Tải bản đầy đủ (.doc) (149 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ PHÁT TRIỂN PHẨM CHẤT TINH THẦN CHO THANH NIÊN QUÂN đội NHÂN dân VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (587.78 KB, 149 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lý luận và thực tiễn đã khẳng định rằng nhân tố tinh thần là một nhân tố cơ bản
trong sức mạnh chiến đấu của quân đội cách mạng, nhân tố “rốt cuộc” quyết định thắng
lợi trong chiến tranh. Trong quá trình xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản,
V.I.Lênin rất quan tâm chăm lo xây dựng cho quân đội cách mạng luôn có sức mạnh
chiến đấu cao, nhất là sức mạnh chính trị - tinh thần. Là người cha thân yêu của các lực
lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm giáo dục,
bồi dưỡng phẩm chất tinh thần cho các thế hệ quân nhân nói chung, thanh niên quân đội
nói riêng. Người căn dặn: “Vệ quốc quân, dân quân du kích phải luôn phát triển cái
kỷ luật nghiêm như sắt, cái tinh thần vững như đồng, cái chí khí quật cường tất
thắng, cái đạo đức: trí, dũng, liêm, trung”. Bởi lẽ, đó là một nhân tố cơ bản góp phần
quyết định mọi thắng lợi của quân đội ta trong chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến
tranh bảo vệ Tổ quốc.
Phẩm chất tinh thần là thành tố cơ bản trong nhân cách thanh niên quân đội
nói riêng, trong sức mạnh tổng hợp của quân đội ta nói chung. Trước đây, trong
chiến tranh giải phóng dân tộc, tuổi trẻ quân đội ta đã phát huy cao độ phẩm chất
tinh thần, khắc phục mọi khó khăn, gian khổ, những hạn chế về vũ khí, trang bị, kĩ
thuật chiến đấu, chuyển hoá sức mạnh tinh thần thành sức mạnh vật chất để chiến
đấu và chiến thắng kẻ thù. Ngày nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa diễn ra trong điều kiện, hoàn cảnh quốc tế mới có nhiều biến
động phức tạp, khó lường. Trong chiến lược của các thế lực chống độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, chiến tranh tâm lý – thông tin là một mũi tiến công lợi hại
nhằm làm suy yếu tinh thần quân dân đối phương. Điều đó khẳng định vai trò
phẩm chất tinh thần của thanh niên quân đội trong sức mạnh chiến đấu, trong mọi
hoạt động của quân đội ta không hề giảm sút, trái lại ngày càng phải được đề cao
hơn bao giờ hết. Việc phát triển phẩm chất tinh thần của thanh niên quân đội ta
hiện nay có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ góp phần nâng cao sức mạnh tổng
hợp của quân đội, mà còn góp phần hoàn thiện nhân cách, thực hiện chiến lược con
người của Đảng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.



Thực tế sự phát triển nhanh chóng của nhiệm vụ cách mạng và nhiệm vụ xây
dựng quân đội vững mạnh toàn diện, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở đòi hỏi
phẩm chất tinh thần của thanh niên quân đội ta phải phát triển ngang tầm yêu cầu
mới. Trong lúc sự tác động từ mặt trái của nền kinh tế thị trường, của văn hoá, lối
sống phương Tây đã và đang làm sa sút phẩm chất tinh thần ở một bộ phận thanh
niên nói chung, thanh niên quân đội nói riêng. Trong đó, sự suy thoái về chính trị,
đạo đức, lối sống đã gây ra các hậu quả nhất định làm ảnh hưởng đến chất lượng
chính trị, đến bản chất và truyền thống tốt đẹp của Quân đội nhân dân Việt Nam
anh hùng, phản ánh mâu thuẫn giữa yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc với thực trạng trình độ phẩm chất tinh thần của thanh niên quân đội ta hiện
nay. Tình hình đó, đặt ra nhiều vấn đề mới đòi hỏi khoa học xã hội và nhân văn
quân sự phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu để tìm ra những giải pháp khả thi nhằm
phát triển phẩm chất tinh thần của thanh niên quân đội, đáp ứng ngày càng cao yêu
cầu, nhiệm vụ xây dựng quân đội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ
mới.
Với lý do trên, tác giả lựa chọn vấn đề: “Phát triển phẩm chất tinh thần của
thanh niên Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của
luận án.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề nhân tố tinh thần và vai trò của nó trong xây dựng sức mạnh chiến đấu
của quân đội, trong bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đã, đang được nhiều nhà khoa
học trong và ngoài quân đội quan tâm nghiên cứu.
Các tác giả đã bàn về bản chất, vai trò của tinh thần và nâng cao sức mạnh
tinh thần ở các góc độ khác nhau như: Nguyễn Chí Thanh, “Tiếp tục nâng cao tinh
thần chiến đấu của quân đội”, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1963. Nguyễn
Vĩnh Thắng, “Vai trò nhân tố tinh thần trong củng cố sức mạnh chiến đấu của
Quân đội nhân dân Việt Nam”, Luận án phó tiến sỹ khoa học triết học, Matxcơva,
1991. Song Hào, “Chính trị tinh thần - một nhân tố cơ bản để quân đội ta đánh
thắng giặc Mỹ xâm lược”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 12/1994. “Chiến tranh

thời đại hiện nay và việc chuẩn bị tinh thần cho quân đội trong chiến tranh bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”, (Đề tài khoa học cấp Bộ, mã số KXB - 98,


do PGS. TS Lê Văn Quang chủ nhiệm). Lê Xuân Lựu, “Kinh nghiệm xây dựng
nhân tố tinh thần cho quân đội”, Tạp chí Cộng sản, tháng 5/2000. “Xây dựng chính
trị - tinh thần của nhân dân và quân đội ta sẵn sàng đánh thắng cuộc tiến công hoả
lực bằng vũ khí công nghệ cao của Mỹ đối với Việt Nam”, (Đề tài khoa học cấp
Bộ, mã số 2001. 83. 006, do PGS. TS Nguyễn Vĩnh Thắng chủ nhiệm)…
Những công trình trên, dưới các góc độ tiếp cận khác nhau đã nêu ra một số
quan niệm về tinh thần, về khái niệm, cấu trúc của nhân tố tinh thần và sự cần thiết
phải nâng cao vai trò của nhân tố tinh thần trong sức mạnh chiến đấu của quân đội,
trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Những kết quả nghiên cứu đó đã
gợi mở cho tác giả luận án những vấn đề khoa học cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu.
Tuy nhiên, các công trình đó chưa có điều kiện đi sâu khám phá bản chất các khái
niệm phẩm chất tinh thần, phẩm chất tinh thần của thanh niên quân đội và càng
chưa có điều kiện làm rõ bản chất sự phát triển phẩm chất tinh thần của thanh niên
quân đội ta hiện nay.
Trong mấy năm gần đây, ở Học viện Chính trị quân sự cũng có một số luận án
tiến sĩ triết học nghiên cứu cơ bản về nâng cao từng mặt trong nhân cách quân nhân
cách mạng nói chung, thanh niên quân đội nói riêng như: Nguyễn Văn Quyết, “Đẩy
mạnh quá trình hình thành và phát triển phẩm chất chính trị của thanh niên quân đội ta
trong giai đoạn hiện nay”, luận án phó tiến sĩ khoa học quân sự, Hà Nội, 1990. Dương
Văn Lượng, “Nâng cao phẩm chất chính trị quân nhân của Quân đội nhân dân Việt
Nam trong giai đoạn cách mạng mới”, luận án phó tiến sĩ triết học, Hà Nội, 1994.
Nguyễn Văn Vinh, “Phát triển thế giới quan duy vật biện chứng cho sĩ quan cấp phân
đội Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay”, luận án tiến sĩ triết học, Hà Nội, 2001.
Nguyễn Hùng Oanh, “Phát triển đạo đức cách mạng ở thanh niên quân đội nhân
dân Việt Nam hiện nay”, luận án tiến sĩ triết học, Hà Nội, 2002… Nhiều công trình
khác của các tác giả và các tập thể tác giả có liên quan đến các khía cạnh khác

nhau của đề tài được công bố thường xuyên trên các tạp chí.
Ở những công trình này, các tác giả đã làm rõ khái niệm, cấu trúc và vai trò
của từng phẩm chất cụ thể đối với sự phát triển nhân cách thanh niên quân đội
trong tính đa dạng, phong phú nhiều vẻ của nó. Nhưng chủ yếu đi sâu phẩm chất
chính trị, đạo đức chưa nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ thống dưới góc độ triết


học - xã hội học phẩm chất tinh thần với khái niệm nội hàm rộng, ở tầm cao của sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Lựa chọn đề tài “Phát triển phẩm chất
tinh thần của thanh niên quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay”, tác giả hy vọng
đóng góp phần nhỏ vào phát triển lý luận, làm rõ hơn vấn đề xây dựng, nâng cao
sức mạnh chiến đấu của quân đội, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc XHCN trong giai đoạn mới.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
- Mục đích: Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn sự phát triển phẩm chất
tinh thần của thanh niên Quân đội nhân dân Việt Nam, trên cơ sở đó đề xuất một
số giải pháp cơ bản nhằm phát triển phẩm chất tinh thần của thanh niên quân đội ta
hiện nay.
- Nhiệm vụ:
+ Làm rõ bản chất và đặc điểm phát triển phẩm chất tinh thần của thanh niên
quân đội ta.
+ Phân tích đánh giá thực trạng, nguyên nhân và những yêu cầu phát triển
phẩm chất tinh thần của thanh niên quân đội ta hiện nay.
+ Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển phẩm chất tinh thần của
thanh niên quân đội ta hiện nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận của luận án là hệ thống các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về chiến tranh và quân đội, về vị trí, vai trò của nhân tố tinh thần trong chiến tranh,
trong sức mạnh chiến đấu của quân đội.

- Cơ sở thực tiễn của luận án là những biến động diễn ra trên thế giới, trong
nước và quân đội liên quan đến phát triển phẩm chất tinh thần của thanh niên quân
đội; các báo cáo tổng kết của các cơ quan chức năng trong quân đội; các số liệu
thống kê và kết quả điều tra xã hội học của tác giả ở một số đơn vị trong quân đội.
Luận án còn nghiên cứu, tham khảo các công trình khoa học có liên quan đến đề
tài.
- Tác giả sử dụng hệ thống phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử như phương pháp phân tích - tổng hợp, phương
pháp khái quát hoá, trừu tượng hoá, phương pháp hệ thống… để làm rõ những vấn


đề đặt ra. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các phương pháp khác: phương pháp điều
tra xã hội học, phương pháp quan sát và phương pháp chuyên gia.
5. Những đóng góp mới về khoa học
- Bước đầu khái quát, làm rõ bản chất và đặc điểm phát triển phẩm chất tinh
thần của thanh niên quân đội ta.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển phẩm chất tinh thần của thanh
niên quân đội ta hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Luận án đưa ra những cơ sở khoa học để góp phần phát triển phẩm chất tinh
thần của thanh niên quân đội ta hiện nay.
- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy, nghiên cứu ở
các học viện, nhà trường và các đơn vị cơ sở trong quân đội.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm phần mở đầu; 3 chương (7 tiết); phần kết luận; danh mục tài liệu
tham khảo và phần phụ lục.
CHƯƠNG 1
BẢN CHẤT VÀ ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN PHẨM CHẤT TINH THẦN
CỦA THANH NIÊN QUÂN ĐỘI TA
1.1. Phẩm chất tinh thần và biểu hiện đặc trưng phẩm chất tinh thần của

thanh niên quân đội
1.1.1. Phẩm chất tinh thần và cấu trúc của phẩm chất tinh thần
Phẩm chất tinh thần của quân nhân và vai trò của nó trong hoạt động quân sự
luôn là sự quan tâm nghiên cứu nhằm nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội.
Thực chất nghiên cứu PCTT của quân nhân là nghiên cứu một trong những mặt,
những thuộc tính trong “chất lượng con người” hoạt động trong lĩnh vực quân sự.
Trong mọi trường hợp, PCTT của người quân nhân vẫn là một trong những nhân tố
cơ bản, giữ vai trò quyết định khả năng sẵn sàng chiến đấu, chất lượng, hiệu quả
hoạt động quân sự, quyết định tiến trình và kết cục của chiến tranh. Trong thời đại
ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ hiện đại, của cuộc
chiến tranh có sử dụng vũ khí công nghệ cao kết hợp với chiến tranh tâm lý –
thông tin, vai trò của con người và PCTT của người quân nhân ngày càng tăng lên.
Kinh nghiệm các cuộc chiến tranh trong lịch sử, nhất là cuộc chiến tranh của đế


quốc Mỹ xâm lược Việt Nam, cuộc chiến tranh ở Côxôvô và gần đây ở
Apganixtan, Irắc cũng chứng minh rằng, để có sức mạnh chiến thắng quân thù, thì
PCTT của quân và dân là yếu tố quyết định hàng đầu. Vì vậy, ngày nay giáo dục,
phát triển PCTT cho quân nhân có vị trí, vai trò hết sức quan trọng để nâng cao khả
năng chiến đấu và chiến thắng của quân đội ta.
Trong lịch sử chiến tranh và quân đội, khái niệm “tinh thần” và “phẩm chất
tinh thần” được sử dụng khá rộng rãi. Trên các báo chí, các ấn phẩm có liên quan
đến vấn đề chiến tranh và quân đội, khái niệm này ngày càng trở nên thông dụng
và phổ biến. Tuy nhiên, tùy theo góc độ tiếp cận và nghiên cứu khác nhau nên cách
hiểu về khái niệm này cũng có sự khác nhau.
C.Ph. Claudơvit (1780 - 1831) - nhà lý luận quân sự tư sản nổi tiếng cho rằng: “Yếu
tố tinh thần là một trong những yếu tố quan trọng nhất của chiến tranh. Chính tinh thần
thấm nhuần vào toàn bộ cuộc chiến tranh. Chính tinh thần bắt ý chí vận động và hướng
dẫn toàn bộ lực lượng; tinh thần và lực lượng là một, vì chính ý chí cũng là một đại lượng
của tinh thần” [12, tr.238]. Theo Ông, tinh thần là ý chí quả quyết của một tâm hồn

kiêu hãnh. Song, Claudơvít đã xem xét bản chất của tinh thần và sức mạnh tinh thần
của quân đội với lập trường duy tâm. Ông cho rằng, không thể nhận thức được sức
mạnh tinh thần; niềm vinh dự quân nhân thể hiện trong mọi người lính chỉ là ở chỗ nó
trở thành một người thừa hành ngoan ngoãn mà chỉ huy đã trao cho nó.
Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác – Lênin, khi nói về nhân tố tinh thần trong
sức mạnh chiến đấu của quân đội trong quan hệ với vũ khí, kỹ thuật đã xác định đó
là tinh thần quyết chiến, khả năng chịu đựng mọi sự khắc nghiệt của chiến tranh
đến mức như Ph.Ăngghen viết: “Có thể đòi hỏi nó (quân đội) những gì mà không
sợ làm cho nó mất tinh thần” [dẫn theo, 11, tr.518]. Tinh thần giữ một vai trò quyết
định trong chiến tranh vì khi được thể hiện ở sức mạnh vật chất nó có thể làm cho
sức mạnh chiến đấu của quân đội tăng lên hoặc giảm xuống. Có tinh thần cao,
người lính mới có thể chịu đựng và vượt qua được hy sinh, sử dụng có hiệu quả vũ
khí, kỹ thuật. Có thể nói, sức mạnh chiến đấu của quân đội được thể hiện ở tinh
thần chiến đấu của người lính.


Tiếp thu một cách sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác –
Lênin về xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã không ngừng chăm lo xây dựng quân đội về mọi mặt. Một trong những vấn đề
Người quan tâm hàng đầu là xây dựng tinh thần chiến đấu cho người lính. Những
tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng tinh thần chiến đấu cho người
lính thể hiện hầu hết trong các bài viết và nói của Người với cán bộ, chiến sĩ quân
đội ta. Tư tưởng đó của Người được vận dụng trong suốt hai cuộc kháng chiến và
ngày nay lại càng có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc XHCN.
Nhân dịp kỷ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22/12/1947,
Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Vệ quốc quân, dân quân du kích phải luôn phát
triển cái kỷ luật nghiêm như sắt, cái tinh thần vững như đồng, cái chí khí quật
cường tất thắng, cái đạo đức: trí, dũng, liêm, trung” [57, tr.330]. Những yêu cầu
của Bác Hồ đặt ra với cán bộ, chiến sĩ quân đội ta trong những ngày đầu thành lập

cũng chính là những đặc trưng cơ bản về PCTT của người chiến sĩ sau này, đồng
thời nói lên vai trò hết sức quan trọng của PCTT trong chiến đấu, trong hoạt động
quân sự. Theo tư tưởng của Người thì người lính có tinh thần chiến đấu cao không
phải là kiểu “người hùng” cá nhân theo như quan niệm ở một số nước phương Tây.
Họ chính là những người lính bình thường nhưng biết xả thân vì cách mạng, vì
nghĩa lớn, dám đánh, biết đánh và quyết thắng. Nếu như họ có trở thành anh hùng,
chiến sĩ thi đua thì “chính là nhờ công lao chung của tập thể. Họ là “tinh hoa của
dân tộc đã nêu cao tinh thần trung với nước, hiếu với dân, dũng cảm mưu trí,
khiêm tốn, giản dị, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, khó khăn không ngại, gian khổ
không sờn, quyết hoàn thành nhiệm vụ cứu nước, góp phần vào sự nghiệp vẻ vang
của dân tộc”. Với những tư tưởng mới trong xây dựng quân đội, Chủ tịch Hồ Chí
Minh chỉ rõ việc làm đầu tiên để xây dựng tinh thần cho người lính là: Làm cho
mỗi đội viên hiểu rõ nhiệm vụ vẻ vang của họ, hiểu rõ mục tiêu chiến đấu của quân
đội ta là chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì CNXH. Người động
viên, khích lệ những chiến sĩ đã “quyết đem xương máu giữ vững nền thống nhất


và độc lập cho nước nhà”. Người trân trọng gọi họ là “đại biểu cái tinh thần tự tôn,
tự lập của dân tộc mấy nghìn năm để lại”.
Trong quá trình xây dựng tinh thần chiến đấu cho người lính, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đòi hỏi công tác tư tưởng phải đi trước một bước. Đầu tiên phải thống nhất
về tư tưởng, tư tưởng có thống nhất, hành động mới thống nhất, tư tưởng và hành
động có thống nhất mới đánh thắng được địch. Người đã nhìn thấy trước đòi hỏi
khách quan của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới, những đòi hỏi về
phẩm chất và năng lực chiến đấu của người lính trong cuộc chiến tranh nếu xảy ra
trong tương lai và yêu cầu phải bồi dưỡng cho người lính những phẩm chất đạo
đức, tâm lý vững vàng, một trí tuệ sắc bén, một sức khoẻ dẻo dai, bền bỉ đủ sức
chịu đựng những thử thách nặng nề nhất. Người căn dặn cán bộ, chiến sĩ quân đội
ta phải luyện tập thân thể cho mạnh mẽ, nghiên cứu kỹ thuật cho thông thạo, trau
dồi tinh thần cho vững chắc.

Giáo dục con người phát triển toàn diện là điều Người hằng mong muốn.
Người căn dặn các nhà làm công tác giáo dục “nếu anh em tư tưởng vững, chính trị
vững, kỹ thuật khá, thân thể khoẻ mạnh thì nhất định thắng; trái lại nếu anh em
chính trị khá, nhưng quân sự kém, hoặc chính trị quân sự đều khá nhưng thân thể
yếu đuối thì cũng không thể thắng được”.
Những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng tinh thần chiến đấu
cho cán bộ, chiến sĩ là một di sản vô giá, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn
trong quá trình xây dựng và chiến đấu của quân đội ta.
Trong thực tiễn xây dựng tiềm lực tinh thần của đất nước và nhân tố tinh thần
cho các lực lượng vũ trang ở các nước XHCN kể cả nước ta, cần thiết phải nhận
thức các nội dung hàm chứa trong khái niệm tinh thần, nên đã có những đề xuất về
những thành tố cấu trúc của khái niệm đó.
Các tác giả của cuốn sách: “Chủ nghĩa Mác - Lênin bàn về chiến tranh và
quân đội” cho rằng:
Quan niệm tinh thần chỉ là biểu hiện của những phẩm chất đạo đức và
niềm tin cũng không đúng. Đó là một hiện tượng phức tạp hơn, nhiều mặt
hơn. Nội dung căn bản, có tính chất quyết định của tinh thần quân đội là toàn


bộ những tư tưởng chính trị và đạo đức, tâm trạng, cảm giác đã thấm sâu vào
tập thể chiến sĩ và sĩ quan... Theo bản chất của nó, tinh thần là khả năng của
người chiến sĩ thực hiện đến cùng nghĩa vụ quân nhân của mình. Biểu hiện cụ
thể của tinh thần là những phẩm chất tinh thần - chiến đấu của người chiến sĩ
[11, tr.520].
Có tác giả cho rằng, tinh thần đồng nghĩa với ý thức, tư duy. Có tinh thần cá
nhân - ý thức cá nhân và tinh thần cộng đồng - ý thức xã hội [30, tr.6]. Từ điển tiếng
Việt định nghĩa: “Tinh thần là những thái độ, ý nghĩ định hướng cho hoạt động,
quyết định hành động của con người” [96, tr.961]. Đề tài khoa học, mã số KXB 98 do PGS. TS Lê Văn Quang chủ nhiệm, đưa ra định nghĩa như sau: “Tinh thần
con người là tổng hợp các giá trị của tư tưởng, tâm lý, ý thức, ý chí và khả năng
tinh thần của con người dựa trên các hoạt động xã hội”, “Tinh thần là “cái thần”

của ý thức, là sự kết tinh, “thăng hoa” của ý thức, là biểu hiện tổng hợp các giá trị
của ý thức xã hội, ý thức cá nhân trong những hoàn cảnh nhất định” [9, tr.72-73].
Sở dĩ có sự khác nhau trong định nghĩa, vì tinh thần là một vấn đề rộng lớn,
phức tạp, được biểu hiện ra ở nhiều mặt, nhiều cấp độ liên quan đến ý thức, đến
quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Tuy vậy, các định nghĩa
đều thống nhất: Tinh thần của con người bao giờ cũng gắn liền với những quan hệ
vật chất, nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn
lịch sử nhất định. Tinh thần là một trong những khả năng to lớn của mỗi con người
trong mọi lĩnh vực thực tiễn xã hội, và khi được phát huy trong hoạt động cụ thể
thì trở thành PCTT của chủ thể hành động.
Tiếp thu tính hợp lý của những luận điểm trên đây, thấy rõ tinh thần con
người không chỉ đơn thuần do các yếu tố như tư tưởng, ý chí, tâm lý... cộng lại một
cách giản đơn, mà là sự tổng hợp các giá trị của tất cả các yếu tố cấu thành, trong
đó quan trọng nhất là các yếu tố chính trị, đạo đức, tâm lý, nghề nghiệp... Không
phải ngẫu nhiên mà V.I.Lênin khi nói về sức mạnh tinh thần của con người đã giải
thích: “Tất nhiên không nên hiểu tinh thần theo lối nhìn nhận một cách riêng rẽ, mà
phải hiểu tinh thần cũng nằm trong tỷ lệ so sánh về lực lượng thực tế của tất cả các
giai cấp trong mọi quốc gia” [dẫn theo, 28, tr.39]. Khi phân tích tinh thần và PCTT


của con người trong hoạt động thực tiễn - xã hội, nhất là trong chiến tranh, cần
hiểu rõ và khái quát được những yếu tố hợp thành của PCTT như: quan điểm chính
trị, đạo đức, nghề nghiệp, lòng tin, tình cảm xã hội, cũng như những đặc điểm tâm
lý khác của con người như: ý chí, tình cảm, tâm lý, tập quán, thói quen... Tất cả các
yếu tố này không tồn tại riêng lẻ, tách rời nhau mà có liên hệ biện chứng, tạo nên
sức mạnh tinh thần to lớn của con người.
Ý thức, tinh thần và PCTT là những khái niệm có quan hệ chặt chẽ, thống
nhất với nhau trên phương diện là thuộc tính bản chất của riêng con người, phản
ánh sáng tạo hiện thực khách quan, là kết quả quá trình nhận thức và hoạt động
thực tiễn của con người. Nhưng, nếu khái niệm ý thức (ý thức xã hội) trong quan

hệ với vật chất (tồn tại xã hội) chủ yếu nói về bản thể luận và nhận thức luận là sản
phẩm của vật chất phản ánh tồn tại (tồn tại xã hội), thì khái niệm tinh thần không
chỉ nói về phương diện đó, mà còn cơ bản nói về vai trò của nhân tố tinh thần trong
đời sống hiện thực, phản ánh khả năng của con người trong nhận thức và hoạt động
thực tiễn cải biến hiện thực. Với khái niệm đó, tinh thần gắn với một chủ thể hoạt
động nhất định, chủ yếu phản ánh chất lượng của chủ thể đó về tinh thần, với tư
cách là phẩm chất với ý nghĩa “là cái làm nên giá trị của con người” [96, tr.744].
Vậy bản thân PCTT chính là biểu hiện cụ thể của tinh thần trong những lĩnh vực
hoạt động cụ thể, là nhân tố hàng đầu cùng với nhân tố về các điều kiện vật chất
đáp ứng mọi yêu cầu hoạt động của con người.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin tuy chưa nêu ra một định nghĩa
cụ thể về PCTT của con người, song đã vạch ra cơ sở phương pháp luận khoa học
cho việc nhận thức đầy đủ, đúng đắn về PCTT. V.I.Lênin viết:
Trong mọi cuộc chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi đều tùy thuộc vào tinh thần của
quần chúng đang đổ máu trên chiến trường. Lòng tin vào cuộc chiến tranh chính
nghĩa, sự giác ngộ rằng cần phải hy sinh đời mình cho hạnh phúc của những người
anh em, là yếu tố nâng cao tinh thần binh sĩ và làm cho họ chịu được những khó
khăn chưa từng thấy [37, tr.147].
Xuất phát từ những phân tích trên đây có thể quan niệm: Phẩm chất tinh
thần của con người, trong xã hội có giai cấp, là tổng hoà các yếu tố, giá trị về


chính trị, đạo đức, tâm lý, nghề nghiệp… tạo nên sức mạnh và định hướng cho
mọi hoạt động của họ đạt chất lượng, hiệu quả nhất định.
Do chế độ kinh tế, chính trị xã hội quyết định, được hình thành, phát triển
trong quá trình con người tham gia vào các mối quan hệ xã hội, PCTT là loại phẩm
chất xã hội cơ bản, đặc trưng cho sức mạnh tinh thần của con người và là điều kiện
cho mọi hoạt động sống của con người trong mọi lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực hoạt
động chính trị - xã hội.
Xét về phương diện giá trị xã hội, PCTT của con người chính là một mặt biểu

hiện những giá trị xã hội của con người, là thước đo trình độ phát triển của con
người về mặt xã hội. Nhờ có các phẩm chất xã hội, trước hết là PCTT, mà con
người trở thành một nhân cách xác định.
Xét về phương diện lịch sử hoạt động tinh thần, PCTT của con người là sản
phẩm phát triển lâu dài của lịch sử tiến hóa con người, phản ánh các điều kiện sinh
hoạt vật chất, tinh thần, các hoạt động sống và quan hệ xã hội của con người ở
những giai đoạn lịch sử nhất định.
Xét về bản chất, PCTT của con người là sự phản ánh vào nhân cách con
người các mối quan hệ xã hội, trong xã hội có giai cấp, đó là sự phản ánh quan hệ
chính trị - giai cấp và các hoạt động đấu tranh giai cấp, đấu tranh chính trị, đem lại
cho con người sức mạnh tinh thần to lớn để thực hiện mục tiêu, lý tưởng của một
giai cấp nhất định.
Sự hình thành, phát triển PCTT của con người chịu tác động của một hệ thống
các quy luật mà trước hết là quy luật xã hội và quy luật sinh học. Ngày nay, các
nhà khoa học đã chứng minh rằng, con người cũng như PCTT của họ là sản phẩm
của quá trình tác động biện chứng giữa mặt sinh học và mặt xã hội. Song, PCTT
trước hết và chủ yếu là sản phẩm của lịch sử, có nguồn gốc xã hội - lịch sử. Sự
hình thành, phát triển PCTT của con người nói chung, của mỗi con người cụ thể
nói riêng bao giờ cũng mang đậm dấu ấn của hoàn cảnh, của điều kiện xã hội - lịch
sử.
Quan điểm Mác - Lênin coi các phẩm chất xã hội của con người là sản phẩm
của quá trình phát triển lâu dài về mặt xã hội - lịch sử. C.Mác viết:


Trong khi tác động vào tự nhiên ở bên ngoài thông qua sự vận động đó,
và làm thay đổi tự nhiên, con người cũng đồng thời làm thay đổi bản tính của
chính nó. Con người phát triển những tiềm lực đang ngái ngủ ở trong bản tính
đó và bắt sự hoạt động của những tiềm lực ấy phải phục tùng quyền lực của
mình [53, tr.266].
Chính trong quá trình lao động sản xuất, đấu tranh giai cấp và quan hệ xã hội

mà những mặt, những yếu tố trong bản tính tự nhiên của con người dần dần được
bộc lộ ra, được xã hội hóa và trở thành các phẩm chất xã hội của con người. Theo
đó, phương thức để con người hình thành, phát triển các phẩm chất của mình là
việc con người chiếm hữu một cách toàn diện bản chất của mình: thấy, nghe, ngửi,
nếm, sờ, trực quan, mong muốn, tư duy, hoạt động... Đó cũng là quá trình con
người thực hiện đối tượng hóa các “lực lượng bản chất người” của mình; một mặt
để “nhân loại hoá cảm giác của con người” và mặt khác “sáng tạo cảm giác của
con người” tương ứng với sự phong phú của đối tượng khách quan. Chủ tịch Hồ
Chí Minh, trong bài “Thực hành sinh ra hiểu biết” cũng vạch rõ: “Hoạt động sản
xuất là nguồn gốc của sự phát triển hiểu biết của loài người”, và: “Muốn hiểu biết
một việc gì, một vật gì thì phải tham gia vào cuộc đấu tranh và biến đổi của việc
ấy, vật ấy” [63, tr.251].
Như vậy, con người không chỉ là sản phẩm của xã hội - lịch sử, mà còn là chủ
thể sáng tạo ra thế giới đối tượng (thế giới tự nhiên thứ hai) và bản thân mình với
những phẩm chất xã hội đặc thù, thông qua quá trình chiếm hữu đối tượng. Con
người chỉ có thể hình thành một phẩm chất nào đó nếu như có quá trình chiếm hữu
đối tượng tương ứng. Nếu con người không có một nhu cầu nào về đối tượng để
thúc đẩy việc hình thành động cơ hoạt động, chiếm hữu đối tượng, không có một
cảm xúc nào về đối tượng và do đó không có hoạt động chiếm hữu đối tượng, thì
không thể có những hiểu biết đầy đủ về đối tượng đó. Nếu như trong tính hiện thực
của nó, bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội, thì các phẩm chất của
con người chính là những biểu hiện sinh động trong đời sống hiện thực cái bản
chất đó, và là phương thức tồn tại của “bản chất người” trong thang bậc vận động,
phát triển liên tục của nó.


Cùng với quá trình cải biến tự nhiên, phát triển xã hội và hoàn thiện chính mình,
PCTT của con người cũng ngày càng được phát triển, hoàn thiện. Con người có PCTT
ngày càng cao thì ngày càng nhận thức và hoạt động phù hợp với quy luật khách quan,
đem lại chất lượng và hiệu quả to lớn. Đồng thời, PCTT góp phần định hướng và điều

chỉnh hành vi của con người. Đó là quy luật về sự tác động qua lại giữa con người và
PCTT của con người trong sự phát triển của xã hội, đặc biệt là trong chiến tranh và lĩnh
vực quân sự. Ngày nay, quy luật đó đang tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của xã hội,
của con người hơn bao giờ hết.
PCTT của con người ngày nay có cấu trúc khá phức tạp gồm nhiều yếu tố,
nhiều tầng, lớp có quan hệ chặt chẽ với nhau và được nhìn nhận dưới nhiều góc độ
khác nhau. Cách tiếp cận PCTT ở góc độ hình thái ý thức xã hội bao gồm các yếu
tố cơ bản như: ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý thức thẩm
mỹ… có ưu điểm là hướng vào giải quyết mặt nhận thức luận xã hội của con người
với tư cách là chủ thể của quá trình nhận thức hiện thực khách quan; nhưng chưa
chỉ ra con đường, biện pháp cụ thể để xây dựng, phát triển PCTT ở từng đối tượng
cụ thể, hoạt động trong một lĩnh vực nhất định. Tiếp cận PCTT theo cấp độ bao
gồm hai lớp: lớp hệ tư tưởng và lớp tâm lý xã hội, có ưu điểm là khẳng định được
các giá trị của yếu tố tư tưởng, tâm lý, ý thức, ý chí… của con người trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn xã hội; song, chưa đề cập sâu đến vai trò, giá trị của
từng yếu tố như: chính trị, đạo đức, tâm lý, nghề nghiệp… và mối quan hệ giữa các
yếu tố với tư cách là những mặt, những bộ phận cấu thành PCTT con người.
Cho nên, luận án lựa chọn cách tiếp cận cấu trúc PCTT theo góc độ giá trị,
PCTT bao gồm một số yếu tố cơ bản là: phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức,
phẩm chất tâm lý, phẩm chất nghề nghiệp… và những yếu tố khác cùng cấp độ.
Song, đó không phải là sự cộng lại giản đơn của từng yếu tố ấy, mà là tổng hoà các
yếu tố, giá trị tồn tại trong sự tác động, tương hỗ lẫn nhau, đan xen, thâm nhập vào
nhau, tạo nên sức mạnh, định hướng mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn của con
người đạt hiệu quả cao. Cách tiếp cận này vừa cho phép làm rõ được bản chất, vai
trò và giá trị của các yếu tố cấu thành PCTT của con người, đồng thời tạo được cơ
sở để xác định con đường, biện pháp xây dựng, phát triển PCTT của con người.


Phẩm chất chính trị là yếu tố cơ bản trong các yếu tố cấu thành PCTT của
con người; phản ánh nội dung, giá trị, chất lượng nhân cách về sự giác ngộ mục

tiêu, lý tưởng chiến đấu của giai cấp, của dân tộc. Trong xã hội có giai cấp thì
phẩm chất này luôn được đặt lên hàng đầu và biểu hiện ở ý thức, hành vi của con
người đối với lợi ích của giai cấp, nhà nước, ở việc giải quyết các quan hệ xã hội,
trước hết là quan hệ chính trị - giai cấp và ở việc thực hiện giải quyết những nhiệm
vụ chính trị - thực tiễn của con người.
Chính trị là một hiện tượng xã hội, xuất hiện trong xã hội cùng với sự ra đời
của giai cấp, nhà nước và sự hình thành các quốc gia dân tộc. Chính trị phản ánh
các quan hệ kinh tế - xã hội giữa các giai cấp, các dân tộc cũng như thái độ của các
quốc gia, dân tộc và giai cấp đối với quyền lực nhà nước. Sự phản ánh nội dung,
tính chất, quan điểm, tư tưởng giai cấp trong mỗi nhân cách chính là phẩm chất
chính trị. Phẩm chất chính trị là một biểu hiện đặc thù PCTT của con người, đặc
trưng cho sức mạnh tinh thần của con người trong xã hội có giai cấp, là sự phản
ánh vào nhân cách con người các mối quan hệ chính trị - giai cấp và các hoạt động
đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc của con người. Khẳng định phẩm chất chính
trị của con người là khẳng định bản chất giai cấp, tính giai cấp của nhân cách con
người trong xã hội có giai cấp. Ở đây, chúng ta không phủ nhận bản chất chung
của con người và loài người, song, trong xã hội có giai cấp, có đấu tranh giai cấp
thì mọi phẩm chất của con người đều in dấu ấn giai cấp và cùng được xem xét
trước hết ở phương diện chính trị - giai cấp.
Phẩm chất chính trị của con người hình thành, phát triển gắn liền với sự xuất
hiện giai cấp và sự đối kháng giữa các giai cấp về lợi ích kinh tế và quyền lực chính
trị. Trong xã hội có sự phân chia giai cấp, không có cá nhân nào lại không phải là
thành viên của một giai cấp nhất định được hợp thành trên cơ sở mục tiêu, lợi ích
chung. Song, mỗi thành viên của giai cấp vừa mang bản chất chung của con người
và loài người, vừa mang những đặc tính riêng phản ánh bản chất của giai cấp đó.
Cộng đồng giai cấp tạo ra những điều kiện bảo đảm lợi ích của họ, đồng thời cũng
đòi hỏi họ phải tự ý thức, có nghĩa vụ và trách nhiệm đối với việc bảo vệ quyền lợi,
lợi ích giai cấp. Phẩm chất chính trị của con người là cái phản ánh bản chất giai cấp



trong họ với những đặc điểm riêng của mỗi người, tạo thành những cá tính và nhân
cách riêng của cá nhân, làm cho thế giới tinh thần của cá nhân này, khác với thế
giới tinh thần của những cá nhân khác trong cùng giai cấp.
Đặc trưng của phẩm chất chính trị là thể hiện trực tiếp và tập trung lợi ích giai
cấp và là động lực to lớn chi phối ý thức và hành vi của con người. C.Mác và
Ph.Ăngghen viết: “Giai cấp nào chi phối những tư liệu sản xuất vật chất thì cũng
chi phối luôn cả những tư liệu sản xuất tinh thần, thành thử nói chung tư tưởng của
những người không có tư liệu sản xuất tinh thần cũng đồng thời bị giai cấp thống
trị chi phối” [50, tr.66]. Trong xã hội có giai cấp, để thống trị xã hội, các giai cấp
thống trị đặc biệt coi trọng việc giáo dục, bồi dưỡng một cách có hệ thống ý thức, tình
cảm, ý chí và năng lực chính trị, xây dựng phẩm chất chính trị cho các thành viên của
giai cấp mình. Đồng thời, họ dùng mọi biện pháp, cả giáo dục và cưỡng bức, để biến
những tư tưởng, quan điểm chính trị thành hiện thực trong đời sống xã hội.
Tuy nhiên, ý thức, tình cảm và ý chí chính trị chỉ được biểu hiện thông qua
hành vi cụ thể của mỗi người. Sự trung thành với mục tiêu, lý tưởng chính trị của
giai cấp chỉ có thể xét đoán đúng đắn và đầy đủ nhất trong cuộc sống của con người
thông qua hoạt động thực tiễn, vì hành động là sự biểu hiện ra bên ngoài của tư
tưởng. V.I.Lênin chỉ rõ: “Chúng ta căn cứ vào cái gì để xét đoán những “tư tưởng
và tình cảm” thực của các cá nhân có thực? Tất nhiên, căn cứ đó chỉ có thể là những
hoạt động của các cá nhân ấy… tức là những sự kiện xã hội” [36, tr.531]. Những tri
thức chính trị được tiếp nhận, những xúc cảm, tình cảm được xây dựng sẽ chuyển
hoá thành động cơ chính trị của con người, được thể hiện ở năng lực bảo vệ những
tư tưởng, quan điểm chính trị, ở năng lực giải quyết những tình huống, nhiệm vụ
chính trị trong hoạt động thực tiễn chính trị, ở việc tích cực nghiên cứu tìm tòi,
nâng cao trí tuệ, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức theo định hướng chính trị. Mặt khác,
chính thông qua hoạt động thực tiễn mà ý thức chính trị ngày càng được củng cố,
và do đó phẩm chất chính trị của con người ngày càng phát triển, hoàn thiện.
Ngày nay, một trong những cơ sở để hình thành phẩm chất chính trị của
người cách mạng chính là chủ nghĩa Mác - Lênin, bởi đó là lý luận khoa học tiên
tiến nhất của lịch sử tư tưởng nhân loại, là vũ khí sắc bén của giai cấp vô sản và



nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và
giải phóng con người. C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định:
Những quan điểm lý luận của những người cộng sản tuyệt nhiên không dựa
trên những ý niệm, những nguyên lý do một nhà cải cách thế giới nào phát
minh hay phát hiện ra… Những nguyên lý ấy chỉ là biểu hiện khái quát của
những quan hệ thực tại của một cuộc đấu tranh giai cấp hiện có [51, tr.615].
Như vậy, phẩm chất chính trị của con người giữ vai trò nền tảng, định hướng
chính trị phù hợp với mục tiêu, lợi ích của giai cấp thống trị xã hội. Phẩm chất
chính trị được ví như kim chỉ nam quyết định phương hướng giai cấp và cách thức
hoạt động của con người trong cuộc sống, giúp con người trở thành những chiến sĩ
cách mạng tích cực đấu tranh để hiện thực hóa những tư tưởng, quan điểm của giai
cấp mình.
Phẩm chất đạo đức là yếu tố quan trọng trong các yếu tố cấu thành PCTT của
con người; phản ánh chất lượng, giá trị đạo đức của mỗi người dựa trên các nguyên
tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức của xã hội, nhằm điều chỉnh hành vi của con
người, của cộng đồng phù hợp với mục tiêu chính trị của giai cấp, đồng thời là cơ
sở cho con người hoạt động có mục đích, có lý tưởng và hành động một cách tự
nguyện, tự giác.
Là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức phản ánh tồn tại xã hội và bị quy định
bởi tồn tại xã hội. Trong xã hội có giai cấp, đạo đức mang bản chất giai cấp sâu
sắc, phản ánh và bảo vệ lợi ích của một giai cấp nhất định. Tự giác hay không tự
giác, rút cục người ta đều lấy những quan điểm đạo đức của mình từ những quan
hệ thực tế đã tạo nên địa vị giai cấp của mình, tức là những quan hệ kinh tế trong
đó người ta tiến hành sản xuất và trao đổi. Đạo đức không chỉ mang tính giai cấp
mà còn mang tính dân tộc và tính thời đại. Mỗi giai cấp, mỗi dân tộc và mỗi thời
đại có quan điểm đạo đức riêng. Ph.Ăngghen viết:
Mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của
tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ. Và vì cho tới nay xã hội đã vận động

trong những sự đối lập giai cấp, cho nên đạo đức cũng luôn luôn là đạo đức
của giai cấp: hoặc là khi nó biện hộ cho sự thống trị và lợi ích của giai cấp


thống trị, hoặc là, khi giai cấp bị trị đã trở nên khá mạnh thì nó tiêu biểu cho
sự nổi dậy chống lại sự thống trị nói trên và tiêu biểu cho lợi ích tương lai của
những người bị áp bức [2, tr.137].
Phẩm chất đạo đức có vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động của con
người, trước hết được biểu hiện tập trung thông qua chức năng điều chỉnh hành vi.
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra rằng, xã hội là một chỉnh thể thống nhất của sự tác
động lẫn nhau giữa người với người. Sự tồn tại, vận động và phát triển của xã hội
là kết quả tổng hợp trong sự tương tác giữa các xu hướng xã hội khác nhau, thậm
chí đối lập nhau, mà nguồn gốc của nó là sự đối lập về mục đích giữa các cá nhân,
các tập đoàn xã hội khác nhau. Do vậy, để bảo đảm cho xã hội tồn tại, vận động và
phát triển cần phải có những nguyên tắc, quy tắc nhất định (như chính trị, văn hoá,
pháp luật, tôn giáo, khoa học...) do con người đặt ra trên cơ sở những đòi hỏi khách
quan của xã hội. Đạo đức là một phương thức điều chỉnh đặc biệt trong hệ thống
những nguyên tắc, quy tắc ấy. Chẳng hạn như, pháp luật cũng là công cụ xã hội
điều chỉnh thái độ và hành vi của con người nhằm giải quyết mối quan hệ giữa
quyền lợi và nghĩa vụ đối với nhau, song nó điều chỉnh bằng sức mạnh cưỡng
chế bởi hệ thống cơ quan pháp luật của nhà nước. Còn đạo đức điều chỉnh hành vi
của con người trên cơ sở tự nguyện, tự giác dưới tác động của lương tâm và dư
luận xã hội. Do đó, mặc dù đạo đức tác động thường không trực tiếp và mạnh mẽ
như pháp luật, nhưng lại sâu sắc, bền vững hơn.
Đạo đức còn có chức năng giáo dục, bởi đó là gốc của con người, có vai trò rất to
lớn trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Giáo dục đạo đức chính là quá trình làm
giầu thêm tính người cho mỗi con người và toàn xã hội, nhằm hình thành những quan
điểm cơ bản nhất, những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức cho con người. Giáo
dục đạo đức giúp cho con người có khả năng lựa chọn, đánh giá các hiện tượng xã hội,
đánh giá tư cách, ý thức, hành vi đạo đức của người khác và bản thân mình. Hệ thống

quy tắc, chuẩn mực đạo đức được hình thành nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của xã
hội, phù hợp với lợi ích chung và lợi ích riêng chân chính của mỗi người, đồng thời,
dựa vào các chuẩn mực đó giúp cho mỗi người tự định hướng và tự điều chỉnh hành vi
của mình.


Phẩm chất đạo đức bao gồm: Ý thức đạo đức, hành vi đạo đức và quan hệ đạo
đức. Ý thức đạo đức là toàn bộ quan niệm, tình cảm... thể hiện sự nhận thức của
con người đối với những hành động của mình trong quan hệ với cộng đồng, với xã
hội và với người khác theo những chuẩn mực và quy tắc đạo đức nhất định. Hành
vi đạo đức là sự tác động trở lại của con người đối với tồn tại xã hội dưới sự chỉ
đạo của ý thức đạo đức. Quan hệ đạo đức là hệ thống quan hệ giữa cá nhân và xã
hội, cá nhân với cá nhân về đạo đức thông qua các mối quan hệ cụ thể: cá nhân gia đình - xã hội; cá nhân - tập thể - cộng đồng. Vì vậy, khi xem xét phẩm chất đạo
đức của một cá nhân không thể chỉ căn cứ vào ý thức đạo đức mà phải xét đoán cả
hành vi đạo đức và quan hệ đạo đức.
Đạo đức có mối liên hệ mật thiết với các hình thái ý thức khác trong thượng
tầng kiến trúc được hình thành trên một cơ sở kinh tế nhất định, nhưng trực tiếp
nhất là với tư tưởng chính trị của giai cấp. Và do đó, đạo đức trở thành một công
cụ có sức mạnh rất lớn phục vụ cho lợi ích của giai cấp.
Phẩm chất đạo đức của người cách mạng được hình thành và phát triển trong
điều kiện sinh hoạt, lao động, đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động nhằm xoá bỏ mọi chế độ áp bức, bất công và xây dựng một xã hội
công bằng, văn minh, tiến bộ nhất trong lịch sử nhân loại, đồng thời kế thừa và
phát huy những giá trị đạo đức tốt đẹp của loài người trong lịch sử, trước hết là của
nhân dân lao động. Sức mạnh của đạo đức cộng sản vô cùng to lớn, là động lực
tinh thần của người chiến sĩ tiên phong, của quần chúng cách mạng trong đấu tranh
thực hiện mục tiêu, lý tưởng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Khi đạo
đức cộng sản đã thấm sâu vào quần chúng thì sẽ chuyển hoá thành một phẩm chất
tinh thần đặc biệt, là cơ sở làm cho con người có bản lĩnh, biết xử trí đúng đắn
trong lúc khó khăn cũng như khi thuận lợi, biết đặt lợi ích chung lên trên quyền lợi,

lợi ích riêng; có thái độ và hành động đúng; toàn tâm, toàn ý phục vụ cách mạng,
phục vụ nhân dân. Vì vậy, trong phát triển PCTT người cách mạng, điều đặc biệt
quan trọng là phải xây dựng cho họ có phẩm chất đạo đức cách mạng cao cả.
Phẩm chất tâm lý là yếu tố quan trọng trong cấu trúc PCTT, bao gồm một
phức hợp những cảm xúc, tình cảm, suy nghĩ và thái độ của con người trước ảnh


hưởng của môi trường, điều kiện và hoàn cảnh xung quanh [48, tr.15]. Phẩm chất
tâm lý đóng vai trò là “tác nhân thường trực” đối với hoạt động nhận thức và thực
tiễn của con người, có thể “kích thích” hoặc làm “suy giảm” những nhân tố khác
trong PCTT.
Trong PCTT, yếu tố tâm lý tích cực tạo cho con người sự cân bằng của tính
cách (trong đó có ý chí, tình cảm, khí chất…) để làm chủ bản thân trong hoàn cảnh
khó khăn của đời sống, trong sản xuất, đặc biệt trong chiến đấu vũ trang. Các yếu
tố trong phẩm chất tâm lý hình thành và phát triển không chỉ do ảnh hưởng của quá
trình giáo dục mà còn do tác động của điều kiện và hoàn cảnh khách quan. Thông
qua những yếu tố này, con người trực tiếp biểu hiện thái độ của mình đối với các
mối quan hệ xã hội, với cộng đồng và với những người khác; đối với các sự kiện,
tình trạng, bối cảnh xã hội đang diễn ra; đối với mục tiêu, lý tưởng của giai cấp,
của dân tộc... Những tình cảm, tâm trạng và thái độ đó chỉ trở nên sâu sắc, bền
vững, toàn diện khi dựa trên nền tảng tư tưởng và thế giới quan khoa học.
Những thành tố trong phẩm chất tâm lý có mức độ bền vững khác nhau.
Thường thường, các yếu tố truyền thống, kinh nghiệm và thói quen ít biến đổi; còn
những cảm xúc, tình cảm, tâm trạng dễ biến động trước sự tác động của tình hình
khách quan, nhất là trước những tình huống ác liệt của chiến tranh. Cho nên, đây là
những khía cạnh mà kẻ thù thường lấy làm mục tiêu để tập trung chống phá các lực
lượng cách mạng, tiến bộ. Theo các lý luận gia của Mỹ thì “Tổ hợp tâm lý của con
người là khâu yếu nhất và chính đó là nơi mà chúng ta phải hướng mọi nỗ lực thâm
nhập về chính trị, tư tưởng, đạo đức” [102, tr.228]. Vì vậy, trong quá trình phát
triển PCTT con người, cần đặc biệt chú trọng đến phẩm chất này.

Phẩm chất nghề nghiệp cũng là một yếu tố quan trọng cấu thành PCTT của
con người. Lòng yêu nghề, sự gắn bó với nghề là một bộ phận của động lực tinh
thần, tác động tích cực đến niềm tin, lý tưởng. Chất lượng của phẩm chất đó được
quy định bởi trình độ nhận thức về vai trò của lao động, sự yêu quý lao động và
trình độ thành thạo chuyên môn biểu hiện ở kiến thức, kinh nghiệm, kỹ xảo, kỹ
năng. Nhưng lại có vai trò to lớn trong việc chuyển hóa kiến thức, kinh nghiệm, kỹ
xảo, kỹ năng của nghề nghiệp thành sức mạnh để đạt chất lượng, hiệu quả cao trong


lĩnh vực lao động sản xuất, chiến đấu và các mặt hoạt động xã hội khác. Lòng yêu
nghề, sự gắn bó với nghề còn phát huy tính sáng tạo và óc sáng kiến của con người
trong hoạt động thực tiễn.
Do đó cần nhận thức đầy đủ vai trò của sự thành thạo chuyên môn nghề
nghiệp đối với hoạt động thực tiễn của con người, nhất là trong điều kiện cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại ngày càng phát triển đòi hỏi phải bồi dưỡng
lòng yêu nghề, gắn bó với nghề cho các đối tượng lao động ở những ngành nghề
khác nhau. Sự lạc hậu về khoa học, công nghệ có thể gây nên sự thoái chí của
người lao động đối với nghề nghiệp đang làm. Vì vậy, để bồi dưỡng PCTT cho con
người dù ở các đối tượng nào, cũng phải tạo cho họ có nghề nghiệp và cùng với
giáo dục chính trị, đạo đức, bồi dưỡng niềm tin, lý tưởng, ý chí, phải trang bị kiến
thức, rèn luyện kỹ xảo, kỹ năng, tích luỹ kinh nghiệm, từ đó tạo cho họ sự hứng thú
đi đến say mê nghề nghiệp của mình trong phục vụ xã hội, phục vụ lợi ích cộng
đồng.
Các yếu tố cấu thành PCTT như phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, phẩm
chất tâm lý, phẩm chất nghề nghiệp… có mối liên hệ biện chứng hữu cơ, đan xen,
hoà quyện vào nhau, tạo thành một chỉnh thể thống nhất chặt chẽ, toàn vẹn và cùng
phát triển. Tuy nhiên, mỗi phẩm chất có vị trí, vai trò nhất định trong sự hình thành,
phát triển PCTT của con người, trong đó phẩm chất chính trị giữ vai trò chủ đạo,
định hướng sự hình thành, phát triển những phẩm chất khác. Phẩm chất chính trị,
đạo đức tạo nên nền tảng, bộ mặt tinh thần và giá trị cốt lõi của nhân cách, là cơ sở,

điều kiện để hình thành phẩm chất nghề nghiệp, phẩm chất tâm lý. Đến lượt nó,
phẩm chất tâm lý và nghề nghiệp góp phần hoàn thiện phẩm chất chính trị và phẩm
chất đạo đức của con người. Quá trình phát triển PCTT cũng chính là quá trình phát
triển và hoàn thiện các yếu tố trong cấu trúc của nó. Vì vậy, việc chỉ ra khái niệm,
cấu trúc PCTT chính là cơ sở phương pháp luận để đi sâu phân tích, làm rõ bản
chất PCTT của TNQĐ ta.
1.1.2. Biểu hiện đặc trưng phẩm chất tinh thần thanh niên quân đội ta
Theo từ điển tiếng Việt, thanh niên là: “Người còn trẻ, đang ở độ tuổi trưởng
thành” [96, tr.881]. Thanh niên nước ta hiện nay là lực lượng xã hội to lớn, chiếm


35% dân số cả nước và đang hoạt động trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội
[21, tr.16]. Họ là nguồn nhân lực chủ yếu, nguồn đào tạo nhân tài cho đất nước, lực
lượng chính đang thực hiện nhiệm vụ chiến lược của cách mạng là xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đó là lực lượng đang trực tiếp kế thừa truyền thống
cách mạng hào hùng của các thế hệ cha anh, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân
đưa cách mạng nước ta đến thắng lợi hoàn toàn, “nước nhà thịnh hay suy, yếu hay
mạnh phần lớn là do các thanh niên”.
Trong Quân đội nhân dân Việt Nam, thanh niên là lực lượng cơ bản, bao
gồm chiến sĩ, hạ sỹ quan, học viên đào tạo sĩ quan và một bộ phận sỹ quan trẻ, có
tuổi đời từ 18 - 30, đóng vai trò to lớn đối với sự trưởng thành và lớn mạnh của
quân đội. Đây là lực lượng đông đảo, có tri thức, trẻ, khoẻ, nhiệt tình, là nguồn
nhân lực giữ vai trò rất quan trọng đối với sức mạnh chiến đấu của quân đội cả
trong quá khứ, hiện tại và tương lai, là những người trực tiếp cầm súng chiến đấu và
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ cơ bản của quân đội ta. Đúng như Chủ tịch Hồ
Chí Minh khẳng định: “Các chú dù là đại đoàn trưởng, trung đoàn trưởng, tiểu đoàn
trưởng, cũng chỉ là người đặt kế hoạch và điều khiển đánh trận. Lúc ra trận việc đặt
mìn, phá lô cốt đều do tay anh em đội viên làm” [60, tr.320]. Hiện nay, ở đơn vị
chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu, thanh niên chiếm 85%, thậm chí nhiều đại đội
100% cán bộ, chiến sĩ là thanh niên.

TNQĐ không những có vai trò trực tiếp quyết định sự thắng lợi của từng trận
đánh và chất lượng, hiệu quả hoạt động của quân đội, mà còn là lực lượng hậu bị tin
cậy bổ sung cho Đảng những đảng viên ưu tú, cung cấp cho quân đội những cán bộ,
sỹ quan trẻ có đầy đủ phẩm chất, năng lực, sự nhiệt tình để đảm đương trọng trách
lớn lao mà Đảng và quân đội giao phó là xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam XHCN. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đâu cần thanh niên có, đâu
khó có thanh niên”, “Không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền, đào núi và lấp
biển, quyết chí ắt làm nên” [56, tr.95].
Là một bộ phận của thanh niên cả nước, TNQĐ vừa mang những đặc điểm
chung của lứa tuổi trẻ, lại vừa có những đặc điểm riêng phản ánh lĩnh vực hoạt
động đặc thù - hoạt động quân sự.


Xét ở góc độ sinh học, lứa tuổi thanh niên là một lứa tuổi đang phát triển và
ngày càng hoàn thiện về trí dục, đức dục và thể lực. So với các đối tượng khác là
quân nhân trong quân đội, TNQĐ là biểu tượng về sự trẻ trung, mạnh mẽ, có nhiều
hoài bão, ham hiểu biết, nhạy cảm, sáng tạo, ưa thích cái mới, cái đẹp và tiến bộ.
Trong khi đó, những phẩm chất xã hội quan trọng như chính trị, đạo đức, niềm tin,
lý tưởng, xu hướng nghề nghiệp, sự định hướng giá trị và hoạt động... ở lứa tuổi này
tuy đã được hình thành và bước đầu có sự phát triển, nhưng độ vững chắc và tính
sâu sắc còn hạn chế. Mặt khác, ở lớp đối tượng này, bên cạnh sự mạnh dạn, năng
động, dám nghĩ, dám làm là sự biểu hiện của tính bồng bột, thiếu kinh nghiệm do
chưa trải nghiệm nhiều trong thực tiễn, vốn sống và kinh nghiệm hoạt động xã hội
còn ít. Cho nên, đời sống tinh thần của họ thường có sự biến động, tính kiên trì, sức
chịu đựng, trạng thái tâm lý thường kém bền vững; dễ chủ quan, nóng vội trong hoạt
động, dễ bi quan, chán nản khi gặp khó khăn. Trước những diễn biến phức tạp của
tình hình chính trị - xã hội và thủ đoạn lừa bịp của các thế lực thù địch, họ dễ ngả
nghiêng, dao động, dễ lầm lẫn trong phân biệt đúng, sai, xấu, tốt, bạn, thù, ta, dễ dẫn
đến những lệch lạc trong định hướng giá trị nhân cách. Khoa học về tâm lý lứa tuổi
xác nhận, ở lứa tuổi thanh niên con người bản năng, con người sinh vật thường phát

triển hơn con người chính trị, xã hội. Đó là mâu thuẫn của quá trình tự phát triển
trong bản thân mỗi cá thể với những phẩm chất xã hội chưa chín muồi. Để giải
quyết mâu thuẫn này, thì vai trò của giáo dục và định hướng giá trị nhân cách là hết
sức quan trọng, đồng thời cần chú ý đáp ứng những nhu cầu về sở thích, thị hiếu,
nguyện vọng và các hoạt động mang tính đặc thù lứa tuổi, nghề nghiệp, tình bạn,
tình đồng chí, đồng đội... trong quá trình giáo dục, bồi dưỡng và phát triển PCTT
của TNQĐ.
Với tư cách như một thế hệ có quan hệ mật thiết với các thế hệ khác trong cộng
đồng xã hội và trong quân đội, TNQĐ hiện nay được thừa hưởng những di sản của quá
khứ và hiện tại. Căn cứ vào các tiêu chí chủ yếu để xác định sự phát triển chung của
thanh niên là: học vấn, văn hoá, lập trường giai cấp, đạo đức, lối sống, tính kỷ luật,
hành vi và hoạt động... có thể đánh giá TNQĐ trong hiện tại và khả năng phát triển
trong tương lai. Thực tế cho thấy, mặt bằng trình độ học vấn của TNQĐ hiện nay cao


hơn so với các thế hệ cha anh trước đây, nên có những điều kiện thuận lợi để vươn lên
thực hiện lý tưởng và hướng tới các giá trị tốt đẹp của xã hội. Tuy nhiên, ở lứa tuổi này
lại chưa có nhiều kinh nghiệm và sự từng trải để đánh giá, lựa chọn các giá trị đó. Việc
nhìn nhận, đánh giá về quá khứ thường xuất phát từ cảm hứng, phê phán dễ phiến diện
và cực đoan. Mặt khác, do sự nhạy cảm, xúc cảm trực tiếp thường mạnh hơn và đi
trước năng lực phân tích bằng lý trí, khoa học về mọi vấn đề trong cuộc sống, nên lứa
tuổi này dễ thay đổi sở thích, hứng thú, dễ tiếp nhận các trào lưu tư tưởng khác nhau, kể
cả tích cực và tiêu cực; thường lý tưởng hoá, hy vọng và say mê vào tương lai, nhưng
đồng thời cũng dễ chán nản, thất vọng và hoài nghi. Đây là đặc điểm nổi bật của thanh
niên nói chung và TNQĐ nói riêng. Để khắc phục tình trạng đó, cần giáo dục một cách
toàn diện, nhất là giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống, truyền thống, tôn trọng
tính độc lập suy nghĩ, tin cậy, lôi cuốn và động viên TNQĐ biết tự điều chỉnh nhận
thức, hành động phù hợp với yêu cầu của cách mạng và quân đội.
Xét theo cấu trúc xã hội, thanh niên là một lớp đối tượng rất đa dạng, bao gồm
các nhóm đối tượng khác nhau: thanh niên công nhân, thanh niên nông dân, thanh niên

học sinh sinh viên, thanh niên trí thức, thanh niên các dân tộc, thanh niên công an,
thanh niên quân đội. Tuỳ theo đặc điểm nghề nghiệp và môi trường hoạt động khác
nhau mà mỗi “nhóm xã hội” có nhu cầu, nguyện vọng và xu hướng phát triển khác
nhau. TNQĐ là một “nhóm xã hội” đặc thù, mà phần đông là những người đang trực
tiếp học tập, huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu ở các đơn vị và nhà trường quân đội. Do
tính đặc thù của quân đội nên các hoạt động của họ thường diễn ra với cường độ cao,
đòi hỏi sự nỗ lực rất lớn cả về thể chất và tinh thần. Khi mới bước vào môi trường quân
sự, họ chưa có ngay được các phẩm chất cần thiết của người quân nhân cách mạng; còn
nhiều bỡ ngỡ nên chưa thể thích ứng ngay được với môi trường quân sự. Song, ngay
khi vào quân đội, họ đã được học tập, công tác, sinh hoạt theo tổ chức, biên chế của
từng loại hình đơn vị, với một thiết chế tổ chức lãnh đạo, chỉ huy chặt chẽ từ trên xuống
dưới, cho nên tính tập thể, tính kỷ luật, tình đồng chí, đồng đội trong hoạt động thường
rất cao.
Đối tượng thanh niên nhập ngũ hàng năm theo luật nghĩa vụ quân sự hiện nay
ngày càng đa dạng về thành phần xuất thân, quê quán, sở thích, trình độ văn hoá...


Song nhìn chung, đa số đều có phẩm chất tốt, trình độ học vấn tương đối cao và khá
đồng đều. Đây là điều kiện hết sức thuận lợi để TNQĐ cống hiến và trưởng thành,
trong đó có sự hình thành, phát triển và hoàn thiện phẩm chất chính trị, đạo đức, tâm
lý và nghề nghiệp quân sự. Tuy nhiên, do trình độ kiến thức thường thiên về khoa
học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, với tư duy mang tính trực quan, cảm tính, nên khi
áp dụng phương pháp tư duy đó vào học tập các môn học lý luận chính trị, sẽ làm
hạn chế khả năng nhận thức, hoạt động và cản trở không nhỏ đến sự phát triển
PCTT của TNQĐ. Vì vậy, quá trình phát triển PCTT của TNQĐ cần đặc biệt chú ý
đến đặc điểm này.
Do chế độ nghĩa vụ quân sự nên lực lượng TNQĐ thường xuyên có sự biến
động cả về số lượng và chất lượng qua các đợt ra quân và tuyển quân hàng năm.
Đối với đội ngũ sĩ quan trẻ, sự chuyển tiếp nhiệm vụ ở người thanh niên là học
viên khi kết thúc quá trình đào tạo ở các nhà trường quân sự cùng với sự phát triển

về yêu cầu, nhiệm vụ, sự thay đổi vị trí công tác cũng làm tăng thêm tính biến
động về cơ cấu xã hội ở TNQĐ.
Như vậy, với tư cách là một bộ phận thanh niên Việt Nam, TNQĐ ta mang
những nét đặc trưng chung về PCTT như: “Sẵn sàng xả thân vì mục tiêu độc lập
dân tộc và CNXH, đi đầu trong cuộc đấu tranh chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu, xây
dựng và bảo vệ đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, nhân
dân có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc”. Mặt khác, PCTT của TNQĐ lại có
những biểu hiện cụ thể phù hợp với yêu cầu khách quan của lĩnh vực hoạt động
quân sự mà họ là một thành viên. PCTT của TNQĐ ta là PCTT của người cách
mạng được biểu hiện ở một đối tượng cụ thể, trong một lĩnh vực hoạt động đặc
biệt. Đó là quan hệ giữa cái chung và cái riêng, và theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin thì: “Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung. Cái
chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng” [44, tr.381]. Tuy nhiên, cái
chung thường được phân ra nhiều cấp độ khác nhau tùy thuộc vào đối tượng cụ thể
của cái riêng.
Từ những luận giải trên đây, có thể quan niệm: Phẩm chất tinh thần của
thanh niên Quân đội nhân dân Việt Nam là tổng hoà các yếu tố, giá trị về


chính trị - đạo đức, tâm lý và nghề nghiệp quân sự… của thanh niên quân đội
ta nhằm tạo nên sức mạnh và định hướng cho mọi hoạt động của họ đạt chất
lượng và hiệu quả cao trong thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của quân đội,
với chức năng cơ bản nhất là chiến đấu.
Người thanh niên khi mới vào bộ đội chưa có ngay một PCTT phù hợp với
yêu cầu và tính chất của loại hình hoạt động mang tính đặc thù này. Phải trải qua
quá trình giáo dục, rèn luyện và quá trình tự giáo dục, tự rèn luyện trong môi trường
quân sự, TNQĐ mới có được những nhận thức nhất định về các vấn đề chính trị quân sự có liên quan, mới giác ngộ sâu sắc mục đích, ý nghĩa chính trị - xã hội cao
cả của nhiệm vụ mà họ đang thực hiện; trên cơ sở đó hình thành dần dần những
phẩm chất đặc thù phù hợp với mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng và của quân
đội ta. Tổng hoà những giá trị xã hội được kết tinh trong TNQĐ sẽ hình thành nên

một hệ thống phẩm chất xác định, phản ánh trình độ trưởng thành của họ về mặt
tinh thần.
Trong PCTT của TNQĐ, giá trị về chính trị và giá trị về đạo đức được kết
tinh ở mỗi người đều là sự phản ánh mục tiêu chính trị và lý tưởng đạo đức cách
mạng cao cả của Đảng và của nhân dân ta là “Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”;
mục tiêu chính trị và lý tưởng đạo đức cách mạng của Đảng ta luôn gắn liền và có
sự thống nhất với nhau. Cho nên, phẩm chất chính trị và phẩm chất đạo đức của
TNQĐ ta không thể tách rời mà thống nhất, đan xen vào nhau, trong đó chính trị
quy định đạo đức, đạo đức phục vụ cho chính trị, hình thành nên phẩm chất chính
trị - đạo đức. Hơn nữa, PCTT của TNQĐ ta vừa mang những nét đặc trưng chung
của PCTT người cách mạng, vừa có những biểu hiện cụ thể phù hợp với yêu cầu
khách quan của lĩnh vực hoạt động quân sự, cho nên phẩm chất nghề nghiệp ở họ
được biểu hiện tập trung nhất thành phẩm chất chiến đấu.
Như vậy, cấu trúc PCTT của TNQĐ ta vừa thống nhất với cấu trúc PCTT nói
chung vừa phù hợp với một đối tượng cụ thể, hoạt động trong một lĩnh vực đặc thù
- lĩnh vực quân sự. Trong quá trình hình thành PCTT của TNQĐ các yếu tố đó tác
động, chi phối lẫn nhau tạo nên giá trị, sức mạnh tinh thần bền vững giúp họ nhận


×