Tải bản đầy đủ (.doc) (157 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ PHÁT TRIỂN đạo đức CÁCH MẠNG CHO THANH NIÊN QUÂN đội GIAI đoạn HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (662.8 KB, 157 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân và nhân dân
ta, người anh hùng dân tộc vĩ đại, người cha kính yêu của các lực lượng vũ trang
nhân dân ta đã dạy: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con
người xã hội chủ nghĩa" [67, tr.310]. Sinh thời Người rất quan tâm đến giáo dục,
bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho các thế hệ thanh niên cách mạng Việt Nam,
trước lúc đi xa Người còn căn dặn Đảng ta:"Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo
đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa
xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên" [76, tr.510].
Ngay từ những ngày đầu đất nước ta bước vào công cuộc đổi mới, tại Đại hội
VI, Đảng ta đã chỉ rõ: "Vấn đề đạo đức xã hội đang được đặt ra một cách cấp
bách" [17, tr.127]. Trong công cuộc đổi mới đất nước, bên cạnh các thành tựu to
lớn đã đạt được, tình hình xã hội nước ta hiện nay "còn nhiều tiêu cực và nhiều vấn
đề phải giải quyết" [21, tr.64]. Trong những tiêu cực và các vấn đề cần giải quyết
đó nổi lên là sự suy thoái về đạo đức, lối sống ở một bộ phận trong xã hội và trong
thanh niên rất đáng lo ngại. Thực trạng đó đang là cản trở to lớn đối với công cuộc
đổi mới toàn diện đất nước hiện nay, cần phải được đấu tranh khắc phục kịp thời.
Bởi vậy, phát triển đạo đức cách mạng cho thanh niên nói chung, thanh niên quân
đội nói nói riêng trong tình hình hiện nay là một nhiệm vụ quan trọng và cấp
bách để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới, giai đoạn
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và thực hiện thắng lợi hai nhiệm
vụ chiến lược của cách mạng nước ta, đó là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Đạo đức là thành tố cơ bản trong phẩm chất tinh thần chiến đấu của quân đội
ta và trong nhân cách của người quân nhân cách mạng. Là một bộ phận của thanh
niên cả nước, thanh niên quân đội có vai trò rất to lớn trong sự nghiệp bảo vệ và
xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đây là lực lượng đông đảo đang xung kích, đi
đầu trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Họ là nguồn nhân lực rất quan



trọng trong sức mạnh chiến đấu của quân đội ta và là lực lượng đang trực tiếp tiếp
bước, kế thừa truyền thống cách mạng vẻ vang của Đảng và quân đội. Do vậy, phát
triển đạo đức cách mạng ở thanh niên quân đội trong tình hình hiện nay có vai trò
rất quan trọng để hoàn thiện nhân cách của họ ở thềm thế kỷ XXI và tham gia vào
xây dựng nền đạo đức mới, con người mới trong sự nghiệp cách mạng của đất
nước hiện nay.
Tính chất phức tạp của điều kiện kinh tế - xã hội trong thời kỳ quá độ; sự
chống phá thường xuyên, thâm độc của kẻ thù đối với thanh niên; cùng với các
nguyên nhân khách quan và chủ quan khác, đã làm suy thoái về đạo đức, lối sống ở
một bộ phận thanh niên nói chung và thanh niên quân đội nói riêng. Trong đó, sự
suy thoái, biến chất về đạo đức ở một bộ phận thanh niên quân đội hiện nay, đã gây
ra các hậu quả tiêu cực làm ảnh hưởng đến chất lượng chính trị, đến bản chất và
truyền thống cách mạng của quân đội ta. Vì thế, để góp phần nâng cao chất lượng
nhân tố con người và sức mạnh chiến đấu của quân đội, thực tế tình hình trên đặt ra
yêu cầu cấp thiết phải đấu tranh, khắc phục các hiện tượng suy thoái về đạo đức và
phát triển đạo đức cách mạng ở thanh niên quân đội. Từ đó, góp phần vào thực
hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng quân đội ta theo hướng cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ và từng bước hiện đại.
Với lý do trên, tác giả luận án đã lựa chọn và thực hiện đề tài: "Phát triển
đạo đức cách mạng ở thanh niên Quân đội nhân dân Việt Nam trong tình hình
hiện nay".
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề phát triển đạo đức cách mạng cho thanh niên nói chung, thanh niên
quân đội ta nói riêng đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh, các nhà lãnh đạo của Đảng,
quân đội đề cập một cách toàn diện và sâu sắc. Đây cũng là vấn đề đã và đang
được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học.
Hiện nay, đã có nhiều công trình khoa học có liên quan đến đề tài nghiên cứu
của tác giả đã được công bố. Trong đó, có các công trình tiêu biểu như: "Tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh - truyền thống dân tộc và nhân loại", Giáo sư Vũ Khiêu chủ



biên, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993; "Tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức", Phó Giáo sư Thành Duy chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 1996... Các công trình trên đã nghiên cứu một cách sâu sắc và có hệ thống về
tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, khẳng định vai trò và giá trị to lớn của nó trong sự
nghiệp cách mạng của đất nước. Mặc dù nghiên cứu từ những góc độ khác nhau,
song các tác giả đều thống nhất trong cách khái quát nội dung đạo đức cách mạng
và vai trò của nó theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong các năm qua, đã có nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu về tác động của
cơ chế thị trường đến sự biến đổi giá trị và thang giá trị đạo đức ở nước ta, trong
đó có các công trình tiêu biểu như: "Quan hệ giữa đạo đức và kinh tế trong việc
định hướng các giá trị đạo đức hiện nay", Tiến sĩ Nguyễn Thế Kiệt, Tạp chí Triết
học, Số 6, 12/1996; "Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị
trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay", Phó
giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Chí Mỳ chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà
Nội 1999... Các công trình trên đi tìm hiểu tác động của cơ chế thị trường đến đời
sống đạo đức ở nước ta hiện nay và đều thống nhất cho rằng, sự biến đổi của hệ
thống giá trị, thang giá trị đạo đức ở nước ta hiện nay là một tất yếu. Tác giả của
các công trình trên cho rằng, định hướng giá trị đạo đức trong điều kiện hiện nay là
cần thiết và cấp bách trong xây dựng nền đạo đức mới ở nước ta hiện nay.
Một số tác giả khác nghiên cứu đạo đức cách mạng ở các đối tượng cụ thể và
có phạm vi nghiên cứu khác nhau, như: Tác giả Nguyễn Tiến Bình, "Tự giác hoá
quá trình hình thành, phát triển đạo đức cộng sản trong Quân đội nhân dân Việt
Nam hiện nay", Luận án phó tiến sĩ khoa học quân sự, Học viện Chính trị Quân sự,
Hà Nội 1990; Tác giả Hà Huy Thông, "Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức của
người cán bộ quân sự", Luận án phó tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội 1995... Công trình của tác giả Nguyễn Tiến Bình đã luận
chứng một cách sâu sắc vai trò ngày càng tăng của nhân tố đạo đức trong sức mạnh
chiến đấu quân đội và các đặc điểm tác động đến sự hình thành, phát triển đạo đức
cộng sản trong quân đội; tác giả đã đề xuất các giải pháp cơ bản trong tự giác hoá

quá trình hình thành, phát triển đạo đức cộng sản trong quân đội ta. Công trình của


tác giả Hà Huy Thông đã vận dụng một cách sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức cách mạng của người cán bộ quân sự và đưa ra các vấn đề có ý nghĩa phương
pháp luận quan trọng để xây dựng đạo đức người cán bộ quân sự trong giai đoạn
mới của sự nghiệp cách mạng.
Song, việc tiếp cận và giải quyết một cách cơ bản có hệ thống dưới góc độ
triết học, xã hội học vấn đề: "Phát triển đạo đức cách mạng ở thanh niên Quân đội
nhân dân Việt Nam trong tình hình hiện nay" chưa có công trình nào đề cập tới.
Với đề tài nghiên cứu đã lựa chọn, tác giả hy vọng sẽ góp phần nhỏ bé làm sâu sắc
hơn các vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách đang đặt ra trong quá trình xây dựng,
phát triển đạo đức cách mạng ở thanh niên quân đội nói riêng và thanh niên cả
nước nói chung.
3. Mục đích và nhiệm vụ cơ bản của luận án
- Mục đích: Dưới góc độ triết học, luận án nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý
luận và thực tiễn về phát triển đạo đức các mạng ở thanh niên quân đội ta, trên cơ
sở đó đề xuất các giải pháp để phát triển đạo đức cách mạng ở thanh niên quân đội
hiện nay.
- Nhiệm vụ:
1) Làm rõ biểu hiện đạo đức cách mạng ở thanh niên quân đội; đặc trưng bản
chất và một số vấn đề có tính quy luật trong quá trình phát triển đạo đức cách
mạng ở thanh niên quân đội ta.
2) Phân tích đánh giá thực trạng, nguyên nhân, mâu thuẫn và các yêu cầu
trong phát triển đạo đức cách mạng ở thanh niên quân đội hiện nay.
3) Đề xuất một số giải pháp cơ bản để phát triển đạo đức cách mạng ở thanh
niên quân đội hiện nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận của luận án là hệ thống các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, hệ thống quan điểm của Đảng ta về đạo đức



và đạo đức cách mạng. Tác giả có vận dụng, kế thừa kết quả của các công trình
khoa học có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
- Cơ sở thực tiễn của luận án là tình hình đời sống xã hội, đời sống của quân
đội nói chung và đời sống đạo đức của thanh niên quân đội nói riêng, đặc biệt là
trong thời kỳ đổi mới đất nước. Luận án còn dựa vào các văn kiện và báo cáo tổng
kết về công tác thanh niên của Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh, của Ban Thanh niên quân đội và của các quân khu, quân đoàn, đơn vị trong
toàn quân.
Luận án còn dựa vào các số liệu điều tra, khảo sát về thanh niên của một số
công trình khoa học có liên quan và các số liệu điều tra, khảo sát của tác giả về
thực trạng tình hình phát triển đạo đức cách mạng ở thanh niên quân đội trong một
số đơn vị và nhà trường quân đội.
- Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, luận án vận dụng trực tiếp những vấn đề phương pháp luận
của phép biện chứng duy vật, mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức
xã hội vào nghiên cứu quá trình phát triển đạo đức cách mạng ở thanh niên quân
đội. Luận án còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể, trong đó chủ yếu là
phương pháp tiếp cận giá trị; lịch sử và lô gíc; phân tích và tổng hợp; trừu tượng
hoá và khái quát hoá; phương pháp điều tra xã hội học; phương pháp chuyên gia.
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
1) Luận án phân tích, làm rõ những đặc trưng bản chất và một số vấn đề có
tính quy luật trong quá trình phát triển đạo đức cách mạng ở thanh niên quân đội.
2) Phân tích đánh giá về thực trạng và đề xuất một số giải pháp cơ bản để phát
triển đạo đức cách mạng ở thanh niên quân đội trong tình hình hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án cung cấp một số vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận trong phát triển
đạo đức cách mạng ở thanh niên quân đội, để góp phần vào phát triển, hoàn thiện
nhân cách của họ và đáp ứng phần nào của thực tiễn nâng cao chất lượng toàn diện

của nhân tố con người trong sức mạnh chiến đấu của quân đội ta hiện nay.


Luận án còn cung cấp cho cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, các tổ chức Đoàn thanh
niên trong quân đội một số vấn đề mới để nâng cao chất lượng toàn diện của người
thanh niên quân đội trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu khoa
học và giảng dạy nội dung đạo đức ở các nhà trường quân đội.
7. Kết cấu của luận án
Luận án dài 188 trang, gồm phần mở đầu, 3 chương (7 tiết), kết luận và kiến
nghị, danh mục công trình của tác giả, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
Chương 1
BẢN CHẤT QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG Ở
THANH NIÊN QUÂN ĐỘI
1.1. Đạo đức cách mạng ở thanh niên quân đội và vai trò của đạo đức
cách mạng đối với thanh niên quân đội hiện nay
1.1.1. Đạo đức cách mạng ở thanh niên quân đội
"Đạo đức là toàn bộ những quy tắc nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử
của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ xã hội; chúng được thực hiện bởi
niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội" [30, tr.158].
Trong đời sống hiện thực, đạo đức bao gồm ý thức đạo đức, quan hệ đạo đức và
hành vi đạo đức. Trong xã hội có giai cấp, cả ba bộ phận đó của đạo đức đều mang
tính giai cấp, tính lịch sử - cụ thể. Trong đó những yếu tố cơ bản của cấu trúc ý
thức đạo đức bao gồm: những tri thức về luân lý xã hội (lý luận đạo đức), tâm lý,
tình cảm đạo đức và lý tưởng đạo đức. Ý thức đạo đức ở trình độ lý luận phản ánh
đời sống đạo đức thực tế của xã hội và xây dựng nên hệ quy tắc - "bộ luật" luân lý
cần phải có theo yêu cầu lý tưởng đặc trưng cho một kiểu đạo đức của một giai
cấp, một xã hội và một thời đại nhất định.
Đạo đức là một hình thái đặc biệt của ý thức xã hội, có thể coi là xuất hiện
sớm nhất trong sự phát triển của lịch sử. Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, các

chuẩn mực và quy tắc này được củng cố trong các phong tục, truyền thống khác
nhau của mỗi cộng đồng. Với sự ra đời của xã hội chiếm hữu nô lệ, ý thức đạo đức


được hình thành và phát triển với tính cách là một hình thái riêng của ý thức xã
hội. Cũng từ đây, trong lịch sử nhân loại đã xuất hiện nhiều học thuyết về đạo đức,
với nhiều quan niệm khác nhau. Nhưng do hạn chế về lập trường giai cấp và thế
giới quan, các quan niệm trước Mác đều đi giải thích một cách sai lầm về nguồn
gốc, bản chất, vai trò cũng như quá trình hình thành và phát triển của đạo đức trong
lịch sử.
Trong dòng chảy của lịch sử tư tưởng nhân loại, C. Mác và Ph. Ăng ghen đã
thực hiện cuộc cách mạng trong lĩnh vực đạo đức. Trên cơ sở thế giới quan duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử, C. Mác và Ph. Ăng ghen đã đánh giá lại toàn bộ
những tư tưởng đạo đức đã có từ xưa đến nay, tổng kết và đưa ra những luận điểm
khoa học của mình về đạo đức. Hai ông đã chỉ ra sự tất yếu xuất hiện của một kiểu
đạo đức mới trong lịch sử - đạo đức cách mạng của giai cấp công nhân. Theo Ph.
Ăng ghen, đây là nền đạo đức "đang tiêu biểu cho sự lật đổ hiện tại, biểu hiện cho
lợi ích của tương lai, tức là đạo đức vô sản, là thứ đạo đức có một số lượng nhiều
nhất những nhân tố hứa hẹn một sự tồn tại lâu dài" [3, tr.136].
Tiếp tục tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăng ghen, trong quá trình đấu tranh
chống lại các học thuyết đạo đức duy tâm, phản động đang đầu độc giai cấp công
nhân và nhân dân lao động, V. I. Lênin đã khẳng định sự tất yếu ra đời của "luân lý
cộng sản" và "đạo đức cộng sản" [43, tr.366]. Trong đó, V. I. Lênin đã chỉ ra thực
chất cách mạng của nội dung đạo đức mới", "đó là những gì góp phần phá hủy xã
hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những người lao động chung
quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới của những người cộng sản" [43,
tr.369].
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng, lãnh tụ cách mạng đã bàn nhiều nhất
đến vấn đề đạo đức. Đạo đức do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập và dày công xây
dựng là ĐĐCM, đây là kiểu đạo đức mới về chất so với các kiểu đạo đức đã có

trong lịch sử nhân loại. Đó là sản phẩm của sự kết hợp giữa đạo đức truyền thống
tốt đẹp của dân tộc với tinh hoa đạo đức nhân loại. Trong đó, nó bao gồm những
phẩm chất cần thiết phục vụ cho sự nghiệp đấu tranh cách mạng của giai cấp công
nhân để cải tạo và xoá bỏ chế độ xã hội cũ, xây dựng thành công chế độ xã hội


mới, giải phóng triệt để nhân dân lao động khỏi mọi ách áp bức, bóc lột, bất công
và đem lại cuộc sống no ấm, hạnh phúc cho mọi người. Trong quan niệm của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, lý tưởng ĐĐCM và lý tưởng nhân văn cộng sản luôn thống nhất
với lý tưởng chính trị của giai cấp công nhân.
ĐĐCM do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập và xây dựng có các nội dung cơ bản
và cốt lõi là: trung với nước, hiếu với dân, quyết tâm phấn đấu suốt đời, không
ngại hy sinh gian khổ vì độc lập, tự do, vì CNXH. Là cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư, là đoàn kết, thật thà, chủ nghĩa tập thể, chủ nghĩa yêu nước và tinh
thần quốc tế vô sản... Mỗi nội dung, tiêu chuẩn đó lại được biểu hiện một cách sinh
động, cụ thể ở mỗi người, mỗi lĩnh vực công tác, ở các tầng lớp và lứa tuổi khác
nhau.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến bồi dưỡng, giáo dục
ĐĐCM cho các thế hệ thanh niên cách mạng nước ta. Trong đó, vấn đề quan trọng
hàng đầu mà Người quan tâm bồi dưỡng, giáo dục thanh niên là lòng trung thành
tuyệt đối với Đảng, với đất nước và hiếu với nhân dân. Người rất chú trọng bồi
dưỡng các phẩm chất ĐĐCM cao quý "cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư" [69,
tr.537] và các đức tính khiêm tốn, giản dị; tinh thần lao động tích cực, siêng năng,
lòng dũng cảm, không sợ khó khăn gian khổ; trung thực, thật thà, chính trực trong
công việc cho thanh niên. Người yêu cầu thanh niên phải "nâng cao tinh thần làm
chủ tập thể, trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân, chớ phô trương hình thức, chớ kiêu ngạo tự
mãn. Phải thấm nhuần ĐĐCM tức là học tập, sinh hoạt theo đúng đạo đức XHCN,
cộng sản chủ nghĩa" [68, tr.489].
Trên cơ sở các quan điểm lý luận của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và ĐĐCM, hiện nay vấn đề ĐĐCM thường

được các chủ thể nghiên cứu tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau, tùy theo mục
đích, nhiệm vụ và phạm vi của vấn đề nghiên cứu. Song tựu trung lại, các tác giả
thường đi tiếp cận khái niệm "ĐĐCM" từ các góc độ và phương pháp nghiên cứu
chủ yếu sau đây.
Dưới góc độ nhận thức luận, vấn đề đạo đức và ĐĐCM được xem xét với tư
cách là một hình thái của ý thức xã hội. Từ đó các chủ thể nghiên cứu đi vào khái


quát sự hình thành, phát triển của các hệ thống lý luận đạo đức; chỉ rõ nguồn gốc,
bản chất của đạo đức và sự xuất hiện tất yếu của một kiểu đạo đức mới - ĐĐCM
của giai cấp công nhân trong lịch sử. Từ góc độ tiếp cận này, có tác giả cho rằng,
ĐĐCM là "một bộ phận hữu cơ trong tự ý thức giai cấp" [89, tr.1] của giai cấp
công nhân và được hiểu theo nghĩa rộng nhất không chỉ bao hàm các nguyên tắc,
chuẩn mực đạo đức, mà nó còn là toàn bộ quan điểm luân lý của giai cấp công
nhân.
Xem xét đạo đức với tính cách là một phương diện, một lĩnh vực của đời sống
xã hội, các tác giả đi tới khái quát vai trò to lớn của ĐĐCM trong đời sống hiện
thực. Từ cách tiếp cận này, các tác giả đã khẳng định: ĐĐCM là một nguồn lực
tinh thần trong sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân; là động lực thúc
đẩy sự nghiệp cách mạng đi đến thắng lợi hoàn toàn; là cơ sở để người cách mạng
hoàn thiện nhân cách và hoàn thành được các nhiệm vụ vẻ vang mà sự nghiệp cách
mạng giao phó. Các tác giả đều khẳng định, ĐĐCM là một nền đạo đức hiện thực
và luôn mang trong nó một sức mạnh hiện thực to lớn [34].
Từ phương pháp tiếp cận giá trị, các tác giả đi xem xét ĐĐCM với tính cách là
một hệ thống giá trị và định hướng giá trị. Hệ thống giá trị này được biểu hiện dưới
dạng các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức phù hợp và đáp ứng với yêu cầu của sự
nghiệp cách mạng do giai cấp công nhân tiến hành. Từ góc độ nghiên cứu này, các
tác giả đều đi tới khái quát và khẳng định ĐĐCM mang trong nó các giá trị phổ
biến của nhân loại. Nó là một tổ hợp, một hệ thống giá trị, trong đó có các giá trị
cơ bản và cốt lõi. Tiếp cận từ góc độ này, các tác giả cho rằng, định hướng giá trị

đạo đức trong điều kiện hiện nay là một vấn đề cần thiết và cấp bách để xây dựng,
phát triển phẩm chất ĐĐCM cho các đối tượng của lực lượng cách mạng [79].
Như vậy, vấn đề ĐĐCM đã được các tác giả đi nghiên cứu từ nhiều lát cắt,
cách tiếp cận khác nhau và đi tới các hệ quả nghiên cứu khác nhau. Nhưng về thực
chất, các góc độ và phương pháp nghiên cứu trên là thống nhất với nhau, có khác
nhau cũng chỉ là tương đối do mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu quy định.
Bởi vậy, các phương pháp tiếp cận và nghiên cứu trên đều đi tới thống nhất với
nhau về các đặc trưng cơ bản trong nội hàm của khái niệm ĐĐCM, như tính giai


cấp; tính cách mạng và khoa học; tính kế thừa trong sự phát triển của nó; sự thống
nhất giữa động cơ và hiệu quả trong hành vi của phẩm chất đạo đức. Và ĐĐCM
tồn tại với tư cách là một tổ hợp, một hệ thống giá trị, trong đó có các giá trị cơ bản
và cốt lõi, đó cũng là những giá trị nền tảng trong nhân cách của người cách mạng.
Trên cơ sở các quan điểm có tính chất phương pháp luận của các nhà kinh điển
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và ĐĐCM, vận dụng
phương pháp tiếp cận giá trị, chúng tôi bước đầu quan niệm:ĐĐCM là một hệ
thống giá trị và định hướng giá trị được thể hiện dưới dạng các nguyên tắc,
chuẩn mực đạo đức xuất phát từ lợi ích sự nghiệp đấu tranh cách mạng của
giai cấp công nhân, tính thực tiễn của nó là sự thống nhất giữa ý thức và hành
vi đạo đức, tạo nên phẩm chất đạo đức - yếu tố nền tảng trong nhân cách của
người cách mạng.
ĐĐCM mà chúng ta đề cập tới là đạo đức của giai cấp công nhân và nó mang
bản chất cách mạng, khoa học của giai cấp công nhân, giai cấp có sứ mệnh lịch sử
vĩ đại thực hiện cuộc đấu tranh xoá bỏ CNTB, xây dựng thành công CNXH và
CNCS trên phạm vi toàn thế giới. Những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức đó chứa
đựng những nội dung cách mạng triệt để của hệ tư tưởng, thế giới quan và lập
trường cách mạng, khoa học của giai cấp công nhân. Bởi vậy, lý tưởng ĐĐCM
luôn thống nhất với lý tưởng chính trị và lý tưởng nhân văn. Trong đời sống hiện
thực, ĐĐCM chính là sự thống nhất giữa phẩm chất chính trị và phẩm chất đạo

đức trong nhân cách của người cách mạng. Tính cách mạng, khoa học của ĐĐCM
không chỉ thể hiện ở nội dung lý luận với tính cách là "bộ luật" luân lý của giai cấp
công nhân, mà nó còn được thể hiện chính trong thực tiễn sự nghiệp cách mạng
của giai cấp công nhân và có cơ sở thực tiễn từ sự nghiệp đấu tranh vĩ đại đó.
Cách mạng có kế thừa và phát triển, nhưng đây là sự kế thừa và phát triển trên
tinh thần phủ định biện chứng. ĐĐCM kế thừa và phát triển những tinh hoa của
đạo đức nhân loại và truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc. Tuy nhiên, trong
quá trình kế thừa và phát triển này, giai cấp công nhân phải đấu tranh một cách
kiên quyết và triệt để chống lại các tàn dư về tư tưởng, tâm lý, tập quán đạo đức
của xã hội cũ và của giai cấp thống trị bóc lột. Trong cuộc đấu tranh này, ĐĐCM


khẳng định mình và phát huy vai trò to lớn của nó trong sự nghiệp cách mạng của
giai cấp công nhân. Bởi thế, V. I. Lênin đã chỉ rõ, đây là nền đạo đức giúp cho xã
hội loài người tiến lên cao hơn, thoát khỏi ách bóc lột lao động [43, tr.371].
ĐĐCM là một hệ thống giá trị và định hướng giá trị được thể hiện dưới dạng
các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức xuất phát từ lợi ích của sự nghiệp cách mạng
do giai cấp công nhân tiến hành. Trong đó, nó có các giá trị cơ bản và cốt lõi, hay
còn được gọi là những "chuẩn giá trị", đó là: lòng trung thành tuyệt đối với sự
nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân; là chủ nghĩa tập thể và tinh thần đoàn
kết; là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần quốc tế vô sản; chủ nghĩa nhân đạo
XHCN.
Con người là chủ thể của mọi giá trị, nhân cách chính là thước đo giá trị của
chủ thể, thước đo mức độ phù hợp giữa giá trị cá nhân với giá trị xã hội. Hoạt động
thông qua thang giá trị, thước đo giá trị, định hướng giá trị là bản thể của nhân
cách, "tổ hợp các quan hệ và thái độ của chủ thể, tạo ra bộ mặt riêng của từng
người" [25, tr.42]. Bởi vậy, các giá trị ĐĐCM khi được chuyển hoá nó trở
thành yếu tố nền tảng trong nhân cách người cách mạng. Vì thế, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã từng chỉ rõ, ĐĐCM là "cái gốc", cái "nền tảng" của người cách mạng, mà
thiếu nó người cách mạng không thể hoàn thành được nhiệm vụ vẻ vang của mình.

ĐĐCM là một nền đạo đức hiện thực và mang trong nó một sức mạnh hiện
thực to lớn. Bởi vậy, sự thống nhất giữa động cơ và hiệu quả là đặc trưng cơ
bản của ĐĐCM. Đây là đạo đức mới, đạo đức của những người lao động và đấu
tranh cho thắng lợi của trật tự xã hội mới, đạo đức của những con người đang hành
động thực tế vì lợi ích của sự nghiệp cách mạng. Vì vậy, nó luôn yêu cầu lời nói
phải đi đôi với việc làm, hành vi đạo đức ở mỗi người phải có động cơ đúng đắn và
hành động có kết quả, mang lại hiệu quả cho xã hội. Sự thống nhất đó không chỉ
là thước đo giá trị của một hành vi, mà nó còn là thước đo phẩm chất nhân cách ở
mỗi con người.
ĐĐCM theo nghĩa rộng là đạo đức mới của giai cấp công nhân, nó đối lập và
khác về chất so với các kiểu đạo đức đã có trong lịch sử nhân loại. Theo tư tưởng
của chủ nghĩa Mác - Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh, ĐĐCM, đạo đức XHCN và


đạo đức cộng sản không phải là các kiểu đạo đức khác nhau, mà nó là sự phản ánh
quá trình vận động, phát triển của đạo đức cộng sản ở các giai đoạn khác
nhau. ĐĐCM, đạo đức XHCN và đạo đức cộng sản thống nhất với nhau về bản
chất giai cấp công nhân và thống nhất với nhau ở mục đích cuối cùng là góp phần
đấu tranh cải tạo xoá bỏ chế độ xã hội cũ, xây dựng thành công chế độ xã hội mới chế độ XHCN và cộng sản chủ nghĩa; giải phóng triệt để con người khỏi mọi ách
áp bức, bóc lột, bất công và đem lại tự do, hạnh phúc thực sự cho con người.
Thanh niên nước ta hiện nay là một lực lượng xã hội to lớn, chiếm 35% dân số
cả nước và đang hoạt động trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội [23, tr.16].
Họ là nguồn nhân lực chủ yếu, nguồn đào tạo nhân tài cho đất nước, lực lượng
chính đang thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta là xây dựng
thành công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN. Thanh niên nước ta còn
là lực lượng đang trực tiếp tiếp bước, kế thừa truyền thống cách mạng hào hùng
của các thế hệ cha anh, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân đưa cách mạng nước ta
đi đến thắng lợi hoàn toàn. Vai trò to lớn của họ đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã từng khẳng định: "Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy,
nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh phần lớn là do các thanh niên" [59, tr.185].

Trong quân đội ta, thanh niên là lực lượng cơ bản, bao gồm chiến sĩ, hạ sĩ
quan và đội ngũ sĩ quan trẻ có tuổi đời từ 18 đến 30. Là một bộ phận của thanh
niên cả nước, TNQĐ có vai trò rất to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc XHCN. Đây là lực lượng đông đảo chiếm từ 63% đến 68% tổng quân số, họ
là nguồn nhân lực có vai trò rất quan trọng trong sức mạnh chiến đấu của quân
đội và là lực lượng đang tiếp bước, kế thừa truyền thống cách mạng vẻ vang của
Đảng và quân đội ta. Đoàn viên TNQĐ còn là lực lượng hậu bị tin cậy đang bổ
sung cho Đảng những đảng viên ưu tú; là lực lượng kế cận tương lai thường xuyên
bổ sung đội ngũ cán bộ, sĩ quan cho quân đội. Một bộ phận TNQĐ sau khi hoàn
thành tốt nghĩa vụ quân sự trở về địa phương, trở thành những công dân, những
cán bộ của Đảng tiếp tục đóng góp sức mình vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc XHCN.


Là một bộ phận của thanh niên cả nước, TNQĐ cũng có các đặc điểm chung
của lứa tuổi thanh niên. Họ có nhiều ưu thế của tuổi trẻ, đây là lứa tuổi có thể tiếp
nhận một đạo lý cao cả, khát khao lý tưởng và hành động thực hiện lý tưởng,
hướng tới các giá trị tốt đẹp. Nhưng vì tuổi đời còn ít, do vậy họ chưa đủ kinh
nghiệm và sự từng trải để có cách suy xét, đánh giá, lựa chọn các giá trị theo sự chỉ
dẫn sáng suốt của lý trí và họ cũng dễ bị các cám dỗ của cuộc sống lôi kéo. Thanh
niên là tầng lớp xã hội nhạy cảm, có nhiều ưu thế, song cũng có những yếu điểm
và hạn chế nhất định do đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi chi phối, quy định. Tuy
nhiên, là một bộ phận của thanh niên cả nước, TNQĐ vừa mang những đặc điểm
chung của lứa tuổi thanh niên, lại vừa có những đặc điểm riêng của bộ phận thanh
niên hoạt động trong một lĩnh vực đặc thù - "hoạt động quân sự". So với các đối
tượng khác là quân nhân trong quân đội ta, TNQĐ hiện nay có những đặc điểm
riêng nổi lên đó là:
- Đặc điểm tâm lý lứa tuổi: Có thể khẳng định, TNQĐ là những nhân cách
đang trưởng thành, ở họ đã có sự phát triển khá hoàn thiện về mặt thể chất, nhưng
phần lớn trong số họ còn chưa ổn định về mặt nhân cách. Đây là một đặc điểm gắn

liền với đặc trưng tâm lý của lứa tuổi thanh niên.
So với các đối tượng khác là quân nhân trong quân đội, TNQĐ thường tỏ ra
nhạy cảm với cái mới, sôi nổi, nhiệt tình, có quyết tâm cao trong thực hiện các
nhiệm vụ nhưng còn thiếu chín chắn, khả năng tự kiềm chế kém, khả năng chọn
lọc khi tiếp thu, lĩnh hội... còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy mà đời sống tinh thần,
đạo đức của TNQĐ biến động nhanh, đồng thời ở họ một số thuộc tính về phẩm
chất nhân cách chưa hoàn toàn được định hình, mà đang trong độ phát triển và
từng bước hoàn thiện. Thông thường người ta thấy, xu hướng nhân cách của
TNQĐ biểu hiện chưa rõ nét, một số nét tính cách còn thiếu ổn định, năng lực
chuyên môn đang trong quá trình hình thành. Do vậy, việc giáo dục, rèn luyện
ĐĐCM ở TNQĐ cần phải được đặc biệt coi trọng, để đạt được sự hoàn thiện hơn
về mặt đạo đức, phẩm giá ở họ, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu phục vụ và xây
dựng quân đội trong tình hình mới.


- Đặc điểm về vai trò, nhiệm vụ: TNQĐ giữ vai trò xung kích trong thực hiện
các nhiệm vụ của quân đội và của từng đơn vị. Họ là "lực lượng chủ yếu, trực tiếp
chấp hành các nhiệm vụ của quân đội" [6, tr.47]. Phần đông TNQĐ là những người
đang trực tiếp học tập, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu ở các nhà trường và đơn vị
quân đội. Do đặc thù của tổ chức quân sự và hoạt động quân sự quy định, nên các
hoạt động của họ thường diễn ra với cường độ cao, đòi hỏi sự nỗ lực rất lớn cả về
thể chất và tinh thần. Khi mới bước vào môi trường quân sự họ chưa có ngay được
các phẩm chất cần thiết của người quân nhân cách mạng; còn nhiều bỡ ngỡ nên
chưa thể thích ứng ngay được với hoạt động trong môi trường quân sự. Mặt khác,
hoạt động trong môi trường quân sự - một môi trường hoạt động "đặc thù", nên
TNQĐ được học tập, công tác, sinh hoạt tập trung trong doanh trại quân đội theo tổ
chức biên chế của từng loại hình đơn vị; với một thiết chế tổ chức lãnh đạo, chỉ
huy chặt chẽ... cho nên tính tập thể, tính kỷ luật, tình đồng chí, đồng đội trong học
tập, công tác hay trong chiến đấu của người TNQĐ thường là rất cao. So với các
bộ phận thanh niên khác ngoài xã hội, TNQĐ ít chịu ảnh hưởng hơn bởi các tác

động tiêu cực bên ngoài xã hội.
Xung kích trong thực hiện các nhiệm vụ của quân đội và đơn vị là một thuộc
tính đặc thù của TNQĐ. Nó vừa thể hiện vai trò, trách nhiệm của thế hệ trẻ trong
sự nghiệp xây dựng quân đội và bảo vệ Tổ quốc XHCN, lại vừa phản ánh sự giác
ngộ về chính trị, trưởng thành về đạo đức ở người TNQĐ.
- Đặc điểm về trình độ học vấn và sự biến động về cơ cấu: Thực hiện luật
nghĩa vụ quân sự, mỗi năm có hàng chục vạn thanh niên nhập ngũ với trình độ văn
hoá được nâng lên khá cao và đồng đều. Đây là điều kiện thuận lợi để thanh niên
chiến sĩ cống hiến và trưởng thành về mọi mặt, trong đó có sự hoàn thiện các phẩm
chất chính trị, đạo đức. Học viên trong các nhà trường quân đội và đội ngũ sĩ quan
trẻ hiện nay đã qua sự tuyển chọn kỹ càng; được đào tạo cơ bản, có hệ thống, lại
thường xuyên được tiếp xúc với các tri thức khoa học hiện đại, vì vậy trình độ học
vấn của họ không ngừng được nâng lên. Đây là các đặc điểm, điều kiện rất thuận
lợi cho sự phát triển giá trị nhân cách ở họ, mặt khác nó cũng đặt ra những yêu cầu
mới trong công tác giáo dục, rèn luyện ĐĐCM ở TNQĐ hiện nay.


Do chế độ nghĩa vụ quân sự nên lực lượng TNQĐ thường xuyên có sự biến
động cả về số lượng và chất lượng qua các đợt ra quân và tuyển quân hàng năm.
Mặt khác, sự chuyển tiếp nhiệm vụ ở người thanh niên là học viên khi kết thúc quá
trình đào tạo ở các nhà trường; sự phát triển về yêu cầu nhiệm vụ, cùng sự thay đổi
vị trí công tác ở đội ngũ sĩ quan trẻ càng làm tăng thêm tính biến động về cơ cấu ở
TNQĐ.
Đạo đức là một hiện tượng xã hội phổ biến mang tính lịch sử - cụ thể không
chỉ đối với từng giai đoạn phát triển của xã hội, đối với mỗi giai cấp và dân tộc mà
còn đối với từng lĩnh vực hoạt động của con người. Bởi vậy, trong mỗi lĩnh vực
hoạt động, mỗi nghề nghiệp lại có đạo đức riêng mang tính đặc thù của nghề
nghiệp đó. Ph. Ăng ghen đã chỉ rõ: "Trong thực tế mỗi giai cấp và ngay cả mỗi
nghề nghiệp đều có đạo đức riêng của mình" [4, tr.425]. Với tính cách là một hệ
thống giá trị và yếu tố nền tảng trong nhân cách của người cách mạng, ĐĐCM

được biểu hiện cụ thể, sinh động ở mỗi người, mỗi lĩnh vực công tác và hoạt động
khác nhau.
ĐĐCM ở TNQĐ được biểu hiện ở một đối tượng cụ thể, trong một lĩnh
vực "hoạt động đặc biệt" - hoạt động quân sự. Ở đây, biện chứng giữa cái chung
và cái riêng được biểu hiện một cách sinh động, đúng như V. I. Lênin đã khẳng
định: "Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung. Cái chung chỉ tồn
tại trong cái riêng, thông qua cái riêng" [39, tr.381]. Bởi vậy, ĐĐCM ở TNQĐ phải
được xem xét trong mối liên hệ chuyển hoá giữa hệ thống giá trị đạo đức chung
của người cách mạng, người quân nhân cách mạng thành giá trị đạo đức riêng cần
phải có ở mỗi người TNQĐ. Đây là một hệ thống giá trị đạo đức tốt đẹp, tiến bộ,
hợp quy luật vừa phản ánh thực tiễn sự nghiệp cách mạng đất nước, vừa phản ánh
thực tiễn hoạt động của người TNQĐ trong sự nghiệp xây dựng quân đội và bảo vệ
Tổ quốc XHCN; đồng thời nó là kết quả tác động trực tiếp của môi trường xã hội,
môi trường hoạt động quân sự và tổng hoà các mối quan hệ mà người TNQĐ tham
gia vào. Do đó, so với các bộ phận thanh niên khác trong xã hội, ĐĐCM ở TNQĐ
có biểu hiện đặc thù ở tất cả các thang bậc giá trị, các qui tắc, phẩm chất và quan
hệ đạo đức. So với các đối tượng khác là quân nhân trong quân đội ta, ĐĐCM ở


TNQĐ có những biểu hiện riêng và yêu cầu cụ thể do vai trò, đặc điểm nhiệm vụ
cụ thể của họ quy định.
Tuy nhiên, như V. I. Lênin đã chỉ rõ:
Người nào bắt tay vào những vấn đề riêng trước khi giải quyết những vấn đề
chung, thì kẻ đó, trên mỗi bước đi, sẽ không sao tránh khỏi "vấp phải" những vấn
đề chung đó một cách không tự giác. Mà mù quáng vấp phải những vấn đề đó
trong từng trường hợp riêng, thì có nghĩa là đưa chính sách của mình đến chỗ có
những dao động tồi tệ nhất và mất hẳn tính nguyên tắc [36, tr.437].
Vì vậy, để làm rõ được những nét riêng, biểu hiện cụ thể của ĐĐCM ở TNQĐ,
không thể lảng tránh được những vấn đề chung mà phải đi từ những cái chung để
tìm ra những biểu hiện riêng, những yêu cầu cụ thể về đạo đức ở người TNQĐ. Từ

quan điểm và phương pháp tiếp cận trên, chúng tôi cho rằng trong sự nghiệp xây
dựng và chiến đấu của quân đội ta, ĐĐCM ở TNQĐ được biểu hiện tập trung ở các
nội dung cơ bản sau đây:
Một là, lòng trung thành vô hạn với sự nghiệp cách mạng của Đảng và
nhân dân ở TNQĐ.
Nguyên tắc lòng trung thành giữ vai trò cơ bản và bao trùm trong đời sống đạo
đức xã hội. Đối với người TNQĐ, đây là nguyên tắc có tính chất định hướng cho
mọi suy nghĩ, hoạt động của họ trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc XHCN
và sự nghiệp xây dựng, chiến đấu của quân đội.
Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng nòng cốt trong nền quốc phòng toàn
dân, đang trực tiếp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc XHCN. Trong đó, TNQĐ
là lực lượng đông đảo nhất đang xung kích, đi đầu thực hiện sứ mệnh lịch sử vẻ
vang đó. Vì thế, biểu hiện đặc thù quan trọng nhất của lòng trung thành với sự
nghiệp cách mạng ở TNQĐ hiện nay là nhận thức sâu sắc nghĩa vụ thiêng liêng và
vinh dự to lớn của mình trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Từ đó, có ý chí,
quyết tâm cao thực hiện thắng lợi nhiệm vụ to lớn đó của cách mạng nước ta trong
giai đoạn hiện nay. Đó là sẵn sàng chiến đấu, hy sinh, để "bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an


toàn xã hội và nền văn hoá; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN;
bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia, dân tộc" [22, tr.117] của đất nước.
Nhận thức và thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trên chính là biểu hiện cao nhất, tập
trung nhất lòng trung thành với sự nghiệp cách mạng ở TNQĐ hiện nay.
Nhận thức về vinh dự và trách nhiệm của TNQĐ trong sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc XHCN là biểu hiện cụ thể của trình độ giác ngộ XHCN, là sự quán triệt sâu
sắc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng
về cách mạng XHCN và vai trò, nhiệm vụ của quân đội ta. Đây chính là cơ sở để
tuổi trẻ quân đội ý thức được đầy đủ trách nhiệm của mình trước vận mệnh của đất
nước, vận mệnh của sự nghiệp cách mạng mà Đảng và nhân dân ta đang tiến hành.

Để hoàn thành được nghĩa vụ đạo đức của người thanh niên chiến sĩ, yêu cầu
mỗi người TNQĐ phải nắm vững và thấu triệt hai nhiệm vụ chiến lược của cách
mạng nước ta hiện nay, đó là xây dựng thành công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc XHCN. Chỉ có trên cơ sở ý thức được một cách sâu sắc nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc và xây dựng đất nước, tin tưởng một cách tuyệt đối vào sự lãnh đạo của
Đảng, TNQĐ mới có được tình cảm đạo đức trong sáng, có dũng khí chiến đấu
kiên cường, không ngại khó khăn gian khổ, sẵn sàng hiến dâng tuổi trẻ và sức lực
của mình cho độc lập tự do của Tổ quốc, cho CNXH và cuộc sống lao động hoà
bình, hạnh phúc của nhân dân.
Nhận thức sâu sắc nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, trung thành vô hạn với sự nghiệp
cách mạng của Đảng và nhân dân ta, đòi hỏi mỗi người TNQĐ phải có đầy đủ
các phẩm chất đạo đức đặc trưng, phù hợp với yêu cầu của hoạt động quân sự, đó
là đức hy sinh; lòng dũng cảm; không sợ khó khăn gian khổ; tự giác chấp hành kỷ
luật quân đội một cách chủ động, chính xác và nghiêm túc.
Hoạt động quân sự với đặc trưng cơ bản là đấu tranh vũ trang, là nơi thử
thách "toàn diện" nhất đối với con người, ở đây không chỉ có sự cống hiến bằng
sức lực, bằng trí tuệ mà còn có cả sự hy sinh và đổ máu. Do vậy, lòng trung thành
ở TNQĐ phải được nâng lên thành đức hy sinh, xả thân vì sự nghiệp cách mạng
XHCN. Chưa có đức hy sinh, thì lòng trung thành đó mới chỉ dừng lại ở ý tưởng
trừu tượng, người TNQĐ khó có thể hoàn thành được nhiệm vụ trong các tình


huống căng thẳng, phức tạp, ảnh hưởng trực tiếp tới cả sinh mạng của mình. Bởi
thế, xây dựng đức tính hy sinh, dám xả thân mình cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc
XHCN là yêu cầu thường trực đối với người TNQĐ trong thời chiến cũng như thời
bình.
Là đỉnh cao của nhận thức lý trí, là đức tính đặc thù của ý chí, lòng dũng cảm
giúp cho con người sống có nghị lực, có khí phách và hành động anh hùng, không
sợ hiểm nguy. Không có hoạt động nào mà tính căng thẳng, phức tạp, nguy hiểm
trực tiếp đến tính mạng lại đặt ra một cách thường trực như trong hoạt động quân

sự. Bởi vậy, Ph. Ăng ghen đã khẳng định, đối với người lính cần phải có "trái tim
dũng cảm". Lòng dũng cảm được biểu hiện ra như một yêu cầu chung đối với mỗi
con người trong cuộc sống. Nhưng riêng với người chiến sĩ, lòng dũng cảm được
thể hiện ra ở một cấp độ khác, với một yêu cầu rất cao do đặc thù của hoạt động
quân sự mang lại. Bởi thế, lòng dũng cảm chính là đặc trưng cực kỳ quan trọng
trong phẩm chất đạo đức của người TNQĐ, mà thiếu nó người TNQĐ không thể
vượt qua được các hiểm nguy, không thể hoàn thành được nhiệm vụ thiêng liêng
và cao cả của mình trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Dũng cảm trong
chiến đấu là nét riêng, đặc trưng cụ thể, cao nhất của đức hy sinh và lòng trung
thành với sự nghiệp cách mạng ở TNQĐ. Vì vậy, giáo dục và rèn luyện lòng dũng
cảm là một trong các nội dung quan trọng để phát triển ĐĐCM ở TNQĐ quân đội
hiện nay.
Đặc thù của hoạt động quân sự và tổ chức quân sự luôn đặt ra thử thách toàn
diện với người lính. Bởi vì, đây là hoạt động diễn ra với cường độ cao, có nhiều cái
ngẫu nhiên xảy ra nhanh chóng, bất ngờ. Tính chất gian khổ, ác liệt, hy sinh của
hoạt động quân sự luôn đòi hỏi người TNQĐ phải có tinh thần chiến đấu cao, sẵn
sàng chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn và cũng chỉ có như vậy người
TNQĐ mới hoàn thành được các nhiệm vụ của mình. Bởi thế, sẵn sàng chịu đựng
và vượt qua mọi khó khăn gian khổ cũng là yêu cầu rất cao, rất đặc thù của người
chiến sĩ, đòi hỏi người TNQĐ phải nhận thức và có nỗ lực cao trong hành vi thì
mới hoàn thành được nghĩa vụ đạo đức cao cả của mình.


Ngoài các phẩm chất và yêu cầu đặc trưng về đức hy sinh, lòng dũng cảm,
không sợ khó khăn gian khổ để hoàn thành nhiệm vụ và nghĩa vụ thiêng liêng của
mình, mỗi người TNQĐ còn phải chấp hành kỷ luật quân sự một cách tự giác, chủ
động và nghiêm túc.
Kỷ luật là thuộc tính của mọi tổ chức trong xã hội. Sự tồn tại của kỷ luật trong
xã hội là một tất yếu khách quan. Tổ chức quân sự là một tổ chức đặc biệt, bởi thế,
kỷ luật của nó cũng mang tính đặc thù rất cao so với các tổ chức trong xã hội. Đặc

thù của kỷ luật quân sự là ở chỗ nó đòi hỏi rất cao, rất nghiêm ngặt về sự phối hợp
hành động của các thành viên, sao cho hoạt động của các quân nhân trên mọi lĩnh
vực được chỉ huy tập trung thống nhất, nhằm mục đích phát huy và chuyển biến trí
tuệ, tài năng của mỗi người quân nhân thành sức mạnh của tổ chức quân sự. Kỷ
luật là sức mạnh của quân đội, là nhân tố đảm bảo sự chiến thắng và trưởng
thành của quân đội. Kỷ luật quân đội có các đặc trưng cơ bản là: tính chuẩn xác,
tính kiên quyết, tính bắt buộc và sự nhanh chóng hoàn thành mọi mệnh lệnh ở yêu
cầu cao, nó có vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống các mối quan hệ xã hội của
quân đội.
Quân đội ta là quân đội cách mạng, quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân.
Bởi vậy, yêu cầu cao nhất của kỷ luật quân đội ta là ở tính tự giác, nó thể hiện sự
trưởng thành về tinh thần, sự giác ngộ về tư tưởng ở mỗi người TNQĐ và tính
nghiêm ngặt của nó, yêu cầu mỗi người phải chấp hành nghiêm chỉnh, chính xác,
vô điều kiện những quy định do pháp luật và điều lệnh quân đội định ra.
Kỷ luật của quân đội ta không chỉ mang tính cưỡng bức, bắt buộc mà
còn mang tính tự giác, tự nguyện ngày càng cao của chủ thể hành động. Bởi thế,
mỗi người TNQĐ phải có ý thức kỷ luật tự giác cao. Lúc đó, nghĩa vụ của người
TNQĐ được thực hiện bởi niềm tin sâu sắc, yêu cầu của pháp luật và kỷ luật hoàn
toàn trùng với động cơ đạo đức bên trong ở mỗi người. Kỷ luật của quân đội ta đòi
hỏi mỗi người quân nhân, mỗi người TNQĐ phải coi việc chấp hành kỷ luật là
trách nhiệm chính trị, là tiêu chuẩn đạo đức của mình. Vì vậy, tinh thần kỷ luật tự
giác là biểu hiện cao nhất của kỷ luật quân sự; đồng thời là phẩm chất đạo đức


quan trọng đảm bảo cho người TNQĐ hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được
giao.
Hai là, chủ nghĩa tập thể và tinh thần đoàn kết ở TNQĐ.
Chủ nghĩa tập thể là một trong các nội dung cơ bản của đạo đức mới - ĐĐCM.
Yêu cầu tất yếu trong sự nghiệp xây dựng, chiến đấu của quân đội ta là chủ nghĩa
tập thể và tinh thần đoàn kết phải được duy trì, phát triển.

Trong quân đội ta, chủ nghĩa tập thể và tinh thần đoàn kết được biểu hiện ở
tình đồng chí, đồng đội, tinh thần đoàn kết vì nhiệm vụ chung, thái độ tôn trọng,
quan tâm chăm sóc giúp đỡ lẫn nhau lúc bình thường cũng như khi ra trận. Nêu
cao chủ nghĩa tập thể, đoàn kết chặt chẽ với nhau như ruột thịt là một nội dung,
một yêu cầu cơ bản của ĐĐCM ở TNQĐ. Bởi vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường
xuyên căn dặn cán bộ, chiến sĩ quân đội ta phải luôn có tinh thần lập công tập thể
và tăng cường đoàn kết chặt chẽ. Vì theo tư tưởng của Người, đoàn kết là một lực
lượng vô địch của chúng ta để khắc phục khó khăn giành lấy thắng lợi [61, tr.397].
Thực tiễn của hoạt động quân sự mà đặc biệt là thực tiễn chiến đấu cho thấy,
nếu không có sự gắn kết, hiệp đồng chặt chẽ, không có sự quy tụ ý chí của các cá
nhân cùng quyết tâm thực hiện nhiệm vụ đến cùng, thì khó có thể giành được chiến
thắng trước kẻ thù, hoàn thành được nhiệm vụ trong các tình huống khẩn trương,
phức tạp. Do vậy, trong mọi hoạt động của quân đội ta, chủ nghĩa tập thể và tinh
thần đoàn kết phải được phát huy cao độ. Ở đây, nó có các đặc trưng riêng, mang
tính đặc thù phù hợp với hoạt động xây dựng và chiến đấu của quân đội. Nó là
nhân tố liên kết sức mạnh cá nhân, là điều kiện để người TNQĐ hoàn thành xuất
sắc các nhiệm vụ của mình.
Chủ nghĩa tập thể và tinh thần đoàn kết được thể hiện một cách toàn diện trong
mọi hoạt động xây dựng và chiến đấu của quân đội. Đối với TNQĐ, chủ nghĩa tập
thể và tinh thần đoàn kết được biểu hiện ở các nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, chủ nghĩa tập thể và tinh thần đoàn kết đòi hỏi mỗi người TNQĐ
trong công tác, xây dựng và chiến đấu phải luôn quan tâm giúp đỡ lẫn nhau, cùng
nhau đồng lòng, đồng sức vì nhiệm vụ chung, vì sự trưởng thành của đơn vị. Coi


đơn vị là nhà, là tổ ấm để cùng nhau cống hiến, trưởng thành. Trong các tình
huống khó khăn, phức tạp của hoạt động chiến đấu, yêu cầu mỗi người TNQĐ phải
luôn nêu cao tinh thần "đồng cam cộng khổ"; "chia ngọt sẻ bùi". Trên cơ sở tình
bạn, tình đồng chí, đồng đội, mọi người sẵn sàng "nhường cơm sẻ áo" dành khó
khăn về mình, nhường thuận lợi cho bạn, đoàn kết cùng nhau thực hiện thắng lợi

mọi nhiệm vụ được giao, như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: "Các chú cần
phải đoàn kết hơn nữa, đoàn kết chặt chẽ giữa các chiến sĩ với nhau, giữa cán bộ
với nhau, giữa chiến sĩ với cán bộ, giữa quân với dân" [61, tr.397]. Theo Người,
đây chính là một nội dung cơ bản của ĐĐCM cần phải có ở mỗi cán bộ, chiến sĩ
quân đội nói chung và TNQĐ nói riêng.
Thứ hai, việc đề cao chủ nghĩa tập thể và tinh thần đoàn kết yêu cầu mỗi người
TNQĐ phải luôn đặt lợi ích của tập thể lên trên lợi ích của cá nhân, biết hy sinh
lợi ích cá nhân để phục vụ lợi ích của tập thể. Trong công tác và xây dựng đơn vị,
mỗi người TNQĐ phải luôn nêu cao trách nhiệm cá nhân đối với tập thể, thường
xuyên chăm lo xây dựng đơn vị ngày càng vững mạnh. Đồng thời, tập thể đơn vị
phải có trách nhiệm chăm lo đến cả đời sống vật chất và tinh thần của họ. Có như
vậy, khối đại đoàn kết nhất trí trong tập thể mới được củng cố, mọi người mới có
được thái độ tích cực trong xây dựng đơn vị, có tinh thần tương trợ hữu ái đối với
nhau, thương yêu nhau như anh em ruột thịt trong một gia đình. Trong chiến đấu
mỗi người TNQĐ phải đề cao đức hy sinh, đoàn kết chặt chẽ, đồng sức, đồng lòng
vượt qua mọi khó khăn gian khổ, sẵn sàng hiến dâng cả tuổi trẻ, tính mạng của
mình trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chung của tập thể. Do đặc thù của hoạt
động quân sự quy định, nếu mỗi người TNQĐ không nêu cao tinh thần đoàn kết,
xả thân vì nhiệm vụ chung và đồng đội, cũng như có ý thức và ý chí thực hiện đến
cùng nhiệm vụ của tập thể giao cho, thì người thanh niên đó không thể hoàn thành
được nghĩa vụ đạo đức cao cả của người chiến sĩ.
Chủ nghĩa tập thể luôn yêu cầu người TNQĐ phải đấu tranh khắc phục các
ảnh hưởng của chủ nghĩa cá nhân. Bởi vì, chủ nghĩa cá nhân là biểu hiện của thói
ích kỷ, vụ lợi, ăn bám, hiếu danh, không biết hy sinh vì lợi ích của người khác và
vì lợi ích của tập thể. Do vậy, để "thấm nhuần" ĐĐCM và hiện thực hoá các giá trị


của nó vào cuộc sống, người TNQĐ phải ra sức tu dưỡng, rèn luyện, đấu tranh
kiên quyết chống lại những biểu hiện tiêu cực do chủ nghĩa cá nhân sinh ra và phải
luôn "nêu cao tinh thần làm chủ tập thể XHCN, làm tròn nhiệm vụ chiến đấu bảo

vệ Tổ quốc" [8, tr.6].
Ba là, chủ nghĩa yêu nước và tinh thần quốc tế vô sản ở TNQĐ.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là sợi chỉ đỏ xuyên suốt mấy ngàn năm lịch sử
hào hùng của dân tộc ta. Trong hệ giá trị tinh thần - đạo đức của dân tộc ta thì chủ
nghĩa yêu nước là giá trị cơ bản và nổi bật nhất, đứng ở vị trí thứ nhất. Chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam luôn là nền tảng tinh thần xã hội, là động lực mạnh mẽ trong
lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam từ xưa đến nay. Nói về chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: "Dân ta có
một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến
nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn
sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn
chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước" [60, tr.171].
Ý thức độc lập dân tộc, tinh thần xả thân vì nước, không chịu khuất phục trước
bất cứ một thế lực xâm lược nào, là một khía cạnh cơ bản của chủ nghĩa yêu nước
Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử. Song trong bước tiến của lịch sử dân tộc ta, nội
dung của chủ nghĩa yêu nước qua các giai đoạn lịch sử khác nhau luôn có những
phát triển mới. Ngày nay, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam có các nội dung phát triển
phong phú hơn, yêu nước phải gắn liền với yêu CNXH; ý thức bảo vệ độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước gắn liền với ý thức bảo vệ chế độ XHCN,
giữ vững định hướng và xây dựng thành công CNXH ở Việt Nam; đồng thời yêu
nước ngày nay phải luôn gắn liền với tinh thần quốc tế vô sản cao cả. Chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam ngày hôm nay vẫn là động lực mạnh mẽ, thúc đẩy sự nghiệp
cách mạng của dân tộc ta đi đến thắng lợi hoàn toàn. Đây là yếu tố tinh thần - đạo
đức đảm bảo cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta thực hiện thắng lợi hai
nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta hiện nay.
Do đặc thù hoạt động và nhiệm vụ quy định mà chủ nghĩa yêu nước ở
TNQĐ gắn liền với các nghĩa vụ đạo đức khách quan, ngoài sắc thái chung nó còn


có các đặc trưng cụ thể, riêng biệt. Các đặc trưng này được biểu hiện cụ thể ở các

nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, là lực lượng xung kích, đi đầu trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc XHCN, đòi hỏi mỗi người TNQĐ phải nhận thức và ý thức một cách sâu
sắc nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình hình hiện nay. Thấy
được vinh dự và trách nhiệm to lớn của mình là người chiến sĩ đang cầm súng bảo
vệ Tổ quốc. Nhận thức được bảo vệ Tổ quốc hiện nay cũng chính là bảo vệ làng
xóm quê hương, gia đình mình và trong đó có hạnh phúc của chính bản thân mình.
Bảo vệ Tổ quốc hiện nay phải gắn liền với bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ Đảng và
cuộc sống hoà bình hạnh phúc của nhân dân.
Thứ hai, nhận thức được trách nhiệm và vinh dự to lớn của mình là một người
chiến sĩ của một quân đội cách mạng, có bề dày truyền thống vẻ vang. Từ đó, mỗi
người TNQĐ phát huy cao độ vai trò xung kích trong thực hiện các chức năng của
quân đội và nhiệm vụ cụ thể của từng đơn vị. Tích cực đóng góp sức mình vào sự
nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng. Tiếp nối truyền thống hào hùng
mà các thế hệ cha anh đã tạo dựng nên. Tình cảm yêu nước của mỗi người TNQĐ
phải được chuyển biến thành tình cảm đối với đơn vị, coi đơn vị là nhà, là mái ấm
gia đình. Từ đó có ý thức, trách nhiệm cao trong việc xây dựng tập thể đơn vị ngày
càng vững mạnh.
Thứ ba, mỗi người TNQĐ phải biến tình cảm yêu nước thành tình yêu với
nghề nghiệp quân sự. Coi đây là một nghề nghiệp vinh quang mà thế hệ trẻ phải
đóng góp sức mình và cũng là nơi để mỗi người TNQĐ cống hiến, trưởng thành về
mọi mặt. Từ đó tích cực rèn luyện, phấn đấu, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ
được giao; không nề hà trước các khó khăn gian khổ, mang hết tâm huyết, nhiệt
tình của tuổi trẻ vào thực hiện các chức năng của quân đội và nhiệm vụ cụ thể của
đơn vị.
Quân đội ta do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, tổ chức và lãnh đạo.
Là đội quân cách mạng mang bản chất của giai cấp công nhân, do vậy, trong quá
trình thực hiện các nhiệm vụ của sự nghiệp cách mạng, cán bộ và chiến sĩ quân đội
phải luôn nêu cao tinh thần quốc tế vô sản cao cả, làm tròn nhiệm vụ bảo vệ Tổ



quốc XHCN và sẵn sàng đóng góp sức mình vào sự nghiệp chung của giai cấp
công nhân và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.
Đối với mỗi người TNQĐ, phải luôn sẵn sàng thực hiện các nhiệm vụ, nghĩa
vụ của mình đối với Tổ quốc và thực hiện các nghĩa vụ quốc tế với tinh thần vô tư,
trong sáng. Nhận thức một cách sâu sắc rằng, chủ nghĩa yêu nước XHCN hoàn
toàn đối lập và xa lạ với chủ nghĩa dân tộc ích kỷ, hẹp hòi, chủ nghĩa quốc tế của
giai cấp công nhân không thể và không bao giờ dung hợp được với chủ nghĩa xô vanh nước lớn. Do đó, làm tròn các nghĩa vụ quốc tế cao cả và thắt chặt thêm tình
đoàn kết giữa các dân tộc trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của sự nghiệp cách
mạng, là yêu cầu về mặt đạo đức và vinh dự to lớn của người TNQĐ.
Bốn là, chủ nghĩa nhân đạo XHCN và truyền thống nhân ái của "Anh bộ
đội Cụ Hồ" ở TNQĐ.
Chủ nghĩa nhân đạo XHCN là thể hiện thái độ thiện chí, có sự cảm thông, có
tình thương yêu sâu sắc của con người đối với con người, đem lại tự do và hạnh
phúc cho con người. Đây là chủ nghĩa nhân đạo cao cả nhất, là lý tưởng nhân đạo
triệt để nhất mang tính hiện thực. Nó thủ tiêu mọi ách áp bức, bóc lột, mọi bất bình
đẳng xã hội; nó hướng tới giải phóng con người, đem lại tự do, hạnh phúc thực sự
cho con người.
Đối với TNQĐ, lực lượng cơ bản đang trực tiếp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc XHCN và công cuộc xây dựng hoà bình, hạnh phúc của nhân dân, thì chủ
nghĩa nhân đạo XHCN là một trong các nguyên tắc đạo đức cơ bản, là nội dung
của ĐĐCM cần được xây dựng và phát triển. Nó được quy định bởi nhiệm vụ và
đặc thù của hoạt động quân sự. Vì vậy, chủ nghĩa nhân đạo XHCN ở TNQĐ có các
biểu hiện cụ thể sau:
Thứ nhất, TNQĐ là lực lượng chủ yếu đang trực tiếp cầm súng để bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước; bảo vệ Đảng, bảo vệ chế
độ XHCN và cuộc sống hạnh phúc của nhân dân. Do vậy, tính nguyên tắc trên đòi
hỏi TNQĐ phải luôn luôn có lòng căm thù giặc sâu sắc, có ý chí quyết tâm đánh
thắng mọi thế lực xâm phạm đến bờ cõi biên cương của Tổ quốc, cũng như các thế



lực phản động khác đang phá hoại sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta.
Mỗi người TNQĐ cần nhận thức được việc hy sinh sức trẻ, tuổi xuân của mình cho
Tổ quốc, cho nhân dân là hành động nhân đạo cao cả nhất, vinh quang nhất. Từ đó
nâng cao ý chí, tình cảm, trách nhiệm của người chiến sĩ đang cầm súng bảo vệ Tổ
quốc, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ do Đảng, nhân dân, quân đội giao cho.
Thứ hai, chủ nghĩa nhân đạo XHCN hoàn toàn đối lập với các hành vi phi đạo
đức, thái độ sống thờ ơ với số phận của người khác, ích kỷ, vụ lợi, bóc lột, lường
gạt người khác... Do vậy, chủ nghĩa nhân đạo XHCN đòi hỏi mỗi người TNQĐ
phải kiên quyết đấu tranh loại bỏ các hành vi phản nhân đạo ra khỏi cuộc sống;
luôn nêu cao tinh thần đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ. Trong cuộc sống hàng ngày luôn nêu cao lòng vị tha, hào hiệp với
mọi người; tôn trọng, giúp đỡ dân và bảo vệ dân, làm tròn được các nhiệm vụ,
nghĩa vụ cao cả của người chiến sĩ đối với Tổ quốc và đối với nhân dân.
Thứ ba, chủ nghĩa nhân đạo XHCN đòi hỏi mỗi người TNQĐ phải chuyển
biến ý chí, quyết tâm, tình cảm và trách nhiệm thành hành động cụ thể ở mỗi
người. Nghĩa là, mỗi người TNQĐ phải không ngừng học tập, tu dưỡng, rèn luyện,
nâng cao giác ngộ XHCN và nhận thức ngày càng sâu sắc hơn nhiệm vụ bảo về Tổ
quốc XHCN, thấu triệt mọi nhiệm vụ chính trị của quân đội và đơn vị, hoàn thành
xuất sắc các nhiệm vụ được giao.
Tư tưởng nhân đạo cộng sản chủ nghĩa là tình nhân ái giữa người và người.
Lòng nhân ái là cái "gốc", là nguyên tắc của đạo đức mới - ĐĐCM. Vì vậy, khi đề
cập chủ nghĩa nhân đạo XHCN ở TNQĐ, không thể không đề cập tới truyền thống
nhân ái của "Anh bộ đội Cụ Hồ". Đây là một giá trị được hun đúc trong suốt quá
trình xây dựng, trưởng thành và chiến đấu của quân đội ta từ khi ra đời đến nay.
"Anh bộ đội Cụ Hồ" là đỉnh cao về hình tượng của người lính Việt Nam. Họ từ
nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu phục vụ. Cho nên, ngay từ khi mới ra
đời, họ đã được nhân dân coi như con em của mình và trong suốt quá trình chiến
đấu, trưởng thành của quân đội ta, tình cảm "cá nước" đó ngày càng được thắt
chặt. Truyền thống nhân ái của "Anh bộ đội Cụ Hồ" chính là biểu hiện của truyền

thống đoàn kết, nhân ái Việt Nam, là sự hiện thực hoá chủ nghĩa nhân đạo


×