Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ xây DỰNG bản CHẤT CHÍNH TRỊ xã hội của QUÂN đội NHÂN dân VIỆT NAM TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (466.06 KB, 100 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Từ khi ra đời đến nay, trải qua hơn nửa thế kỷ đấu tranh cách mạng, ở bất kỳ giai đoạn
lịch sử nào, việc xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị luôn
luôn là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu.
Hiện nay, cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc đang diễn ra dưới những sắc thái
mới mà tính chất của chúng không kém phần gay go, quyết liệt so với giai đoạn lịch sử
trước đây. Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước những năm gần đây đã thu được những
thành tựu bước đầu rất quan trọng, song cuộc cách mạng ở nước ta cũng đang đứng trước
cả thời cơ mới cùng với những thách thức, nguy cơ mới. Việc xây dựng Quân đội nhân
dân Việt Nam thực sự là công cụ của đắc lực của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
đang đặt ra những yêu cầu mới.
Đặc biệt, bối cảnh quốc tế những năm gần đây đã xuất hiện những diễn biến phức tạp.
Sự sụp đổ của Liên Xô và hàng loạt nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã dẫn đến sự thay
đổi tương quan so sánh lực lượng những năm tháng trước mắt theo hướng có lợi cho chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực phản động thù địch. Với chiến lược “Diễn biến hoà bình”,
chủ nghĩa đế quốc âm mưu chớp thời cơ xoá bỏ hoàn toàn chủ nghĩa xã hội trước khi
bước sang thế kỷ XXI. Mộtt rong những mục tiêu cơ bản ban đầu của chúng đối với đất
nước ta là tách quân đội khỏi sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, thực hiện “giải giáp quân
đội về mặt chính trị” bằng cách xúc tiến “phi đảng hoá quân đội”, “phi chính trị hoá quân
đội”, “quân đội chỉ phục tùng nhà nước”... Trên lĩnh vực chính trị - tư tưởng, chúng đang
tìm cách tạo ra sự mơ hồ về nhận thức bản chất của quân đội, từ đó mưu toan tách quân
đội khỏi sự lãnh đạo của Đảng, làm cho quân đội thoái hoá từ bên trong.
Tình hình trên đây đòi hỏi việc giải quyết những vấn đề mới mẻ và cấp bách trong
nhiệm vụ xây dựng quân đội về chính trị cần dựa trên một cơ sở khoa học vững chắc.
Nghiên cứu dưới góc độ triết học vấn đề xây dựng bản chất chính trị - xã hội của
Quân đội nhân dân Việt Nam trong tình hình hiện nay nhằm cung cấp những luận


chứng khoa học cho việc xây dựng quân đội ta vững mạnh về chính trị là vấn đề cấp


bách, có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Nghiên cứu vấn đề xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam về chính trị là một trong
những hướng nghiên cứu cơ bản của nhiều nhà khoa học trong và ngoài quân đội. Nhiều
văn kiện của Đảng, Nhà nước, quân đội, nhiều bài báo, tạp chí và cả một số luận án khoa
học đã đề cập tới vấn đề này ở những góc độ khác nhau, với những mức độ khác nhau
(xem 19, 23, 24, 26, 27, 35, 37, 44, 47, 50, 52, 60, 65, 68, 75, 77, 81,82, 84, 87, 88, 90,
92, 96, 100, 101, 103, v.v..). Xây dựng quân đội về chính trị là một đề tài khoa học cấp
Nhà nước đã được triển khai và thu được nhiều kết quả có giá trị v ề lý luận và thực tiễn.
Tuy nhiên, các công trình trên đây chưa tập trung đi sâu nghiên cứu bản chất chính
chính trị - xã hội của Quân đội nhân dân Việt Nam dưới góc độ lý luận- phương pháp
luận của triết học.
Trong quá trình nghiên cứu, thực hiện đề tài, người viết luận án đã chọn lọc, kế thừa và
phát triển các luận điểm có giá trị về mặt khoa học của các tác giả trong và ngoài quân
đội v ề những vấn đề có liên quan, đồng thời cố gắng phát huy tính độc lập trong tư duy,
trong phương pháp nghiên cứu và trong cách thể hiện những nội dung cơ bản của đề tài.
Các tài liệu nước ngoài, chủ yếu của các tác giả Xô viết thuộc Liên Xô trước đây,
không trực tiếp đề cập đến đề tài. Tuy nhiên, người viết luận án cũng cố gắng tham khảo,
nghiên cứu các tài liệu này về những vấn đề có liên quan (xem 55, 91, 110, 112, 115,
v.v..)
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận án
Mục đích của luận án là thông qua việc nghiên cứu dưới góc độ triết học quá trình
hình thành và phát triển bản chất chính chính trị - xã hội của Quân đội nhân dân Việt
Nam để phát hiện, khái quát những vấn đề có tính qui luật của quá trình này, góp phần
cung cấp những luận chứng khoa học cho việc xây dựng quân đội ta vững mạnh về chính
trị, đáp ứng những yêu cầu khách quan của tình hình và nhiệm vụ hiện nay.
Để đạt mục đích trên, nhiệm vụ của luận án bao gồm những vấn đề chủ yếu sau đây:


1) Làm rõ các khái niệm “bản chất của quân đội”, “bản chất giai cấp của quân đội”,

“bản chất chính chính trị - xã hội của Quân đội nhân dân Việt Nam
2) Khái quát và phân tích những vấn đề có tính qui luật của quá trình hình thành và
phát triển bản chất chính chính trị - xã hội của Quân đội nhân dân Việt Nam.
3) Tìm hiểu thực trạng, xác định yêu cầu, đề xuấtc ác giải pháp cơ bản của việc xây
dựng bản chất chính chính trị - xã hội của Quân đội nhân dân Việt Nam trong tình hình
hiện nay.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án là bản chất chính chính trị - xã hội của
Quân đội nhân dân Việt Nam được thể hiện trong những con người và tổ chức quân sự.
Con người ở đây là tất cả những người đã và đang hoạt động trong quân đội- khái niệm
quân nhân nói chung. Tổ chức quân sự ở đây là tất cả các cơ quan, đơn vị ở các cấp, các
ngành, các quân - binh chủng trong quân đội - khái niệm tổ chức quân sự nói chung.
4. Những đóng góp về khoa học của luận án
- Bước đầu tiếp cận nội hàm khái niệm “bản chất chính trị - xã hội của Quân đội”, từ đó
làm rõ nội dung và những yếu tố cấu thành bản chất chính trị - xã hội của Quân đội nhân
dân Việt Nam.
- Bước đầu khái quát và phân tích ba vấn đề cơ bản có tính quy luật của quá trình hình
thành và phát triển bản chất chính trị - xã hội của Quân đội nhân dân Việt Nam, căn cứ
vào thực trạng và yêu cầu để đề xuất hệ thống giải pháp nhằm xây dựng và phát triển bản
chất chính trị - xã hội của quân đội ta lên một bước mới về chất.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu.
Cơ sở lý luận của luận án là hệ thống các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lê-nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam về quân đội nhân
dân Việt Nam nói chung, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng, đặc biệt là
xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam về chính trị.
Cơ sở thực tiễn của luận án là thực tiễn lịch sử hình thành, phát triển bản chính chính
trị - xã hội của Quân đội nhân dân Việt Nam từ khi ra đời đến nay; các tài liệu, báo cáo
tổng kết, các đề tài khoa học cấp Nhà nước và cấp Bộ Quốc phòng, các công trình nghiên
cứu của các nhà khoa học trong và ngoài nước về các vấn đề có liên quan; các kết quả



điều tra xã hội học từ các đơn vị mẫu trong toàn quân và kết quả khảo sát, điều tra,
nghiên cứu, thực tế của cá nhân tác giả.
Đề tài luận án được nghiên cứu dưới góc độ triết học, trong đó người viết đã vận dụng
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để giải
quyết các vấn đề đặt ra trong nội dung luận án. Các phương pháp nghiên cứu được sử
dụng tổng hợp: lô gích - lịch sử, phân tích, tổng hợp, hệ thống - cấu trúc, điều tra xã hội
học, thống kê so sánh v.v.. trong đó, phương pháp lô gích - lịch sử và hệ thống- cấu trúc
được đặc biệt chú trọng.
6. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
- Góp phần luận chứng khoa học cho việc Quân đội nhân dân Việt Nam về chính trị và
đề xuất hệ thống giải pháp cơ bản, toàn diện, có thể thực hiện được trong xây dựng bản
chính chính trị - xã hội của Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
Luận án có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy các bộ môn khoa
học như: học thuyết Mác-Lênin về chiến tranh và quân đội, công tác đảng - công tác
chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam... trong hệ thống nhà trường quân đội.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm có: Phần mở đầu, hai chương, bốn tiết, phần kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phần phụ lục.
Chương I
BẢN CHẤT CHÍNH CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT
NAM - MỘT SỐ VẤN ĐỀ CÓ TÍNH QUY LUẬT CỦA QUÁ TRÌNH HÌNH
THÀNH, PHÁT TRIỂN
I.1. Bản chất chính chính trị - xã hội của Quân đội nhân dân Việt Nam
Quân đội là một hiện tượng lịch sử. Quân đội ra đời và tồn tại trong một giai đoạn phát
triển nhất định của xã hội loài người: giai đoạn xuất hiện chế độ tư hữu, sự phân hoá
thành các giai cấp khác nhau trong xã hội và nhà nước. Hiện tượng lịch sử này đã được
nhận thức ở nhiều góc độ khác nhau, theo những khuynh hướng khác nhau.


Từ khi quân đội ra đời, ngay từ thời cổ đại, một số nhà tư tưởng đã biết đến vai trò cơ

bản của nó với tính cách là công cụ bạo lực của nhà nước. Tuy vậy, v ề nguồn gốc, bản
chất của quân đội, và mối liên hệ giữa quân đội với bản chất giai cấp của nhà nước đã tổ
chức và xây dựng nó, mối liên hệ giữa quân đội với chính trị, một số nhà tư tưởng chưa
đề cập tới, còn một số khác đã đề cập tới một cách sai lệch.
Đến đầu thế kỷ XIX. C.P. Claudơvitx (1780-1831) - nhà lý luận quân sự Phổ được
V.I.Lênin đánh giá là “một trong những cây bút vĩ đại viết về lịch sử chiến tranh”(4),
“Một trong những tác giả sâu sắc nhất về những vấn đề quân sự”(5) đã tiến hành xa hơn
những người đi trước.
Xuất phát từ quan niệm coi quân đội là công cụ bạo lực để tiến hành chiến tranh,
Cladơvitx đã tập trung nghiên cứu bản chất hiện tượng chiến tranh. Ông đã phát hiện
và khái quát được mối quan hệ giữa chính trị với chiến tranh, vai trò của chính trị đối
với chiến tranh. Trong tác phẩm “Bàn về chiến tranh” Claudơvitx đã khái quát một cách
sâu sắc: “Chiến tranh không phải chỉ là một hành vi chính trị, mà là một công cụ chính trị
thực sự, một sự kế tục của những quan hệ chính trị, một sự thực hiện các quan hệ chính
trị bằng những biện pháp khác”(33).
Tuy nhiên, do xuất phát từ lý luận duy tâm về một nhà nước siêu giai cấp, nhận thức
của Claudơvitx đã bị hạn chế trong một quan niệm trừu tượng siêu giai cấp về phạm trù
chính trị. Ông coi chính trị là biểu hiện của “sự hài hoà về lợi ích” giữa các giai cấp khác
nhau trong một quốc gia. Ông đã tách rời một cách siêu hình chính sách đối ngoại với
chính sách đối nội, đồng thời tuyệt đối hoá vai trò của chiến tranh, coi chiến tranh như
một phương tiện vĩnh cửu để giải quyết những mâu thuẫn giữa các quốc gia, dân tộc. Từ
quan niệm về chính trị như vậy, Claudơvitx đã không nhận thức được đúng đắn mối liên
hệ giữa các vấn đề chính trị, giai cấp đối với hiện tượng chiến tranh và quân đội.
Từ nửa cuối thế kỷ XIX, với việc xây dựng được một hệ thống lý luận - phương
pháp luận vừa duy vật vừa biện chứng, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã tiến đến
nhận thức sâu sắc hơn, triệt để hơn về nguồn gốc, đặc trưng, cơ sở kinh tế, cơ sở xã
hội- giai cấp của các hiện tượng chiến tranh, chính trị, các tổ chức, thiết chế thuộc
kiến trúc thượng tầng như nhà nước, quân đội cũng như mối liên hệ giữa chúng.



Trong bài viết cho cuốn “Bachs khoa toàn thư mới của Mỹ” (New America
Cyclopaedia), một cuốn sách tra cứu khoa học do một số nhà xuát bản ở Mỹ tổ chức biên
soạn và xuất bản với sự cộng tác của nhiều nhà bác học nổi tiếng của Mỹ và Châu Âu,
Ph.Ăngghen đã viết: “Quân đội là một tập đoàn có tổ chức gồm những người được vũ
trang, được nhà nước đài thọ để thực hiện chiến tranh tấn công hoặc phòng ngự”(2).
Định nghĩa này đã chỉ rõ đặc trưng cơ bản của quân đội là “một tập đoàn có tổ chức
gồm những người được vũ trang, được nhà nước đài thọ” để phân biệt với các tổ chức xã
hội khác, nêu lên chức năng chủ yếu của quân đội “để thực hiện chiến tranh tấn cộng
hoặc phòng ngự”, đồng thời chỉ rõ mối liên hệ giữa quân đội với nhà nước “được nhà
nước đài thọ” và được nhà nước sử dụng như một công cụ để tiến hành chiến tranh.
Trong các tác phẩm của C.Mác, Ph.Ăngghen viết về giai cấp, nhà nước, quân đội,
chính trị và chiến tranh, chúng ta thấyc ác vấn đề này đều có liên quan một thiết với nhau.
Quân đội và nhà nước, với tính cách là những thiết chế thuộc kiến trúc thượng tầng của
xã hội, bên cạnh sự khác biệt về chức năng, vị trí, vai trò, hình thức tổ chức, phương
thức hoạt động của chúng trong đời sống xã hội, còn có sự thống nhất về bản chất
giai cấp. Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác, nhà nước bao giờ cũng thuộc về
một giai cấp nhất định - giai cấp giữ địa vị thống trị về kinh tế, chính trị trong xã hội, do
đó quân đội, với tính cách là công cụ bạo lực của nhà nước, luôn luôn mang bản chất của
chính giai cấp đã xây dựng và tổ chức ra nhà nước và quân đội của nó.
Do những điều kiện lịch sử cuối thế kỷ XIX, Mác và Ăngghen chủ yếu chỉ đề cập tới
quân đội thường trực của các giai cấp bóc lột, đặc biệt là quân đội tư sản. Từ thực tế lịch
sử ở nửa cuối thế kỷ XIX, Mác và Ăngghen đã nêu lên sự cần thiết phải vũ trang cho giai
cấp vô sản, tổ chức ra “đội cận vệ vô sản độc lập”(1) của công nhân “với những cán bộ
chỉ huy và bộ tổng tham mưu riêng do chính công nhân bầu ra”(1) nhằm đập tan sự phản
kháng của giai cấp tư sản, giải tán quân đội thường trực của nhà nước tư sản và thay thế
nó bằng tổ chức vũ trang của giai cấp công nhân.
Kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác trong điều kiện lịch sử V.I.
Lênin đã phân tích một cách sâu sắc mối liên hệ giữa quân đội và nhà nước, vai trò
của chính trị đối với quân đội và chiến tranh, sự thống nhất bản chất giai cấp của



quân đội với bản chất giai cấp của nhà nước đã xây dựng và tổ chức ra nó cũng như
biểu hiện cụ thể của các mối liên hệ này trong thời đại đế quốc chủ nghĩa.
Xuất phát từ tình hình thực tế của nước Nga và của cuộc cách mạng Nga, Lênin là
người mácxít đầu tiên đã trình bày những nguyên lý cơ bản của việc xây dựng quân đội
kiểu mới của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga. Nếu như ý tưởng về tổ chức
“Đội cận vệ vô sản độc lập” do Mác, Ăngghen nêu ra chủ yếu đề cập tới lực lượng của
giai cấp công nhân, thì tổ chức “Hồng quân công nông” do Lênin đề xướng đã chỉ rõ cơ
sở xã hội- giai cấp chủ yếu của quân đội kiểu mới là liên minh giữa công nhân và
nông dân - hai lực lượng cơ bản để xây dựng Hồng quân công nông của nước Nga xô
viết. Lênin cũng là người mácxít đầu tiên nêu lên tư tưởng xây dựng Hồng quân công
nông dựa trên cơ sở vũ trang toàn dân.
Từ đây cũng đã xuất hiện thêm mối liên hệ giữa quân đội kiểu mới với Đảng của giai
cấp công nhân. Mối liên hệ này nảy sinh từ những yêu cầu cấp bách của thực tiễn đấu
tranh cách mạng của Đảng Bônsêvích Nga. Việc xây dựng và giữ mối liên hệ này trong
mọi giai đoạn của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa bảo đảm cho việc xây dựng một quân
đội mà thành phần xã hội - giai cấp của lực lượng tham gia không phải thuần nhất từ
công nhân nhưng vẫn luôn luôn có được bản chất cách mạng của giai cấp công nhân,
đồng thời bảo đảm cho sự thống nhất bản chất gia cấp của Hồng quân với Nhà nước xã
hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới. Mối liên hệ mật thiết giữa quân đội cách mạng với
Đảng cộng sản - trong đó quân đội luôn luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
- đã trở thành điều kiện tiên quyết, nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong xây dựng
quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Lịch sử hình thành và phát triển của Quân đội nhân dân Việt Nam cho thấy từ rất
sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam đã kế thừa, vận dụng sáng
tạo những nguyên lý, nguyên tắc mácxít - lêninnít về xây dựng quân đội kiểu mới của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam.
Nhận thức đúng đắn vai trò của bạo lực cách mạng trong cuộc đấu tranh giành độc lập
và tự do cho dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã sớm chuẩn bị mọi mặt cho
việc xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam.

Ngay từ khi mới ra đời, trong “Chánh cương vắn tắt” tháng 2-1930 do Chủ tịch Hồ Chí


Minh soạn thảo, Đảng ta đã xác định những nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam
trên các phương diện xã hội, chính trị và kinh tế, trong đó có nhiệm vụ “Tổ chức ra quân
đội công nông”(70).
Từ những hình thức sơ khai ban đầu như các đội tự vệ của phong trào 1930-1931, các
đội du kích của phong trào tiền khởi nghĩa, đáp ứng nhu cầu gấp rút đón thời cơ gành
chính quyền, tháng 12-1944 lãnh tụ Hồ Chí Minh đã ra chỉ thị thành lập Đội Việt Nam
tuyên truyền giải phóng quân, chính thức đánh dấu “mốc khởi điểm” của Quân đội nhân
dân Việt Nam. Những tư tưởng chỉ đạo chiến lược đặt nền tảng cho toàn bộ sự phát triển
của Quân đội nhân dân Việt Nam sau này đã được thể hiện trong bản chỉ thị lịch sử;
“Kháng chiến của toàn dân”, “động viên toàn dân”, “vũ trang toàn dân”, quân đội vừa là
lực lượng chính trị, vừa là lực lượng quân sự (trong giai đoạn đầu thì “chính trị trọng hơn
quân sự”); vừa có “đội chủ lực”, vừa “duy trì lực lượng vũ trang trong các địa phương”.
Lãnh tụ Hồ Chí Minh còn đưa ra dự báo: “Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân là
đội quân đàn anh, mong cho chóng có những đội đàn em khác. Tuy lúc đầu quy mô của
nó còn nhỏ, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm của giải phóng quân, nó
có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam chúng ta” (7).
Như vậy, ngay từ khi mới ra đời, Quân đội nhân dân Việt Nam đã được đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản, được xây dựng theo nguyên lý “kháng chiến toàn dân”,
có mối liên hệ máu thịt với nhân dân, với dân tộc. Đây là những tiền đề chính trị rất
cơ bản, có vai trò cực kỳ quan trọng đối với quá trình hình thành và phát triển bản
chất chính trị - xã hội của quân đội ta.
Quân đội là một tổ chức đặc biệt của xã hội, một thiết chế nhà nước thuộc kiến trúc
thượng tầng. Tính chất đặc biệt của tổ chức xã hội này đã được Ph.Ăngghen chỉ rõ trong
định nghĩa về quân đội (2).
Bản chất của quân đội - được thể hiện một cách phổ biến ở mọi loại hình quân đội đã
xuất hiện trong lịch sử - là công cụ bạo lực của nhà nước, giaic ấp, dân tộc, được tổ
chức dưới hình thức một tập đoàn người có vũ trang, với phương thức hoạt động đặc

thù là đấu tranh vũ trang, nhằm thực hiện lợi ích của nhà nước, giai cấp, dân tộc đã
xây dựng và tổ chức ra nó.


Nghiên cứu bản chất của quân đội không thể đề cập tới các vấn đề chính trị, giai cấp, tổ
chức vũ trang và đấu tranh vũ trang. Khi xem xét các loại hình quân đội đã xuất hiện
trong lịch sử, Mác- Ăngghen - Lênin đặc biệt chú ý tới sự phụ thuộc của tổ chức vũ
trang và hoạt động đấu tranh vũ trang vào quan hệ chính trị và giai cấp, hay nói cách
khác là sự chi phối của các quan hệ chính trị và giai cấp đến tổ chức vũ trang và đấu tranh
vũ trang.
Chính vì vậy, trong nhiều cuốn sách giáo khoa, giáo trình của học thuyết Mác-Lênin về
chiến tranh và quân đội, cũng như trong nhiều bài viết trên các tạp chí nghiên cứu khoa
học, bản chất của quân đội thường được qui giản về quan hệ giai cấp, được diễn đạt
bằng khái niệm “bản chất giai cấp của quân đội” (35,103,107, v.v...)
Bản chất quân đội còn được xem xét từ các góc độ khác nhau, theo các phạm vi khác
nhau, và được diễn đạt bằng các khái niệm “bản chất xã hội của quân đội” (107), “bản
chất chính trị- xã hội của quân đội” (35, 55, 107). Mặc dù đều thể hiện sự qui giản bản
chất của quân đội về các quan hệ chính trị và giai cấp, nhưng nội dung của các thuật ngữ
này không hoàn toàn đồng nhất với nhau.
Khái niệm “bản chất giai cấp của quân đội” không đồng nhất với khái niệm “bản chất
của quân đội” đã trình bày ở trên.
Bản chất giai cấp của quân đội là tổng hợp những thuộc tính, đặc trưng cơ bản trên
phương diện chính trị - tư tưởng và tổ chức của giai cấp được biểu hiện trong tổ chức
quân sự do giai cấp đó đã xây dựng nhằm thực hiện lợi ích của nó.
Như vậy, khái niệm “bản chất giai cấp của quân đội” có phạm vi hẹp hơn khái niệm
“bản chất của quân đội”. Nó đề cập đến khía cạnh giai cấp một cách tập trung hơn, sâu
sắc hơn so với khái niệm “bản chất của quân đội”. Nói cách khác, bản chất giai cấp của
quân đội chính là bản chất của quân đội được qui giản về quan hệ giai cấp.
Quan hệ giai cấp là một bộ phận của hệ thống chính trị - xã hội, đồng thời là cốt lõi của
quan hệ chính trị - xã hội. Quan hệ chính trị - xã hội bao hàm quan hệ giai cấp, nhưng

không đồng nhất với quan hệ giai cấp. Thuật ngữ “chính trị - xã hội” ở đây vừa dùng để
chỉ khía cạnh chính trị của các quan hệ xã hội cơ bản có tính độc lập tương đối với
quan hệ giai cấp, đó là quan hệ dân tộc và quan hệ cộng đồng xã hội trong một quốc
gia- dân tộc.


Từ góc độ triết học và lôgich học, đồng thời, từ thực tiễn lịch sử hình thành và phát
triển của các kiểu, loại hình quân đội, có thể qui giản bản chất của quân đội về hai mối
quan hệ có liên quan chặt chẽ với nhau, nhưng có phạm vi khác nhau.
Thứ nhất, bản chất của quân đội cần được qui giản về quan hệ giai cấp - mối quan
hệ cốt lõi, cơ bản nhất. Việc qui giản bản chất của quân đội về quan hệ giai cấp cho phép
nhận thức được đúng đắn và sâu sắc nhất bản chất của bất kỳ một quân đội nào. Bản
chất giai cấp của một quân đội luôn luôn mang tính xác định. Tính xác định trong bản
chất giai cấp của quân đội cho phép khẳng định Không có “quân đội phi giai cấp” hoặc
“quân đội siêu giai cấp”.
Thứ hai, bản chất của quân đội có thể được qui giản về quan hệ chính trị - xã hội,
mối quan hệ bao hàm quan hệ giai cấp, trong đó quan hệ giai cấp giữ vị trí, vai trò là
mối quan hệ cốt lõi, cơ bản nhất, sâu sắc nhất của quan hệ chính trị - xã hội. Việc qui
giản bản chất quân đội về quan hệ chính trị - xã hội cho phép nhận thức được đầy đủ
hơn, phong phú hơn tương quan giữa quan hệ giai cấp với các quan hệ chính trị - xã hội
khác như quan hệ dân tộc và quan hệ cộng đồng xã hội - các mối quan hệ cơ bản cấu
thành bản chất chính trị - xã hội của quân đội mà biểu hiện bản chất đó trong hiện thực
như là tổng hoà của các quan hệ chính trị - xã hội. Bản chất chính trị - xã hội của một
quân đội cũng luôn luôn mang tính xác định. Tính xác định này được qui định bởi bản
chất giai cấp của quân đội. Tính xác định trong bản chất chính trị - xã hội của quân đội
cho phép khẳng định: Không có “quân đội phi chính trị” hoặc “quân đội trung lập về
chính trị”; cũng không có quân đội biệt lập với xã hội, quân đội đứng ngoài các mối
quan hệ chính trị - xã hội.
Như vậy, bản chất chính trị - xã hội của một quân đội là tổng hợp những thuộc tính,
đặc trưng cơ bản trên phương diện chính trị- xã hội phản ánh những mối liên hệ cơ

bản giữa quân đội với giai cấp (và nhà nước đại diện cho giai cấp đó) dân tộc và cộng
đồng xã hội đã xây dựng, tổ chức, nuôi dưỡng và sử dụng quân đội đó nhằm thực
hiện lợi ích của giai cấp, dân tộc và cộng đồng xã hội, trong đó mối liên hệ giữa quân
đội với giai cấp đã xây dựng và tổ chức ra nó là mối liên hệ cốt lõi, cơ bản.
Từ sự phân tích và cách tiếp cận trên đây, đồng thời từ thực tiễn lịch sử hình thành và
phát triển bản chất chính trị - xã hội của quân đội ta, có thể xác định rằng bản chất chính


chính trị - xã hội của Quân đội nhân dân Việt Nam là sự thống nhất tính cách mạng
của giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc Việt Nam được biểu hiện
trong một tổ chức quân sự nhằm thực hiện lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân
và dân tộc Việt Nam.
Cấu trúc bản chất chính chính trị - xã hội của Quân đội nhân dân Việt Nam, như đã xác
định trên đây, bao gồm ba yếu tố cơ bản vừa có tính độc lập tương đối với nhau, vừa có
mối liên hệ chặt chẽ với nhaut rong một thể thống nhất.
Tính cách mạng của giai cấp công nhân là yếu tố giữ vị trí trung tâm, cốt lõi, cơ bản
nhất, có vai trò quyết định trong hệ thống các yếu tố cơ bản cấu thành bản chất chính
chính trị - xã hội của Quân đội nhân dân Việt Nam. Tính cách mạng của giai cấp công
nhân là thuộc tính, đặc trưng cơ bản nhất trên phương diện chính trị - xã hội phản ánh
mối liên hệ giữa quân đội với giai cấp đã xây dựng và tổ chức ra nó và đội tiên phong của
giai cấp là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tính cách mạng là thuộc tính, đặc trưng cơ bản nhất trên phương diện chính trị - tư
tưởng và tổ chức của giai cấp công nhân. Do đó, “tính cách mạng của giai cấp công
nhân” là nội dung chủ yếu của các khái niệm “bản chất giai cấp công nhân” hoặc “bản
chất cách mạng của giai cấp công nhân”- những khái niệm cùng loại và đồng nghĩa.
Tính cách mạng của giai cấp công nhân cũng là nội dung chủ yếu của khái niệm “bản
chất giai cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam”. Bản chất giai cấp của quân đội ta
chính là tính cách mạng của giai cấp công nhân được biểu hiện trên phương diện
chính trị - tư tưởng và tổ chức của một tổ chức quân sự do giai cấp công nhân Việt
Nam vàđội tiên phong của nó xây dựng, tổ chức, lãnh đạo và sử dụng nhằm thực hiện

lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân và dân tộc Việt Nam.
Bản chất giai cấp của quân đội ta thống nhất với bản chất giai cấp của Đảng ta - đội
tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, và thống nhất với bản chất giai cấp của Nhà
nước ta - thành tố quant rọng nhất trong kiến trúc thượng tầng của xã hội mới. Sự thống
nhất này dựa trên nền tảng sự thống nhất về lợi ích của các tổ chức, thiết chế quan trọng
nhất trong kiến trúc thượng tầng với lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân và dân tộc
Việt Nam.


Tuy nhiên, tính đặc thù của tổ chức quân sự qui định nội dung và hình thức biểu
hiện tính cách mạng của giai cấp công nhân trong quân đội ta có khác với các tổ
chức, thiết chế như Đảng, Nhà nước. Trên phương diện chính trị - tư tưởng, tính cách
mạng của giai cấp công nhân thể hiện trong quân đội ta trước hết là ở sự xác lập vững
chắc vị trí, vai trò chủ đạo của hệ tư tưởng Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong
quân đội, đặc biệt là tư tưởng quân sự; ở năng lực tiếp thu và vận dụng sáng tạo tư tưởng
đó vào hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực quân sự của mọi quân nhân; ở lý tưởng cách
mạng, trình độ giác ngộ và tinh thần tự giác chiến đấu, hy sinh vì mục tiêu, lý tưởng cách
mạng của Đảng, vì lợi ích của Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, của nhân dân và của dân tộc
Việt Nam... Trên phương diện tổ chức, tính cách mạng của giai cấp công nhân thể hiện
trong một tổ chức của những người cách mạng hoạt động trong lĩnh vực quân sự là kết
hợp giữa những đặc tính của lực lượng sản xuất tiên tiến nhất như tính cách mạng triệt
để, tính kỷ luật nghiêm, tính tổ chức chặt chẽ và khoa học, tính tự giác cao, tính chính qui
và chính xác... với nguyên tắc tổ chức và qui luật phát triển của đội tiên phong của giai
cấp công nhân như nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ tự phê bình và phê bình... phù
hợp với những yêu cầu, điều kiện và tính chất của một tổ chức quân sự.
Toàn bộ nội dung và hình thức trên đây đều được hiện thực hoá trong hoạt động thực
tiễn của quân đội, trong đó quân đội thực hiện đầy đủ các chức năng chiến đấu, công tác
và sản xuất. Chính trong hoạt động thực tiễn thực hiện đầy đủ các chức năng này, bản
chất chính chính trị - xã hội của quân đội ta mới được thể hiện đầy đủ và rõ nét, trong đó
không chỉ thể hiện tính cách mạng của giai cấp công nhân mà còn thể hiện cả tính nhân

dân và tính dân tộc.
Tính nhân dân và tính dân tộc là những yếu tố giữ vị trí cơ bản, có vai trò rất quan
trọng, không thể thiếu trong hệ thống các yếu tố cấu thành bản chất chính trị - xã hội của
Quân đội nhân dân Việt Nam. Tính nhân dân và tính dân tộc của quân đội ta là những
thuộc tính, đặc trưng cơ bản trên phương diện chính trị - xã hội phản ánh mối liên hệ giữa
quân đội với quốc gia - dân tộc và cộng đồng xã hội bao gồm các tầng lớp nhân dân đặc
biệt là nông dân và trí thức yêu nước đã cùng với giai cấp công nhân xây dựng, tổ chức,
nuôi dưỡng và sử dụng quân đội.


Tính nhân dân của quân đội ta thể hiện mối liên hệ máu thịt giữa các tầng lớp nhân
dân với một quân đội kiểu mới thực sự của dân, do dân và vì dân. Trước hết, trên phương
diện chính trị - tư tưởng, mục tiêu chiến đấu của quân đội ta là nhằm bảo vệ lợi ích của
nhân dân, vì hạnh phúc của nhân dân. Trên phương diện tổ chức, quân đội là bộ phận
nòng cốt trong lực lượng vũ trang của nhân dân, trong đó quân nhân là một bộ phận hữu
cơ của nhân dân, xuất thân từ nhiều tầng lớp nhân dân. Mọi hoạt động của quân đội, từ
chiến đấu, công tác đến sản xuất đều có mối liên hệ chặt chẽ với đời sống của nhân dân,
quân đội phục vụ nhân dân, nhân dân nuôi dưỡng và xây dựng quân đội.
Tính dân tộc của quân đội thể hiện tập trung ở mục tiêu chiến đấu của quân đội ta là
bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ chủ quyền quốc gia - dân tộc, bảo vệ sự tồn tại và phát
triển của bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam trong mối quan hệ với cộng đồng các quốc
gia - dân tộc khác trên thế giới.
Tính cách mạng của giai cấp công nhân có mối liên hệ chặt chẽ với tính nhân dân
và tính dân tộc trong một thể thống nhất, tác động biện chứng lẫn nhau. Tính cách
mạng của giai cấp công nhân đem lại nội dung khoa học và cách mạng cho sự phát triển
tính nhân dân, tính dân tộc của quân đội ta. Đồng thời tính nhân dân và tính dân tộc bổ
sung cho sự phát triển tính cách mạng của giai cấp công nhân trong quân đội những nét
đặc sắc, phong phú, hài hoà với truyền thống văn hoá Việt Nam. Do đó, việc xây dựng,
củng cố và tăng cường tính cách mạng của giai cấp công nhân chính là vun trồng cái gốc
vững chắc cho sự phát triển tính nhân dân và tính dân tộc của quân đội, đồng thời, việc

phát triển tính nhân dân, tính dân tộc lên tầm cao mới trên lập trường cách mạng, khoa
học của giai cấp công nhân trong quân đội ta phát triển ngày càng sâu sắc, phong phú, hài
hoà với truyền thống lịch sử và tinh hoa văn hoá Việt Nam.
Nhận thức đúng đắn tính độc lập tương đối, vị trí, vai trò cũng như mối liên hệ chặt chẽ
giữa các yếu tố cơ bản cấu thành bản chất chính chính trị - xã hội của Quân đội nhân dân
Việt Nam có ý nghĩa rất quan trọng trong thực tiễn. Điều đó cho phép tránh được hai
khuynh hướng sai lầm cơ bản sau đây:
Thứ nhất là khuynh hướng tuyệt đối hoá vị trí, vait rò của quan hệ giai cấp. Ở
khuynh hướng này, nhận thức bản chất của quân đội ta chỉ bó hẹp trong phạm vi quan hệ
giai cấp. Trong thực tế, điều đó không tránh khỏi dẫn đến những biểu hiện tả khuynh,


chủ nghĩa thành phần, thái độ hẹp hòi, biệt phái hoặc chủ nghĩa quốc tế hư vô, không
khai thác được sức mạnh tổng hợp của cả cộng đồng quốc gia - dân tộc, của khối đoàn
kết toàn dân, của mọi tầng lớp nhân dân.
Thứ hai là khuynh hướng tuyệt đối hoá vị trí, vai trò của quan hệ dân tộc và quan
hệ cộng đồng xã hội. Ở khuynh hướng này, nhận thức bản chất của quân đội ta lại thoát
lý khỏi quan hệ giai cấp. Trong thực tế, điều đó không tránh khỏi dẫn đến những biểu
hiện hữu khuynh, cơ hội, xét lại. Điều này đặc biệt nguy hiểm trong tình hình hiện nay,
khi chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang ráo tiết thực hiện âm mưu “phi chính
trị hoá”, “phi đảng hoá” đối với quân đội cách mạng, tạo ra sự mơ hồ về bản chất giai cấp
của quân đội, tuyên truyền và cổ vũ cho luận điểm “quân đội chỉ phục tùng nhà nước”,
khuyếch đại vấn đề “quân đội quốc gia”, “quân đội dân tộc” theo hướng xoá nhoà, làm lu
mờ bản chất giai cấp của quân đội ta, mưu toan tách quân đội khỏi sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản Việt Nam.
Sự hình thành, phát triển bản chất chính trị - xã hội của Quân đội nhân dân Việt Nam là
một quá trình lịch sử, trong đó nổi lên một số vấn đề có tính qui luật.
Hiện nay, việc xây dựng bản chất chính chính trị - xã hội của quân đội ta đang đứng
trước những yêu cầu mới.
Để xác định đúng những yêu cầu và giải pháp cơ bản của việc xây dựng bản chất chính

trị - xã hội của Quân đội nhân dân Việt Nam trong tình hình hiện nay, cần phát hiện, khái
quát và phân tích từ góc độ triết học những vấn đề có tính qui luật đó.
I.2. Một số vấn đề có tính qui luật của quá trình hình thành, phát triển bản chất
chính trị - xã hội của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Quá trình hình thành, phát triển bản chất chính trị - xã hội của Quân đội nhân dân Việt
Nam đã trải qua chiều dài lịch sử hơn nửa thế kỷ, trong đó bản chất chính trị - xã hội của
quân đội ta không phải đã được hình thành một cách ngẫu nhiên, cố định, bất biến, tự
phát, mà đã được tích cực, chủ động xây dựng, phát triển không ngừng một cách tự giác.
Trong quá trình đó, nhiều vấn đề cơ bản đã được giải quyết một cách đúng đắn, sáng tạo
cả về mặt lý luận cũng như trong thực tiễn, phù hợp với qui luật khách quan, điều kiện
khách quan.


Dưới đây là ba vấn đề cơ bản có tính quy luật của quá trình hình thành, phát triển bản
chất chính trị - xã hội của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Thứ nhất: bản chất chính trị - xã hội của Quân đội nhân dân Việt Nam được hình
thành và phát triển trên cơ sở sự tác động tổng hợp của nhiều yếu tố thuộc kiến thức
thượng tầng, trong đó sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là nhân tố cơ bản
hàng đầu, giữ vai trò quyết định.
Nghiên cứu các quy luật về sự tồn tại và phát triển của quân đội, các nhà triết học - xã
hội học quân sự Xô viết thuộc Liên Xô cũ cho rằng sựt ồn tại và phát triển của quân đội
chịu sự tác động của hai nhóm qui luật.
Nhóm thứ nhất bao gồm các qui luật đặc thù, tác động trong một loại hình lịch sử - giai
cấp nhất định của quân đội. Ví dụ: đối với quân đội tư bản chủ nghĩa, quá trình tăng
cường chức năng cảnh sát là quá trình mang tính qui luật đặc trưng, đặc biệt là ở giai
đoạn đế quốc chủ nghĩa (107); hoặc đối với quân đội xã hội chủ nghĩa, một qui luật phát
triển chủ yếu phản ánh khái quát bản chất lực lượng vũ trang xã hội chủ nghĩa là qui luật
sự lãnh đạo của Đảng cộng sản đối với việc giải quyết tất cả những vấn đề cơ bản về tổ
chức, chỉ huy quân đội, bổ sung quân số, huấn luyện và giáo dục bộ đội (107).
Nhóm thứ hai bao gồm các qui luật chung, tác động xuyên suốt quá trình tồn tại và phát

triển của quân đội. Ví dụ: qui luật về sức mạnh chiến đấu của quân đội phụ thuộc vào
điều kiện kinh tế của xã hội; qui luật về nội dung hoạt động của quân đội do chế độ chính
trị - xã hội, do tính chất giai cấp của nhà nước qui định; qui luật về hoạt động của quân
đội, tinh thần và khả năng chiến đấu của quân đội gắn chặt với sức mạnh tinh thần và hệ
tư tưởng của xã hội (107).
Sự hình thành và phát triển của Quân đội nhân dân Việt Nam cũng chịu sự tác động của
hai nhóm qui luật trên.
Xét từ góc độ cấu trúc của một hình thái kinh tế - xã hội, của quân đội - với tính cách là
công cụ của nhà nước, là bộ phận thuộc thiết chế của kiến trúc thượng tầng - chịu sự chi
phối của cơ sở hạ tầng và sự tác động trực tiếp của các yếu tố khác thuộc kiến trúc
thượng tầng. Toàn bộ quan điểm chính trị, pháp quyền, đạo đức, văn hoá - nghệ thuật, tôn
giáo... với những tổ chức, thể chế tương ứng như nhà nước, đảng phái, các tổ chức chính


trị - xã hội... có tác động rất quan trọng đến sự hình thành và phát triển bản chất chính trị
- xã hội của quân đội.
Khi chưa giành được chính quyền, bản chất chính trị - xã hội của các tổ chức vũ trang
tiền thân của quân đội ta đã được hình thành trên cơ sở mối liên hệ chặt chẽ giữa các tổ
chức vũ trang này với Đảng cộng sản, với những người dân yêu nước, yêu độc lập tự do
của dân tộc. Đảng cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, mầm
mống đầu tiên trong thiết chế chính trị sơ khai của một xã hội mới, đã trực tiếp xây dựng
và tổ chức ra những đội quân vũ trang này.
Khi giành được chính quyền, bản chất chính trị - xã hội của quân đội ta tiếp tục được
hình thành và phát triển trên cơ sở sự tác động tổng hợp của nhiều yếu tố thuộc kiến trúc
thượng tầng, trong đó, đặc biệt là sự tác động của các tổ chức, thiết chế quan trọng trong
hệ thống chính trị như Đảng cộng sản, Nhà nước và các tổ chức chính trị của xã hội.
Sự phân tích dưới đây tập trung nêu bật vị trí lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam
như là nhân tố cơ bản hàng đầu, giữ vai trò quyết định đối với quá trình hình thành phát
triển bản chất chính trị - xã hội của quân đội ta. Vị trí, vai trò này được qui định bởi
những yêu cầu khách quan của lịch sử.

Trong giai đoạn đấu tranh giành chính quyền (1930-1931), yêu cầu khách quan cấp
thiết đặt ra ngay từ đầu lực lượng vũ trang cách mạng phải được đặt dưới sự lãnh đạo trực
tiếp của Đảng cộng sản, trở thành mầm mống vững chắc của một quân đội kiểu mới, một
quân đội có tính cách mạng của giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc - những
đặc trưng chính trị - xã hội cơ bản bảo đảm cho nó có đủ sức mạnh thực hiện mọi nhiệm
vụ chính trị của Đảng.
Trong giai đoạn kháng chién chống thực dân Pháp, với một quân đội non trẻ mới được
thành lập, phải đương đầu với đội quân viễn chinh nhà nghề của thực dân Pháp, tình hình
và nhiệm vụ chính trị, quân sự của giai đoạn này đòi hỏi tiếp tục giữ vững và tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng cộng sản đối với quân đội.
Thành phần xã hội - giai cấp của quân đội lúc này tuyệt đại bộ phận là nông dân. Trong
quá trình phát triển, cùng với nhu cầu về số lượng (từ các trung đoàn phát triển thành các
đại đoàn chủ lực tập trung, đồng thời phát triển mạnh mẽ bộ đội địa phương bên cạnh
mạng lưới dân quân du kích) đã xuất hiện nhu cầu cấp bách về nâng cao chất lượng, đặc


biệt là chất lượng chính trị. Việc xây dựng một quân đội cách mạng kiểu mới của giai
cấp công nhân trong giai đoạn lịch sử này đỏi hỏi phải tiến hành một cuộc đấu tranh trong
nội bộ quân đội nhằm chống lại những ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng, tâm lý, lối sống,
tác phong của giai cấp nông dân và tầng lớp tiểu tư sản chịu ảnh hưởng của ý thức hệ
phong kiến. Ở từng nơi, từng lúc đã xuất hiện nhu cầu đấu tranh chống bệnh gia trưởng,
bè phái, bảo thủ, thái độ dao động hoặc nôn nóng, tệ quân phiệt hoặc thậm chí cả khuynh
hướng “thổ phỉ hoá” ở một số đơn vị hoạt động phân tán lâu dài ở miền núi.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi đã mở đường cho cách mạng Việt
Nam bước vào một giai đoạn mới. Trong bối cảnh lịch sử đặc biệt của cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước, về hình thức tổ chức của lực lượng cách mạng Việt Nam lúc này, ở
hai miền Nam- Bắc có hai đảng, hai chính phủ, hai quân đội, nhưng thực chất là “một
Đảng lãnh đạo thống nhất, một dân tộc, một quân đội tiến hành đồng thời hai chiến lược
cách mạng khác nhau nhằm mục tiêu chung là độc lập và thống nhất tổ quốc, đưa cả nước
tiến lên chủ nghĩa xã hội” (21). Đòi hỏi cấp thiết lúc này là tiếp tục giữ vững sự lãnh đạo

thống nhất của Đảng đối với quân đội trên cả hai miền Nam- Bắc, bảo đảm cho quân đội
ta có đủ sức mạnh đánh thắng tên đế quốc hung hãn nhất của thời đại.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã tạo ra một bước ngoặt mới
trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Yêu cầu khách quan lúc này là thực hiện đồng thời cả
hai nhiệm vụ chiến lược: vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước, v ừa bảo
vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV đến lần thứ V đã
cho thấy: có nhiều vấn đề mới mẻ, khó khăn, phức tạp trong việc thực hiện hai nhiệm vụ
chiến lược to lớn nói trên. Đối với quân đội, cùng với yêu cầu tiếp tục giữ vững sự lãnh
đạo của Đảng còn xuất hiện cả nhu cầu đổi mới cơ chế lãnh đạo của Đảng cho phù hợp
với những điều kiện lịch sử mới.
Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, yêu cầu khách quan đặt ra lúc này là tiếp tục
thực hiện đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trước mắt là thoát ra khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội và tạo đà phát triển mạnh mẽ.
Trong bối cảnh quốc tế có những biến động lớn và phức tạp, đặc biệt là sự sụp đổi của
các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô, sự chuyển hướng của chủ nghĩa đế


quốc và các thế lực thù địch sang thực hiện chiến lược “Diễn biến hoà bình”, yêu cầu cấp
thiết đặt ra đối với quân đội ta lúc này là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, sự ổn định chính trị, trật tự và an
toàn xã hội, quyền làm chủ của nhân dân, làm thất bại mọi âm mưu và hành động của các
thế lực đế quốc, phản động phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Đồng thời với
việc làm tốt chức năng đội quân chiến đấu, quân đội ta còn phải đáp ứng yêu cầu là đội
quân công tác và đội quân lao động sản xuất, góp phần tích cực xây dựng và bảo vệ vững
chắc đất nước.
Chủ thể của quá trình xây dựng bản chất chính trị - xã hội của quân đội ta là toàn
bộ hệ thống chính trị của xã hội xã hội chủ nghĩa đang được xây dựng, trong đó mỗi
tổ chức, thiết chế có vị trí, vai trò khác nhau nhưng đều có mối liên hệ mật thiết với
nhau. Tác động của các tổ chức, thiết chế này đến quân đội là sự tác động theo chức

năng, vị trí, vai trò của từng bộ phận trong hệ thống chính trị, đồng thời cũng là sự tác
động tổng hợp của cả hệ thống đến mọi quân nhân, mọi tổ chức trong quân đội (khái
niệm quân nhân trong luận án là khái niệm qui ước, chỉ mọi đối tượng đang hoạt động
trong quân đội, từ đội ngũ đảng viên, đoàn viên đến quần chúng, từ cán bộ đến chiến sĩ,
từ cán bộ chính trị đến cán bộ quân sự, cán bộ hậu cần, cán bộ chuyên môn kỹ thuật nghiệp vụ và công nhân viên quốc phòng).
Trước những yêu cầu khách quan đặt ra trên đây, chủ thể của quá trình xây dựng bản
chất chính trị - xã hội của quân đội ta đã có nhiều nỗ lực chủ quan mang tính tích cực,
chủ động, tự giác nhằm đáp ứng những yêu cầu khách quan đặt ra.
Xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể của cách mạng Việt Nam và dựa trên nền tảng tư
tưởng của chủ nghĩa Mác- Lê-nin, từ rất sớm Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã nhận
thức được những yêu cầu khách quan trên đây, đồng thời trực tiếp chỉ đạo, tổ chức thực
hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội.
Từ khi mới ra đời, trong Cương lĩnh cách mạng của mình, Đảng ta đã khẳng định con
đường sử dụng bạo lực cách mạng - bạo lực chính trị và bạo lực vũ trang - trong đó chỉ rõ
biện pháp đấu tranh vũ trang để giành chính quyền và phương thức tổ chức lực lượng để
thực hiện nhiệm vụ này.


Trong “Chánh cương vắn tắt của Đảng” tháng 3-1930, Đảng ta đã chỉ rõ: “Tổ chức ra
quân đội công nông”(70).
Trong Đại hội lần thứ I của Đảng tại Macao (Trung Quốc) tháng 3-1945, Đảng đưa ra
“Nghị quyết về đội tự vệ” - văn kiện có giá trị như một cương lĩnh quân sự đầu tiên của
Đảng, trong đó khẳng định “Công nông cách mạng tự vệ đội là dưới quyền chỉ huy thống
nhất của Trung ương, Quân ủy của Đảng cộng sản”(105).
Trong cuốn “Cách đánh du kích” viết năm 1941, lãnh tụ Hồ Chí Minh viết: “Về mặt
chính trị cấp nào cũng có một người chính trị phái viên do đoàn thể cách mạng chọn
trong bộ đội ấy hoặc phái người ngoài đến làm”(8).
Chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, trong nghị quyết Hội nghị toàn
quốc Đảng cộng sản Đông dương đã có chủ trương: “Phải tổ chức Đảng trong Quân giải
phóng Việt Nam (trung đội làm đơn vị tổ chức)”(70).

Sau cách mạng tháng 8-1945, trong tình thế hiểm nghèo của cách mạng ở giai đoạn lịch
sử đặc biệt 1945-1946, về hình thức, Đảng ta tuyên bố “tự giải tán”, nhưng thực chất
vẫn duy trì hoạt động lãnh đạo của Đảng trong quân đội (105). Đội ngũ đảng viên và
hệ thống các chi bộ vẫn là lực lượng lãnh đạo, là hạt nhân của quá trình hình thành,
phát triển bản chất chính trị - xã hội của quân đội.
Trong tác phẩm quan trọng “Kháng chiến nhất định thắng lợi” viết năm 1947, đồng chí
Trường Chinh đã khái quát mục tiêu chiến đấu và tính chất của quân đội ta như sau:
“Quân đội của ta là quân đội cách mạng của nhân dân, vì nhân dân mà chiến đấu.
Mục tiêu chiến đấu của quân đội ta gắn liền với nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam qua
từng giai đoạn. Cuộc cách mạng của ta hiện nay là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Cho nên mục tiêu chiến đấu trước mắt của quân đội ta là độc lập dân tộc và dân chủ
mới... tính chất của quân đội ta là dân tộc, dân chủ và nhân dân”(71).
Trong tác phẩm này, đồng chí Trường Chinh cũng khái quát những nhân tố chủ yếu
bảo đảm cho việc xây dựng một quân đội cách mạng kiểu mới thực hiện được mục tiêu
và tính chất trên đây:
“Quân đội ta là của nhân dân, chủ yếu là của công nông do giai cấp công nhân lãnh
đạo. Thành phần trong quân đội có thể là công nhân, nông dân và trí thức cách mạng,


nhưng chủ yếu là công nhân, nông dân, mà tuyệt đại đa số là nông dân. Nói chung, những
cán bộ trong quân đội phải thuộc các thành phần cơ bản và phải theo chủ nghĩa Mác- Lênin.
Công tác chính trị trong quân đội có tính chất quyết định đối với xây dựng lực lượng
cũng như đối với tác chiến. Công tác đó cốt làm cho quân đội có tinh thần yêu nước
nồng nàn và tinh thần quốc tế vô sản chân chính, có tinh thần xung phong chiến đấu và
dũng cảm hy sinh vì quyền lợi tối cao của dân tộc, có ý thức phục vụ Tổ quốc, phục vụ
nhân dân vô điều kiện, có kỷ luật tự giác, luôn luôn tăng cường sự đoàn kết nội bộ, đoàn
kết với nhân dân và biết tuyên truyền để làm tan rã tinh thần quân địch.
Phải luôn luôn củng cố lập trường tư tưởng và bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho cán
bộ v à binh sĩ, đồng thời xây dựng tư tưởng chiến lược, chiến thuật đúng đắn cho quân
đội ta. Muốn thế, phải rất coi trọng công tác giáo dục cho quân đội về chủ nghĩa MácLê-nin và đường lối, chính sách của Đoàn thể lãnh đạo và của Chính phủ”(71).

Trong năm biện pháp nhằm tăng cường chuyên chính dân chủ nhân dân do đồng chí
Trường Chinh trình bày tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II (tháng 2-1952), biện pháp
số một được xác định là “Củng cố vai trò lãnh đạo cách mạng của giai cấp công nhân, tức
là của Đảng”(71), trong đó trọng tâm là “củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng ta trong
chính quyền, mặt trận và quân đội”(71).
Những vấn đề trên đây là nội dung cơ bản có ý nghĩa chỉ đạo việc xây dựng quân đội ta
trong các giai đoạn lịch sử của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Sau chiến tranh chống Mỹ, đất nước ta bước vào một giai đoạn lịch sử mới, giai đoạn
thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa.
Trong bối cảnh lịch sử có nhiều khó khăn, phức tạp của giai đoạn 1975-1985, nhờ tiếp
tục giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, quân đội ta đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ
vững chắc nền độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, đồng thời góp phần tích
cực vào công cuộc khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng đất nước.
Từ cuối những năm tám mươi đến đầu những năm chín mươi, trong bối cảnh quốc tế có
nhiều biến động phức tạp, chủ nghĩa xã hội ở nhiều nước Đông Âu và Liên Xô sụp đổi,


Đảng ta vẫn tiếp tục khẳng định trong điều lệ của mình: Đảng lãnh đạo Quân đội nhân
dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt.
Nhìn chung, những nỗ lực chủ quan nhằm tổ chức, thực hiện sự lãnh đạo của
Đảng đối với quân đội là liên tục, bền bỉ, mang tính tích cực, chủ động và tự giác. Sự
lãnh đạo của Đảng đối với quân đội đã được thực hiện một cách nhất quán, xuyên
suốt lịch sử hình thành và phát triển của quân đội ta. Những nỗ lực chủ quan đó đã
đáp ứng được những yêu cầu khách quan, làm cho sự lãnh đạo của Đảng trở thành
nhânt ố cơ bản hàng đầu, giữ vai trò quyết định đối với quá trình hình thành và phát
triển bản chất chính trị - xã hội của quân đội nhân dân Việt Nam.
Đảng cộng sản Việt Nam đã tổ chức, xây dựng và lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt
Nam từ khi chưa giành được chính quyền, từ khi chưa có Nhà nước dân chủ nhân dân.
Đảng đã xây dựng quân đội cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, làm cho quân đội vừa là

một lực lượng chính trị, vừa là một lực lượng quân sự của Đảng ngay từ khi chưa giành
được chính quyền nhà nước.
Thực tế lịch sử đó đã qui định bản chất giai cấp của quân đội ta và bản chất giai cấp của
Đảng ta là thống nhất, mặc dù hình thức biểu hiện bản chất đó trong một tổ chức chính trị
tiền phong của giai cấp công nhân không đồng nhất với hình thức biểu hiện trong một tổ
chức quân sự.
Cùng với sự ra đời của Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, mối liên
hệ giữa quân đội ta với Nhà nước kiểu mới đã được thiết lập ngay sau cuộc cách mạng
tháng 8-1945.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng - hạt nhân trong hệ thống chính trị của xã hội mới, Nhà
nước dân chủ nhân dân ngay từ khi ra đời đã thực hiện nhiệm vụ quản lý nhiều lĩnh vực
của đời sống xã hội, trong đó đặc biệt chú đến việc tổ chức, xây dựng quân đội trở thành
công cụ đắc lực trong việc bảo vệ những thành quả của cách mạng.
Sắc lệnh số 71 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 22-5-1946 đã chính thức đưa Vệ
quốc quân trở thành quân đội của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Bản sắc lệnh này cũng đưa ra những qui định rất quan trọng về biên chế tổ chức của
quân đội quốc gia. Về biên chế, sắc lệnh qui định quân đội quốc gia của nước Việt Nam


dân chủ cộng hoà được biên chế thành trung đoàn, tiểu đoàn và đại đội. Về tổ chức, sắc
lệnh qui định “Tổ chức hệ thống chính trị viên trong quân đội”. Sắc lệnh ghi rõ: “Từ cấp
trung đội trở lên, bên cạnh người chỉ huy quân sự, có chính trị viên - cấp chiến khu có
chính trị viên”(99).
Cùng với Đảng và dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước dân chủ nhân dân - thành tố
cơ bản trong hệ thống chính trị của xã hội mới, đã từng bước thực hiện vai trò, chức năng
quản lý, điều hành xã hội của mình, trong đó có tổ chức, xây dựng, quản lý và điều hành
quân đội.
Từ khi có Nhà nước, quân đội ta đã được chính quyền các cấp từ trung ương đến địa
phương chăm lo xây dựng, phát triển nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng, đáp ứng
được yêu cầu trở thành lực lượng quân sự mạnh của Nhà nước, thực hiện thắng lợi mọi

nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.
Cùng với Đảng và dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà, và sau này là Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, với tư cách là một
thiết chế quan trọng nhất trong kiến trúc thượng tầng của xã hội, đã có nhiều nỗi lực
chủ quan to lớn, giữ vai trò rất quan trọng đối với quá trình hình thành và phát triển
bản chất chính trị - xã hội của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta đã tổ chức, xây dựng Quân đội nhân dân
Việt Nam trở thành một quân đội cách mạng kiểu mới, có bản chất giai cấp thống
nhất với bản chất giai cấp của Đảng và bản chất giai cấp của Nhà nước.
Tuy nhiên, do điều kiện chiến tranh liên tục, kéo dài suốt nhiều thập kỷ, vai trò và chức
năng của một nhà nước theo đúng nghĩa của nó đã chưa được thực hiện một cách thật đầy
đủ và toàn diện, trong đó đặc biệt là việc thực hiện quản lý Nhà nước đối với quân đội.
Suốt nhiều thập kỷ chiến tranh, Đảng vừa lãnh đạo, vừa trực tiếp tham gia quản lý và
chỉ huy quân đội. Trong những điều kiện lịch sử của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh
dân tộc gay go, quyết liệt, tình hình nhiều lúc đòi hỏi Đảng phải trực tiếp huy động các tổ
chức Đảng và quần chúng giải quyết kịp thời những nhiệm vụ cấp bách. Điều kiện lịch sử
lúc đó chưa cho phép phân định rõ ràng, rành mạch sự khác biệt giữa chức năng lãnh đạo
của Đảng với hoạt động quản lý của Nhà nước, hoạt động chỉ huy của Bộ tổng tư lệnh.


Điều đó, một mặt bảo đảm cho quân đội thực hiện được kịp thời những nhiệm vụ quân
sự cấp bách của Đảng và Nhà nước, nhưng mặt khác, việc kéo dài tình trạng này đã có
ảnh hưởng không tốt đến việc thực hiện nhiệm vụ theo đúng chức năng của từng tổ chức,
từng thiết chế trong kiến trúc thượng tầng. Đối với quá trình hình thành và phát triển bản
chất chính trị - xã hội của quân đội ta, điều đó cũng có nghĩa là sức mạnh của Đảng - hạt
nhân của hệ thống chính trị, và sức mạnh của Nhà nước - thành tố cơ bản nhất thể hiện
tập trung quyền lực của Nhà nước, đã chưa phát huy được đầy đủ tác dụng to lớn đối với
việc xây dựng bản chất chính trị - xã hội của quân đội ta.
Cùng với Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị như
tổ chức Mặt trận, tổ chức Công đoàn, tổ chức Hội liên hiệp phụ nữ, tổ chức Đoàn

thanh niên v.v... đã góp phần tích cực vào việc xây dựng bản chất chính trị - xã hội của
quân đội ta.
Trong chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, các tổ chức chính
trị - xã hội này tuỳ theo vị trí, vai trò, chức năng và phương thức tổ chức, hoạt động ở
trong và ngoài quân đội, đã luôn luôn phối hợp giúp đỡ hoặc trực tiếp tham gia vào quá
trình xây dựng tính cách mạng của giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc của
mọi quân nhân trong quân đội ta. Hoạt động của các tổ chức này ở trong hoặc ngoài quân
đội cũng đều góp phần đưa quân đội hoà nhập vào các hoạt động chính trị - xã hội phong
phú của quốc gia - dân tộc.
Trong sự tác động tổng hợp của nhiều yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng, vị trí, vai trò
của các yếu tố đối với quá trình hình thành và phát triển bản chất chính trị - xã hội của
quân đội ta không ngang bằng nhau, nhưng có mối liên hệ mật thiết với nhau.
Việc phát huy sức mạnh tổng hợp của tất cả các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng,
trong đó phát huy đầy đủ sức mạnh, vị trí, vai trò của từng yếu tố theo đúng chức năng
của chúng là yêu cầu cấp bách đặt ra trong xây dựng bản chất chính trị - xã hội của quân
đội ta hiện nay.
Thứ hai: bản chất chính trị - xã hội của Quân đội nhân dân Việt Nam được hình
thành và phát triển trên cơ sở giải quyết đúng đắn các mối quan hệ cơ bản trong nội
bộ quân đội.


Quân đội là một thiết chế đặc biệt của nhà nước, đồng thời là một tổ chức đặc biệt của
xã hội. Tính chất đặc biệt của thiết chế - tổ chức này thể hiện ở chỗ nó bao gồm những tổ
chức và con người được vũ trang, hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ của tổ chức quân
sự, chức trách quân nhân, với phương thức hoạt động chủ yếu là đấu tranh vũ trang, nhằm
thực hiện những lợi ích của giai cấp và nhà nước đã xây dựng và tổ chức ra nó.
Về mặt cấu trúc, tổ chức quân đội có thể xem như một hình ảnh thu nhỏ của nhà nước,
đồng thời cũng là một mô hình thu nhỏ của các quan hệ chính trị - xã hội.
Trong nội bộ quân đội có nhiều mối quan hệ chính trị - xã hội phong phú, đa dạng và
phức tạp. Từ góc độ lý luận - phương pháp luận triết học, có thể xem xét ba mối quan hệ

cơ bản sau đây: một là mối quan hệ giữa con người với tổ chức; hai là mối quan hệ giữa
con người với con người; ba là mối quan hệ giữa con người và vũ khí.
Bản chất chính trị - xã hội của quân đội ta đã dược hình thành và phát triển trên cơ sở
giải quyết đúng đắn ba mối quan hệ cơ bản đó.
- Giải quyêtý đúng đắn mối quan hệ giữa con người và tổ chức:
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, con người là
chủ thể, là trung tâm của tiến trình lịch sử. Con người tác động vào thế giới khách quan
với tư cách là chủ thể sáng tạo, nhằm cải biến nó theo mục đích và lợi ích của mình. Thế
giới khách quan được cải biến không phải là kết quả sự tác động của một con người, cũng
không phải là kết quả sự tác động của những con người độc lập, cô lập với nhau, mà là
kết quả sự tác động của những con người được tổ chức.
Con người thiết lập nên các tổ chức, là chủ thể của tổ chức, lấy tổ chức làm phương
thức liên kết các cá nhân, tập hợp sức mạnh của các cá nhân thành sức mạnh của tổ chức.
Sức mạnh của tổ chức không phải là đại lượng tổng số sức mạnh của các cá nhân riêng
biệt cộng laị, mà là sức mạnh tổng hợp to lớn hơn, mạnh mẽ hơn nhiều lần. Sức mạnh của
mỗi con người chỉ phát huy được hiệu quả tối đa khi nó nằm trong một hệt hống tổ chức
nhất định.
Đối với mộtt ổ chức của những người cách mạng, sức mạnh của nó càng vô cùng to
lớn. Trong tác phẩm “Làm gì ?” viết năm 1902, V.I Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh rằng
vấn đề cấp bách nhất của phong trào cách mạng Nga lúc đó là “thành lập chu đáo một tổ


chức mạnh mẽ của những người cách mạng”, “trước hết phải nghĩ đến việc tổ chức
những người cách mạng có khả năng lãnh đạo toàn bộ cuộc đấu tranh giải phóng của giai
cấp vô sản”(3) thì mới có thể thúc đẩy cuộc đấu tranh chống chế độ chuyên chế đến thắng
lợi.
Đánh giá vị trí, vai trò và sức mạnh của tổ chức, nghị quyết của Ban trung ương Đảng
cộng sản Đông dương tháng 11-1939 viết: “Một đội quân có thao luyện, có tổ chức, có
chỉ huy thống nhất thì sức mạnh gấp trăm ngàn một đám người ô hợp dù đám người này
trăm ngàn lần đông hơn. Tổ chức là cái khí giới sắc bén duy nhất của những người bị áp

bức bóc lột chống bọn áp bức bóc lột”(70).
Mối quan hệ giữa con người và tổ chức, xét trong phạm vi một tổ chức nhất định, vừa
có sự thống nhất, vừa có mâu thuẫn. Sự thống nhất giữa con người và tổ chức dựa trên cơ
sở sự thống nhất về lợi ích: lợi ích chung của tổ chức gắn bó với lợi ích của mỗi cá nhân,
là chất keo liên kết các cá nhân thành tổ chức; lợi ích riêng của mỗi cá nhân chỉ được giải
quyết khi lợi ích chung của tổ chức được thực hiện. Mâu thuẫn giữa con người và tổ chức
xuất phát từ tính đa dạng của mỗi cá nhân - cá thể với đòi hỏi về tính thống nhất của tổ
chức, trong đó sâu xa là từ mâu thuẫn giữa lợi ích đa dạngcủa cá nhân với lợi ích chung
của tập thể.
Trong Quân đội nhân dân Việt Nam, mối quan hệ giữa con người và tổ chức đã được
giải quyết một cách đúng đắn, tạo cơ sở cho sự hình thành và phát triển bản chất chính trị
- xã hội của quân đội ta.
Con người trong quân đội ta bao gồm toàn bộ những công dân - quân nhân đã và đang
hoạt động, công tác trong tổ chức quân sự của Nhà nước cộng hoá xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
Tổ chức trong quân đội ta bao gồm toàn bộ hệ thống các tổ chức chính trị, quân sự, hậu
cần, chuyên môn kỹ thuật nghiệp vụ, các tổ chức quần chúng, v.v.. ở các cấp, các ngành,
các lĩnh vực hoạt động trong quân đội.
Việc xây dựng con người và xây dựng tổ chức trong quân đội ta được đặc biệt coi
trọng về mặt chất lượng, lấy xây dựng chất lượng của nhân tố con người làm cơ sở để
xây dựng chất lượng của tổ chức quân sự.


×