Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Trình bày nguồn của Luật dân sự? Giải thích tại sao án lệ được coi là nguồn bổ trợ của Luật dân sự? cho ví dụ minh họa? theo luật 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.76 KB, 14 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................1
I-KHÁI QUÁT..............................................................................................1

MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh nước ta đang tích cực đổi mới trên nhiều lĩnh vực, tích cực
hội nhập quốc tế, với ý nghĩa và giá trị đã được thừa nhận của án lệ theo kinh
nghiệm quốc tế thì việc áp dụng án lệ là phương thức hiệu quả để góp phần
nâng cao năng lực của Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự,
thương mại, đặc biệt là những tranh chấp có yếu tố nước ngoài, bảo đảm việc
áp dụng pháp luật thống nhất trong xét xử, tạo lập tính ổn định, minh bạch và
tiên liệu được trong các phán quyết của Tòa án. Vì lẽ đó, án lệ đã được coi là
nguồn bổ trợ của pháp luật Việt Nam . Để hiểu rõ hơn vấn đê này, em xin
trình bày Đề 1:Trình bày nguồn của Luật dân sự? Giải thích tại sao án lệ
được coi là nguồn bổ trợ của Luật dân sự? cho ví dụ minh họa?

NỘI DUNG
I-

KHÁI QUÁT

1. Khái niệm

Nguồn của pháp luật là tất cả các căn cứ được các chủ thể có thẩm quyền
sử dụng làm cơ sở để xây dựng, ban hành, giải thích pháp luật cũng như để áp
dụng vào việc giải quyết các vụ việc pháp lý xảy ra trong thực tế”.
Nguồn của pháp luật bao gồm: nguồn nội dung và nguồn hình thức; nguồn
chủ yếu (nguồn cơ bản) và nguồn thứ yếu, tùy vào căn cứ phân biệt. Khi xem



xét về nguồn của pháp luật Việt Nam hiện nay, cần phải quan tâm cả nguồn
nội dung và nguồn hình thức của nó, trong đó, “nguồn nội dung của pháp luật
là xuất xứ, là căn nguyên của pháp luật bởi vì nó được các chủ thể có thẩm
quyền dựa vào đó để xây dựng, ban hành và giải thích pháp luật”; “nguồn
hình thức của pháp luật được hiểu là phương thức tồn tại của các quy phạm
pháp luật trong thực tế hay là nơi chứa đựng, nơi có thể cung cấp các quy
phạm pháp luật, tức là những căn cứ mà các chủ thể có thẩm quyền dựa vào
đó để giải quyết các vụ việc pháp lý xảy ra trong thực tế”. Tuy nhiên, sự phân
chia này chỉ có tính chất tương đối.
2. Một số nguồn nội dung
2.1.

Đường lối, chính sách của Đảng

Đường lối, chính sách của Đảng được coi là nguồn nội dung của pháp luật
bởi vì chúng định ra mục tiêu, phương hướng phát triển kinh tế – xã hội của
đất nước trong một giai đoạn nhất định cũng như những phương pháp, cách
thức cơ bản để thực hiện những mục tiêu, phương hướng này. Và những mục
tiêu, phương hướng, phương pháp và cách thức đó sẽ được Nhà nước thể chế
hoá thành pháp luật và tổ chức thực hiện trong thực tế. Nội dung các quy định
trong các văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL), từ Hiến pháp, luật cho đến
các văn bản dưới luật đều phải phù hợp, không được trái với đường lối, chính
sách của Đảng.
2.2.

Nhu cầu quản lý kinh tế – xã hội của đất nước

Đây cũng là một trong những nguồn nội dung quan trọng của pháp luật, một
trong những cơ sở để xây dựng, ban hành pháp luật. Để tổ chức, quản lý và
điều hành nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà

nước phải ban hành các quy định pháp luật cụ thể nhằm xây dựng đồng bộ các
loại thị trường (thị trường lao động, thị trường hàng hoá, thị trường bất động
sản, thị trường tài chính…); cụ thể hoá các chính sách tài chính, thuế, tiền tệ,
giá cả, đầu tư, thu nhập…; sắp xếp, cơ cấu lại các ngành kinh tế, điều chỉnh
các quan hệ kinh tế theo chiều hướng mà Nhà nước mong muốn, chiều hướng


vừa thúc đẩy sự tăng trưởng, vừa bảo đảm sự cân đối và ổn định của nền kinh
tế – xã hội.
2.3.

Các tư tưởng, học thuyết pháp lý

Các tư tưởng, học thuyết pháp lý cũng có thể trở thành nguồn nội dung của
pháp luật. Chẳng hạn, theo Điều 2 của Hiến pháp hiện hành của nước ta thì,
“Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các
cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp”.
Quy định này của Hiến pháp được xây dựng trên cơ sở sự kế thừa tư tưởng
của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật;
tư tưởng chủ quyền nhân dân; tư tưởng nhà nước pháp quyền và tiếp nhận các
yếu tố hợp lý của học thuyết phân chia quyền lực nhà nước.
3. Các loại nguồn hỗn hợp
3.1.

Các nguyên tắc chung của pháp luật


Đây là những nguyên lý, những tư tưởng cơ bản làm cơ sở cho toàn bộ quá
trình xây dựng và thực hiện pháp luật trong thực tế. Có những nguyên tắc chỉ
là nguồn nội dung của pháp luật. Chẳng hạn, theo Điều 8 của Bộ luật Hình sự
năm 1999 thì, “tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong
Bộ luật Hình sự …”.
Với tư cách là nguồn hình thức của pháp luật, nguyên tắc này đòi hỏi khi
xác định mức bồi thường thiệt hại xảy ra trong thực tế phải tuỳ từng trường
hợp cụ thể của nạn nhân và của người gây thiệt hại, có trường hợp chỉ yêu cầu
bồi thường những thiệt hại trực tiếp; song, có trường hợp lại phải yêu cầu bồi
thường cả những thiệt hại trực tiếp lẫn những thiệt hại gián tiếp.
3.2.

Văn bản quy phạm pháp luật


Đây là loại nguồn hình thức chủ yếu, cơ bản và quan trọng nhất của pháp
luật, bởi lẽ, các cơ quan nhà nước ở Việt Nam khi giải quyết các vụ việc pháp
lý thực tế thuộc thẩm quyền của mình đều chủ yếu dựa vào các VBQPPL.
VBQPPL là văn bản do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo
thủ tục, trình tự luật định, trong đó có quy tắc xử sự chung được Nhà nước
bảo đảm thực hiện, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
VBQPPL ở nước ta bao gồm nhiều loại với giá trị pháp lý cao, thấp khác
nhau. Đứng đầu thang bậc giá trị pháp lý trong hệ thống VBQPPL là Hiến
pháp, đạo luật gốc, luật cơ bản của Nhà nước. Tiếp đó là các đạo luật và các
nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội,…
3.3.


Các điều ước quốc tế

“Theo cách tiếp cận của Công ước Viên 1969 về Luật Điều ước quốc tế ký
kết giữa các quốc gia và các quy định của luật quốc tế hiện hành thì điều ước
quốc tế được xác định là thoả thuận quốc tế được ký kết bằng văn bản giữa
các quốc gia và các chủ thể luật quốc tế và được luật quốc tế điều chỉnh,
không phụ thuộc vào việc thoả thuận đó được ghi nhận trong một văn kiện
duy nhất hay hai hoặc nhiều văn kiện có quan hệ với nhau, cũng như không
phụ thuộc vào tên gọi cụ thể của những văn kiện đó”[4]. Nói chung, các điều
ước quốc tế do Việt Nam ký kết, phê chuẩn hoặc gia nhập thực tế vừa là
nguồn nội dung, vừa là nguồn hình thức của pháp luật nước ta. Nó là nguồn
nội dung trong trường hợp các quy định của nó được chuyển hóa thành các
quy định trong các VBQPPL. Ví dụ, việc chúng ta gia nhập Công ước về xóa
bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) đã dẫn đến việc ban
hành Luật Bình đẳng giới trong đó có nhiều nội dung là sự cụ thể hóa các quy
định của Công ước này. Nhiều quy định của các điều ước quốc tế khác đã
được chuyển hóa thành các quy định trong các đạo luật của Việt Nam, nhất là
khi chúng ta đã gia nhập WTO.


3.4.

Phong tục tập quán

Phong tục tập quán vừa có thể là nguồn nội dung, vừa có thể là nguồn hình
thức của pháp luật. Những phong tục tập quán tiến bộ, tốt đẹp, phù hợp với ý
chí của Nhà nước, được Nhà nước thừa nhận sẽ trở thành nguồn nội dung của
pháp luật. Ví dụ, việc Nhà nước thừa nhận phong tục ăn Tết Nguyên đán,
phong tục Giỗ tổ Hùng Vương ngày 10 tháng 3 âm lịch đã dẫn đến quy định
cho phép người lao động, cán bộ, công chức, học sinh, sinh viên… được nghỉ

làm việc, học tập trong những ngày này.
Phong tục tập quán là nguồn hình thức của pháp luật trong những trường
hợp nó được áp dụng vào việc giải quyết các vụ việc xảy ra trong thực tế.
Việc thừa nhận phong tục tập quán là nguồn hình thức của pháp luật đã được
thể hiện cụ thể trong một số đạo luật của nước ta
3.5.

Án lệ hay các quyết định, bản án của tòa án

Trong pháp luật, án lệ là một vụ việc đã được xét xử hoặc quyết định của
toà án được xem như sự cung cấp quy định hoặc quyền lực cho quyết định
của một vụ việc giống hoặc tương tự xảy ra về sau, hoặc cho một vấn đề
tương tự của pháp luật, hoặc khi nếu các sự kiện là khác nhau thì nguyên tắc
chi phối vụ việc đầu tiên có thể áp dụng được cho các sự kiện khác nhau chút
ít.
Một án lệ là một quyết định của toà án chứa đựng trong nó một nguyên tắc.
Nguyên lý cơ bản giống như mẫu mà phần có căn cứ đích xác của nó thường
được gọi là nguyên tắc pháp lý cho một phán quyết trong một trường hợp cụ
thể. Một quyết định cụ thể là bắt buộc đối với các bên, nhưng nó là bản tóm
tắt của nguyên tắc pháp lý cho một phán quyết trong một trường hợp cụ thể
mà chỉ có nó có hiệu lực pháp luật.
Cũng có thể nói một cách khái quát là, một vụ việc trở thành án lệ vì quy định
chung như vậy là cần thiết đối với quyết định thực tế có thể được đưa ra là sự
biến dạng trong những trường hợp phụ.
II-

NGUỒN CỦA LUẬT DÂN SỰ


1. Luật và tục lệ

Nguồn của luật là nơi mà các quy phạm pháp luật được tìm thấy. Ta phân
biệt hai loại nguồn.
Nguồn trực tiếp: là nơi mà các quy phạm pháp luật được tạo ra. Luật dân
sự Việt Nam thừa nhận hai loại nguồn trực tiếp: luật viết và tục lệ.
Nguồn diễn dịch và giải thích: là nơi mà các quy phạm pháp luật được
phát hiện từ các kết quả phân tích luật viết. Việc phân tích có thể được thực
hiện trong khuôn khổ các nghiên cứu khoa học: ta có các quy phạm pháp luật
là kết quả phân tích của học thuyết pháp lý. Phân tích cũng có thể được thực
hiện trong quá trình vận dụng các quy tắc của luật viết để tiến hành xét xử: ta
có các quy phạm pháp luật là kết quả của hoạt động xét xử (còn gọi là án
lệ). Cuối cùng, phân tích còn có thể được thực hiện trong quá trình vận dụng
luật viết để giải quyết các vấn đề cụ thể của hoạt động thực hành luật: ta có
các quy phạm pháp luật được rút ra từ thực tiễn áp dụng pháp luật.
Ở đây, ta chỉ xem xét các nguồn trực tiếp: luật viết và tục lệ.
1.1.

Luật viết

1.1.1. Khái niệm
Theo nghĩa chính thức, luật viết được hiểu như là một quyết định của cơ
quan lập pháp (Quốc hội) có chứa đựng các quy phạm pháp luật.
Theo nghĩa rộng nhất, luật viết là văn bản có chứa đựng các quy phạm
pháp luật do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành. Vậy luật viết, với tư
cách là nguồn của luật, có thể là các văn bản của cơ quan quyền lực Nhà
nước, cơ quan chấp hành và hành chính, thậm chí, cơ quan xét xử và cơ
quan kiểm sát.
Luật viết luôn có hiệu lực bắt buộc thi hành. Song có luật luôn phải
được bắt buộc thi hành; có luật chỉ phải được bắt buộc thi hành, nếu các chủ
thể của quan hệ pháp luật không bày tỏ ý chí khác đi. Ta tạm gọi loại luật
thứ nhất là luật mệnh lệnh, loại luật thứ hai là luật bổ khuyết.

1.1.2. Luật mệnh lệnh


- Bao gồm các quy phạm do người làm luật chủ động thiết lập nhằm chi
phối các quan hệ pháp luật nhất định theo các tiêu chí chung. Các chủ thể của
quan hệ pháp luật liên quan có trách nhiệm xử sự phù hợp với các quy định
của luật mệnh lệnh mà không có sự lựa chọn nào khác. Ví dụ: việc thế chấp
tài sản phải được lập thành văn bản . Vậy, nếu các bên xác lập giao dịch thế
chấp bằng miệng, thì việc thế chấp không có giá trị.
1.1.3. Luật bổ khuyết
Bao gồm các quy phạm do người làm luật thiết lập và được áp dụng bắt
buộc và đương nhiên, trong trường hợp chủ thể của quan hệ pháp luật liên
quan không chủ động bày tỏ ý chí về việc xác định thái độ xử sự của mình
theo cách khác. Luật bổ khuyết rất cần thiết trong chừng mực nó được coi như
sự suy đoán của người làm luật về nội dung của ý chí không được bày tỏ
hoặc được bày tỏ không rõ ràng của các chủ thể của quan hệ pháp luật. Nó có
tác dụng tạo ra các chuẩn mực xử sự chung mà dựa vào đó, cơ quan giải
quyết tranh chấp đánh giá mức độ nghiêm chỉnh của bên này hay bên kia
trong việc thực hiện giao dịch. Ví dụ: trong trường hợp bên nhận đặt cọc từ
chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt
cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác
Hiệu lực của luật trong thời gian
Khác với nhiều hệ thống luật phương Tây, luật viết ở Việt Nam không
chỉ được áp dụng đối với các tình huống pháp lý xảy ra sau ngày luật có hiệu
lực. Trong trường hợp cần thiết, người làm luật có thể quyết định việc áp
dụng luật cho các tình huống xảy ra trước đó.
Nguyên tắc mở rộng phạm vi áp dụng BLDS trong chừng mực có thể được
1.2.


Tục lệ

1.2.1. Khái niệm
Tục lệ, cách diễn đạt rút gọn cụm từ “phong tục, tập quán” dùng trong
BLDS, có thể được định nghĩa như là các quy tắc xử sự chung hình thành từ


cách cư xử được lặp đi lặp lại trong thực tiễn giao dịch và trở thành thói
quen được dân cư chấp nhận và tôn trọng như các quy phạm pháp luật.
1.2.2. Sự đa dạng của tục lệ
Tục lệ được hình thành một cách tự phát từ cuộc sống; nó mang đậm
dấu ấn của môi trường nơi mà nó được sinh ra và tương ứng với tính cách
của con người sống trong môi trường đó. Môi trường, con người khác nhau
có đặc điểm, tính cách không giống nhau. Bởi vậy, tục lệ rất đa dạng, ngay
trong lĩnh vực dân sự.
1.2.3. Tục lệ phổ quát
Là những quy tắc xử sự được chấp nhận đối với tất cả mọi người, không
phân biệt dân tộc, quốc tịch. Tục lệ được thừa nhận có giá trị phổ quát, một
khi tính hợp lý, hợp tình của nó không thể bị tranh cãi. Ví dụ: không ai tiến
hành thủ tục cưỡng chế việc trả nợ trong lúc đang diễn ra tang lễ của người
mắc nợ.
1.2.4. Tục lệ chung
Là những quy tắc xử sự được chấp nhận ở một nước. Ví dụ điển hình nhất
về loại tục lệ này

ở Việt Nam là các tục lệ liên quan đến tên họ: trong

trường hợp con sinh ra có đủ cha, mẹ và khi khai sinh, người khai không có
yêu cầu gì đặc biệt, thì viên chức hộ tịch sẽ tự động ghi cho đứa trẻ mang họ
cha.

1.2.5. Tập quán địa phương
Là những quy tắc xử sự được chấp nhận ở một địa phương, một vùng
thuộc một nước, thể hiện tính đặc thù trong nếp sinh hoạt của cộng đồng
người ở vùng, địa phương đó, nếp sinh hoạt phù hợp với vị trí địa lý, đặc
điểm tự nhiên và hoàn cảnh kinh tế của vùng, địa phương. Ví dụ: ở rất nhiều
vùng, cô dâu được gia đình chú rể tặng một đôi hoa tai nhân lễ đính hôn hoặc
lễ cưới; hoa tai được coi là tài sản riêng của người vợ, nghĩa là không được
tính vào khối tài sản chung của vợ, chồng để chia, một khi chế độ tài sản của
vợ, chồng được thanh toán (do ly hôn, do vợ hoặc chồng chết,..).


1.2.6. Tập quán nghề nghiệp
Là những quy tắc xử sự được chấp nhận trong một lĩnh vực hoạt động
nghề nghiệp. Điển hình nhất là các quy tắc liên quan đến bí mật

nghề

nghiệp.
1.2.7. Quy ước
Là những tập quán, được chấp nhận trong phạm vi một địa phương hoặc
một lĩnh vực nghề nghiệp nào đó, chi phối các quan hệ kết ước được xác lập ở
địa phương đó hoặc giữa những người có cùng nghề nghiệp đó. Quy ước
thường có tác dụng xác định những nghĩa vụ phụ tiềm ẩn hoặc những thỏa
thuận mặc nhiên không được ghi nhận trong hợp đồng. Tham gia kết ước,
bên này coi như bên kia đã biết và mặc nhiên thừa nhận sự ràng buộc của
những quy ước đó đối với quan hệ kết ước giữa hai bên mà không cần phải
bày tỏ ý chí một cách rành mạch. Ví dụ: ở một vài địa phương tại Nam bộ,
khi giao kết việc mua bán một chục xoài hoặc một chục cam, các bên đều
ngầm hiểu rằng hợp đồng mua bán có đối tượng là mười bốn trái xoài hoặc
mười sáu trái cam chứ không phải chỉ mười trái xoài hoặc cam.

2. Án lệ
Khái niệm án lệ được định nghĩa tại Điều 1 và Điều 2 của Nghị quyết số
03/2015. Điều 1 Nghị quyết số 03/2015 định nghĩa: “Án lệ là những lập luận,
phán quyết trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án về
một vụ việc cụ thể”. Với định nghĩa này, thì khái niệm án lệ là chưa đủ rõ về
mặt nội dung. Do đó, Điều 2 Nghị quyết số 03/2015 đã tiếp tục cụ thể hóa nội
dung của án lệ, theo đó án lệ là “những lập luận làm rõ quy định của pháp luật
còn có cách hiểu khác nhau; phân tích, giải thích các vấn đề, sự kiện pháp lý
và chỉ ra nguyên tắc, đường lối xử lý, quy phạm pháp luật cần áp dụng
III-

GIẢI THÍCH TẠI SAO ÁN LỆ ĐƯỢC COI LÀ NGUỒN BỔ
TRỢ CỦA LUẬT DÂN SỰ

Việc án lệ được coi là nguồn bổ trợ của luật dân sự là để hoàn thiện hệ
thống pháp luật, lấp đi những lỗ hổng trong pháp luật nước ta hiện hành.


Tránh tình trạng tranh chấp xảy ra mà các bên không có thỏa thuận, pháp luật
không có quy định và không có tập quán để áp dụng.
Điều 6 BLDS 2015 quy định về áp dụng án lệ và lẽ công bằng. Án lệ có
thể được hiểu là những nguyên tắc, quy phạm được hình thành và áp dụng
trong quá trình xét xử và đưa ra phán quyết của Tòa án. Xử theo án lệ à việc
Tòa án cấp dưới vận dụng các phán quyết có từ trước của Tòa án nhân dân tối
cao để đưa ra một phán quyết có từ trước của Tòa án nhân dân tối cao để đưa
ra một phán quyết mới tương tự trong một vụ việc tương tự, hay nói cách
khác, án lệ là những bản án có tính chất làm mẫu do Tòa án nhân dân tối cao
ban hành được áp dụng trong những trường hợp không có quy định của pháp
luật một cách trực tiếp hoặc có quy định nhưng không áp dụng thống nhất
giữa các tòa, để bảo đmả cùng vụ việc tương tự ở Tòa án cần được xxets xử

như nhau. Tình tự, thủ tục ban hành án lệ được quy định trong Bộ luật tố tụng
dân sự.
Quy định về án lệ là một quy định hoàn tòa mới để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của các chủ thể tham gia quan hệ dân sự và bảo đảm mọi vụ việc
dân sự đều được giải quyết triệt để tránh hiện tượng để vụ, việc dân sự kéo
dài hoặc không xét xử được do không có thỏa thuận, háp luật không có quy
định, không có tập quán để ap dụng và không thể áp dụng pháp luật của nhiều
nước trên thế giới, thể hiện tình thần hội nhập của Việt Nam.
IV-

VÍ DỤ VỀ ÁN LỆ

Ông A và bà B là vợ chồng có đăng ký kết hôn hợp pháp, có một con
chung là cháu C. Từ năm cháu C lên hai tuổi, bà B ra nước ngoài làm việc, để
lại cháu C cho ông A nuôi dưỡng. Đến năm cháu C lên 7 tuổi, bà B trở về
Việt Nam xin ly hôn với ông A và đề nghị được nuôi dưỡng cháu C. Tòa án
thành phố H đã giải quyết cho hai người ly hôn, nhưng giao cháu C cho ông
A nuôi dưỡng. Sau khi ly hôn, ông A phát hiện thấy bà B đang làm thủ tục
đưa cháu C sang nước X cư trú theo diện thường trú với bà B, nên đã làm đơn
đề nghị Tòa án quận D, thành phố H cấm bà B thực hiện các hành vi cản trở


ông thực hiện quyền chăm sóc, nuôi dưỡng trực tiếp cháu C và thay đổi nơi
cư trú của cháu C, bao gồm cấm bà B đưa cháu C ra nước ngoài. Tòa án quận
D đã thụ lý đơn yêu cầu của ông A. Tại phiên họp giải quyết, Tòa án đã ra
quyết định cấm bà B thực hiện các hành vi có mục đích làm thay đổi nơi cư
trú của cháu C và cản trở ông A thực hiện quyền nuôi dưỡng, chăm sóc trực
tiếp cháu C, bao gồm hành vi đưa và giữ cháu C ở lại nước ngoài với các lý
do


sau

đây:

“Xét yêu cầu của ông A, Hội đồng giải quyết thấy rằng quy định tại Điều 13
của Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 nghiêm cấm việc
cách ly trẻ em khỏi cha, mẹ mình, trừ trường hợp vì lợi ích của trẻ em. Đồng
thời, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 cũng đã
quy định cha, mẹ trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp
nuôi con tôn trọng quyền được nuôi con của mình; cha, mẹ không trực tiếp
nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người
trực tiếp nuôi. Trên cơ sở các quy định này, Hội đồng giải quyết thấy rằng
ông A là người được Tòa án quận C, tỉnh D giao trực tiếp nuôi dưỡng, chăm
sóc cháu C theo bản án ly hôn giữa ông và bà B năm 2013. Do đó, ông A là
người có quyền quyết định về nơi cư trú của cháu C. Nếu bà B muốn được
trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cháu C thì phải nộp đơn yêu cầu Tòa án thay
đổi người trực tiếp nuôi con và bà B chỉ có quyền này khi được Tòa án cho
phép. Vì vậy, khi ông A đang là người được Tòa án giao trực tiếp nuôi dưỡng
cháu C thì bà B phải thực hiện nghĩa vụ tôn trọng quyền của ông A và cháu C
theo quy định của Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 và
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 nêu trên.
Tuy nhiên, Hội đồng giải quyết xét thấy rằng bà B đã cố tình không cho
ông A biết việc bà đang làm thủ tục đưa cháu C sang nước X sinh sống theo
diện thường trú; không cung cấp địa chỉ nơi bà B cư trú tại nước X khi ông A
yêu cầu. Do đó, có cơ sở để khẳng định việc làm nêu trên của bà B là nhằm
cách ly cháu C với ông A trên các phương diện: Nơi cư trú, quyền được chăm


sóc nuôi dưỡng; đồng thời, là hành vi vi phạm nghĩa vụ tôn trọng quyền được
nuôi cháu C, quyền cư trú cùng với cháu C của ông A. Để bà B phải tôn trọng

quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu C của ông A và quyền được sống chung với
ông A của cháu C, thì cần phải buộc bà B chấm dứt mọi hành vi có mục đích
làm thay đổi nơi cư trú của cháu C, bao gồm hành vi đưa cháu C ra nước
ngoài”.
Như vậy, sự phân tích, lý giải trên đây của Tòa án quận D, thành phố H
làm căn cứ cho việc đưa ra phán quyết cấm bà B thực hiện các hành vi có
mục đích làm thay đổi nơi cư trú của cháu C đã xác lập một án lệ về bảo vệ
quyền của cha, mẹ được trực tiếp nuôi con và quyền của người con được sống
chung với cha, mẹ trực tiếp nuôi dưỡng mình theo quy định của Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2014 và Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm
2004. Có thể tóm tắt án lệ này như sau: “Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con
theo quyết định của Tòa án chỉ được phép đưa con ra nước ngoài khi có sự
đồng ý của mẹ, cha là người trực tiếp nuôi con”.
KẾT LUẬN
Án lệ là loại nguồn rất quan trọng của pháp luật ở các nước thuộc hệ thống
thông luật. Nó có một số ưu điểm sau: đề cập đến các vụ việc đã xảy ra trong
thực tế mà không phải là những giả thuyết có tính lý luận về những tình
huống có thể xảy ra trong tương lai, vì vậy, nó thường phong phú và đa dạng
hơn pháp luật thành văn; góp phần bổ sung cho những thiếu sót, những lỗ
hổng của pháp luật thành văn và khắc phục được tình trạng thiếu pháp luật;
tạo điều kiện cho việc áp dụng pháp luật được dễ dàng, thuân lợi hơn.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
CÁc loại nguồn của pháp luật Việt Nam hiện nay,TS. NGUYỄN THỊ
HỒI – Khoa Luật Hành chính – Nhà nước Đại học Luật Hà Nội




×