Tải bản đầy đủ (.doc) (131 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ xây DỰNG CHÍNH TRỊ TINH THẦN của NHÂN dân và QUÂN đội sẵn SÀNG ĐÁNH THĂNG CHIẾN TRANH sử DỤNG vũ KHÍ CÔNG NGHỆ CAO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (557.09 KB, 131 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
CNĐQ, đứng đầu là Mỹ và các thế lực thù địch đang ráo riết chống phá cách
mạng Việt Nam với mục tiêu nhất quán là thủ tiêu CNXH ở Việt Nam, xóa bỏ sự
lãnh đạo của ĐCSVN, biến nước ta thành quốc gia nằm trong quỹ đạo của Mỹ. Để
thực hiện mục tiêu chiến lược đó, Mỹ đang triển khai chiến lược “phức hợp” với
nhiều kịch bản khác nhau, với các âm mưu, thủ đoạn khác nhau để chống phá nước
ta: “diễn biến hòa bình” đơn thuần; “diễn biến hòa bình” kết hợp với bạo loạn lật
đổ; tiến hành chiến tranh bằng vũ trang khi có thời cơ.
Gần đây, CNĐQ do Mỹ đứng đầu bất chấp công pháp và dư luận quốc tế đã
tiến hành nhiều cuộc tiến công hỏa lực bằng VKCNC chống các nước có chủ
quyền trên thế giới. Tình hình đó đã và đang tác động mạnh mẽ đến đời sống chính
trị quốc tế, đến quốc phòng - an ninh của các quốc gia, đặt ra nhiều vấn đề mới
trong việc chuẩn bị sức mạnh toàn diện của đất nước để đánh thắng mọi kiểu chiến
tranh do CNĐQ gây ra.
Trước những diễn biến phức tạp của tình hình quốc tế, với bản chất phản động
và hiếu chiến của CNĐQ, sự can thiệp vũ trang của Mỹ chống Việt Nam dưới hình
thức một cuộc tiến công hỏa lực bằng VKCNC như ở Nam Tư năm 1999 là một
khả năng không thể coi thường. Cuộc tiến công đó là một dạng của “kiểu chiến
tranh mới” nhằm chống phá độc lập dân tộc và CNXH ở nước ta, cần được nhận
thức đầy đủ để tích cực chuẩn bị phòng, tránh, đánh trả và giành thắng lợi.
Để đánh thắng cuộc tiến công hỏa lực bằng VKCNC của Mỹ đối với Việt
Nam, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN đòi hỏi phải xây dựng sức mạnh
toàn diện của đất nước, đặc biệt là xây dựng CT - TT của nhân dân và quân đội ta.
Bởi vì, yếu tố CT - TT có vai trò hết sức quan trọng, là yếu tố “rốt cuộc” quyết
định thắng lợi trong chiến tranh, là ưu thế, là chỗ mạnh tuyệt đối của ta so với mọi
kẻ thù xâm lược. Đi đôi với xây dựng CT - TT của nhân dân và quân đội ta phải


đấu tranh phê phán các quan điểm sùng bái VKCNC hoặc xem thường sự phát
triển, biến đổi của các phương tiện chiến tranh trong thời đại hiện nay.


Vì vậy, xây dựng CT - TT của nhân dân và quân đội ta sẵn sàng đánh thắng
cuộc tiến công hỏa lực bằng VKCNC của Mỹ đối với Việt Nam là một yêu cầu vừa
cơ bản, vừa cấp thiết hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Vấn đề CT - TT trong chiến tranh, nhất là trong chiến tranh hiện đại đã có
nhiều công trình nghiên cứu từ nhiều góc độ với mục đích, nội dung và phương
pháp khác nhau.
Ở nước ngoài, tiêu biểu có các công trình: “Nhân tố CT - TT trong chiến tranh
hiện đại” (Nxb TB. M. 1958); “Nhân tố CT - TT trong chiến tranh vệ quốc vĩ đại”
(Nxb TB M. 1959); “Chiến tranh hiện đại và những vấn đề tâm lý học” (Nxb QS
M. 1972);...
Ở trong nước, những năm gần đây có nhiều công trình khoa học đã đề cập đến
vấn đề này. Đó là: “Tác động của những biến đổi kinh tế - xã hội đến nhận thức
chính trị, tư tưởng của cán bộ quân đội và một số vấn đề đổi mới công tác tư
tưởng, tổ chức trong quân đội ta hiện nay” (Đề tài cấp Bộ Quốc phòng, nghiệm thu
năm 1995); “Mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện
nay ở nước ta” (Đề tài cấp Nhà nước, nghiệm thu năm 1996); “Tác động của
những biến đổi kinh tế - xã hội đến xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam về
chính trị trong giai đoạn cách mạng mới” (Đề tài cấp Bộ Quốc phòng, nghiệm thu
năm 1998); “Những vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng quân đội về chính trị
trong giai đoạn cách mạng mới ” (Chương trình khoa học cấp Bộ Quốc phòng, mã
số KXB - 96, nghiệm thu năm 1999); “Chiến tranh trong thời đại hiện nay và việc
chuẩn bị tinh thần cho quân đội trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN” (Đề tài cấp Bộ Quốc phòng, nghiệm thu tháng 3/ 2000);...
Đó là những công trình có giá trị khoa học và thực tiễn đã đề cập đến những
vấn đề cơ bản như: nhân tố CT - TT và vai trò của nó trong chiến tranh; đặc điểm


chiến tranh hiện đại; sự tác động của chiến tranh hiện đại đến tinh thần; việc chuẩn
bị tinh thần cho quân đội đáp ứng yêu cầu chiến tranh bảo vệ Tổ quốc... Tuy nhiên,

cho đến nay chưa có công trình nào dự báo và luận giải khoa học về đặc điểm cuộc
tiến công hỏa lực bằng VKCNC của Mỹ đối với Việt Nam, phân tích sự tác động
của nó đến CT - TT của nhân dân và quân đội ta, từ đó xác định hệ giải pháp xây
dựng CT - TT sẵn sàng đánh thắng kiểu chiến tranh đó.
3. Mục tiêu nghiên cứu.
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của cuộc tiến công hỏa
lực bằng VKCNC của Mỹ đối với Việt Nam, đề xuất các giải pháp xây dựng CT TT của nhân dân và quân đội sẵn sàng đánh thắng cuộc tiến công đó, bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Dự báo, phân tích đặc điểm cuộc tiến công hỏa lực bằng VKCNC của Mỹ
đối với Việt Nam, sự tác động của nó đến CT - TT của nhân dân và quân đội ta;
xác định những yêu cầu về CT - TT của quân dân ta nhằm đánh thắng cuộc tiến
công đó.
- Phân tích, đánh giá thực trạng CT - TT, vạch rõ nguyên nhân và những vấn
đề đặt ra trong xây dựng CT - TT của nhân dân và quân đội ta trước yêu cầu sẵn
sàng đánh thắng cuộc tiến công hỏa lực bằng VKCNC của Mỹ.
- Trên cơ sở xác định một số vấn đề có tính nguyên tắc, đề xuất các giải pháp
xây dựng CT - TT của nhân dân và quân đội ta sẵn sàng đánh thắng cuộc tiến công
hỏa lực bằng VKCNC của Mỹ.
5. Đối tượng nghiên cứu.
CT - TT của nhân dân và quân đội ta trước yêu cầu đánh thắng cuộc tiến công
hỏa lực bằng VKCNC của Mỹ đối với nước ta là đối tượng nghiên cứu của đề tài.
6. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu.


- Cơ sở lý luận chủ yếu của đề tài là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của ĐCSVN về chiến tranh và quân đội,
về vai trò của nhân tố CT - TT trong chiến tranh.
- Cơ sở thực tiễn của đề tài là thực trạng CT - TT của nhân dân và quân đội ta,
hoạt động xây dựng CT - TT trước yêu cầu sẵn sàng đánh thắng cuộc tiến công hỏa
lực bằng VKCNC của Mỹ đối với nước ta.

- Để thực hiện được đề tài này, tập thể tác giả đã vận dụng tổng hợp các
phương pháp nghiên cứu của các khoa học xã hội và nhân văn, chú trọng các
phương pháp: lôgích - lịch sử, phân tích - tổng hợp, so sánh, điều tra xã hội học,
tổng kết thực tiễn, phương pháp chuyên gia,...
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
- Cung cấp những luận cứ khoa học cho việc hoạch định chiến lược, chính
sách và tổ chức thực tiễn xây dựng CT - TT của nhân dân và quân đội sẵn sàng
đánh thắng cuộc tiến công hỏa lực bằng VKCNC, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam XHCN.
- Góp phần thống nhất và nâng cao nhận thức cho quân dân ta về âm mưu, thủ
đoạn mới của kẻ thù đối với nước ta, về nguyên nhân, bản chất, đặc điểm của cuộc
tiến công hỏa lực bằng VKCNC. Từ đó, xác định rõ trách nhiệm của quân dân ta
trong việc xây dựng CT - TT nhằm đánh thắng cuộc tiến công đó.
- Các kết quả nghiên cứu của đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
việc nghiên cứu và giảng dạy trong các Viện nghiên cứu và các nhà trường quân
đội.
8. Bố cục của đề tài.
Đề tài được kết cấu với phần mở đầu, 3 chương (8 tiết), kết luận và danh mục
tài liệu tham khảo.
Ngoài ra, còn có các phụ lục về kết quả nghiên cứu, khảo sát thực tế và sản
phẩm trung gian của đề tài được tuyển chọn theo chuyên đề “Chính trị - tinh thần


trong chiến tranh công nghệ cao” đăng trọn số trong “Thông tin chuyên đề - Tạp
chí Khoa học quân sự” số 6/ 2001.
Chương 1
CUỘC TIẾN CÔNG HỎA LỰC BẰNG VŨ KHÍ CÔNG NGHỆ CAO CỦA
MỸ ĐỐI VỚI VIỆT NAM VÀ SỰ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN CHÍNH TRỊ TINH THẦN CỦA NHÂN DÂN VÀ QUÂN ĐỘI TA

1.1. Dự báo cuộc tiến công hỏa lực bằng vũ khí công nghệ cao của Mỹ đối

với Việt Nam.
1.1.1. Khả năng và điều kiện Mỹ tiến công hỏa lực bằng vũ khí công nghệ
cao đối với Việt Nam.
Để dự báo khoa học cuộc tiến công hỏa lực bằng VKCNC của Mỹ đối với Việt
Nam cần phải đánh giá và phân tích một cách toàn diện những biến đổi to lớn, sâu
sắc, chiều hướng vận động của tình hình thế giới, khu vực và trong nước, đặc biệt
cần làm rõ âm mưu, thủ đoạn của Mỹ đối với Việt Nam.
Thế giới những năm đầu thế kỷ XXI vẫn tiếp tục có những biến động phức
tạp, đầy bất trắc, khó lường. Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa
học - công nghệ hiện đại đã tạo nên những bước tiến nhảy vọt có tính chất cách
mạng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, kể cả lĩnh vực quân sự. Toàn cầu
hóa kinh tế là một xu thế khách quan ngày càng tác động mạnh mẽ, toàn diện đến
các quốc gia, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia vừa có mặt tích cực, vừa có
mặt tiêu cực, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, đặt ra những vấn đề mới đối với sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Những thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, đấu tranh giai
cấp, đấu tranh dân tộc vẫn tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức hết sức phức tạp.
Cuộc đấu tranh giữa các khuynh hướng kiến tạo trật tự thế giới theo hướng đơn
cực và đa cực diễn ra quyết liệt. Các quốc gia độc lập tăng cường đấu tranh chống
sự áp đặt, can thiệp và xâm lược của nước ngoài nhằm bảo vệ độc lập, chủ quyền,
ổn định và phát triển của mình.


Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa VIII tại Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã nhấn mạnh: “Trong một vài thập kỷ tới,
ít có khả năng xảy ra chiến tranh thế giới. Nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ
trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp lật đổ,
khủng bố còn xảy ra ở nhiều nơi với tính chất phức tạp ngày càng tăng. Hòa bình,
hợp tác và phát triển là xu thế lớn, phản ánh đòi hỏi bức xúc của các quốc gia, dân
tộc. Cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, dân sinh, tiến bộ và công
bằng xã hội sẽ có những bước tiến mới” [11, tr. 65, 66].

Dưới tác động và can thiệp của các thế lực phản động, những vấn đề dân tộc,
tôn giáo, tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ, tài nguyên thiên nhiên... đều có thể bùng
phát thành điểm nóng, tạo ra xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ, gây hậu quả
khó lường. Việc sử dụng VKCNC trong các cuộc chiến tranh gần đây, nhất là cuộc
chiến tranh ở Nam Tư năm 1999 đang kích thích cuộc chạy đua vũ trang theo
hướng mới; đồng thời đặt ra nhiều vấn đề rất mới trong việc tăng cường quốc
phòng - an ninh, bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia của mỗi dân tộc.
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Đông Nam Á có khả năng phát triển năng
động nhưng cũng tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định, nhất là ở các nước Đông
Nam Á, tác động trực tiếp đến sự nghiệp quốc phòng - an ninh của nước ta.
Điều rõ ràng là, khi chưa có khả năng xảy ra chiến tranh thế giới, chiến tranh
hủy diệt lớn, đế quốc Mỹ vẫn có khả năng và chúng sẽ tranh thủ điều kiện để tiến
hành chiến tranh chống các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Vì thế, các hoạt động
can thiệp quân sự của Mỹ chống các nước sẽ có chiều hướng gia tăng. Ở đây, cần
phải làm rõ thêm âm mưu, thủ đoạn của Mỹ trong tình hình hiện nay đối với thế
giới nói chung và Việt Nam nói riêng, để có cơ sở trực tiếp dự báo khả năng Mỹ
tiến hành chiến tranh chống nước ta.
Bản chất hiếu chiến, xâm lược, phản động toàn diện của Mỹ không bao giờ
thay đổi. Mục tiêu chính trị xuyên suốt và nhất quán của Mỹ là tiêu diệt các lực
lượng và phong trào cách mạng; buộc các dân tộc khác phải khuất phục và chịu sự
áp đặt của Mỹ; xác lập “giá trị” Mỹ trên toàn hành tinh, thực hiện giấc mộng bá


chủ thế giới. Để thực hiện mục tiêu ấy, Mỹ tiến hành tất cả các thủ đoạn, trên tất cả
các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao... và sẵn sàng sử dụng vũ lực,
phát động chiến tranh khi cần thiết.
Mục tiêu của chúng là nhất quán, nhưng những thủ đoạn và những biện pháp
thực hiện mục tiêu trong từng giai đoạn có khác nhau. Trong mỗi thời kỳ, mỗi giai
đoạn, căn cứ vào tình hình và so sánh lực lượng cụ thể mà Mỹ tiến hành những
biện pháp thực hiện thích ứng.

Sau Chiến tranh lạnh, sự sụp đổ của Liên Xô và sự tan rã của hệ thống XHCN
thế giới là thời cơ thuận lợi để Mỹ kiến tạo trật tự thế giới đơn cực do Mỹ thống trị.
Đế quốc Mỹ là tên đế quốc giàu mạnh số một của thế giới tư bản. Bước vào thế kỷ
XXI, sức mạnh kinh tế, quân sự của Mỹ đã được gia tăng đáng kể. Nền kinh tế Mỹ
là nền kinh tế có sức cạnh tranh nhất thế giới. Tiềm năng khoa học, công nghệ của
Mỹ vấn giữ vị trí hàng đầu. Mỹ lại nắm vai trò chủ đạo trong các thiết chế tài
chính, thương mại thế giới: IMF, WTO, WB... và qua các tổ chức này, Mỹ có thể
can thiệp sâu về kinh tế, chính trị vào các quốc gia, các khu vực trên thế giới. Về
quân sự, Mỹ là nước duy nhất có khả năng triển khai lực lượng ra toàn cầu, quân
đội Mỹ có mặt khắp các châu lục. Mỹ là nước lãnh đạo, chi phối liên minh quân sự
xâm lược lớn nhất là NATO. Cuộc tiến công của Mỹ và NATO chống Nam Tư
năm 1999 là sự thử nghiệm trên thực tế “khái niệm chiến lược mới” đầy tính xâm
lược của khối quân sự đế quốc này. Sức mạnh kinh tế, quân sự đó, trong tình hình
hiện nay vừa thúc đẩy, vừa tạo điều kiện cho Mỹ thực hiện giấc mộng bá chủ thế
giới ráo riết hơn, quyết liệt hơn.
Kể từ sau Chiến tranh lạnh, Mỹ liên tiếp điều chỉnh chiến lược. Tháng 12/
1999, Chính phủ Mỹ công bố: “Chiến lược an ninh quốc gia cho thế kỷ mới”, tiếp
tục xác định ba mục tiêu cơ bản, đồng thời là ba biện pháp chủ đạo ở thế kỷ XXI:
Tăng cường an ninh của Mỹ trong và ngoài nước; củng cố sự thịnh vượng của nền
kinh tế Mỹ; thúc đẩy dân chủ và nhân quyền ở nước ngoài [4, tr. 4]. Thực chất
chiến lược này thể hiện chủ nghĩa cường quyền mới về chính trị, quân sự và kinh
tế, xác lập trật tự thế giới một cực do Mỹ chi phối, thông qua các biện pháp kinh tế,


văn hóa, đối ngoại và đặc biệt là quân sự. Ở nơi nào, những biện pháp phi quân sự
không đạt được mục đích thì Mỹ chuyển sang sử dụng vũ lực. Mỹ tự cho mình có
sứ mạng thúc đẩy “dân chủ”, “nhân quyền” toàn cầu, tìm cách áp đặt “giá trị” Mỹ.
Quân đội Mỹ “sẵn sàng hành động đơn phương” [4, tr. 5] khi lợi ích của Mỹ đòi
hỏi. Thực chất đó là sự biện minh cho những hành động chiến tranh xâm lược hết
sức ngang ngược và trắng trợn của Mỹ. Việc Mỹ và Đồng minh tiến công Nam Tư

năm 1999, can thiệp vào một số nơi trên thế giới trong thời gian gần đây đã phơi bày
bản chất hiếu chiến, phản động và tính chất cực kỳ nguy hiểm của âm mưu, thủ đoạn
chống phá của chúng.
Các cuộc tiến công quân sự của Mỹ chống Irắc năm 1991, Nam Tư năm 1999
đã cho thấy tính chất điển hình trên nhiều phương diện của “kiểu chiến tranh mới”
có sử dụng VKCNC. Kịch bản diễn ra ở Nam Tư là: Mỹ và NATO lợi dụng các
vấn đề nội bộ, mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo sẵn có; xây dựng nuôi dưỡng lực lượng
chống đối gây xung đột; tự đứng ra dàn xếp, áp đặt; lấy cớ tiến công bắt đối
phương chấp nhận điều kiện do Mỹ đưa ra. Đây là tiền lệ hết sức nguy hiểm, Mỹ
có thể tiến công bất cứ quốc gia nào mà Mỹ thấy là “cần thiết”. Kịch bản và
phương thức tiến hành chiến tranh của Mỹ và NATO chống Nam Tư cho chúng ta
những cơ sở để dự báo cụ thể về cuộc tiến công hỏa lực bằng VKCNC của Mỹ đối
với Việt Nam.
Bước vào thế kỷ mới, Tổng thống Mỹ G. Bush có nhiều động thái “cứng rắn”,
“toát ra vẻ hiếu chiến xem thường cộng đồng thế giới” [38, tr. 2]. Điều đó cho thấy
khả năng can thiệp vũ trang của Mỹ đối với các nước sẽ ngày càng gia tăng. Việc
Mỹ chủ trương tiếp tục triển khai thực hiện hệ thống phòng thủ chiến lược NMD
vừa kích thích cuộc chạy đua vũ trang mới trên quy mô toàn cầu, vừa tạo điều kiện
thuận lợi cho Mỹ thực hiện những đòn tiến công hỏa lực bằng VKCNC chống các
nước trên thế giới, đe dọa nghiêm trọng hòa bình, an ninh thế giới và độc lập, chủ
quyền của các quốc gia.
Để dự báo cuộc tiến công hỏa lực bằng VKCNC của Mỹ đối với Việt Nam cần
phân tích sâu sắc âm mưu, thủ đoạn chống cách mạng nước ta của Mỹ. Đây là cơ


sở lý giải nguyên nhân trực tiếp xảy ra cuộc tiến công hoả lực bằng VKCNC của
Mỹ đối với nước ta.
Mục tiêu của Mỹ đối với Việt Nam là: xóa bỏ CNXH ở Việt Nam, thủ tiêu sự
lãnh đạo của ĐCSVN, buộc Việt Nam phụ thuộc vào Mỹ về chính trị và kinh tế,
thực hiện điều mà cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam trước đây đã

không làm được. Mục tiêu này là nhất quán, không thay đổi. Dù Mỹ có thực hiện
chính sách “cứng rắn” hay “mềm dẻo”, đối đầu hay đối thoại, thù địch hay hợp tác
cũng nhằm đạt mục tiêu ấy. Căn cứ vào tình hình chính trị thế giới và khu vực, đặc
biệt căn cứ vào tình hình cụ thể ở Việt Nam và vị thế, vai trò của Việt Nam trên
trường quốc tế mà Mỹ tiến hành các biện pháp và thủ đoạn thích ứng.
Sau khi thất bại ở Việt Nam năm 1975, nhất là sau khi kết thúc Chiến tranh lạnh,
Mỹ thực hiện nhiều thủ đoạn mới để chống phá cách mạng Việt Nam. “Diễn biến
hòa bình” đơn thuần; “diễn biến hòa bình” kết hợp với bạo loạn lật đổ và sẵn sàng
tiến hành chiến tranh xâm lược bằng vũ trang khi có thời cơ là chiến lược “phức hợp”
Mỹ đã và đang thực hiện chống phá Việt Nam.
Mỹ thực hiện chống Việt Nam còn với một tinh thần “trả thù”, “rửa hận” cho
sự thất bại của chúng ở chiến trường Việt Nam trước đây, để khôi phục danh dự và
uy tín của tên đế quốc lớn nhất hành tinh. Điều đó cho thấy mức độ ráo riết và tính
chất hết sức nguy hiểm của những biện pháp mà Mỹ tiến hành chống phá cách
mạng nước ta. Mọi sự ngộ nhận, mất cảnh giác, mơ hồ về bản chất, âm mưu, thủ
đoạn của Mỹ đối với nước ta đều là sai lầm nguy hiểm, dẫn đến hậu quả khó lường
trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Hoạt động chống phá của Mỹ đối với nước ta trong vòng hơn 10 năm trở lại
đây có thể chia ra làm hai giai đoạn chủ yếu, vừa thể hiện những thay đổi cụ thể về
thủ đoạn chống phá, vừa phản ánh mục tiêu nhất quán, xuyên suốt của Mỹ là xóa
bỏ CNXH ở Việt Nam.
Giai đoạn 1: Từ cuối thập kỷ 80 đến khi bỏ lệnh cấm vận, nhất là khi chính
thức bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, Mỹ thực hiện chiến lược “Diễn biến


hòa bình” kết hợp với bạo loạn lật đổ trong điều kiện đối đầu là chủ yếu, bao vây,
cấm vận, cô lập Việt Nam về kinh tế, chính trị và ngoại giao.
Chúng tiến hành các biện pháp chống Việt Nam một cách ồ ạt và trắng trợn
trên tất cả các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hóa, kinh tế, đối ngoại... Trong giai
đoạn này, với sự sụp đổ của Liên Xô và sự tan rã của hệ thống XHCN thế giới,

CNXH đã tạm thời lâm vào thoái trào, phong trào cách mạng thế giới lâm vào
khủng hoảng nghiêm trọng. Đó là những yếu tố tác động mạnh mẽ đến tình hình
chính trị, kinh tế, xã hội trong nước và là thời cơ thuận lợi để Mỹ ráo riết công
kích, chống phá Việt Nam. Không có gì là lạ, ở giai đoạn này sự chống phá và
những luận điệu công kích của Mỹ đã rộ lên hòa nhịp với những kẻ cơ hội trong và
ngoài nước trong một dàn “hợp xướng” đòi thực hiện “đa nguyên, đa đảng”, đòi
Đảng ta phải từ bỏ sự lãnh đạo của mình, đòi dân tộc ta từ bỏ con đường đi lên
CNXH.
Tuy nhiên, trước tình hình hết sức phức tạp và khó khăn, trước những thủ đoạn
chống phá điên cuồng và tinh vi của Mỹ, cách mạng Việt Nam vẫn phát triển,
CNXH ở nước ta không những không bị xóa bỏ mà vẫn đứng vững và tiếp tục phát
triển. Đối với Mỹ, đó là điều mà chúng không hề mong muốn. Bao vây, cấm vận,
cô lập không đạt được kết quả, chúng lại chuyển sang sử dụng những đòn tiến công
khác.
Giai đoạn 2: Từ khi bình thường hóa quan hệ với Việt Nam đến nay, Mỹ
chuyển từ “cấm vận và cô lập” sang “dính líu” toàn diện vào nội tình Việt Nam
để chuyển hóa Việt Nam.
“Diễn biến hòa bình” vẫn được Mỹ tiếp tục đẩy mạnh nhưng với các thủ đoạn,
biện pháp thực hiện khôn khéo hơn, tinh vi hơn. Việc Mỹ tăng cường mở rộng hợp
tác với ta về kinh tế, thương mại và văn hóa, tiến hành ký kết Hiệp định thương
mại Mỹ - Việt cũng nằm trong thủ đoạn đó. Mỹ đẩy mạnh hợp tác với Việt Nam
không phải giúp đỡ, thúc đẩy sự phát triển CNXH ở Việt Nam! Âm mưu sâu xa
sau cái vẻ bề ngoài hợp tác là để Mỹ có điều kiện ngày càng bám sâu và toàn diện


vào xã hội Việt Nam, đồng thời thông qua quá trình đó tìm cách tạo dựng “ngọn
cờ”, “nguyên cớ” để lật đổ CNXH ở Việt Nam.
Thủ đoạn mới này hết sức nguy hiểm. Nó đặt ra cho chúng ta những vấn đề
phải lựa chọn: hợp tác hay là không, hợp tác như thế nào và làm thế nào để vừa
hợp tác với Mỹ, vừa đối phó với âm mưu, thủ đoạn của Mỹ. Đây là bài toán không

đơn giản. Tình hình đó dễ dẫn đến sự phân hóa trong nội bộ ta, có thể có sự ngộ
nhận về sự thay đổi bản chất, âm mưu của Mỹ đối với Việt Nam, thiếu cảnh giác
trước những thủ đoạn chống phá của chúng. Điều này cũng nằm trong thủ đoạn của
Mỹ nhằm đẩy nhanh quá trình “tự diễn biến” ở nước ta.
Hiện nay, với các thủ đoạn hết sức thâm độc và tinh vi trong quá trình tìm kiếm
những vấn đề nội bộ của Việt Nam, khoét sâu và lợi dụng, tạo dựng các “nguyên cớ”
để đẩy mạnh chống phá, Mỹ tập trung vào các vấn đề chính sau đây:
Vấn đề dân tộc là vấn đề phức tạp, rất nhạy cảm về chính trị. Trong tình hình
hiện nay, Mỹ ra sức lợi dụng vấn đề dân tộc ở Việt Nam, nhất là vấn đề dân tộc ít
người trên các mặt: trình độ phát triển không đều giữa các dân tộc; sự đói nghèo,
dân trí thấp, nhất là các dân tộc ở vùng sâu, vùng xa (tập trung chủ yếu ở các dân
tộc ít người vùng Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam Bộ); những bất đồng trong quan
hệ giữa các dân tộc, sự khác nhau về văn hóa, phong tục, tập quán, những vấn đề
khác do lịch sử để lại... để khai thác, khoét sâu mâu thuẫn, tạo dựng “nguyên cớ”
chống Việt Nam. Chúng tập trung vào những thủ đoạn chính sau:
Tuyên truyền, kích động tâm lý, khai thác các yếu tố lịch sử, văn hóa, “đánh
thức” tinh thần tự tôn, tự ái dân tộc, gây mầm mống chia rẽ, ly khai; xuyên tạc các
chủ trương, chính sách đối với dân tộc ít người và miền núi của Đảng và Nhà nước
ta. Nuôi dưỡng bọn phản động lưu vong người dân tộc ít người, tạo điều kiện vật
chất, tinh thần cho chúng hoạt động, đào tạo bồi dưỡng các thành viên, các tổ chức,
xây dựng mật cứ, mật khu ở nước ngoài làm bàn đạp xâm nhập vào trong nước.
Lợi dụng việc tham quan, du lịch, thăm thân nhân, núp dưới các hình thức viện trợ
nhân đạo, giúp đỡ xóa đói giảm nghèo để xâm nhập địa bàn, tuyên truyền, lôi kéo,
móc nối các phần tử phản động cũ, các phần tử tiêu cực, bất mãn, chống đối.


Chúng tranh thủ những người có uy tín trong dòng họ, trong làng, bản (kể cả cán
bộ, đảng viên) để xây dựng các tổ chức phản động. Mặt khác, chúng xây dựng,
củng cố mạng lưới gián điệp, thu thập tình báo và hoạt động phá hoại, khơi dậy
những nhân tố gây mất ổn định trong từng vùng dân tộc ít người. Tuyên truyền,

kích động đồng bào dân tộc ít người chống lại chủ trương, đường lối, chính sách
kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước.
Một số dân tộc ít người ở Tây Nguyên đời sống kinh tế - xã hội khó khăn,
trình độ lạc hậu, lại sống ở vùng sâu, vùng xa là điều kiện thuận lợi để kẻ thù có
thể lợi dụng tiến hành các biện pháp chia rẽ, lôi kéo chống cách mạng nước ta. Đế
quốc Mỹ đã và đang tiếp tục nuôi dưỡng lực lượng phản động FULRO ở Tây
Nguyên, cố gắng tạo dựng “ngọn cờ”, gia tăng sức mạnh của tổ chức này. Việc
dựng lên cái gọi là “Nhà nước Đề Ga tự trị” trong đồng bào Thượng ở Tây Nguyên
thực chất là dựng “ngọn cờ” ly khai để Mỹ có điều kiện tạo cớ can thiệp vào Việt
Nam bằng vũ lực. Sự chống phá của kẻ thù với những âm mưu và thủ đoạn xảo
quyệt trên một địa bàn rộng lớn có tầm quan trọng về chiến lược như Tây Nguyên
là hết sức nguy hiểm. Đây là một điểm nóng có tính chất lâu dài, chúng ta cần phải
thường xuyên chú ý.
Đối với người Mông, chúng triệt để khai thác sự đói nghèo, lạc hậu và nguồn
gốc lịch sử của đồng bào để lôi kéo. Chúng ra sức truyền đạo trái phép (Thiên
chúa, Tin lành, Vàng Chứ), dụ dỗ, lôi kéo đồng bào, thúc đẩy di dịch cư tự do, đi
tìm Vua, tìm Chúa, tìm Tổ quốc riêng. Những thủ đoạn này hết sức nguy hiểm, gây
tâm lý hoang mang, bất ổn định trong đồng bào, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc,
tách quần chúng nhân dân khỏi Đảng và chính quyền. Qua đó kẻ thù tìm cách dựng
“ngọn cờ” để chống phá cách mạng nước ta. Vì vậy, vấn đề người Mông là một
trong những vấn đề dân tộc nóng bỏng nhất ở Việt Nam hiện nay.
Đối với người Khơme, kẻ thù đã và đang lợi dụng các vấn đề lịch sử, kích
động, chia rẽ nhằm tách đồng bào ra khỏi cộng đồng dân tộc Việt Nam, cùng với
bọn phản động trong người Khơme ở Campuchia (được Mỹ giúp sức) chống phá
cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, đồng bào Khơme đã có lịch sử gắn bó cùng với


các dân tộc anh em trong cộng đồng dân tộc Việt Nam và ngày nay đang đoàn kết
cùng đồng bào cả nước xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Như vậy,
thái độ của đồng bào rất rõ ràng, tình cảm của đồng bào rất trong sáng. Nhưng kẻ

thù khai thác yêu tố tâm lý và sự lạc hậu, dân trí thấp của đồng bào để kích động,
lôi kéo. Đây cũng là một vấn đề rất nóng bỏng mà kẻ thù có thể lợi dụng tạo
“nguyên cớ” phát động chiến tranh chống Việt Nam.
Vấn đề tôn giáo không chỉ đơn thuần là các tổ chức tôn giáo và hoạt động tôn
giáo, tín ngưỡng, đời sống tinh thần, tâm linh của hàng chục triệu đồng bào ở nước
ta, mà còn là sự lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng của các thế lực thù địch.
Sự lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng Việt Nam thực chất là hành động lôi
kéo, tách quần chúng ra khỏi Đảng, làm cho giáo dân đứng ngoài sự lãnh đạo của
Đảng, thậm chí đối lập, chống đối Đảng, tạo ra “ngọn cờ”, “nguyên cớ” để chúng
phát động chiến tranh chống nước ta.
Ở Việt Nam có các tôn giáo quốc tế lớn (Thiên chúa giáo, Phật giáo, Tin lành,
Đạo Hồi) và tôn giáo bản địa (Cao Đài, Hòa Hảo). Ngoài ra còn có những hoạt
động mê tín dị đoan phổ biến ở nhiều nơi. Sự hoạt động ráo riết, cả chiều rộng và
chiều sâu của các tôn giáo; mối quan hệ quốc tế của các tôn giáo thế giới; sự nảy
nở và gia tăng của các loại dị giáo; tình trạng ngày càng tăng của hiện tượng mê tín
dị đoan trong nhân dân... là những nét cần chú ý của vấn đề tôn giáo ở Việt Nam
hiện nay.
Giáo hội Công giáo, có sự chỉ đạo của Vaticăng và sự phối hợp của Giáo hội
Công giáo Việt Nam hải ngoại, đang tăng cường vận động phát triển tín đồ. Kẻ thù
đang ra sức tập trung lực lượng quần chúng nhằm tách giáo dân ra khỏi sự lãnh đạo
của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, tăng cường sức mạnh, trở thành lực lượng
đối trọng với cách mạng. Mỗi khi tình hình trong nước và trên thế giới có những
diễn biến phức tạp thì các hoạt động của các thế lực thù địch lại rộ lên, chứng tỏ
chúng rất nhạy bén, tranh thủ thời cơ để thực hiện ý đồ đã định... Tất cả các hoạt
động đó dần dần sẽ tích tụ thành những điểm dễ bùng phát mà kẻ thù có thể lợi
dụng làm “nguyên cớ”.


Mới đây, Quốc hội Mỹ đã thông qua đạo luật “Tự do tôn giáo quốc tế” - HR
2431 về “Chống khủng bố tôn giáo” nhằm theo dõi vấn đề tôn giáo ở các nước trên

thế giới. Với đạo luật này, Tổng thống Mỹ được phép áp dụng các biện pháp chế
tài và ngoại giao cụ thể cần thiết, kể cả biện pháp vũ lực đối với các nước mà họ
cho là “có vấn đề tôn giáo, vi phạm tự do tín ngưỡng”. Các vấn đề tôn giáo ở Việt
Nam đều được Mỹ đặc biệt quan tâm hòng tạo cớ để can thiệp bằng vũ lực chống
Việt Nam. Những sự kiện gần đây ở Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Thừa Thiên - Huế
cho thấy tính chất phức tạp của tình hình tôn giáo, dân tộc và bàn tay chống phá
của các thế lực thù địch. Tháng 2/ 2001, ủy ban về tự do tôn giáo quốc tế của Mỹ
đưa ra bản “Điều trần về các vấn đề tôn giáo ở Việt Nam”, vu cáo Việt Nam tiến
hành chính sách “đàn áp tôn giáo”, yêu cầu Quốc hội Mỹ ngừng phê duyệt Hiệp
định thương mại Việt - Mỹ đã được ký kết [3, tr. 8].
Vấn đề “dân chủ, nhân quyền” thực tế là tổng hợp của nhiều vấn đề: dân tộc,
tôn giáo, kinh tế - xã hội, quan liêu, tham nhũng, buôn bán ma túy,... Điều đó có
nghĩa là mọi vấn đề cụ thể, Mỹ đều có thể lợi dụng dựng lên vấn đề “dân chủ, nhân
quyền”, giương ngọn cờ “đạo lý” để phát động chiến tranh chống Việt Nam. Hiện
nay, vấn đề “dân chủ, nhân quyền” đã và đang được Mỹ dùng làm chiêu bài có giá
trị trong việc can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia - dân tộc trên thế
giới, trong đó có Việt Nam.
Nạn tham nhũng, quan liêu ở nước ta hiện nay thực sự là vấn đề nhức nhối,
làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ, giảm sức mạnh tổng hợp
của đất nước, trước hết là sức mạnh CT - TT, làm suy yếu khối đoàn kết dân tộc.
Vấn đề quan liêu, tham nhũng tuy thuần túy là vấn đề nội bộ của chúng ta nhưng
lại là vấn đề hết sức thuận lợi để chúng thực hiện âm mưu hạ bệ sự lãnh đạo của
Đảng, trực tiếp giương ngọn cờ “dân chủ” để chống lại chế độ ta. Vấn đề ma túy
có mối quan hệ quốc tế rộng rãi, có ảnh hưởng lớn trong xã hội, là vấn đề mà kẻ
thù cũng có thể lợi dụng biến thành vấn đề chính trị có lợi cho chúng. Một vấn đề
nữa cần chú ý là Mỹ đang kích động, lôi kéo, tập hợp lực lượng ngụy quân, ngụy
quyền của chế độ cũ với tư cách là “cơ sở xã hội” để thực hiện sự “dính líu”, tạo
dựng “ngọn cờ” chống Việt Nam.



Biên giới, biển, đảo là vấn đề phức tạp và nóng bỏng hiện nay. Đây là vấn đề
không chỉ giới hạn trong phạm vi nội bộ nước ta mà còn quan hệ trực tiếp với các
nước láng giềng và các nước liên quan.
Sự tranh chấp, tính chưa ổn định của vùng biên giới Việt - Trung; biên giới
Việt Nam - Campuchia; những vấn đề tranh chấp biển Đông, các quần đảo Hoàng
Sa, Trường Sa; tình hình đời sống, dân trí thấp của đồng bào vùng biên; thái độ và
phương pháp giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia có liên quan còn nhiều bất
đồng, phức tạp và có thể phát triển thành xung đột vũ trang. Vấn đề biên giới, biển,
đảo ở nước ta không phải đơn thuần là vấn đề khu vực mà nó luôn được sự chú ý
đặc biệt của Mỹ. Mọi hành động của Mỹ đều nhằm tạo ra tình trạng bất ổn định,
căng thẳng và xung đột. Mỹ tự cho mình cái quyền đứng ra dàn xếp theo quan
điểm của Mỹ để cuối cùng thực hiện sự can thiệp bằng vũ trang chống Việt Nam.
Có thể thấy rõ, Mỹ đang tìm cách tạo ra ở Việt Nam những “đám cháy”, rồi
với chiếc mặt nạ “nhân đạo”, chúng sẽ “giúp” Việt Nam “chữa cháy” theo kiểu mà
chúng đã làm ở Nam Tư. Sự vận động của tất cả các vấn đề trên đều có thể trở
thành điều kiện mà kẻ thù lợi dụng làm “nguyên cớ”, dưới danh nghĩa lực lượng
quốc tế, hay không cần danh nghĩa đó, Mỹ thực hiện can thiệp bằng vũ lực, phát
động cuộc tiến công hỏa lực bằng VKCNC chống Việt Nam.
Sự chống phá của CNĐQ, đứng đầu là Mỹ đối với cách mạng Việt Nam dẫn
đến tình thế đất nước ta hiện nay vừa có hòa bình, vừa phải đối phó với chiến lược
“diễn biến hòa bình” kết hợp với bạo loạn lật đổ; đồng thời vừa phải sẵn sàng đối
phó với mọi tình huống chiến tranh, kể cả cuộc tiến công hỏa lực bằng VKCNC do
Mỹ gây ra.
Như vậy, việc Mỹ tiến hành chiến tranh vũ trang xâm lược nước ta là một tình
huống có thể xảy ra. Song vấn đề cần bàn ở đây là trong điều kiện mới, cuộc chiến
tranh xâm lược đó có diễn ra dưới dạng một cuộc tiến công hỏa lực bằng VKCNC
hay không? Hiện nay, những thành tựu tiên tiến của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đang được CNĐQ khai thác triệt để vào việc hiện đại hóa vũ
khí, trang bị, tăng lên một cách nhảy vọt hàm lượng kỹ thuật, công nghệ của các



phương tiện chiến tranh. Với tiềm lực khoa học, kinh tế, quân sự khổng lồ, đế quốc
Mỹ đang có trong tay nhiều thế hệ VKCNC rất hiện đại và không ngần ngại mang
ra thi thố chống các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Trên thực tế, Mỹ đã từng sử
dụng VKCNC ở các cuộc chiến tranh xâm lược trong thời gian gần đây. Cuộc tiến
công chống Irắc năm 1991, đặc biệt cuộc tiến công của Mỹ và NATO chống Nam
Tư năm 1999 cho thấy Mỹ sẵn sàng sử dụng VKCNC tiến công các quốc gia độc
lập có chủ quyền. Cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ đối với Việt Nam trước đây,
nhất là chiến tranh phá hoại miền Bắc mà đỉnh điểm là chiến dịch 12 ngày đêm tập
kích bằng B52 bắn phá Thủ đô Hà Nội năm 1972, cũng cho thấy đối với nước ta
Mỹ đã và sẽ sẵn sàng sử dụng các loại VKCNC nhất để tiến công xâm lược.
Từ sự phân tích trên, có thể đưa ra dự báo: Khả năng Mỹ tiến hành cuộc tiến
công hỏa lực bằng VKCNC đối với nước ta có thể xảy ra.
Tuy nhiên, tiến công vào lúc nào, như thế nào không phải Mỹ muốn thế nào
cũng được, mà điều đó còn phụ thuộc vào những điều kiện nhất định:
- Mỹ đang tranh thủ quan hệ hợp tác kinh tế - thương mại - văn hóa, thực hiện
chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam. Khi chiến lược
“diễn biến hòa bình” kết hợp với bạo loạn lật đổ đã được đẩy lên mức cao, nhưng
mục tiêu xóa bỏ CNXH ở Việt Nam không đạt được thì vấn đề phát động chiến
tranh đối với Mỹ sẽ đặt ra trực tiếp.
- Khi những vấn đề nội bộ của Việt Nam như: dân tộc, tôn giáo, quan liêu,
tham nhũng… tích tụ thành những điểm nóng mà chúng ta không xử lý kịp thời và
đúng đắn, Mỹ sẽ lợi dụng làm “nguyên cớ” phát động cuộc tiến công hỏa lực bằng
VKCNC chống nước ta.
- Khi Mỹ tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của Đồng minh như NATO…,
lừa gạt được nhân dân Mỹ với chiêu bài Việt Nam xâm phạm “lợi ích” của nước
Mỹ, tạo lập được môi trường quốc tế thuận lợi cho hành động vũ lực, Mỹ sẽ tiến
hành cuộc tiến công hoả lực bằng VKCNC đối với Việt Nam.


Mỹ tiến hành cuộc tiến công hỏa lực bằng VKCNC đối với nước ta phải hội

đủ những điều kiện nhất định; đồng thời tiến hành chiến tranh chống Việt Nam, đế
quốc Mỹ buộc phải xem xét đến những yếu tố có liên quan khác:
- Thái độ của các nước lớn, nhất là Trung Quốc và Nga đối với khu vực Đông
Nam Á và Việt Nam buộc Mỹ cũng phải tính đến khi phát động chiến tranh chống
nước ta.
- Ý chí độc lập tự do, quyết tâm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN của nhân
dân ta dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN; thế và lực của Việt Nam trong điều kiện mới.
- Lòng căm thù của nhân dân Việt Nam đối với đế quốc Mỹ chưa nguôi bởi
cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam mà Mỹ gây ra trước kia.
- Hậu quả, di chứng của cuộc chiến tranh với Việt Nam vừa qua đối với Mỹ
còn nặng nề và âm ỉ trong lòng chính người dân Mỹ, điều mà khi phát động chiến
tranh Mỹ phải tính tới.
Từ sự phân tích trên, có thể tóm lại một số vấn đề cơ bản sau:
Cuộc tiến công hỏa lực bằng VKCNC của Mỹ đối với nước ta là một khả năng
thực tế, không thể xem thường, cần phải có kế hoạch chuẩn bị đối phó chu đáo.
Tuy nhiên, cuộc tiến công này xảy ra vào thời điểm nào, như thế nào còn phụ
thuộc vào sự vận động của tình hình thế giới, khu vực, vào tinh thần cảnh giác sẵn
sàng đối phó và nỗ lực đấu tranh ngăn chặn của chúng ta.
Nguyên nhân xảy ra cuộc tiến công hỏa lực bằng VKCNC là từ phía Mỹ, xuất
phát từ bản chất, âm mưu, thủ đoạn chống phá cách mạng Việt Nam của Mỹ.
Những vấn đề nội bộ của nước ta có thể Mỹ sẽ lợi dụng tạo “nguyên cớ” phát động
chiến tranh, nhưng tuyệt nhiên đó không phải là nguyên nhân.
Cuộc tiến công hoả lực bằng VKCNC của Mỹ đối với nước ta, nếu xảy ra, là
cuộc chiến tranh xâm lược hoàn toàn phi nghĩa, phi đạo đức của tên đế quốc đầu sỏ
chống một nước độc lập, có chủ quyền đang phát triển trên con đường XHCN. Đây


thực sự là cuộc đọ sức quyết liệt giữa độc lập dân tộc và CNXH với thế lực hiếu
chiến, phản động nhất của CNĐQ.
1.1.2. Đặc điểm cuộc tiến công hỏa lực bằng vũ khí công nghệ cao của Mỹ

đối với Việt Nam.
Từ thực tế các cuộc chiến tranh đã xảy ra và dự đoán sự phát triển của chiến
tranh hiện đại trong tương lai, chúng ta có thể quan niệm về cuộc tiến công hỏa lực
bằng VKCNC của Mỹ đối với Việt Nam như sau:
Cuộc tiến công hỏa lực bằng VKCNC của Mỹ đối với Việt Nam là một dạng
của “kiểu chiến tranh mới” nhằm chống phá độc lập dân tộc và CNXH, được tiến
hành bằng VKCNC có tầm bắn xa, độ chính xác cao, sức hủy diệt lớn với hệ thống
chỉ huy, điều khiển viễn thông toàn cầu và phương thức tác chiến thích ứng. Quan
niệm trên vừa nói lên cái chính trị mà cuộc tiến công đó tiếp tục (chống phá độc
lập dân tộc và CNXH), vừa chỉ rõ cuộc tiến công này là tiến công bằng hỏa lực
(không phải bằng binh lực - bộ binh) với trình độ công nghệ cao (không phải là
công nghệ thông thường), cũng như những thay đổi về phương thức tác chiến thích
ứng.
Quan niệm trên bàn cuộc tiến công hỏa lực bằng VKCNC của Mỹ đối với Việt
Nam với tư cách là một cuộc chiến tranh chỉ sử dụng hỏa lực bằng VKCNC có mở
đầu, có quá trình diễn biến và kết thúc; có đủ các đặc điểm cơ bản của một chiến
tranh như: mục tiêu chính trị, vũ khí trang bị, quy mô và phương thức tác chiến,
chứ không phải các đợt tiến công hỏa lực trong chiến tranh công nghệ cao nói
chung.
Khái niệm chiến tranh công nghệ cao hay là chiến tranh có sử dụng VKCNC
của CNĐQ chống các quốc gia - dân tộc theo nghĩa rộng hơn. Nó bao hàm cả
VKCNC chứ không riêng hỏa lực và có thể sử dụng binh lực với các hình thức,
quy mô khác nhau. Cuộc chiến tranh “chống khủng bố” của Mỹ chống ápganitxtan
là một kiểu chiến tranh mới bao gồm cả việc sử dụng VKCNC, vũ khí thông
thường và binh lực dưới dạng “đặc nhiệm”. Vấn đề tính chất của cuộc chiến tranh
này trở nên phức tạp hơn nhiều. Cuộc chiến tranh này đã và đang tác động sâu sắc


đến quốc phòng - an ninh của các quốc gia, làm nóng lên bầu không khí chính trị
thế giới, đặt ra những thách thức mới đối với các nước trong việc bảo vệ độc lập,

chủ quyền của mình. Vì thế, tuy nghiên cứu cuộc tiến công hỏa lực bằng VKCNC
của Mỹ đối với Việt Nam độc lập với tư cách là một dạng của “kiểu chiến tranh
mới”, nhưng cần phải đặt chúng trong mối quan hệ với các dạng, kiểu chiến tranh
khác, nhất là những kiểu chiến tranh gần đây mà Mỹ đã và đang tiến hành chống
các nước trên thế giới.
Có thể chỉ ra những đặc điểm cơ bản của cuộc tiến công hỏa lực bằng
VKCNC của Mỹ đối với Việt Nam như sau:
Về mục tiêu chính trị.
Chống phá độc lập dân tộc và CNXH ở Việt Nam là mục tiêu cơ bản nằm
trong tổng thể tham vọng bá chủ toàn cầu của Mỹ. Vì vậy, mục tiêu chính trị của
cuộc tiến công hỏa lực bằng VKCNC là sự thể hiện sâu sắc và hiện thực hóa đường
lối chính trị phản động của Mỹ: chủ nghĩa cường quyền mới, thủ tiêu các lực lượng
và phong trào cách mạng trên thế giới, xác lập “giá trị’ Mỹ trên toàn hành tinh.
Chính trị mà cuộc tiến công hỏa lực bằng VKCNC của Mỹ kế tục được thể hiện ở
mục tiêu chính trị của cuộc tiến công đó không những là sự phát triển lôgíc tất yếu
của tham vọng bá chủ thế giới, của đường lối đối nội, đối ngoại phản động của đế
quốc Mỹ, mà còn nhằm mục đích cụ thể chống phá độc lập dân tộc và CNXH ở
Việt Nam. Đây chính là nét đặc trưng về chính trị mà cuộc tiến công hỏa lực bằng
VKCNC của Mỹ chống nước ta kế tục.
Tiến công nước ta, Mỹ không phải chỉ nhằm “dạy” cho nhân dân Việt Nam
một “bài học” nào đó, mà mục tiêu chính trị đặt ra của Mỹ là đè bẹp ý chí của dân
tộc Việt Nam, buộc Đảng và nhân dân ta phải khuất phục, phải từ bỏ con đường
độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Như vậy, cuộc tiến công này là sự phát triển
tất nhiên của quá trình chống phá cách mạng Việt Nam mà Mỹ đã tiến hành trong
nhiều thập kỷ qua. Cho nên, mục tiêu chính trị của cuộc tiến công hỏa lực này
không nằm ngoài, không khác với mục tiêu của chiến lược “diễn biến hòa bình”
kết hợp với bạo loạn lật đổ mà chúng đang thực hiện chống nước ta. Cuộc tiến


công đó của Mỹ nhằm đè bẹp ý chí, khuất phục nhân dân Việt Nam khi chiến lược

“diễn biến hòa bình” đã được đẩy lên mức cao nhưng vẫn không đạt được mục tiêu
xóa bỏ CNXH ở Việt Nam. Chắc chắn rằng, khi tiến công Việt Nam, đế quốc Mỹ
sẽ kết hợp chặt chẽ với các hoạt động ngoại giao, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, sử
dụng các phương tiện tuyên truyền, truyền thông hiện đại để chế áp tư tưởng,
xuyên tạc sự thật, cố tình làm cho cuộc chiến tranh của chúng chống nước ta có vẻ
ngoài “hợp pháp”, “chính nghĩa”. Những con bài “dân chủ”, “nhân đạo”, “nhân
quyền”... sẽ được chúng tung ra nhằm che dấu mục đích chính trị thực sự của kẻ
xâm lược. Vì thế, việc chỉ rõ mục tiêu chính trị của cuộc tiến công hỏa lực bằng
VKCNC của Mỹ là vấn đề đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao nhận thức, kiên
định lập trường tư tưởng và tinh thần cảnh giác cách mạng trước mọi âm mưu và
thủ đoạn của Mỹ, kể cả khi chúng liều lĩnh tiến hành chiến tranh xâm lược nước ta.
Cuộc tiến công này sẽ là thử thách to lớn đối với sự tồn vong của chế độ XHCN và
nền độc lập dân tộc của nhân dân ta.
Khuất phục nhân dân Việt Nam, buộc chúng ta phải từ bỏ con đường độc lập
dân tộc gắn liền với CNXH là mục tiêu cơ bản của cuộc tiến công của Mỹ. Cuộc
tiến công này còn có thể đặt ra mục tiêu ở mức thấp hơn. Mỹ có thể sử dụng các
loại VKCNC cùng với chiến tranh tâm lý, tư tưởng tác động mạnh mẽ vào nhân
dân, quân đội, đặc biệt vào Đảng và Nhà nước ta hòng làm cho chúng ta dao động
phải có những nhượng bộ nhất định nào đó, từng bước khuất phục ý chí của Đảng
và nhân dân ta. Đây chưa phải là mục tiêu cơ bản (tối đa) của cuộc tiến công,
nhưng việc buộc ta phải nhượng bộ từ vấn đề này đến vấn đề khác là điều Mỹ tính
đến trong khi xác định mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể của cuộc tiến công. Tuy nhiên,
tất cả những mưu đồ chính trị mà Mỹ đặt vào cuộc tiến công hỏa lực bằng VKCNC
có trở thành hiện thực hay không thì lại không phải do ý muốn chủ quan của Mỹ.
Dân tộc Việt Nam với ý chí bất khuất, kiên cường, tinh thần yêu nước nồng nàn,
đoàn kết một lòng dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng... nhất định sẽ bảo vệ được
độc lập dân tộc và CNXH, bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN của mình. Đó là mục
tiêu chính trị của nhân dân ta trong cuộc chiến đấu chống cuộc tiến công hỏa lực



bằng VKCNC của Mỹ. Mỹ sẽ không thể đạt được mục tiêu đề ra như chúng đã
từng thất bại trước kia.
Về vũ khí trang bị.
Sự hiện đại với hàm lượng công nghệ, kỹ thuật cao là đặc điểm nổi bật của các
loại vũ khí, trang bị mà Mỹ sẽ sử dụng trong tiến công nước ta. Mỹ sẽ huy động
các loại vũ khí rất hiện đại, có sức hủy diệt lớn, có khả năng gây tổn thất, thương
vong cao. Ngoài các vũ khí hiện đại đã sử dụng trong cuộc chiến tranh chống Irắc
và Nam Tư, Mỹ sẽ sử dụng một số loại vũ khí mới với trình độ công nghệ cao hơn
mà chúng có thể có được. Tùy theo tình hình cụ thể, Mỹ sẽ lựa chọn và sử dụng
chủng loại vũ khí thích hợp. Những vũ khí, trang bị sẽ được sử dụng để tiến công
nước ta bao gồm những chủng loại cơ bản như: hệ thống vệ tinh viễn thông toàn
cầu làm nhiệm vụ do thám, trinh sát, điều khiển; các loại vũ khí được phóng từ xa
tới các mục tiêu đã được tính toán từ trước; các máy bay chiến đấu hiện đại, không
người lái, tàng hình... Đặc điểm chủ yếu và chung nhất của các loại VKCNC được
sử dụng trong tiến công Việt Nam là: tầm bắn xa, độ chính xác cao, sức hủy diệt
lớn. Với đặc điểm của các loại VKCNC làm cho chiến tranh càng trở nên ác liệt,
cuộc tiến công diễn ra với tốc độ nhanh, cường độ cao, thời gian tiến hành tiến
công hỏa lực được rút ngắn đáng kể.
Về quy mô.
Cuộc tiến công hỏa lực bằng VKCNC của Mỹ đối với nước ta có thể diễn ra ở
quy mô vừa, hoặc quy mô hết sức rộng lớn. Chiến trường hạn chế ở một khu vực
hoặc mở rộng ra các trung tâm kinh tế, chính trị, các căn cứ quân sự trên phạm vi
cả nước, nhất là ở những thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí
Minh, Đà Nẵng, Vũng Tàu... Việc phân biệt đâu là tiền tuyến, đâu là hậu phương
không rõ ràng như trước nữa. Tùy vào tình hình và tương quan lực lượng cụ thể mà
Mỹ sẽ quyết định quy mô, tốc độ của cuộc tiến công. Có thể chúng sẽ tiến công ồ
ạt, bắn phá dồn dập trong khoảng thời gian nhất định trên một quy mô hết sức rộng
lớn với các loại vũ khí rất hiện đại, có sức hủy diệt cao, tập trung oanh kích vào
trung tâm đầu não quốc gia, cơ sở quân sự, kinh tế, văn hóa... của nước ta. Và cũng



có thể chúng tập trung bắn phá vào thủ đô Hà Nội với cường độ cao để hòng khuất
phục ý chí của Đảng và Nhà nước ta. Vũ khí, khí tài được sử dụng theo hướng
ngày càng hiệu quả về tính năng tác dụng nhưng lại sử dụng ít nhân lực. Tiến công
Việt Nam, Mỹ sẽ lựa chọn các mục tiêu tiến công ngay từ đầu là các trung tâm
thông tin, phát thanh, truyền hình, dầu khí, điện lực, các sân bay, cơ quan chỉ đạo
chiến tranh, các lực lượng Phòng không, Không quân và Hải quân của ta. Điều này
làm cho vấn đề bảo toàn lực lượng trước đòn hỏa lực đầu tiên với cường độ cao
của Mỹ có ý nghĩa cực kỳ quan trọng nhằm duy trì khả năng chiến đấu và chiến
thắng của quân và dân ta.
Về nghệ thuật và phương thức tác chiến.
Nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh và phương thức tác chiến có quan hệ chặt chẽ
và trực tiếp với sự phát triển của khoa học và công nghệ hiện đại, của vũ khí, trang
bị được sử dụng trong chiến tranh. Nghệ thuật chỉ đạo trong cuộc tiến công hoả lực
bằng VKCNC của Mỹ đối với nước ta sẽ có những thay đổi căn bản so với trước
kia theo hướng giảm đến mức tối thiểu về số lượng quân lính tham chiến, làm thế
nào để thương vong về người cho phía Mỹ ở mức thấp nhất, nhưng sức mạnh chiến
đấu ở mức cao nhất. Đối với Mỹ, vấn đề bảo toàn binh lực, tránh thương vong cho
binh lính thực sự là vấn đề nhạy cảm. Vì vậy, phương thức tác chiến sẽ là tiến công
từ xa. Các căn cứ xuất phát tiến công của các loại vũ khí, trang bị có thể được bố
trí từ xa lãnh thổ Việt Nam, nhưng các mục tiêu cần bắn phá đã được tính toán và
lập trình từ trước.
Mỹ sẽ thực hiện phương châm “đánh nhanh, thắng nhanh” để giải quyết chiến
tranh. Phương châm “đánh nhanh, thắng nhanh” không phải là vấn đề hoàn toàn
mới. Trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam trước kia, Mỹ đã thực hiện
phương châm này. Có thể nói đánh nhanh, thắng nhanh là một phương châm cơ
bản tiến hành chiến tranh của kẻ xâm lược. Nhưng ở cuộc tiến công hỏa lực bằng
VKCNC, vấn đề đánh nhanh, thắng nhanh không những được thực hiện như là một
phương châm tác chiến chủ đạo, mà còn đặt ra một cách gay gắt hơn. Sức mạnh áp
đảo về quân sự, về VKCNC cho phép Mỹ thực hiện đánh nhanh, thắng nhanh;



đồng thời sự quá tốn kém của các loại VKCNC cũng như việc sử dụng chúng, tính
chất phi nghĩa của cuộc tiến công mà Mỹ tiến hành buộc Mỹ không thể không thực
hiện đánh nhanh, thắng nhanh. Mỹ sẽ tiến công dồn dập vào các mục tiêu đã xác
định để nhanh chóng đạt được mục đích chiến tranh. Thực hiện đánh nhanh, thắng
nhanh có thể tạo cho Mỹ có được lợi thế ban đầu, tránh cho Mỹ phải đối chọi với
sức mạnh vô địch của CTND Việt Nam.
Những đặc điểm cơ bản trên cho thấy cuộc tiến công hỏa lực bằng VKCNC
của Mỹ chống nước ta sẽ gây nên hậu quả to lớn và nặng nề về người và của, về
kinh tế, chính trị, xã hội và cả môi trường sinh thái. Đó là sự thử thách nghiêm ngặt
bản lĩnh chính trị, sức mạnh của ý chí quyết tâm, sức bền về tâm lý, sức chịu đựng
về thể chất của nhân dân và quân đội ta. Do tính chất quyết liệt của cuộc tiến công,
sự hủy diệt của các loại VKCNC, sự tuyên truyền xuyên tạc xảo quyệt của Mỹ, nên
việc chuẩn bị sức mạnh toàn diện của đất nước, đặc biệt sức mạnh CT - TT để đối
phó với cuộc tiến công đó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Nghiên cứu đặc điểm của cuộc tiến công hỏa lực bằng VKCNC của Mỹ chống
nước ta, không chỉ xem xét, thấy rõ mặt “mạnh”, ưu thế, mà điều quan trọng cần
phải chỉ rõ những hạn chế và nhược điểm của nó.
Có thể thấy rằng, dù ở trình độ công nghệ cao thế nào, các loại vũ khí đều có
những nhược điểm, hạn chế nhất định. Việc tìm ra những hạn chế đó là một yêu
cầu cơ bản để đối phó thắng lợi cuộc tiến công của Mỹ. Thực tiễn các cuộc chiến
tranh có sử dụng VKCNC gần đây cho thấy, VKCNC chưa khắc phục được hoàn
toàn tác động của điều kiện thời tiết, địa lý, do đó tính năng, tác dụng của chúng sẽ
kém hiệu quả trong điều kiện thời tiết, địa lý không thuận lợi. Ở chiến trường Việt
Nam, với 3/ 4 diện tích là núi rừng càng gây khó khăn cho việc phát huy tính năng,
tác dụng của VKCNC. Các loại vũ khí đều có chương trình hoạt động được chuẩn
bị từ trước nên chúng cũng dễ gặp rủi ro và thiếu “linh hoạt” khi hoạt động. Chúng
ta có thể dò được và tiến công vào hệ thống chỉ huy, điều khiển, làm nhiễu và mất
hiệu lực của VKCNC trong việc tìm diệt mục tiêu. Ở đây, những bài học kinh

nghiệm trong chống chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc, nhất là trong chiến


dịch “Điện Biên Phủ trên không” năm 1972 cần được vận dụng và phát huy trong
điều kiện mới chống lại cuộc tiến công hỏa lực bằng VKCNC của Mỹ. Mục tiêu
bắn phá đã được tính toán sẵn, nếu phát hiện được có thể phòng tránh, sơ tán bảo
toàn lực lượng một cách hiệu quả. Cần nhấn mạnh rằng, việc sản xuất và sử dụng
các loại VKCNC là hết sức tốn kém, nhiều nhà quân sự gọi chúng là “những viên
đạn bạc”. Vì vậy, khi gặp dân tộc Việt Nam quyết tâm chiến đấu đến cùng, buộc
phải kéo dài chiến tranh thì gánh nặng chi phí cho cuộc tiến công hỏa lực bằng
VKCNC sẽ hết sức lớn. Có thể khẳng định, VKCNC là do con người làm ra, vì
vậy, chính con người sẽ tìm được nhược điểm để khắc phục và hạn chế sức mạnh
của nó. Việc máy bay tàng hình F117, vũ khí “tinh khôn”, tên lửa Tômahốc bị bắn
hạ và phá hủy ở chiến trường Nam Tư chứng minh rằng VKCNC không thể không
bị đánh bại. Với điều kiện địa hình, thời tiết và con người Việt Nam, văn hóa Việt
Nam, với đặc điểm, tính chất của CTND Việt Nam, đế quốc Mỹ không thể áp đặt
được cách đánh của chúng; đồng thời không những không phát huy được hiệu quả
của hỏa lực công nghệ cao mà sẽ còn phải chịu những tổn thất không nhỏ.
Cuộc tiến công hỏa lực bằng VKCNC của Mỹ chống nước ta là cuộc chiến
tranh phi nghĩa. Bản thân tính chất phi nghĩa của chiến tranh đã chứa đựng trong
lòng nó những yếu tố dẫn đến thất bại. Tuy không phải mọi cuộc chiến tranh phi
nghĩa đều thất bại, nhưng tính chất phi nghĩa làm cho kẻ phát động chiến tranh sẽ
gặp nhiều khó khăn trong việc tập hợp lực lượng, động viên sức người, sức của cho
chiến tranh. Ở giai đoạn đầu của cuộc tiến công, trong chừng mực nhất định bộ mặt
hiếu chiến, xâm lược chưa bị bóc ra khỏi chiếc mặt nạ “đạo đức’ thì có thể kẻ phát
động chiến tranh tạo nên được những ưu thế nhất định. Nhưng tính chất phi nghĩa,
phi đạo lý của cuộc tiến công của Mỹ sẽ ngày càng lộ rõ bởi chính những hành
động chiến tranh của chúng. Cuộc tiến công này chắc chắn sẽ gặp phải sự phản đối
quyết liệt của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, của chính nhân dân Mỹ
và của nhân dân những nước đồng minh với Mỹ, như Mỹ đã từng gặp phải trong

cuộc chiến tranh xâm lược nước ta trước kia. Vì vậy, phát động chiến tranh chống
Việt Nam, thì đồng thời Mỹ cũng tự đón lấy một khả năng thất bại tiềm tàng.


1.2. Sự tác động của cuộc tiến công hỏa lực bằng vũ khí công nghệ cao của
Mỹ đối với Việt Nam và yêu cầu về chính trị - tinh thần của nhân dân và quân
đội ta.
1.2.1. Sự tác động của cuộc tiến công hỏa lực bằng vũ khí công nghệ cao
của Mỹ đến chính trị - tinh thần của nhân dân và quân đội ta.
* Nội dung CT - TT của nhân dân và quân đội ta trước yêu cầu sẵn sàng đánh
thắng cuộc tiến công hỏa lực bằng VKCNC của Mỹ.
Với cách tiếp cận của đề tài nghiên cứu, có thể quan niệm CT - TT của nhân
dân và quân đội ta trước yêu cầu đánh thắng cuộc tiến công hỏa lực bằng VKCNC
của Mỹ đối với Việt Nam là tổng hợp những giá trị về tinh thần của nhân dân và
quân đội theo khuynh hướng chính trị của ĐCSVN được thể hiện tập trung trên
các nội dung cơ bản: tư tưởng, niềm tin và ý chí của nhân dân và quân đội ta sẵn
sàng đánh thắng cuộc tiến công hỏa lực bằng VKCNC của Mỹ.
Các nội dung cơ bản: tư tưởng, niềm tin, ý chí hòa quyện, gắn bó với nhau, tác
động lẫn nhau trong CT - TT của nhân dân và quân đội ta. Việc nghiên cứu CT TT của nhân dân và quân đội ta nhằm đánh thắng cuộc tiến công hỏa lực bằng
VKCNC của Mỹ chống Việt Nam là phải làm rõ những nội dung cơ bản đó. Đây
cũng chính là những nội dung về CT - TT cần xây dựng cho nhân dân và quân đội
ta để đáp ứng yêu cầu đánh thắng kiểu chiến tranh mới mà Mỹ tiến hành chống
nước ta. Việc xác định những nội dung cơ bản của CT - TT chỉ có tính chất tương
đối bởi tính chất, cấu trúc và nội dung của CT - TT là rộng lớn và phức tạp. Do đó,
khi phân tích theo những nội dung cơ bản (tư tưởng, niềm tin, ý chí của nhân dân
và quân đội ta) phải luôn đặt chúng trong mối quan hệ với các nội dung khác; đồng
thời phải đặt chúng không những chỉ nằm trong vấn đề của ý thức, mà còn trong
mối quan hệ cả với các vấn đề về tổ chức và hoạt động. Như thế, các nội dung cơ
bản trong CT - TT của nhân dân và quân đội ta mà đề tài nghiên cứu mới trở nên
có ý nghĩa, tránh được sự siêu hình, máy móc.

Từ cách đặt vấn đề trên, tư tưởng, niềm tin, ý chí của nhân dân và quân đội ta
được xác định vừa là những nội dung cơ bản của CT - TT, vừa phản ánh mặt tư


×