1/1987;



8

- Nguyễn Ngọc Long: Năng lực tư duy lý luận trong quá trình đổi
mới tư duy, Tạp chí Cộng sản, số 10/1987;
- Lê Hữu Nghĩa: Một số căn bệnh trong phương pháp tư duy của
cán bộ ta, Triết học, số 2/1988;
- Trần Hữu Tiến: Đổi mới tư duy lý luận - vấn đề cấp bách hiện
nay, trong sách: "Mấy vấn đề cấp bách về đổi mới tư duy lý luận", Học
viện Nguyễn Ái Quốc, Hà Nội, 1988;
- Lại Văn Toàn: Đổi mới tư duy. Tư duy lý luận trong sự nghiệp đổi
mới, Triết học, số 1/1988;
- Nguyễn Trọng Chuẩn (chủ biên): Về sự phát triển của xã hội ta
hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991;
- Phạm Ngọc Quang: Thử vận dụng lý luận về mâu thuẫn vào thời
kỳ quá độ ở nước ta, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991.
- Vũ Văn Viên: Suy nghĩ về những định hướng trong nghiên cứu và
giảng dạy Lô gích học thời gian tới, Triết học, số 1/1992;
- Hồ Bá Thâm: Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo chủ chốt cấp xã hiện nay, Luận án PTS, Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1994;
- Trần Văn Phòng: Bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa ở đội ngũ cán bộ
nước ta trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Luận án PTS, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1994;
Trong các công trình nêu trên, một số tác giả tập trung phân tích
những vấn đề lý luận chung của tư duy hoặc tư duy biện chứng, một số
khác lại quan tâm phân tích những hạn chế, những căn bệnh và khuyết tật
trong phương pháp tư duy của cán bộ đảng viên ta một cách cụ thể, số tác
giả khác lại dành sự chú ý của mình cho việc tìm tòi truyền thống tư duy



9

dân tộc với mong muốn kết hợp truyền thống tư duy của dân tộc với các
phương pháp tư duy hiện đại nhằm xây dựng một tư duy mới. Và, có một
điểm chung dễ dàng nhận thấy là đa số các tác giả đều tiếp cận vấn đề từ
góc độ triết học, do đó thường tập trung vào giải quyết những vấn đề lý
luận chung, những vấn đề mang tính khái quát và phổ biến.
Bên cạnh đó cũng có một số ít tác giả bàn riêng về tư duy kinh tế,
nhưng trong các tác phẩm này mối liên hệ giữa tư duy lý luận, tư duy biện
chứng với tư duy kinh tế dường như chưa được quan tâm đúng mức. Dù
vậy, qua các tác phẩm đó, các tác giả đã nêu ra được những đặc điểm
chung, những nguyên tắc, những nét đặc thù của tư duy kinh tế và sự cần
thiết của một tư duy kinh tế mới trong công cuộc đổi mới kinh tế.
Tuy vậy, cho đến nay dường như chưa có công trình khoa học nào
nghiên cứu một cách riêng biệt, có hệ thống và chuyên sâu về vai trò của tư
duy biện chứng đối với cán bộ lãnh đạo kinh tế. Trong khi đó, đây là một
vấn đề đang đặt ra hết sức cấp bách đối với công tác lãnh đạo kinh tế trong
điều kiện đổi mới đất nước ta hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận án
Mục đích của luận án là: Trên cơ sở làm sáng tỏ vai trò tư duy biện
chứng mácxít đối với cán bộ lãnh đạo kinh tế, cũng như thực trạng tư duy
của đội ngũ cán bộ này ở nước ta, từ đó đề xuất một số giải pháp cơ bản
nhằm nâng cao trình độ tư duy biện chứng cho đội ngũ cán bộ này.
Để thực hiện mục đích trên, nhiệm vụ của luận án là:
- Làm rõ các phạm trù tư duy, tư duy biện chứng ở góc độ lôgíc
biện chứng duy vật.
- Phân tích vai trò tư duy biện chứng mácxít đối với cán bộ lãnh đạo
kinh tế.



10

- Trình bày thực trạng tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo kinh tế và
yêu cầu nâng cao trình độ tư duy biện chứng ở đội ngũ cán bộ này.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực và trình
độ tư duy biện chứng cho cán bộ lãnh đạo kinh tế.
Phạm vi nghiên cứu:
- Luận án không xem xét cán bộ lãnh đạo kinh tế ở mọi cấp mà chủ
yếu xem xét đội ngũ cán bộ lãnh đạo kinh tế ở cấp chiến lược.
- Trong luận án, khái niệm tư duy biện chứng chủ yếu dùng để chỉ
tư duy biện chứng duy vật mácxít. Chỉ trong một số trường hợp nó mới
được dùng với nghĩa chung hơn.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận án dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, nhất là những nguyên lý
của phép biện chứng, lý luận nhận thức và lôgíc biện chứng. Luận án quán
triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng các Nghị quyết của Đảng, sử dụng
các công trình của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan
đến đề tài luận án.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận án đã sử dụng các phương
pháp: phân tích và tổng hợp; qui nạp và diễn dịch; lịch sử và lôgíc; phương
pháp so sánh; phương pháp thống kê và các phương pháp khác.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Góp phần làm rõ vai trò của tư duy biện chứng mácxít đối với cán
bộ lãnh đạo kinh tế cấp chiến lược ở nước ta hiện nay.


11


- Khái quát một số đặc điểm nói lên thực trạng tư duy ở cán bộ lãnh
đạo kinh tế, từ đó đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao trình độ
tư duy biện chứng cho đội ngũ cán bộ này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu trong luận án sẽ là tài liệu tham khảo cho công
tác đào tạo, qui hoạch và sử dụng cán bộ, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo kinh tế.
Kết quả của luận án cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
việc nghiên cứu và giảng dạy Triết học, Xây dựng Đảng, Kinh tế học trong
hệ thống các trường Đảng, các trường Nhà nước.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
án gồm có 3 chương, 7 tiết.


12

Chương 1
TƯ DUY BIỆN CHỨNG VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ
ĐỐI VỚI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO KINH TẾ Ở NƯỚC TA

1.1. BẢN CHẤT VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA TƯ DUY BIỆN CHỨNG

1.1.1. Tư duy - quá trình phản ánh ở trình độ lý tính đối với
hiện thực khách quan
Tư duy là một thuộc tính cố hữu của con người, là một trong những
tiêu chí để đánh giá năng lực hoạt động nhận thức và thực tiễn của các chủ
thể. Việc nghiên cứu tư duy, vì lẽ đó, đã từ lâu rất được chú trọng. Tư duy
của con người được nghiên cứu trong những lĩnh vực khoa học khác nhau.
Chẳng hạn: sinh lý học nghiên cứu tư duy với tính cách là hoạt động của hệ

thần kinh cao cấp; tâm lý học nghiên cứu tư duy trong sự tác động qua lại
của hệ thần kinh cao cấp, não người, với môi trường xung quanh; điều
khiển học nghiên cứu về cơ chế điều khiển giữa tư duy và các hoạt động
vật chất của cơ thể, tìm ra mối tương quan giữa tư duy con người và hoạt
động tự điều khiển của các hệ thống máy móc; nhận thức luận nghiên cứu
tư duy trong mối tương quan giữa chủ thể và khách thể trong quá trình
nhận thức, trong quan hệ giữa tri thức và hiện thực; lôgíc học nghiên cứu
những hình thức và những quy luật của tư duy đúng đắn nhằm nhận thức
chân lý, v.v..
Trong lịch sử triết học đã có những quan điểm tách rời tư duy khỏi
dạng vật chất có tổ chức cao là bộ não người, tách rời tư duy khỏi hoạt
động thực tiễn xã hội. Quan điểm đó có chăng chỉ thừa nhận tư duy của
những "cá nhân riêng lẻ như là một cái gì sinh ra từ một số bản nguyên tinh


13

thần đứng trên vật chất và ý thức của những con người riêng lẻ" [132, tr.
635]. Chẳng hạn, đó là quan điểm của triết học Hêghen.
Hêghen không hiểu tư duy theo nghĩa thông thường. Với Hêghen,
tư duy rộng hơn năng lực chủ quan thuần túy. Ông không chỉ hiểu tư duy
theo nghĩa bó hẹp trong phạm vi ý thức cá nhân như một năng lực chủ quan
của con người, mà hiểu theo nghĩa rộng. Đó là ý niệm tuyệt đối đã sáng tạo
ra giới tự nhiên và con người. Tư duy của con người là giai đoạn phát triển
cao nhất, trong đó ý niệm tuyệt đối nhận thức được bản thân nó.
Hêghen phân biệt hai loại tư duy: Tư duy tự nó - chính là ý niệm tuyệt
đối tạo thành bản chất của toàn bộ hiện thực; Tư duy cho nó - tức là tư duy
con người. Tư duy tự nó là tư duy ở giai đoạn phát triển cao nhất. Chỉ có ở
đây mới có tư duy theo đúng nghĩa của danh từ này. Hêghen khẳng định:
"Giới tự nhiên chỉ là tư duy thể hiện dưới dạng các sự vật vật chất, hay còn

gọi là tư duy khách quan vô thức, còn tư duy con người là tư duy chủ quan
có ý thức. Chúng đồng nhất về nội dung... Tư duy của mỗi người phải hoạt
động theo những quy luật chung của tư duy, tức tư duy tự nó" [137, tr.
207].
Trái lại quan điểm của chủ nghĩa Mác cho rằng:
Tư duy - sản phẩm cao nhất của một dạng vật chất được
tổ chức một cách đặc biệt là bộ não, quá trình phản ánh tích cực
thế giới khách quan trong các khái niệm, phán đoán, lý luận, v.v..
Tư duy xuất hiện trong quá trình hoạt động sản xuất xã hội của
con người và bảo đảm phản ánh thực tại một cách gián tiếp, phát
hiện những mối liên hệ hợp quy luật của thực tại... [132, tr. 634].


14

Ph. Ăngghen viết: "Nếu người ta đặt câu hỏi rằng tư duy và ý thức
là gì, chúng từ đâu đến, thì người ta sẽ thấy rằng chúng là sản vật của bộ óc
con người" [67, tr. 55] ...; "Ý thức, cũng như tư duy của chúng ta có vẻ siêu
cảm giác như thế nào đi chăng nữa, cũng chỉ là sản vật của một khí quan
vật chất, nhục thể, tức bộ óc" [68, tr. 408].
Tư duy là một sản phẩm xã hội cả về những đặc điểm của sự xuất
hiện lẫn phương thức hoạt động, cả về các kết quả của nó. Mặc dầu không
tách khỏi bộ não, song tư duy vẫn không thể được lý giải một cách hoàn
toàn chỉ bằng các quá trình sinh lý của não. Ngoài yếu tố sinh học được
xem là yếu tố cơ bản của tư duy, yếu tố xã hội là yếu tố có tính chất quyết
định. Bởi lẽ, tư duy chỉ tồn tại trong mối liên hệ không thể tách rời khỏi
hoạt động lao động và ngôn ngữ - hoạt động mang đặc trưng của xã hội loài
người. Theo C. Mác, ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy, là hiện thực
trực tiếp của tư tưởng. Thiếu ngôn ngữ tư duy không tồn tại được. Ngôn
ngữ không chỉ là công cụ để con người giao tiếp, trao đổi tư tưởng với

nhau, mà nó còn là phương tiện lưu trữ tư duy, thực hiện cơ chế "di truyền"
xã hội, phản ánh khái quát về sự vật, tổng kết các hoạt động của con người
giữa các thế hệ nối tiếp nhau trong lịch sử. Tư duy phản ánh sự vật, còn
ngôn ngữ thể hiện, biểu đạt sự vật. Nếu như tư duy có chức năng khái quát,
tạo thông tin, thì ngôn ngữ là công cụ chuyển tải thông tin.
Khả năng phản ánh thực tại một cách khái quát của tư duy được
biểu hiện ở khả năng con người có thể xây dựng được những khái niệm
chung, và cao hơn nữa là các phạm trù. Gắn liền với việc xây dựng các khái
niệm, là việc phát hiện ra các quy luật tương ứng. Tư duy phản ánh thực tại
một cách gián tiếp, xuất phát từ chỗ phân tích những sự kiện có thể tri giác
được một cách trực tiếp, nó cho phép nhận thức được những gì không thể
tri giác được nhờ các giác quan. Nghĩa là, từ những tri thức có thể nhận


15

thức được bởi các giác quan, quá trình tư duy làm cho con người có khả
năng nhận thức được đối tượng mà không thông qua giác quan cụ thể nhận thức gián tiếp.
Tư duy là trình độ cao của quá trình nhận thức, là sự phản ánh khái
quát, gián tiếp, tích cực và sáng tạo về thế giới. Tính tích cực của tư duy thể
hiện ở chỗ nó vượt lên nhận thức cảm tính, tự nó xây dựng nên hệ thống
các tri thức về hiện thực khách quan trong tính toàn vẹn, phản ánh được
bản chất của sự vật. Căn cứ trên bản chất của con người là một thực thể
năng động, sáng tạo, luôn muốn vươn tới nhận thức thế giới và cải tạo thế
giới, V.I. Lênin cho rằng, thế giới không thỏa mãn con người và con người
quyết định biến đổi thế giới bằng hành động thực tiễn của mình. Tư duy
còn có năng lực xây dựng các khái niệm, phạm trù, liên kết chúng lại thành
các "mạng lưới", hệ thống hóa các tri thức, chỉ ra mối liên hệ, quan hệ giữa
chúng với nhau, khái quát được các quy luật chi phối tự nhiên, xã hội, và
bản thân nó - tư duy, để từ đó khám phá (có thể bằng con đường trực tiếp

hoặc gián tiếp) các tri thức mới. Tuy nhiên, năng lực sáng tạo của tư duy ở
mỗi người là không giống nhau, nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố căn bản
như: điều kiện lịch sử xã hội, thể chất của con người, môi trường xã hội...
Có thể nói tư duy mang bản chất người, thuộc phạm trù trí tuệ
người, giúp cho con người nhận thức, khám phá các thuộc tính, các mặt,
các mối liên hệ của sự vật, hiện tượng, đi sâu tới từng cấp độ của bản chất,
phát hiện ra những quy luật vận động và phát triển của hiện thực khách
quan.
Quá trình tư duy cũng đồng thời là quá trình vận dụng tri thức vào
đời sống hiện thực. Hoạt động thực tiễn lịch sử xã hội quy định tư duy.
Trong quá trình cải tạo giới tự nhiên, cải tạo xã hội, con người cũng cải tạo


16

chính bản thân mình, biến đổi và phát triển tư duy: "Trí tuệ con người đã
phát triển song song với việc người ta học cải biến tự nhiên" [67, tr. 720].
Nếu như hoạt động thực tiễn của con người là nguồn gốc, động lực
chủ yếu của tư duy, thì chính thực tiễn cũng là tiêu chuẩn cao nhất của tư duy,
là cái điều chỉnh tư duy. C. Mác nói: "Vấn đề tìm hiểu xem tư duy con người
có thể đạt tới chân lý khách quan hay không, hoàn toàn không phải là một vấn
đề lý luận, mà là một vấn đề thực tiễn" [64, tr. 9-10]. Thực tiễn là nơi cung
cấp tài liệu cho tư duy.
Các giác quan phản ánh hiện thực thành các dữ liệu, với tính năng
động và sáng tạo, với hàng loạt các thao tác: phân tích, tổng hợp, khái quát
hóa, trừu tượng hóa, v.v., tư duy chế biến chúng, tạo ra tri thức mới, phản
ánh bản chất của đối tượng. Những tri thức này lại được đưa vào thực tiễn
để kiểm tra, đồng thời để triển khai sức mạnh của nó.
V.I. Lênin đã diễn đạt một cách cô đọng biện chứng của tư duy trừu
tượng và trực quan sinh động cùng với thực tiễn như sau: "Từ trực quan

sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - đó
là con đường biện chứng của nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại
khách quan" [51, tr. 179].
Tư duy có một số đặc trưng sau:
Thứ nhất: Tư duy phản ánh cái chung. Cái chung ở đây được hiểu
là những dấu hiệu, những thuộc tính chung của sự vật. Tư duy là trình độ
nhận thức ở mức lý tính, và chỉ ở trình độ nhận thức này mới có thể phản
ánh được những thuộc tính chung, mang tính phổ biến và cơ bản của sự
vật.
Trong hiện thực khách quan, cái chung tồn tại như cái chung của
nhiều sự vật, đồng thời, nó cũng không tách rời cái riêng, cái đặc thù. Cần


17

phân biệt cái chung trong hiện thực và trong tư duy. Nếu như trong hiện
thực, cái chung không tách ra một cách độc lập mà nằm trong cái riêng, thì
trong tư duy, cái chung được phân xuất thành ra thành cái tồn tại tự nó, tách
khỏi cái riêng cảm tính, được trừu tượng hóa khỏi mọi cái riêng cảm tính.
Thứ hai: Trừu tượng hóa cũng là nét đặc trưng của tư duy. Như
trên đã trình bày, trong hiện thực cái chung không tách khỏi cái riêng. Việc
tách cái chung ra khỏi cái riêng trong tư duy chính là sự trừu tượng hóa.
Nói như vậy không có nghĩa việc tách cái chung ra khỏi cái riêng là tất cả
sự trừu tượng hóa của tư duy. V.I. Lênin nói về tính ưu việt của sự trừu
tượng hóa như sau: "Những sự trừu tượng về vật chất, về quy luật tự nhiên,
sự trừu tượng hóa về giá trị, v.v., Tóm lại, tất cả những sự trừu tượng khoa
học (đúng đắn, nghiêm túc, không tùy tiện) phản ánh giới tự nhiên sâu sắc
hơn, chính xác hơn, đầy đủ hơn" [51, tr. 179].
Thứ ba: Tư duy phản ánh thế giới khách quan một cách gián tiếp.
Tư duy có tính gián tiếp vì tư duy phải dựa trên cơ sở các hình thức nhận

thức cảm tính. Cảm giác, tri giác, biểu tượng là những hình thức nhận thức
trực tiếp với sự vật. Nhờ tính gián tiếp, có khả năng tách rời nhất định với
sự vật nên tư duy có sức mạnh to lớn trong sự phản ánh thế giới. Song điều
đó cũng tạo nên khả năng dễ rơi vào ảo tưởng, thoát ly thực tế.
Thứ tư: Tư duy phản ánh thế giới khách quan một cách tích cực,
sáng tạo trên cơ sở hoạt động thực tiễn của con người. Tư duy của con người
là để chỉ đạo cho hành động của con người, nó có xu hướng "hướng ngoại",
hiện thực hóa chứ không dừng lại ở trong đầu óc con người. V.I. Lênin cho
rằng sự chuyển hóa từ tư duy đến thực tại là rất quan trọng đối với lịch sử.
Tư duy có thể dự báo tương lai, tạo ra những giả thuyết khoa học, những lý
thuyết hết sức trừu tượng, tạo ra những mô hình lý tưởng cho hiện thực.


18

Tất cả những đặc trưng trên đây của tư duy có liên hệ chặt chẽ với
nhau, giả định lẫn nhau, làm tiền đề cho nhau.
Tư duy là lĩnh vực hết sức phong phú, đa dạng và phức tạp. Nó vừa
mang dấu ấn của chủ thể tư duy, vừa mang dấu ấn của nội dung khách thể
được phản ánh trong tư duy.
Tùy theo góc độ tiếp cận tư duy mà có thể nghiên cứu nó ở những
"lát cắt" khác nhau. Chẳng hạn, về cấp độ tư duy, ta có tư duy kinh nghiệm
và tư duy lý luận; tư duy tiền khoa học và tư duy khoa học; về loại hình tư
duy, ta có tư duy lôgíc và tư duy hình tượng; tư duy biện chứng và tư duy
siêu hình; về phạm vi tư duy, theo chuyên môn ta có tư duy triết học, tư
duy toán học, tư duy kỹ thuật, tư duy chính trị, tư duy kinh tế, tư duy sư
phạm, tư duy văn hóa, tư duy pháp lý, tư duy nghệ thuật v.v..
Tư duy bao giờ cũng gắn liền với các chủ thể nhất định, vì thế khi
nói về tư duy thường người ta cũng quan tâm đến năng lực và trình độ tư
duy của các chủ thể. Năng lực tư duy là khả năng nhận thức và khái quát

của chủ thể nhận thức. Đó là từ những hiện tượng, thuộc tính rời rạc, riêng
lẻ của sự vật, hiện tượng, trong đầu óc chủ thể nhận thức diễn ra một quá
trình với những thao tác tư duy nhằm trừu tượng hóa và khái quát hóa để
nắm bắt được bản chất và các quy luật qui định sự tồn tại, phát triển của sự
vật. Năng lực tư duy còn thể hiện ở năng lực nhận thức và vận dụng lý luận
vào thực tiễn đời sống; ngoài ra năng lực tư duy của chủ thể hoạt động còn
biểu hiện ở chỗ biết tổng kết kinh nghiệm, khái quát hóa kinh nghiệm thực
tiễn thành lý luận và xây dựng mô hình lý luận mới phù hợp với sự vận
động và phát triển của thực tiễn.
Năng lực tư duy của chủ thể còn phụ thuộc cả vào yếu tố di truyền.
gen di truyền quy định các kiểu thần kinh bẩm sinh của chủ thể. Nó là nhân
tố vật chất tạo nên khí chất của con người. Chẳng hạn, khí chất hăng hái:


19

loại này ứng với kiểu thần kinh mạnh, linh hoạt. Người có khí chất này
thường nhận thức nhanh, phản ứng nhanh, tinh tình vui vẻ, các mối quan hệ
xã hội nhanh chóng, giao tiếp rộng rãi... Hay, loại khí chất bình thản, ứng
với kiểu thần kinh cân bằng. Loại người này có nhân thức và phản ứng
chậm hơn nhưng bình tĩnh, chín chắn, sâu sắc, có khả năng kiềm chế, tính
tự chủ cao, biểu hiện tình cảm kín đáo, tác động vào mọi người một cách
nhẹ nhàng theo kiểu "mưa dầm thấm lâu"...
Những người có một trong hai khí chất nói trên, phù hợp với công
tác lãnh đạo. Người cán bộ lãnh đạo thành đạt thường là người có một
trong những kiểu thần kinh nhu vậy. Yếu tố di truyền bẩm sinh của cá nhân
về hệ thần kinh và não bộ tạo nên sự khác biệt giữa cá nhân với cá nhân,
chứa đựng những yếu tố sinh học tự tạo trong cuộc sống cá thể. Thế nhưng,
đặc điểm di truyền, yếu tố gen có được bảo tồn ở thế hệ sau hay không, và
nó thể hiện ở mức độ nào... còn là do hoàn cảnh sống, môi trường xã hội

quyết định. Như vậy, hệ thần kinh, gen di truyền cũng như năng khiếu của
cá nhân chỉ là tiền đề để hình thành năng lực, chứ không quy định trước sự
phát triển của năng lực tư duy. Trong hoạt động và thông qua hoạt động
của con người, tiền đề sinh học bẩm sinh mới được phát triển nhanh chóng,
những yếu tố chưa hoàn thiện sẽ tiếp tục được hoàn thiện thêm và cơ chế
bù trừ sẽ hình thành để bù đắp những khuyết nhược điểm của mỗi cá nhân
do yếu tố di truyền quy định. Chính vì lẽ đó, thiên hướng về hoạt động nào
đó sẽ làm cho tư duy về lĩnh vực đó phát triển. Ví như, nếp sống trong môi
trường gia đình và xã hội có truyền thống kinh doanh sẽ tạo ra thiên hướng
của con người đối với lĩnh vực hoạt động này. Có thể coi đó là dấu hiệu của
năng lực đang hình thành. Vậy, có thể khẳng định rằng, chính nhân tố xã
hội quyết định tư duy của con người và tri thức là điều kiện để năng lực tư
duy của chủ thể phát triển. Tri thức là vốn hiểu biết mà con người tích lũy


20

được và năng lực tư duy sẽ làm tăng vốn hhiểu biết của con người lên một
cách nhanh chóng.
Năng lực tư duy không tách rời trình độ tư duy. Khi nói về trình độ
tư duy là nói về cấp độ, mức độ hay những khả năng xác định của tư duy.
Đó là trình độ tư duy thấp và trình độ tư duy cao; đó là trình độ tư duy tiền
khoa học và trình độ tư duy khoa học; đó là trình độ tư duy khoa học thấp
và trình độ tư duy khoa học cao ...
Trình độ tư duy như thế nào thường được biểu hiện qua các phương
pháp tư duy. Trình độ tư duy thấp, kém khoa học thường bộc lộ ra ở
phương pháp tư duy mang nặng tính chất kinh nghiệm, bề ngoài. Với trình
độ tư duy này, chủ thể nhận thức mới dừng lại mô tả bề ngoài các hiện
tượng riêng lẻ, mới chỉ là tập hợp ghi nhớ các biểu hiện hình thức của sự
vật; không biết gạt bỏ các yếu tố đơn lẻ, ngẫu nhiên, thứ yếu để nắm lấy

những mối liên hệ, những thuộc tính bên trong của sự vật và hiện tượng.
Còn trình độ tư duy lý luận là sự phản ánh hiện thực một cách gián
tiếp bằng các phạm trù, nguyên lý, qui luật. Ở đó, chủ thể nhận thức sử
dụng ngôn ngữ và các hình thức tư duy để phân tích, tổng hợp và khái quát
các tài liệu cảm tính, nhằm nắm bắt các thuộc tính, các mối liên hệ mang
tính bản chất, các qui luật nội tại quy định sự tồn tại và phát triển của sự vật
và hiện tượng.
Về mặt loại hình tư duy triết học, trình độ phát triển cao nhất của tư
duy là tư duy biện chứng duy vật. Nó là sự thống nhất chặt chẽ giữa chủ
nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng. Năng lực tư duy biện chứng là
tổng hợp tất cả các phẩm chất của tư duy ở trình độ cao, là khả năng đưa ra
những quyết định đúng đắn, hợp lý, kịp thời của chủ thể. Đó còn là khả
năng lãnh đạo, tổ chức để biến quyết định thành hiện thực.


21

1.1.2. Tư duy biện chứng
1.1.2.1. Bản chất tư duy biện chứng
Tư duy biện chứng đã được hình thành từ rất sớm ở trình độ tự
phát, chất phác. Trong triết học phương Đông (Trung Quốc, Ấn Độ...) cổ
đại không bàn trực tiếp về tư duy biện chứng, song đã có những yếu tố của
tư duy biện chứng trong các học thuyết của họ.
Trong triết học Trung Quốc, Lão Tử, Trang Tử, Huệ Thi là các triết
gia điển hình có những tư tưởng biện chứng về tự nhiên, xã hội. Trong tác
phẩm Đạo đức kinh của Lão Tử có những mệnh đề nổi tiếng như: "Đạo khả
đạo, phi thường đạo, danh khả danh phi thường danh" [130, tr. 33], "Thiên
hạ vạn vật sinh ư Hữu, Hữu sinh ư Vô" [130, tr. 202], "Đạo sinh Nhất, Nhất
sinh Nhị, Nhị sinh Tam, Tam sinh vạn - vật. Vạn - vật phụ âm nhi bão
dương, Xung khí dĩ vi hòa" [130, tr. 210], phản ánh thế giới khách quan

luôn vận động, biến đổi khôn lường, những tư tưởng này đã diễn tả biện
chứng của khách quan kéo theo biện chứng của khái niệm. Tư tưởng của
Lão Tử cũng có một số điểm giống với tư tưởng của Phật giáo trong quan
niệm về vô thường. Phật giáo còn đặt vấn đề về luân hồi, nghiệp báo, nhân
quả để diễn tả biện chứng của thế giới khách quan.
Học thuyết Âm - Dương, diễn tả sự chuyển hóa, thống nhất của hai
mặt đối lập: Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng
sinh bát quái, bát quái biến hóa vô cùng. Còn trong thuyết Ngũ hành các
yếu tố cơ bản: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ nằm trong các quan hệ tương
sinh, tương khắc... vừa gắn bó mật thiết với nhau, nương tựa vào nhau để
tồn tại và phát triển, vừa xung khắc, hủy hoại, tiêu diệt nhau.
Cùng với những thành tựu triết học biện chứng của các dân tộc
phương Đông cổ đại, các nhà triết học cổ đại Hy Lạp đã hoàn thành hình


22

thức lịch sử đầu tiên của tư duy biện chứng, ở trình độ cổ sơ, chất phác.
Tính chất thô sơ trong tư duy biện chứng của người Hy Lạp biểu hiện một
cách rõ ràng trong quan niệm của họ về vật chất nguyên thủy, vật chất đầu
tiên, phát sinh từ những hiện tượng thiên hình vạn trạng có thể cảm biết
được. Chẳng hạn, Hêraclít cho rằng: Vạn vật bắt nguồn từ lửa lại chuyển
biến thành lửa và luôn luôn thay đổi hình thức tồn tại của nó. Ông là người
đã nêu lên một luận điểm biện chứng nổi tiếng là người ta không thể tắm
được hai lần trên cùng một dòng sông, bởi vì nước của dòng sông luôn
chảy. Luận điểm đó nói lên sự vận động, biến đổi không ngừng của sự vật.
Aristốt là đại diện xuất chúng của tư duy biện chứng cổ đại. Ông đã
phát biểu tư tưởng biện chứng về sự phát triển của giới tự nhiên, về vật thể
chuyển hóa từ trạng thái này sang trạng thái khác, về sự chuyển biến từ khả
năng thành hiện thực. Khi khảo sát hình thức và phạm trù của tư duy lý

luận, ông đã nhấn mạnh một cách biện chứng mối liên hệ giữa khái niệm,
nghĩa là sự phản ánh bằng khái niệm mối liên hệ lẫn nhau tồn tại trong thế
giới khách quan. Song, Aristốt cũng như các bậc tiền bối của ông chưa
vượt ra khỏi phạm vi quan niệm chung về giới tự nhiên.
Những phương pháp tư duy biện chứng thô sơ ấy phần lớn là tự
phát và còn nhiều hạn chế. Tư duy đó chỉ có thể dùng để nhận thức bức tranh
tổng quát thế giới, mà không thể dùng để nghiên cứu quá trình, hiện trạng
và các sự vật riêng lẻ được. Tư duy này chỉ hạn chế trong bức tranh tổng
quát của hiện thực xung quanh mà giác quan trực tiếp cảm thấy được, vì thế,
không nêu ra được mâu thuẫn nội tại vốn có và sự phát triển của một quá
trình nhất định. Do đó, quan niệm chung về mâu thuẫn, vận động và phát
triển của tư duy biện chứng cổ đại có được dường như là do nhận thức trực
quan mà có.


23

Tư duy biện chứng như vậy đương nhiên không thể chiến thắng
được tư duy siêu hình, thậm chí có lúc nó còn cùng tồn tại với siêu hình
học trong những nhà triết học Hy Lạp cổ đại. Ph. Ăngghen nhận xét như
sau:
Hình thức thứ nhất là triết học Hy Lạp. Trong triết học
này, tư duy biện chứng xuất hiện với tính chất thuần phác tự
nhiên... Chính vì người Hy Lạp chưa đạt tới trình độ mổ xẻ, phân
tích giới tự nhiên, cho nên họ hãy còn quan niệm giới tự nhiên là
một chỉnh thể và đứng về mặt toàn bộ mà xét chỉnh thể ấy. Mối
liên hệ phổ biến giữa các hiện tượng tự nhiên chưa được chứng
minh về chi tiết; đối với họ, mối liên hệ đó là kết quả của sự quan
sát trực tiếp. Đó chính là thiếu sót của triết học Hy Lạp, do đó mà
sau này, nó buộc phải nhường chỗ cho những cách nhìn khác.

Nhưng chính đó cũng là ưu điểm của nó so với tất cả các địch thủ
siêu hình sau này của nó. Nếu về chi tiết, chủ nghĩa siêu hình là
đúng hơn so với những người Hy Lạp, thì về toàn thể những người
Hy Lạp lại đúng hơn so với chủ nghĩa siêu hình [67, tr. 491].
Từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVI, nhờ sự hình thành quan hệ sản xuất
tư bản chủ nghĩa, nhờ sự phát triển của công nghiệp, thương nghiệp, thủ
công nghiệp, khoa học tự nhiên phát triển nhanh chóng trong nhiều lĩnh
vực: thiên văn học, vật lý học, toán học và đã đạt được những phát minh
quan trọng. Trong thời gian đó khoa học dần dần tích lũy được nhiều tài
liệu thực tế, trong đó có cả những tài liệu về giới động thực vật. Điều đó
giúp người ta có thể tiến hành phân loại động thực vật và nghiên cứu một
cách có hệ thống. Trong giai đoạn đầu tiên sưu tầm đó, người ta chỉ nhận
thức được những hiện tượng tự nhiên riêng lẻ, cho nên họ coi sự vật của
giới tự nhiên là không có liên quan, cô lập, không vận động, không biến
hóa và không phát triển. Cách nhìn nhận tự nhiên theo hướng này được các


24

nhà triết học thế kỷ XVII - XVIII coi là tuyệt đối. Kết quả là tư duy siêu
hình thay thế tư duy biện chứng thô sơ của các nhà triết học cổ đại Hy Lạp.
Tuy nhiên sự thống trị của phương pháp tư duy siêu hình chỉ là tạm thời.
Những nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII như Điđờrô, Hônbách,
Henvêtiút, nhìn chung họ là những nhà siêu hình, song trong các tác phẩm
của họ đã xuất hiện nhiều dự đoán biện chứng thiên tài. Tuy vậy, chỉ đến
những thập niên đầu của thế kỷ XIX, khi mà lượng tài liệu về khoa học tự
nhiên được tích lũy lại khá đầy đủ, mới làm cho người ta có đủ khả năng
khái quát được biện chứng của thế giới.
Như Ph. Ăngghen đã nhận xét: "Nền triết học ở Đức đã ra đời và
đạt tới đỉnh cao nhất của nó thể hiện ở Hêghen. Công lao lớn nhất là nó đã

quay trở lại phép biện chứng, coi đó là hình thức cao nhất của tư duy" [67,
tr. 34]. Tất nhiên, sự quay trở lại với phương pháp tư duy biện chứng của
các nhà triết học và khoa học thời đó mà trong đó Hêghen là đỉnh cao là do
những thành tựu to lớn của khoa học tự nhiên mang lại, chứ không phải
như Hêghen nói đó là sự phát triển của ý niệm thuần túy.
Tư duy biện chứng, theo Hêghen, là sự thống nhất giữa tư duy và
tồn tại. Với ý nghĩa đó, Hêghen đã thực hiện sự phê phán một cách triệt để
bất khả tri luận của Kant và đã đạt tới tư tưởng về sự thống nhất của lịch sử
và lôgíc trong nhận thức, cho phép ông xây dựng được một hệ thống phạm
trù có nội dung sâu sắc.
Theo quan điểm của Hêghen, vạch ra sự phát triển của tư duy có
nghĩa là vạch ra lý luận nhận thức với tính cách là quá trình lôgíc tất yếu
của lịch sử nhận thức. Hệ thống lôgíc chặt chẽ về các phạm trù cũng là lôgíc
của quá trình nhận thức, còn bản thân phạm trù là những điểm tựa, điểm
hướng dẫn của quá trình nhận thức. Tuy có những hạn chế nhất định, song
học thuyết của Hêghen về sự phát triển biện chứng của phạm trù có ý nghĩa


25

to lớn trong lịch sử phát triển tư duy biện chứng, vì trong đó ông đã phỏng
đoán tài tình sự phát triển của các sự vật, hiện tượng của thế giới khách
quan qua sự phát triển của các khái niệm, phạm trù. Ông cũng đã phỏng đoán
được sự thống nhất của những quy luật của tồn tại và quy luật của tư duy.
Tuy nhiên, tư duy biện chứng ở Hêghen là tư duy biện chứng duy
tâm, bởi vì ông cho rằng biện chứng của ý niệm sản sinh ra biện chứng của
sự vật chứ không phải ngược lại. Vì vậy, C. Mác cho rằng ở Hêghen phép
biện chứng đứng bằng đầu, chỉ cần đặt nó đứng bằng hai chân trên mảnh
đất hiện thực thì mọi việc sẽ sáng tỏ. Đó chính là công việc mà C. Mác và
Ph. Ăngghen đã làm là: cải tạo phép biện chứng duy tâm của Hêghen, xây

dựng phép biện chứng duy vật, cũng tức là tư duy biện chứng duy vật hình thức cao nhất của tư duy biện chứng trong lịch sử.
Như vậy, có thể nói, lịch sử phát triển của triết học là lịch sử phát
triển của tư duy triết học, gắn liền với hai phương pháp tư duy: biện chứng
và siêu hình. Tư duy biện chứng và tư duy siêu hình là hai mặt đối lập của
phương pháp tư duy. Trong đó, tư duy siêu hình, theo Ăngghen thì:
Chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt mà không nhìn thấy
mối liên hệ qua lại giữa những sự vật ấy; chỉ nhìn thấy sự tồn tại
của những sự vật ấy mà không nhìn thấy sự phát sinh và sự tiêu
vong của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của những
sự vật ấy mà quên mất sự vận động của những sự vật ấy, chỉ nhìn
thấy cây mà không thấy rừng [67, tr. 37].
Tư duy siêu hình xem xét các khái niệm, với tính cách là phản ánh
của các sự vật, hiện tượng, là những cái riêng biệt không biến đổi, chết
cứng. Các khái niệm tồn tại độc lập nhau, tuần tự khái niệm này nối tiếp
khái niệm kia. Theo phương pháp tư duy siêu hình, sự vật không thể cùng
lúc vừa tồn tại vừa không tồn tại, cái khẳng định và cái phủ định tuyệt đối
bài trừ nhau, nguyên nhân và kết quả tuyệt đối độc lập nhau, nó chỉ thấy sự


26

tồn tại của các sự vật cá biệt mà không thấy mối liên hệ giữa các sự vật ấy,
chỉ thấy sự tồn tại của các sự vật mà không thấy sự hình thành và diệt vong,
chỉ thấy trạng thái tĩnh mà không thấy sự vận động.
Trái lại, tư duy biện chứng là tư duy nhìn nhận sự vật, hiện tượng
trong tính chỉnh thể, toàn diện, trong tính lịch sử của chúng, nghĩa là thấy
được sự ra đời, phát triển, diệt vong của sự vật. Tư duy biện chứng đi sâu
phân tích nguồn gốc, động lực thúc đẩy sự vật phát triển, sự diệt vong của
sự vật ấy và quan hệ của chúng với các sự vật khác. Tư duy biện chứng dựa
trên phương pháp tư duy biện chứng.

Ph. Ăngghen viết: "Phép biện chứng là phương pháp mà điều căn
bản là xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng trong tư tưởng,
trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận
động, sự phát sinh và tiêu vong của chúng" [67, tr. 38].
Trên cơ sở kế thừa, chọn lọc, cải tạo các tư tưởng của các nhà triết
học đi trước, C. Mác và Ph. Ăngghen đã xây dựng phép biện chứng duy
vật, đặt tư duy biện chứng lên một trình độ mới, khoa học hơn. Ph.
Ăngghen đã định nghĩa: "Phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học
về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên,
của xã hội loài người và của tư duy" [67, tr. 201]. Do đó, lịch sử phát triển
của phép biện chứng cũng là lịch sử phát triển của tư duy biện chứng.
Tư duy biện chứng là tư duy phản ánh những mối liên hệ, sự vận
động, phát triển của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan.
1.1.2.2. Một số đặc điểm cơ bản của tư duy biện chứng
Tư duy biện chứng mácxít là trình độ cao của tư duy biện chứng ở
trình độ lý luận. Tư duy đó không chỉ dựa trên các quy luật của tự nhiên, xã
hội và tư duy mà còn dựa trên các quy luật biện chứng riêng của tư duy


27

được phản ánh trong lôgíc biện chứng mácxít. Tư duy biện chứng mácxít
có một số đặc điểm cơ bản sau.
a) Nắm bắt và vận dụng được trong tư duy các quy luật phổ biến
của phép biện chứng duy vật.
Tư duy biện chứng là tư duy phản ánh một cách năng động, sáng
tạo biện chứng của thế giới khách quan mà thế giới khách quan tự nó là
biện chứng, do vậy, tư duy, với tư cách là phản ánh lý tính của hiện thực
khách quan cũng tất nhiên phải biện chứng. Nghĩa là, nó phải tuân thủ các
quy luật phổ biến, như quy luật mâu thuẫn, quy luật lượng - chất, quy luật

phủ định của phủ định v.v.. Ph. Ăngghen viết:
Biện chứng gọi là khách quan thì chi phối trong toàn bộ
giới tự nhiên, còn biện chứng gọi là chủ quan, tức là tư duy biện
chứng, thì chỉ là phản ánh sự chi phối, trong toàn bộ giới tự
nhiên, của sự vận động thông qua những mặt đối lập, tức là
những mặt, thông qua sự đấu tranh thường xuyên của chúng và
sự chuyển hóa cuối cùng của chúng từ mặt đối lập này thành mặt
đối lập kia, resp với những hình thức cao hơn, đã quy định sự
sống của giới tự nhiên [67, tr. 694].
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là một trong
những quy luật quan trọng nhất của tư duy biện chứng. Vì tư duy là phản
ánh lý tính đối với các sự vật hiện tượng; mà các sự vật hiện tượng đã là
một đồng nhất cụ thể của những mặt đối lập, tức mâu thuẫn vốn có bên
trong sự vật, hiện tượng ấy. Do đó, trong phản ánh lý tính ấy, mà các biểu
hiện là các hình thức tư duy như khái niệm, phán đoán, suy lý, cũng tái tạo
những mâu thuẫn ấy trong một chừng mực nhất định.
Mục đích cuối cùng của nhận thức là đạt tới chân lý. Nhưng chân lý
là bao hàm mâu thuẫn - mâu thuẫn giữa chân lý tương đối và chân lý tuyệt


28

đối. Quá trình nhận thức là quá trình liên tục khắc phục sự đấu tranh của
hai mặt đối lập đó để liên tiếp tiệm cận tới chân lý tuyệt đối.
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là một trong
ba quy luật cơ bản của tư duy biện chứng không chỉ bởi, tư duy biện chứng
tái tạo biện chứng khách thể trong chủ thể mà bản thân quá trình tư duy
biện chứng là một quá trình chứa đựng mâu thuẫn, trong đó có mâu thuẫn
giữa chân lý và sai lầm, mâu thuẫn giữa cảm tính và lý tính... và việc giải
quyết mâu thuẫn này chính là sự vận động liên tục của các thế hệ loài

người, biến cái hạn chế của tư duy từng con người cụ thể thành cái tối cao
của tư duy con người nói chung.
Tư duy biện chứng dựa trên sự thống nhất hai giai đoạn nhận thức:
cảm tính và lý tính. Nhận thức cảm tính bao giờ cũng thấp hơn trình độ nhận
thức lý tính. Song nó lại là cơ sở của lý tính, nhưng vấn đề ở chỗ tư duy phải
bao quát toàn bộ "biểu tượng" trong sự vận động của nó, do đó, tư duy phải
biện chứng, nghĩa là tư duy phải nắm được biểu tượng trong tính chỉnh thể
của nó. Tư duy được rút ra từ biểu tượng nhưng tư duy phải bao quát biểu
tượng.
Tư duy biện chứng đóng vai trò khái quát từ cái ngẫu nhiên trong
lịch sử thành cái tất yếu. Phương pháp của tư duy biện chứng là sự thống
nhất của các mặt đối lập: phân tích - tổng hợp; quy nạp - diễn dịch, lôgíc lịch sử, trừu tượng - cụ thể;... các mặt đối lập đó cũng tồn tại trong tư duy
biện chứng. Sự xâm nhập, chuyển hóa lẫn nhau giữa chúng là động lực
phát triển của tư duy biện chứng.
Tư duy biện chứng là quá trình tư duy mãi không ngừng tiến gần
đến biện chứng của khách thể. Như V.I. Lênin viết:
Phản ánh của giới tự nhiên trong tư tưởng con người phải
được hiểu không phải một cách "chết cứng", "trừu tượng", không


29

phải không vận động, không mâu thuẫn mà là trong quá trình
vĩnh viễn của vận động, của sự nảy sinh mâu thuẫn và sự giải
quyết những mâu thuẫn đó [51, tr. 207-208].
Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến những
thay đổi về chất và ngược lại. Mọi người đều biết, sự vật chẳng những có
tính qui định về chất mà còn có tính qui định về lượng. Tư duy biện chứng
với tính cách là phản ánh lý tính của sự vật phải tái tạo sự thống nhất giữa
chất và lượng của sự vật đang ở trạng thái nào. Sự phụ thuộc hữu cơ tất yếu

giữa tính qui định về chất và tính qui định về lượng của sự vật ở một trạng
thái tồn tại cụ thể gọi là Độ.
Chất, lượng, độ là những phạm trù quan trọng của tư duy biện
chứng. Thiếu nó, người ta không thể tư duy đúng đắn về các quá trình vận
động và phát triển của sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan.
Tư duy biện chứng cần đặc biệt chú ý đến nhân tố nhảy vọt, đến sự
thống nhất của đứt đoạn và liên tục trong sự phát triển của sự vật. Bản chất
của bước nhảy vọt trong nhận thức là ở chỗ đạt được sự khái quát về bản
chất, về nguyên nhân, về quy luật của sự vật từ những tài liệu đã tích lũy
được, chứ không phải với nghĩa tăng lên về số lượng những tài liệu đã tích
lũy được. Dĩ nhiên, số lượng tài liệu tích lũy được là điều kiện cần để khái
quát.
Trong tư duy biện chứng, bước nhảy có những đặc tính cơ bản sau:
Thứ nhất: từ tích lũy về mặt lượng những sự kiện riêng lẻ, những tư
liệu về sự vật đến chỗ khái quát thành những kết luận, những khái niệm về
bản chất sự vật. Đây là một bước nhảy vọt quan trọng trong quá trình nhận
thức.
Thứ hai: những khái niệm, phán đoán, suy lý, những quy luật khoa
học được hình thành từ những tài liệu về sự vật đã tích lũy không phải là sự


×