Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ xây DỰNG hệ THỐNG CHÍNH TRỊ cơ sở VỮNG MẠNH ở TỈNH PHÚ THỌ TRONG GIAI đoạn HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (576.38 KB, 106 trang )

BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT
Viết đầy đủ
Chính trị quốc gia
Chủ nghĩa xã hội
Công tác đảng, công tác chính trị
Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng uỷ Quân sự trung ương
Hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị cơ sở
Hội đồng nhân dân
Mặt trận Tổ quốc
Nhà xuất bản
Ủy Ban nhân dân
Quy chế dân chủ
Xã hội chủ nghĩa

Viết tắt
CTQG
CNXH
CTĐ,CTCT
ĐCSVN
ĐUQSTƯ
HTCT
HTCTCS
HĐND
MTTQ

Nxb
UBND
QCDC


XHCN


2

MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU

3

Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN, THỰC
TIỄN XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ
VỮNG MẠNH Ở TỈNH PHÚ THỌ

10

1.1. Hệ thống chính trị cơ sở và xây dựng hệ thống chính
trị cơ sở vững mạnh ở tỉnh Phú Thọ
1.2. Thực trạng và một số kinh nghiệm xây dựng hệ thống

10

chính trị cơ sở vững mạnh ở tỉnh Phú Thọ giai đoạn
hiện nay

32

Chương 2 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ

YẾU XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ
VỮNG MẠNH Ở TỈNH PHÚ THỌ GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY

55

2.1. Những yếu tố tác động và phương hướng xây dựng hệ
thống chính trị cơ sở vững mạnh ở tỉnh Phú Thọ giai
đoạn hiện nay
2.2. Những giải pháp chủ yếu xây dựng hệ thống chính trị
cơ sở vững mạnh ở tỉnh Phú Thọ giai đoạn hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

55
62
87
88
92


3

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hệ thống chính trị cơ sở là một bộ phận cấu thành HTCT xã hội chủ nghĩa ở
nước ta. HTCTCS có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân
thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại
đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. HTCTCS trực tiếp lãnh

đạo, quản lý và huy động mọi nguồn lực ở cơ sở để phát triển kinh tế, văn hóa xã
hội, tổ chức và chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; tạo ra tiềm lực
vật chất, chính trị tinh thần, góp phần nâng cao sức mạnh tổng hợp cùng toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Phú Thọ là một tỉnh thuộc vùng trung du miền núi Bắc bộ, có vị trí quan
trọng trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Từ thời Hùng
Vương, Phong Châu (Phú Thọ) đã được chọn làm nơi đóng đô của Nhà nước Văn
Lang- nhà nước đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Những năm cuối thập kỷ 50 đầu
thập kỷ 60 của thế kỷ XX, khu công nghiệp Việt Trì là khu công nghiệp đầu tiên
được xây dựng trên miền Bắc XHCN. Trong giai đoạn hiện nay, Đảng, Nhà nước và
địa phương đã có nhiều chủ trương, biện pháp đầu tư xây dựng tỉnh Phú Thọ trở
thành trung tâm kinh tế; trung tâm khoa học, công nghệ, giáo dục- đào tạo, y tế, văn
hóa, du lịch, thể thao của vùng trung du miền núi Bắc bộ; là đầu mối giao thông
quan trọng nội vùng, liên vùng, là thành phố lễ hội về nguồn của dân tộc Việt Nam,
là địa bàn trọng điểm chiến lược về quốc phòng, an ninh của khu vực cũng như của
cả nước. Để phát triển Phú Thọ một cách bền vững cần phát huy mạnh mẽ nội lực,
truyền thống của địa phương đồng thời tranh thủ sự đầu tư giúp đỡ của Trung ương,
các cấp, các ngành, các địa phương trong cả nước. Trong đó, củng cố, xây dựng
HTCTCS vững mạnh là giải pháp quan trọng hàng đầu, trực tiếp quyết định đến
chất lượng hiệu quả lãnh đạo, quản lý, tổ chức thực hiện thắng lợi mọi chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, phát huy dân chủ trong xây dựng, phát
triển kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng- an ninh, giữ vững ổn định chính trị, trật
tự an toàn xã hội trên địa bàn.


4

Nhận rõ vị trí, vai trò và tầm quan trọng đó, từ khi giành được chính
quyền cho đến nay, HTCTCS trên địa bàn tỉnh Phú Thọ luôn luôn được quan tâm
xây dựng, củng cố, kiện toàn, phát huy tốt chức năng, nhiệm vụ của mình; lãnh

đạo, quản lý, tổ chức thực hiện thắng lợi mọi đường lối, chủ chương, chính sách
của Đảng và pháp luật Nhà nước ở cơ sở. Phát huy đầy đủ quyền làm chủ của
nhân dân và các tổ chức chính trị - xã hội, tham gia tích cực vào việc quản lý xã
hội ở địa phương. Tuy nhiên, trước yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng trong giai
đoạn mới, HTCTCS của tỉnh Phú Thọ nhất là ở những vùng núi, vùng sâu, vùng
xa còn bộc lộ những thiếu sót, khuyết điểm trong công tác lãnh đạo, quản lý, vận
động quần chúng thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, phát triển kinh tế, giữ vững ổn
định chính trị, xã hội. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch đang ra sức thực hiện âm
mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ chống phá cách mạng Việt
Nam, lợi dụng những vấn đề nhạy cảm đang nảy sinh trong cộng đồng dân cư để
tuyên truyền, kích động nhằm vô hiệu hoá vai trò của HTCTCS .
Những vấn đề trên cho thấy, việc nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn,
đề xuất những giải pháp chủ yếu để xây dựng HTCTCS vững mạnh ở tỉnh Phú Thọ
là một yêu cầu mang tính cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, tác giả lựa
chọn vấn đề “Xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh ở tỉnh Phú Thọ giai
đoạn hiện nay” làm đề tài của luận văn thạc sỹ khoa học chính trị, chuyên ngành
Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Hệ thống chính trị nói chung và HTCTCS nói riêng là một vấn đề lớn, được
Đảng, Nhà nước và các nhà khoa học đặc biệt quan tâm. Đã có nhiều công trình
khoa học, luận án, luận văn, bài viết đề cập về vấn đề này. Ngay từ đầu những năm
90, để phục vụ cho đổi mới chính trị, Đảng và Nhà nước ta đã triển khai chương
trình khoa học công nghệ cấp nhà nước (KX.05) nghiên cứu về “Hệ thống chính trị
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta” giao cho Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh thực hiện từ năm 1993- 1996 do Giáo sư Nguyễn Đức Bình


5


làm chủ nhiệm. Đây là công trình khoa học nghiên cứu rất cơ bản và toàn diện về
HTCT ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Công trình khoa học này đã hệ
thống hóa các đặc trưng, quan điểm, nguyên tắc xây dựng và hoạt động của HTCT,
đồng thời đề xuất mô hình tổng thể và mô hình cụ thể của HTCT ở một số cấp.
Đáng lưu ý là chương trình đã làm rõ khái niệm HTCT, phân biệt HTCT xã hội chủ
nghĩa với HTCT của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, luận giải chỉ ra những yếu
tố có thể gây mất ổn định chính trị ở nước ta gồm: sự phát triển chưa vững chắc về
kinh tế; tình trạng phân hóa giàu nghèo đang gia tăng; nạn tham nhũng, hối lộ, buôn
lậu và những tệ nạn xã hội khác; vấn đề sắc tộc và tôn giáo; hoạt động chống phá
cách mạng Việt Nam của các lực lượng phản động.
Quá trình đổi mới HTCT và nhất là từ khi có Nghị quyết Hội nghị lần
thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IX về
“Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị
trấn”(3/2002), đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều cuốn sách được xuất
bản đề cập đến lý luận và thực tiễn về HTCT và xây dựng HTCT nói chung ở
nước ta theo tinh thần đổi mới. Tiêu biểu là hai đề tài khoa học cấp nhà nước:
“Các giải pháp đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị ở các tỉnh miền núi
nước ta hiện nay” và “ Nghiên cứu một số vấn đề nhằm củng cố và tăng cường
hệ thống chính trị ở cơ sở trong sự nghiệp đổi mới và phát triển của nước ta
hiện nay” do Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh thực hiện. Cùng với đó
là sự ra đời các cuốn sách: “ Đổi mới và tăng cường hệ thống chính trị nước ta
trong giai đoạn mới” do tập thể các tác giả Nguyễn Đức Bình, Trần Ngọc Hiên,
Đoàn Trọng Tuyến, Nguyễn Văn Thảo và Trần Xuân Sầm biên soạn; “Hệ thống
chính trị cơ sở, đặc điểm, xu hướng và giải pháp” của Vũ Hoàng Công; “Hệ
thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay” do Hoàng Chí Bảo chủ
biên; “HTCTCS - thực trạng và một số giải pháp đổi mới” của Viện Nghiên cứu
khoa học tổ chức nhà nước- Bộ Nội vụ (Chu Văn Thành chủ biên).
Các công trình nghiên cứu trên đã góp phần thiết thực vào giải quyết những
vấn đề lý luận cơ bản về hệ thống chính trị, HTCTCS và xây dựng HTCTCS ở nước



6

ta. Đặc biệt đã luận giải làm rõ khái niệm HTCT, HTCTCS, phân tích đặc điểm và
tình hình hoạt động của HTCTCS, đồng thời dự báo những xu hướng biến đổi, phát
triển của HTCTCS trong thời gian tới dưới tác động của điều kiện kinh tế- xã hội,
của yêu cầu xây dựng và thực thi nền dân chủ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Các kết quả nghiên cứu trên đã thống nhất khẳng định
một vấn đề cơ bản: bản chất, mục tiêu của đổi mới và nâng cao chất lượng của
HTCT là nhằm thực hiện và phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.
HTCTCS là nơi quan hệ trực tiếp với dân, xây dựng HTCTCS giữ vai trò then chốt
trong xây dựng, đổi mới HTCT ở nước ta hiện nay.
Từ năm 1998, khi Quy chế dân chủ ở cơ sở ra đời, đã có nhiều công trình
khoa học tập trung nghiên cứu về vai trò của HTCTCS trong việc thực hiện quy chế
dân chủ cũng như tác dụng, giá trị của quy chế đối với xây dựng, củng cố HTCTCS.
Trong đó, quá trình hoàn thiện HTCT nói chung được xem như một tiêu chí cơ bản
để đánh giá trình độ làm chủ của nhân dân trong đời sống xã hội và việc thực thi
quy chế dân chủ ở cơ sở đến lượt nó cũng trở thành một trong những giải pháp cực
kỳ quan trọng góp phần xây dựng và hoàn thiện HTCT ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay mà trước hết là ở cơ sở và từ cơ sở. Tiêu biểu có các cuốn sách: “Hệ thống
chính trị cấp cơ sở và dân chủ hóa đời sống xã hội nông thôn miền núi, vùng dân
tộc thiểu số các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta” do Nguyễn Quốc Phẩm chủ biên;
“Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong tình hình hiện nay- một số vấn đề lý luận
và thực tiễn” do Nguyễn Cúc chủ biên; “Các đoàn thể nhân dân với việc bảo đảm
dân chủ ở cơ sở hiện nay” do Phan Xuân Sơn chủ biên; thực hiện quy chế dân chủ
và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay” do Nguyễn Văn Sáu và Hồ
Văn Thông đồng chủ biên. Từ cách tiếp cận HTCTCS dưới góc độ là một thể chế
chính trị, nội dung của các cuốn sách đã đi sâu phân tích vai trò của từng tổ chức
thành viên đối với việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, trình bày những yêu cầu
cụ thể để xây dựng từng tổ chức và HTCTCS nói chung nhằm phát huy ngày càng

tốt hơn dân chủ XHCN trong đời sống xã hội hiện nay. Trong đó, có cuốn sách đã
đi sâu khảo sát đặc điểm và thực trạng HTCTCS vùng nông thôn, miền núi- là vùng


7

chiếm phần lớn diện tích trong địa bàn cơ sở, nơi còn nhiều khó khăn về kinh tế- xã
hội, vừa có tính phổ quát, đại diện cho HTCTCS ở nước ta, vừa có điểm tương đồng
với đặc thù địa bàn tỉnh Phú Thọ; nghiên cứu vai trò, hoạt động của HTCTCS gắn
với quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, ..v.v. Vì thế, những kết quả nghiên
cứu của các công trình trên có ý nghĩa to lớn đối với việc vận dụng nghiên cứu xây
dựng HTCTCS ở tỉnh Phú Thọ giai đoạn hiện nay.
Trực tiếp nghiên cứu về xây dựng HTCTCS ở các tỉnh miền núi, đáng chú
ý có hai cuốn sách: “Giải pháp đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị ở các tỉnh
miền núi nước ta hiện nay” của các tác giả Tô Huy Rứa, Nguyễn Cúc, Trần Khắc
Việt đồng chủ biên và “Một số vấn đề về xây dựng HTCT ở Tây Nguyên” do
Phạm Hảo và Trương Minh Dục đồng chủ biên được hình thành trên cơ sở chọn
lọc các bài tham luận tại hội thảo của đề tài khoa học cấp nhà nước “Các giải
pháp đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị ở các tỉnh miền núi nước ta hiện
nay”. Trong đó, trên cơ sở nghiên cứu bản chất, đặc trưng chủ yếu của HTCT
Việt Nam, những thành tựu đạt được của HTCT các tỉnh miền núi trong thời kỳ
đổi mới, các bài viết đã đề cập những đặc điểm và yếu tố ảnh hưởng đến quá
trình xây dựng HTCT ở Tây Nguyên, đánh giá tổng quát thực trạng và những
vấn đề đặt ra liên quan đến tổ chức và hoạt động của HTCT các tỉnh Tây Nguyên
hiện nay. Ngoài ra, tác giả Trương Minh Dục còn có cuốn sách “Một số vấn đề
lý luận và thực tiễn về dân tộc và quan hệ dân tộc ở Tây Nguyên”. Trong cuốn
sách này, trên cơ sở phân tích tác động ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế, chính trị,
văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo đến đời sống các dân tộc và quan hệ giữa các dân
tộc Tây Nguyên, tác giả đã trình bày những đặc trưng của việc tổ chức quản lý xã
hội vùng dân tộc thiểu số Tây Nguyên; đánh giá thực trạng, chỉ ra yêu cầu xây

dựng HTCTCS ở Tây Nguyên trong thời kỳ mới. Tác giả đặc biệt coi trọng việc
xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở, cán bộ người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, coi
đó là nhân tố then chốt để tiến tới bình đẳng dân tộc và tăng cường đoàn kết các
dân tộc Tây Nguyên, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
theo định hướng XHCN. Các công trình nghiên cứu trên được thực hiện trong


8

khoảng thời gian từ 2001- 2003, là thời điểm mà ở địa bàn cơ sở của Tây Nguyên
đã có những biến động phức tạp do sự chống phá của các thế lực thù địch, cũng là
lúc HTCTCS ở các tỉnh Tây Nguyên bộc lộ rõ những hạn chế, yếu kém. Vì vậy,
kết quả nghiên cứu trong các công trình đó đã phản ánh sát thực tình hình mọi mặt
của Tây Nguyên, cung cấp thêm những tư liệu thực tiễn sinh động về thực trạng tổ
chức và hoạt động của HTCTCS đồng thời đặt ra những vấn đề cần tiếp tục
nghiên cứu trong xây dựng HTCT CS vững mạnh ở tỉnh Phú Thọ hiện nay.
Trong tất cả các công trình đã được công bố, chưa có công trình nào
nghiên cứu về xây dựng HTCTCS vững mạnh ở tỉnh Phú Thọ, nhưng đó là những tư
liệu quý giá để tác giả tham khảo, nghiên cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn, trên cơ sở đó đề
xuất những giải pháp chủ yếu xây dựng HTCTCS vững mạnh ở tỉnh Phú Thọ giai
đoạn hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm sáng tỏ một số vấn đề cơ bản về HTCTCS và xây dựng HTCTCS
vững mạnh ở tỉnh Phú Thọ.
- Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra một số kinh
nghiệm xây dựng HTCTCS vững mạnh ở tỉnh Phú Thọ.
- Xác định phương hướng, yêu cầu và đề xuất những giải pháp chủ yếu xây

dựng HTCTCS vững mạnh ở tỉnh Phú Thọ giai đoạn hiện nay.
* Đối tượng nghiên cứu
Xây dựng HTCTCS vững mạnh ở tỉnh Phú Thọ giai đoạn hiện nay là đối
tượng nghiên cứu của luận văn.
* Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn, đề xuất những giải
pháp chủ yếu xây dựng HTCTCS cấp xã, phường, thị trấn của tỉnh Phú Thọ. Các tư


9

liệu, số liệu điều tra, khảo sát thực tiễn được giới hạn từ năm 2006 đến năm 2010.
Phương hướng giải pháp xác định đến năm 2016.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn
* Cơ sở lý luận:
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách, pháp luật của Nhà
nước về xây dựng HTCT xã hội chủ nghĩa. Luận văn còn kế thừa những kết quả
nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan.
* Cơ sở thực tiễn:
Cơ sở thực tiễn của luận văn là các chủ trương, biện pháp và hoạt động
thực tiễn trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức xây dựng HTCTCS các xã, phường, thị
trấn ở tỉnh Phú Thọ từ năm 2006 đến 2010.
* Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, đề tài sử dụng tổng
hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học liên ngành và chuyên ngành. Trong
đó, tập trung sử dụng một số phương pháp cụ thể như: kết hợp lô gíc và lịch sử;
phân tích, tổng hợp; điều tra, khảo sát, thống kê; tổng kết thực tiễn và tham khảo ý
kiến chuyên gia.
5. Ý nghĩa của luận văn

Kết quả nghiên cứu của luận văn cung cấp thêm cơ sở khoa học cho cấp ủy
đảng, chính quyền, tổ chức chính trị- xã hội các cấp ở tỉnh Phú Thọ xác định chủ
trương, biện pháp xây dựng HTCTCS vững mạnh đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của tình
hình nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay.
Đề tài còn được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy ở các học viện,
trường sỹ quan trong quân đội; các trường chính trị tỉnh, thành phố và trung tâm
giáo dục chính trị của huyện, thị xã.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.


10

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN XÂY DỰNG
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ VỮNG MẠNH Ở TỈNH PHÚ THỌ
1.1. Hệ thống chính trị cơ sở và xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững
mạnh ở tỉnh Phú Thọ
1.1.1. Hệ thống chính trị cơ sở ở tỉnh Phú Thọ
* Khái quát về tỉnh Phú Thọ
Phú Thọ là một tỉnh trung du miền núi Bắc bộ, phía Bắc giáp tỉnh Tuyên Quang và
Yên Bái; phía Nam giáp tỉnh Hoà Bình; phía Đông giáp Hà Nội và Vĩnh Phúc; phía Tây
giáp Sơn La. Vị trí đó tạo thế chiến lược quan trọng của Phú Thọ là cửa ngõ nối liền vùng
Tây Bắc của Tổ quốc với Thủ đô Hà Nội và vùng châu thổ sông Hồng.
Phú Thọ có diện tích tự nhiên 3.528km 2, chiếm 1,2% diện tích cả nước
(trong đó, diện tích miền núi là 3.227km 2 chiếm 92,3% diện tích toàn tỉnh); chiếm
5,4% diện tích núi đồi phía Bắc. Toàn tỉnh có 13 huyện, thị, thành phố, 277 xã,
phường, thị trấn. Trong đó có 217 xã miền núi (chiếm 78,4 % số xã), trong số đó có
7 xã vùng cao, 50 xã đặc biệt khó khăn, 10 xã an toàn khu (ATK).

Dân số của tỉnh Phú Thọ là 1.313.926 người, gồm 21 dân tộc. Dân số miền núi
là 950.000 người chiếm 72,4% dân số toàn tỉnh. Trong đó, dân tộc thiểu số có gần
227.000 người, dân tộc Mường có số dân cao nhất: 186.000 người. Các dân tộc


11

thiểu số sống tập trung tại các huyện Thanh Sơn, Tân Sơn, Yên Lập, Thanh Thủy,
Đoan Hùng. Có 4 dân tộc: Mường, Dao, Cao Lan, Mông sống tập trung thành
làng, bản riêng, có bản sắc văn hoá, phong tục tập quán khá đậm nét. Tình hình
kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi ổn định và ngày càng phát triển. Tuy
nhiên, do địa bàn miền núi trải rộng, địa hình phức tạp, giao thông đi lại khó khăn,
cơ sở hạ tầng còn thấp kém, điểm xuất phát về kinh tế thấp, phong tục tập quán
còn lạc hậu, tư duy kinh tế còn mang nặng tính tự cấp, tự túc, tỷ lệ hộ nghèo còn
cao trình độ chuyên môn và quản lý của đội ngũ cán bộ vùng miền núi, dân tộc
còn hạn chế. Một bộ phận cán bộ và nhân dân vùng dân tộc miền núi còn có tư
tưởng ỉ lại, trông chờ vào chính sách hỗ trợ của Nhà nước.
Trên địa bàn tỉnh có 2 tôn giáo chính là Đạo Phật và Thiên Chúa Giáo với trên
160.000 tín đồ chiếm khoảng 12,5% dân số toàn tỉnh [54, tr.14], cư trú ở tất cả các
huyện, thị, thành phố của tỉnh. Các tín đồ và chức sắc tôn giáo trong tiến trình lịch
sử đều thực hiện sống “tốt đời đẹp đạo", tin tưởng và ủng hộ đường lối đổi mới của
Đảng. Tuy nhiên, còn một số tà đạo đang lén lút hoạt động, làm ảnh hưởng đến đời
sống tâm linh, trật tự an toàn xã hội của địa phương.
Thành phố Việt Trì là trung tâm hành chính - kinh tế - văn hoá của tỉnh. Trong
quyết định phê duyệt quy hoạch đô thị Việt Nam đến năm 2020 của Thủ tướng Chính
phủ, Việt Trì là một trong 11 đô thị vùng của cả nước, là trung tâm kinh tế, giáo dục
đào tạo, y tế, văn hoá thể thao của vùng trung du miền núi, là thành phố Lễ hội về
nguồn của cả nước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh từ năm 2005 tới nay liên tục
tăng cao bình quân đạt 10,3%. GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt 11,7 triệu
đồng (tương đương 633,2 USD), tăng 2,1 lần so với năm 2005. Tổng kim ngạch xuất

khẩu năm 2009 đạt 285,2 triệu USD [5, tr 02].
Là nơi: “Thiên thời, địa lợi, nhân hoà”, Phú Thọ đã trở thành trung tâm của Nhà
nước Văn Lang thời các vua Hùng dựng nước - Nhà nước đầu tiên của dân tộc Việt
Nam. Nơi đây còn là địa bàn lưu giữ nhiều phong tục tập quán, lễ hội văn hoá truyền
thống với những sắc thái đa dạng, phong phú và mang đậm dấu ấn vùng đất Tổ. Trải
qua hàng ngàn năm lịch sử, cùng với sự phát triển của đất nước, các thế hệ người dân


12

Phú Thọ kế tiếp nhau phát huy truyền thống cần cù, sáng tạo trong lao động; đoàn kết,
dũng cảm, kiên cường trong đấu tranh chống thiên tai và giặc ngoại xâm, tình nghĩa
thuỷ chung trong cuộc sống.
Với vị trí địa lý và tiềm năng phát triển kinh tế trọng điểm của khu vực, Phú
Thọ sớm được xác định là địa bàn chiến lược quan trọng trong phòng thủ đất nước.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, tỉnh Phú Thọ đã được tặng
thưởng 02 Huân chương kháng chiến hạng Nhất, 01 huân chương chiến công hạng
Nhất, 210 huân chương kháng chiến cho các đơn vị, khu phố, xí nghiệp; 30 cá nhân
được phong tặng danh hiệu Anh hùng lược lượng vũ trang nhân dân; 400 Bà mẹ
được phong tặng danh hiệu Mẹ Việt Nam anh hùng. Năm 1985, Đảng bộ và nhân
dân Phú Thọ được nhà nước tặng thưởng Huân chương sao vàng về thành tích đóng
góp to lớn trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước.
Tuy nhiên, Phú Thọ vẫn còn là một tỉnh nghèo, kinh tế phát triển chưa thực sự
vững chắc, chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh còn thấp; chuyển dịch cơ cấu
kinh tế còn chậm, chưa khai thác được tiềm năng lợi thế cho phát triển; cân đối
ngân sách trên địa bàn vẫn còn nhiều khó khăn (thu mới đảm bảo 40% chi, còn phụ
thuộc vào Ngân sách Trung ương trợ cấp). Quản lý Nhà nước về quy hoạch kiến
trúc đô thị, tài nguyên đất đai, khoáng sản, môi trường chưa đáp ứng yêu cầu; nhiều
vấn đề xã hội như ô nhiễm môi trường, tai nạn giao thông, tệ nạn xã hội... có xu
hướng gia tăng. Các tiềm năng và lợi thế của một tỉnh trung du đất Tổ chưa phát

huy được một cách hiệu quả nhất.
Song, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã đoàn kết,
sáng tạo, khai thác những tiềm năng, lợi thế vốn có, xác định những nhiệm vụ trọng
tâm trong đó có xây dựng HTCTCS vững mạnh, để bứt phá và đã đạt được những kết
quả quan trọng, khẳng định bước đi vững chắc của tỉnh trong những năm đầu thế kỷ
XXI.
* Quan niệm hệ thống chính trị cơ sở ở tỉnh Phú thọ
HTCT xã hội chủ nghĩa là một chỉnh thể, bao gồm toàn bộ những tổ chức
chính trị-xã hội hoạt động hợp pháp, cùng những cơ chế chính trị bảo đảm thực
hiện quyền lực thuộc về nhân dân.


13

Cấu trúc của HTCT xã hội chủ nghĩa bao gồm: Đảng Cộng sản, Nhà nước
XHCN và các đoàn thể nhân dân mang tính chất chính trị xã hội, hoạt động theo một cơ
chế thống nhất phù hợp với quy luật phát triển của xã hội, thực hiện đường lối, mục tiêu
xây dựng CNXH. Cơ chế đó đảm bảo mọi quyền lực thuộc về nhân dân lao động, dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và sự quản lý của Nhà nước XHCN.
HTCT xã hội chủ nghĩa hình thành khi Đảng kiểu mới của GCCN nắm được
chính quyền, lãnh đạo nhân dân lao động đi lên CNXH. Đây là thiết chế chính trị
thể hiện quyền lực của GCCN, đem lại lợi ích chính đáng cho nhân dân lao động,
do đó nó khác hẳn về chất so với các thiết chế chính trị của các giai cấp thống trị
tồn tại trong lịch sử. Trong HTCT xã hội chủ nghĩa, mỗi bộ phận của nó hoạt động
với chức năng, vai trò riêng, song cùng hướng tới thực hiện mục tiêu chung là xây
dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao
động thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng CNXH.
Xét về bản chất, HTCT xã hội chủ nghĩa là HTCT nhất nguyên do Đảng
Cộng sản lãnh đạo. Tính nhất nguyên đó nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của
GCCN đối với xã hội, giữ vững ổn định chính trị, thực hiện tốt dân chủ XHCN,

đem lại quyền lực thực tế thuộc về nhân dân lao động, đảm bảo cho sự phát triển
của đất nước theo con đường XHCN. Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản đối với HTCT xã hội chủ nghĩa và toàn xã hội là nguyên tắc tối cao,
là điều kiện tiên quyết thực hiện thắng lợi mục đích của GCCN là xây dựng thành
công CNXH, CNCS ở mỗi nước và toàn thế giới.
Ở nước ta, khái niệm HTCT lần đầu tiên được sử dụng trong văn kiện hội
nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa VI (năm 1990) và cho đến nay
khái niệm này được sử dụng khá phổ biến. Đảng ta xác định, HTCT xã hội chủ
nghĩa ở nước ta bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội như: MTTQ Việt Nam, Hội Phụ nữ, Hội
Cựu chiến binh, Đoàn thanh niên…Đây là những thiết chế chính trị nhằm từng bước
xây dựng, phát triển và hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm mọi quyền lực


14

thuộc về nhân dân và thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh.
Về cơ cấu tổ chức, HTCT ở nước ta hiện nay được phân thành bốn cấp:
Trung ương, tỉnh - thành phố, huyện - quận và cấp xã, phường, thị trấn. Trong đó
cấp xã, phường, thị trấn được xác định là đơn vị hành chính cấp cơ sở.
Từ những vấn đề trên, có thể quan niệm: HTCTCS ở tỉnh Phú Thọ là một bộ
phận của HTCT Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thành lập ở xã,
phường, thị trấn của tỉnh Phú Thọ; bao gồm các tổ chức, thiết chế hợp pháp, có quan hệ
chặt chẽ, thống nhất với nhau để thực hiện quyền lực của nhân dân ở cơ sở và xây dựng
địa phương vững mạnh toàn diện, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị.
Cấu trúc của HTCTCS ở tỉnh Phú Thọ là một chỉnh thể thống nhất, bao
gồm các tổ chức, các thiết chế chính trị hợp pháp được pháp luật thừa nhận đó là: tổ
chức cơ sở đảng; chính quyền cơ sở (HĐND xã, UBND xã); Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân (Đoàn thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến

binh), được tổ chức, hoạt động theo Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước và gắn bó
hữu cơ với nhau. Mỗi thành viên trong HTCTCS có vị trí, vai trò, chức năng khác
nhau, song đều vận hành theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân
lao động làm chủ.
Chức năng, nhiệm vụ của HTCTCS được biểu hiện cụ thể qua chức năng,
nhiệm vụ của các thành tố cấu thành HTCTCS:
- Tổ chức cơ sở đảng có chức năng, nhiệm vụ lãnh đạo trực tiếp, toàn diện
trên các lĩnh vực của đời sống xã hội ở cơ sở, lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể
quần chúng. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định, tổ chức cơ sở đảng ở xã có
các chức năng, nhiệm vụ chủ yếu sau:
Một là, chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước; đề ra chủ trương, nhiệm vụ chính trị của đảng bộ, chi bộ và lãnh đạo thực
hiện có hiệu quả.
Hai là, xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; nâng cao chất


15

lượng sinh hoạt đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ luật và tăng
cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng; thường xuyên giáo dục, rèn luyện và quản
lý cán bộ, đảng viên, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, tính chiến đấu, trình
độ kiến thức, năng lực công tác; làm công tác phát triển đảng viên.
Ba là, lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức kinh tế, hành chính, sự
nghiệp, quốc phòng, an ninh, và các đoàn thể chính trị-xã hội trong sạch, vững mạnh;
chấp hành đúng pháp luật và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Bốn là, liên hệ mật thiết với nhân dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần
và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; lãnh đạo nhân dân tham gia xây dựng và
thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Năm là, kiểm tra việc thực hiện, bảo đảm các nghị quyết, chỉ thị của Đảng

và pháp luật Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh; kiểm tra tổ chức đảng và
đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng.
- Chính quyền xã (bao gồm Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân xã).
Theo Luật tổ chức và hoạt động của HĐND và UBND thì HĐND xã là cơ quan
quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm
chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân
địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.
Hội đồng nhân dân xã có chức năng, nhiệm vụ là quyết định và giám sát.
Trong chức năng quyết định, HĐND quyết định những vấn đề trên các mặt kinh tế;
văn hóa, giáo dục, xã hội, an ninh, quốc phòng, trật tự, an toàn xã hội.v.v. Đối với
việc xây dựng chính quyền xã, HĐND xã có nhiệm vụ quyền hạn: bầu, miễn nhiệm,
bãi nhiệm đối với chủ tịch, phó chủ tịch Hội đồng nhân dân, chủ tịch, phó chủ tịch
và thành viên khác của UBND xã; bãi nhiệm đại biểu HĐND; bãi bỏ một phần hoặc
toàn bộ quyết định, chỉ thị trái pháp luật của UBND xã; bỏ phiếu tín nhiệm đối với
người giữ chức vụ do HĐND bầu. Trong chức năng giám sát, HĐND giám sát hoạt
động của chủ tịch, phó chủ tịch HĐND, UBND xã, giám sát việc thực hiện nghị
quyết của HĐND, việc tuân thủ pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị xã hội , tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở


16

địa phương. Xem xét báo cáo của chủ tịch hội đồng nhân dân, UBND cấp xã, xem
xét việc trả lời chất vấn của người bị chất vấn theo quy định của pháp luật. Trong
quá trình thực hiện chức năng giám sát, chủ tịch HĐND, đại biểu HĐND có quyền
yêu cầu các cơ quan nhà nước hữu quan, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức kinh tế
cung cấp tài liệu, thông tin cần thiết; khi có sai phạm thì có quyền yêu cầu các cơ
quan, tổ chức đó xem xét, xử lý theo thẩm quyền. HĐND xã thực hiện chức năng,
quyền hạn của mình chủ yếu thông qua các kỳ họp (2lần/1 năm), qua hoạt động
thường xuyên của chủ tịch và phó chủ tịch HĐND, qua hoạt động của các đại biểu
HĐND theo luật định.

Điều 123 Hiến pháp 1992 quy định: UBND do HĐND bầu ra, là cơ quan
chấp hành của HĐND, cơ quan hành chính ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp
hành Hiến pháp, pháp luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị
quyết của HĐND. Như vậy, UBND xã là cơ quan hành chính nhà nước ở cơ sở. Với
tư cách đó, UBND có chức năng, nhiệm vụ thực hiện quản lý nhà nước trên địa bàn
xã, tổ chức thực hiện những nghị quyết và quyết định của HĐND cùng cấp về kế
hoạch, ngân sách, tài chính; về quản lý nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, thủy
lợi; về tiểu thủ công nghiệp; về giao thông; về thương mại, dịch vụ; về văn hóa,
giáo dục; về y tế, xã hội; về quốc phòng- an ninh; về thi hành pháp luật; về xây
dựng chính quyền và quản lý địa giới hành chính.
Tóm lại, chính quyền cơ sở là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng, quyền
và lợi ích của nhân dân ở cơ sở. Đây là lực lượng nòng cốt của HTCTCS, thực hiện
chức năng quản lý hành chính; tổ chức, điều hành mọi lĩnh vực hoạt động của quần
chúng nhân dân và tổ chức, định hướng các hoạt động tự quản của nhân dân ở cơ sở.
Các tổ chức chính trị-xã hội trong HTCTC bao gồm: Ủy ban Mặt trận Tổ quốc,
Đoàn thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân và Hội Cựu chiến binh. Các tổ chức này
có có chức năng, nhiệm vụ chủ yếu là: tập hợp, củng cố, xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân, tạo sự nhất trí về chính trị, tinh thần của nhân dân; tuyên truyền vận động
nhân dân phát huy quyền làm chủ thực sự của mình trong thực hiện đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước; bảo vệ, đại diện


17

cho quyền lợi, ý chí của các thành viên trong việc tham gia xây dựng, giám sát Đảng và
chính quyền. Tập hợp những kiến nghị của nhân dân để phản ánh với Đảng và cơ quan
Nhà nước; chăm lo, bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ chính đáng của nhân dân. Đặc biệt
trong giai đoạn hiện nay, trước yêu cầu của công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc
XHCN, MTTQ còn có một chức năng quan trọng đó là chức năng phản biện xã hội.
Thông qua việc thực hiện chức năng này MTTQ thực hiện quyền giám sát việc đề ra

các chủ trương, biện pháp lãnh đạo, tổ chức thực hiện các mục tiêu xây dựng, phát triển
kinh tế - xã hội và trong thực hiện dân chủ XHCN ở cơ sở của tổ chức đảng, chính
quyền địa phương đúng hay sai, hiệu quả hay không hiệu quả. Từ đó, kiến nghị với tổ
chức đảng, chính quyền cơ sở điều chỉnh cho phù hợp. Hiện nay, trong Quy chế thực
hiện dân chủ ở cơ sở, các đoàn thể này còn có nhiệm vụ trực tiếp tổ chức nhân dân xây
dựng các công trình dân sinh do nhân dân tự nguyện đóng góp kinh phí.
* Đặc điểm hệ thống chính trị cơ sở ở tỉnh Phú Thọ
Do các điều kiện địa lý tự nhiên, kinh tế, xã hội chi phối, cho nên HTCTCS
ở tỉnh Phú Thọ có những đặc điểm nổi bật sau đây:
Một là, HTCTCS ở Phú Thọ được hình thành từ rất sớm
Thông thường, trong quá trình hình thành một chế độ xã hội thì HTCT được
hình thành trước hết ở Thủ đô hoặc ở trung tâm kinh tế, chính trị lớn, sau đó sẽ mở
rộng ra ở những vùng nông thôn, vùng núi cao. Nhưng trên thực tế, HTCT ở Phú Thọ
được hình thành sớm hơn các tỉnh khác. Từ năm 1941, ở chiến khu Việt Bắc đã hình
thành những mầm mống của một HTCT mới và ảnh hưởng của nó lan rộng đến một số
địa phương của tỉnh Phú Thọ giáp với Tuyên Quang. Trước khi giành được chính
quyền trên phạm vi cả nước thì ở Phú Thọ đã thành lập được một chính quyền cách
mạng, làm chủ một phần đất đai huyện Hạ Hòa, Cẩm Khê hoặc hoạt động bí mật.
Chính quyền cách mạng đã phát triển và mở rộng dần, tạo ra một chiến khu Vần (Hiền
Lương) làm chỗ dựa cho phong trào cách mạng cả nước. Được núi rừng che chở, chính
quyền cách mạng ngày một lớn dần lên và khi có đủ thời cơ đã tiến hành khởi nghĩa vũ
trang giành chính quyền (huyện Hạ Hòa khởi nghĩa giành chính quyền sớm nhất ngày
02 tháng 8 năm 1945). Như vậy, có thể nói rằng Phú Thọ là một trong những địa


18

phương có HTCT nói chung, HTCTCS nói riêng được hình thành và phát triển đầu tiên
trong cả nước.
Được hình thành trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, cho nên

HTCTCS ở Phú Thọ thể hiện tinh thần yêu nước nồng nàn, tinh thần cách mạng tiến
công. Mỗi địa danh của quê hương đều gắn liền với những chiến công và ghi dấu
chân những người chiến sỹ cộng sản, của những người con ưu tú của đất nước.
Đồng bào các dân tộc Phú Thọ sớm giác ngộ theo Đảng, theo Bác Hồ để đánh đuổi
giặc ngoại xâm. Vì vậy, nhân dân Phú Thọ mang trong mình một truyền thống cách
mạng vẻ vang, một lòng tin sắt đá về Đảng, về Bác Hồ. Xét về mặt dân trí thì nhân
dân Phú Thọ, đặc biệt là ở vùng núi có trình độ thấp hơn miền xuôi, nhưng trình độ
giác ngộ cách mạng, ý thức độc lập tự do, vì sự nghiệp chung thì cán bộ và nhân
dân Phú Thọ rất cao, không hề kém các tỉnh miền xuôi và đô thị. Truyền thống cách
mạng đã ăn sâu vào tâm thức của cán bộ và đồng bào, có rất nhiều phong trào và
tấm gương sáng về sự cống hiến cho sự nghiệp chung của dân tộc.
Hai là, HTCTCS tỉnh Phú Thọ không đồng nhất về cơ cấu và chất lượng.
Ở tỉnh Phú Thọ, điều kiện địa lý tự nhiên có sự khác biệt giữa vùng núi, vùng
đồi trung du và vùng đồng bằng; điều kiện kinh tế-xã hội cũng có sự khác biệt và do đó,
HTCTCS ở mỗi vùng cũng không đồng nhất về cơ cấu và chất lượng.
Sự không đồng nhất của HTCTCS trên địa bàn tỉnh Phú Thọ trước hết được
thể hiện ở sự khác biệt về cộng đồng dân cư và cơ cấu giai cấp-xã hội. Khác với các
xã ở trung du, đồng bằng, đô thị HTCTCS, cộng đồng dân cư ở các xã miền núi
được hình thành với nhiều dân tộc thiểu số sinh sống trên một địa bàn. Mỗi dân tộc
có tiếng nói, ngôn ngữ và sắc thái khác nhau, nhưng đồng bào các dân tộc sống hoà
thuận và đoàn kết. Tuy nhiên, để bảo đảm sự bình đẳng và tiếng nói chung của các
dân tộc, trong cơ cấu của HTCTCS ở các xã miền núi phải có đủ đại diện của các
dân tộc đang sinh sống trên địa bàn. Như vậy, để có một HTCTCS vững mạng, hoạt
động có hiệu quả, cần hình thành một cơ cấu nhân sự hợp lý mà trong đó mỗi tổ
chức chính trị và mỗi dân tộc đều có đại diện thích hợp của mình. Mỗi đại biểu lại
mang những bản sắc văn hóa riêng của dân tộc mình vào HTCTCS.


19


Có thể nhận thấy, cơ cấu giai cấp-cơ cấu xã hội ở các xã đồng bằng, đô thị phức
tạp hơn các xã miền núi. Ngoài giai cấp công nhân còn có đội ngũ trí thức, các chủ
doanh nghiệp, tiểu thương, cán bộ và viên chức nhà nước. Cơ cấu giai cấp-xã hội này đã
làm cho HTCTCS ở các xã vùng đồng bằng và đô thị thể hiện tính giai cấp rõ hơn.
Ngược lại, ở các xã miền núi chủ yếu chỉ có một giai cấp cơ bản là giai cấp nông dân, vì
vậy, việc giải quyết sự khác biệt lợi ích giai cấp hầu như không đặt ra.
Đối với vùng núi như huyện Thanh Sơn, Tân Sơn, Yên Lập, Đoan Hùng, Hạ
Hòa...với diện tích rộng (một số xã có diện tích tương đương diện tích một huyện của
các tỉnh khác), nhưng mật độ dân số thấp hơn nhiều so với các huyện trung du, đồng
bằng như Lâm Thao, Thanh Ba, Phù Ninh…. số lượng cán bộ được rải ra trên một địa
bàn rộng nên khả năng gắn với dân, gắn với địa bàn của cán bộ lãnh đạo, quản lý gặp
rất nhiều khó khăn. Điều này gây khó khăn cho đội ngũ cán bộ cơ sở trong học tập
nâng cao trình độ, năng lực lãnh đạo, quản lý. Do địa bàn rộng, đường sá đi lại khó
khăn, nên mối liên hệ giữa chính quyền và nhân dân ở các xã miền núi thiếu sự gắn bó
chặt chẽ, các tổ chức đoàn thể chính trị hoạt động hết sức khó khăn, dễ dẫn đến tình
trạng quan liêu của đội ngũ cán bộ và bộ máy quản lý của chính quyền cơ sở.
Ba là, HTCTCS là cấp gần dân nhất, cán bộ chủ chốt trong HTCT phụ
thuộc rất lớn vào sự tín nhiệm của nhân dân trong các kỳ bầu cử.
Đặc điểm này vừa mang tính thể chế, vừa mang tính thực tế. Với tư cách là
đặc điểm mang tính thể chế, khác với chính quyền cấp trên cơ sở, nhân dân trong xã
tự lựa chọn những người xứng đáng vào cơ quan lãnh đạo, quản lý chính quyền
thông qua bầu cử. Nếu được dân bầu thì một cá nhân trở thành cán bộ của bộ máy
chính quyền và đoàn thể ở cơ sở. Khi không được bầu lại, thì người đó trở lại làm
công dân bình thường. Nhà nước không bảo đảm công việc cho những người thất
cử (tùy theo thời gian công tác có thể bảo đảm chế độ đãi ngộ vật chất dưới hình
thức bảo hiểm xã hội). Từ đặc điểm này có thể khẳng định, cấp xã là mắt khâu trung
gian, là bước chuyển tiếp giữa chế độ tự quản làng xã sang chế độ quản lý hành
chính nhà nước đầy đủ (sẽ thể hiện ở các cấp chính quyền cao hơn).



20

Bốn là, hiệu quả hoạt động của HTCTCS tỉnh Phú Thọ phụ thuộc rất lớn
vào vai trò cá nhân người đứng đầu các tổ chức và chịu sự ảnh hưởng, chi phối bởi
quan hệ dòng họ, lối ứng sử truyền thống.
Khác với HTCT cấp trên, ở cấp cơ sở mức độ phụ thuộc của tổ chức
đảng, chính quyền, đoàn thể vào cá nhân người lãnh đạo lớn hơn rất nhiều.
Bởi lẽ, quần chúng nhân dân ở vùng miền núi do dân trí thấp, vì vậy thường
thụ động hơn so với nhân dân các vùng khác. Các đoàn viên, hội viên của
các đoàn thể, vì nhiều lý do, rất ít khi chủ động đề xuất ý kiến với tổ chức
mà phải chờ đợi sự chỉ đạo, định hướng, hướng dẫn và tác động của lãnh
đạo, quản lý các cấp. Mặt khác cơ quan tham mưu, giúp việc cho tổ chức, bộ
máy của Đảng, chính quyền, đoàn thể ở cơ sở không có. Do đó, người lãnh
đạo trở thành linh hồn, trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức
thực hiện mọi công việc. Câu nói của Bác Hồ: có cán bộ thì có tất cả, cán bộ
là gốc của phong trào…, trong phạm vi các xã miền núi và trung du Phú Thọ
càng đúng hơn bất kỳ nơi nào.
Ở tỉnh Phú Thọ, thường có tình trạng “chi bộ họ ta”, thành viên cấp ủy được
phân bổ theo dòng họ, theo cánh, theo làng và cán bộ xã phải là những người cùng cánh.
Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng hoạt động trong nội bộ mỗi tổ chức trong
HTCTCS. Nhiều khi vì quan hệ thân tộc, vì lợi ích phe cánh mà nể nang, né tránh đấu
tranh, dẫn đến làm giảm hiệu quả hoạt động của tổ chức đảng và chính quyền cơ sở.
* Vai trò của hệ thống chính trị cơ sở ở tỉnh Phú Thọ
HTCTCS xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Phú Thọ giữ vai trò đặc biệt
quan trọng trong thực hiện các chính sách kinh tế, xã hội ở cơ sở; tổ chức và vận động
nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và các chỉ thị, nghị
quyết của cấp trên. Vai trò đó được biểu hiện trên những điểm cơ bản sau:
Một là, HTCTCS ở Phú Thọ là nơi trực tiếp tuyên truyền, vận động và tổ chức
nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước trên địa bàn.



21

Trong HTCT 4 cấp (Trung ương, tỉnh, huyện, xã) ở nước ta hiện nay,
HTCTCS là cấp tổ chức thấp nhất, gần dân nhất, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với
quần chúng nhân dân. Năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành và uy tín của Đảng, Nhà
nước đối với nhân dân; hình của Đảng Cộng sản, của Nhà nước XHCN được thể hiện
chủ yếu thông qua HTCTCS. Với vị trí là tổ chức tế bào cơ bản hợp thành nền tảng của
chế độ chính trị, HTCTCS tuy là cấp thấp nhất nhưng không có nghĩa là cấp ít quan
trọng nhất. Trái lại, nó chứng tỏ vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội,
tăng cường sự đồng thuận giữa Đảng và dân cũng như trong nội bộ nhân dân. Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về đổi mới và
nâng cao chất lượng HTCT ở cơ sở xã, phường, thị trấn đã chỉ rõ: “Hệ thống chính trị ở
cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường
lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân…”[23, tr.166]
Theo tinh thần đó HTCTCS xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Phú Thọ giữ
vai trò đặc biệt quan trọng trong thực hiện các chính sách kinh tế, xã hội ở cơ sở.
HTCTCS là nơi mà hàng ngày, hàng giờ tiếp xúc và làm việc với nhân dân, nắm bắt và
phản ánh tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Tổ chức và vận động nhân dân thực hiện
đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và các chỉ thị, nghị quyết của tỉnh, của
huyện. Nơi trực tiếp rèn luyện và tạo nguồn cán bộ, lực lượng nòng cốt quyết định chất
lượng, hiệu quả hoạt động của HTCT.
Hai là, HTCTCS làm cầu nối liền giữa Đảng, Nhà nước với quần chúng nhân
dân cùng hướng đến mục tiêu xây dựng địa phương vững mạnh.
HTCTCS là cấp tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước một cách trực tiếp ngay tại địa bàn dân cư, cùng với người dân bàn
thảo và và hành động nhằm xây dựng địa phương vững mạnh. Có thể nói mọi hoạt
động của bộ máy HTCTCS đều gắn chặt với cuộc sống thường nhật, với lợi ích của

mọi người dân, do đó nó có tác dụng kiểm chứng nhanh nhất về tính đúng đắn, hợp lý
của đường lối, chính sách, về hiệu lực và hiệu quả hoạt động của HTCTCS. Ở đây,
quần chúng nhân dân có điều kiện trực tiếp thực hiện quyền giám sát của mình đối với
HTCTCS. Như vậy, vai trò làm “cầu nối” giữa Đảng, Nhà nước với quần chúng nhân


22

dân của HTCTCS được biểu hiện không chỉ đơn thuần là truyền đạt và thực hiện
đường lối, chính sách mà quan trọng hơn là hiện thực hóa tính đúng đắn và giá trị thực
tiễn của đường lối, chính sách ngay tại địa bàn cơ sở, làm cho đường lối, chính sách trở
thành hiện thực sinh động trong cuộc sống, đem lại lợi ích cho quần chúng nhân dân và
sự phát triển cho xã hội. Đồng thời, nắm vững và báo cáo kịp thời lên HTCT cấp trên
về tình hình cơ sở, về những nhu cầu và nguyện vong của quần chúng nhân dân, cung
cấp những luận chứng khoa học cho việc hoạnh định đường lối, chính sách của Đảng,
Nhà nước ngày càng sát với thực tiễn. Có thể thấy, mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước
với nhân dân biểu hiện thông qua nhiều kênh, nhiều bậc khác nhau, nhưng phụ thuộc
rất lớn vào năng lực tổ chức và hoạt động của HTCTCS, vào chất lượng và uy tín của
đội ngũ cán bộ cơ sở.
Ba là, HTCTCS ở tỉnh Phú Thọ trực tiếp tổ chức thực hiện các nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Phát triển kinh tế - xã hội là nhiệm vụ chính, nhiệm vụ trung tâm trong lãnh
đạo, điều hành của HTCTCS. Điều này càng có ý nghĩa khi Phú Thọ chưa thoát khỏi
tỉnh nghèo, mặt bằng kinh tế - xã hội còn thấp. Do đó, vai trò của HTCTCS trong duy
trì sự ổn định chính trị, định hướng đúng đắn cho phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa..là
rất quan trọng và mang tính quyết định. Đảng ta chỉ rõ: “Phải gắn tăng trưởng kinh tế
với phát triển toàn diện văn hóa, phát triển toàn diện con người, thực hiện dân chủ, tiến
bộ và công bằng xã hội… phát triển kinh tế đi đôi với việc bảo đảm ổn định chính trị xã hội, coi đây là tiền đề, điều kiện để phát triển nhanh, bền vững” [24, tr.178-179].
Đây là bài học kinh nghiệm đồng thời cũng là tư tưởng chỉ đạo của Đảng về phát triển
kinh tế - xã hội. HTCTCS Phú Thọ cần tăng cường đoàn kết toàn dân, phát huy quyền

làm chủ của nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở cơ
sở. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cấp xã là gần gũi dân nhất, là nền tảng của
hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi công việc đều xong xuôi” [35, tr.371]. Ở
Phú Thọ, bên cạnh việc đặt trọng tâm vào phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân
dân, xóa đói giảm nghèo cần phải quan tâm đến tới việc bảo vệ và khai thác một cách
khoa học tài nguyên rừng, khoáng sản, bảo vệ môi trường sinh thái…đặc biệt vấn đề


23

bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, các di tích lịch sử thời đại Hùng
Vương.
Bốn là, HTCTCS là nơi trực tiếp rèn luyện và tạo nguồn cán bộ, lực lượng
nòng cốt quyết định chất lượng, hiệu quả hoạt động của HTCT.
Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN trong tình mới, Phú Thọ cần phải xây dựng một đội ngũ cán bộ không chỉ có
trình độ và tư duy năng động mà trước hết phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, gần
dân, hiểu dân. Bởi lẽ, HTCT tồn tại và hoạt động không vì mục đích tự thân mà vì sự
ổn định và phát triển của xã hội, vì cuộc sống hạnh phúc của nhân dân, để nhân dân
được thực sự làm chủ vận mệnh của mình. Đảng ta đã khẳng định: “Toàn bộ tổ chức và
hoạt động của HTCT nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn
thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân” [17, tr.19].
Vì vậy, đội ngũ cán bộ phải có uy tín để tập hợp đông đảo quần chúng thành một khối
đoàn kết vững chắc, xây dựng địa phương vững mạnh, toàn diện. HTCTCS là nơi các
cán bộ được tôi luyện và trưởng thành từ thực tiễn. Đội ngũ cán bộ là lực lượng nòng
cốt của mọi tổ chức, nếu thực hiện tốt vai trò này, sẽ khắc phục được căn bệnh cố hữu
là sự giáo điều trong đường lối, chính sách do hệ quả của việc thiếu thực tiễn trong một
bộ phận cán bộ tạo ra khi họ đảm nhiệm ở các vị trí liên quan đến hoạch định và chỉ
đạo chiến lược. Chủ động bố trí lực lượng cán bộ trẻ được đào tạo cơ bản vào làm việc
trong bộ máy HTCTCS, vừa tạo điều kiện cho họ rèn luyện vừa giúp tạo sự bứt phá

trong suy nghĩ và hành động của đội ngũ cán bộ cơ sở, khắc phục tình trạng “đầu ra”
của đội ngũ cán bộ cấp trên là “đầu vào” của đội ngũ cán bộ cơ sở vốn đang tồn tại
hiện nay.
Năm là, HTCTCS tỉnh Phú Thọ là nơi trực tiếp triển khai xây dựng và thực
hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.
QCDC ở cơ sở là phương thức, biện pháp để thể chế hóa và pháp quy hóa chế
độ dân chủ XHCN, xác định rõ những nội dung, nguyên tắc, phương châm trong thực
hiện quyền dân chủ của nhân dân lao động ở cơ sở. Nghị quyết Trung ương 5 của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX xác định: QCDC thực sự là công cụ, một chỗ
dựa pháp lý quan trọng để nhân dân thực hiện đầy đủ, thực chất hơn nữa quyền làm


24

chủ của mình ở cơ sở. Theo đó, việc tổ chức triển khai xây dựng và thực hiện QCDC
của HTCTCS có vai trò rất quan trọng đối với thực hiện dân chủ XHCN ở cơ sở, thúc
đẩy nhanh quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội và thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân trên thực tế; thúc đẩy quá trình thực hành dân chủ với các hình thức dân chủ đại
diện, dân chủ trực tiếp và dân chủ tự quản.
Thực hiện QCDC cơ sở là phương hướng cơ bản lâu dài để xây dựng và phát
triển sức mạnh của cộng đồng xã hội, cộng đồng dân cư, làm cho mỗi người dân trở
thành người chủ thực sự của xã hội, là cơ sở tạo sức mạnh đoàn kết, đồng thuận của
toàn dân tộc. Mặt khác, thực hiện QCDC là phương thức hữu hiệu để đấu tranh chống
quan liêu, tham nhũng làm trong sạch các tổ chức quyền lực, góp phần xây dựng
HTCTCS vững mạnh.
1.1.2. Những vấn đề cơ bản về xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững
mạnh ở tỉnh Phú Thọ
* Quan niệm về xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh ở tỉnh Phú Thọ
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng chỉ ra rằng: bất cứ sự vật, hiện
tượng nào cũng tồn tại với tư cách là một hệ thống, có cấu trúc nhất định, nằm trong

tổng hòa những mối liên hệ, vận động, biến đổi theo những quy luật khách quan.
Theo tinh thần đó, xây dựng HTCTCS vững mạnh ở tỉnh Phú Thọ cần được tập
trung vào những vấn đề cơ bản sau đây:
Thứ nhất, xây dựng và phát huy vai trò của các thành tố trong HTCTCS (tổ chức
đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn thanh niên, Hội
Cựu chiến binh) từ cơ cấu tổ chức bộ máy, đến xác định chức năng, nhiệm vụ, phương
thức tổ chức và hoạt động của từng tổ chức và của cả bộ máy.
Thứ hai, xây dựng đội ngũ cán bộ của các tổ chức và bộ máy có số lượng và
cơ cấu phù hợp; có phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Thứ ba, giải quyết đúng đắn các mối quan hệ của HTCTCS. Bao gồm: mối
quan hệ giữa các tổ chức trong HTCTCS, giữa HTCTCS với HTCT cấp trên, giữa
toàn bộ HTCTCS (cũng như từng thành tố trong hệ thống ấy) với quần chúng nhân
dân, với các tổ chức không thuộc HTCT, với toàn xã hội.


25

Thứ tư, xây dựng cơ sở kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội vững mạnh, tạo
điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của HTCTCS. Trọng tâm là xây dựng cộng
đồng dân cư vững mạnh toàn diện và đồng thuận.
Từ đó, có thể quan niệm: xây dựng HTCTCS vững mạnh ở tỉnh Phú Thọ là
hoạt động tự giác của các tổ chức, các lực lượng và quần chúng nhân dân dưới sự
lãnh đạo của các cấp ủy đảng và quản lý, điều hành của chính quyền các cấp nhằm
củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy; đổi mới nội dung, phương thức hoạt động; xây
dựng, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ; giải quyết tốt các mối quan hệ của
HTCTCS; phát huy vai trò, chức năng, hiệu lực của HTCTCS và quyền làm chủ của
nhân dân, trực tiếp góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị ở cơ sở trên địa
bàn tỉnh Phú Thọ.
Mục đích xây dựng HTCTCS vững mạnh là củng cố, kiện toàn, xây dựng
HTCTCS ở Phú Thọ vững mạnh, hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ; giải quyết

tốt các mối quan hệ của HTCTCS; phát huy vai trò, chức năng, hiệu lực của
HTCTCS và quyền làm chủ của nhân dân, mà trước hết là vai trò lãnh đạo của tổ
chức cơ sở đảng, sự quản lý điều hành của chính quyền cơ sở; góp phần trực tiếp
phát triển kinh tế -xã hội và giữ vững ổn định trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
Chủ thể, đối tượng, lực lượng xây dựng HTCTCS
Xây dựng HTCTCS vững mạnh ở tỉnh Phú Thọ là trách nhiệm của toàn xã
hội, của các cấp, các ngành, các tổ chức, các lực lượng; là quyền lợi và nghĩa vụ của
mọi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân ở cơ sở, đặt dưới sự lãnh đạo thống
nhất của tổ chức đảng và sự điều hành của chính quyền các cấp. Trong đó, chủ thể những tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm chính và có tác động trực tiếp vào đối tượng
là HTCTCS trên địa bàn tỉnh Phú Thọ có thể phân chia thành:
Chủ thể lãnh đạo xây dựng HTCTCS là đảng ủy cơ sở và cấp ủy cấp trên trực tiếp
cơ sở (huyện ủy, thị ủy, thành ủy). Chủ thể quản lý, điều hành, tổ chức thực hiện là
chính quyền cơ sở và chính quyền cấp trên cơ sở (HĐND, UBND huyện, thị xã, thành
phố). Các tổ chức chính trị xã hội ở cơ sở là một chủ thể quan trọng, trực tiếp trong xây
dựng HTCTCS vững mạnh bao gồm: MTTQ và đoàn thể chính trị xã hội ở địa phương.


×