Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ xây DỰNG bản CHẤT CHÍNH TRỊ xã hội của QUÂN đội NHÂN dân VIỆT NAM TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (455.55 KB, 109 trang )

MỤC LỤC
Mở đầu
Chương I
I.1
I.2
Chương II
II.1
II.2

Bản chất chính trị - xã hội của Quân đội nhân dân
Việt Nam - một số vấn đề có tính qui luật của quá
trình hình thành, phát triển.
Bản chất chính trị - xã hội của Quân đội nhân
dân Việt Nam.
Một số vấn đề có tính qui luật của quá trình
hình thành, phát triển bản chất chính trị - xã hội
của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Những yêu cầu và giải pháp cơ bản của việc
xây dựng bản chất chính trị - xã hội của
Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
Thực trạng và những yêu cầu của việc xây dựng
bản chất chính trị - xã hội của Quân đội
nhân dân Việt Nam hiện nay.
Những giải pháp cơ bản của việc xây dựng
bản chất chính trị - xã hội của Quân đội
nhân dân Việt Nam hiện nay.

Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo.
Phụ lục



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Từ khi ra đời đến nay, trải qua hơn nửa thế kỷ đấu tranh cách mạng, ở bất kỳ
giai đoạn lịch sử nào, việc xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về
chính trị luôn luôn là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu.
Hiện nay, cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc đang diễn ra dưới
những sắc thái mới mà tính chất của chúng không kém phần gay go, quyết liệt so
với giai đoạn lịch sử trước đây. Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước những năm
gần đây đã thu được những thành tựu bước đầu rất quan trọng, song cuộc cách
mạng ở nước ta cũng đang đứng trước cả thời cơ mới cùng với những thách thức,
nguy cơ mới. Việc xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam thực sự là công cụ của
đắc lực của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đang đặt ra những yêu cầu
mới.
Đặc biệt, bối cảnh quốc tế những năm gần đây đã xuất hiện những diễn biến
phức tạp. Sự sụp đổ của Liên Xô và hàng loạt nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã
dẫn đến sự thay đổi tương quan so sánh lực lượng những năm tháng trước mắt theo
hướng có lợi cho chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động thù địch. Với chiến
lược “Diễn biến hoà bình”, chủ nghĩa đế quốc âm mưu chớp thời cơ xoá bỏ hoàn
toàn chủ nghĩa xã hội trước khi bước sang thế kỷ XXI. Mộtt rong những mục tiêu
cơ bản ban đầu của chúng đối với đất nước ta là tách quân đội khỏi sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản, thực hiện “giải giáp quân đội về mặt chính trị” bằng cách xúc tiến
“phi đảng hoá quân đội”, “phi chính trị hoá quân đội”, “quân đội chỉ phục tùng nhà
nước”... Trên lĩnh vực chính trị - tư tưởng, chúng đang tìm cách tạo ra sự mơ hồ về


nhận thức bản chất của quân đội, từ đó mưu toan tách quân đội khỏi sự lãnh đạo
của Đảng, làm cho quân đội thoái hoá từ bên trong.
Tình hình trên đây đòi hỏi việc giải quyết những vấn đề mới mẻ và cấp bách

trong nhiệm vụ xây dựng quân đội về chính trị cần dựa trên một cơ sở khoa học
vững chắc.
Nghiên cứu dưới góc độ triết học vấn đề xây dựng bản chất chính trị - xã
hội của Quân đội nhân dân Việt Nam trong tình hình hiện nay nhằm cung cấp
những luận chứng khoa học cho việc xây dựng quân đội ta vững mạnh về chính trị
là vấn đề cấp bách, có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Nghiên cứu vấn đề xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam về chính trị là một
trong những hướng nghiên cứu cơ bản của nhiều nhà khoa học trong và ngoài quân
đội. Nhiều văn kiện của Đảng, Nhà nước, quân đội, nhiều bài báo, tạp chí và cả
một số luận án khoa học đã đề cập tới vấn đề này ở những góc độ khác nhau, với
những mức độ khác nhau (xem 19, 23, 24, 26, 27, 35, 37, 44, 47, 50, 52, 60, 65, 68,
75, 77, 81,82, 84, 87, 88, 90, 92, 96, 100, 101, 103, v.v..). Xây dựng quân đội về
chính trị là một đề tài khoa học cấp Nhà nước đã được triển khai và thu được nhiều
kết quả có giá trị v ề lý luận và thực tiễn.
Tuy nhiên, các công trình trên đây chưa tập trung đi sâu nghiên cứu bản chất
chính chính trị - xã hội của Quân đội nhân dân Việt Nam dưới góc độ lý luậnphương pháp luận của triết học.
Trong quá trình nghiên cứu, thực hiện đề tài, người viết luận án đã chọn lọc,
kế thừa và phát triển các luận điểm có giá trị về mặt khoa học của các tác giả trong
và ngoài quân đội v ề những vấn đề có liên quan, đồng thời cố gắng phát huy tính
độc lập trong tư duy, trong phương pháp nghiên cứu và trong cách thể hiện những
nội dung cơ bản của đề tài.


Các tài liệu nước ngoài, chủ yếu của các tác giả Xô viết thuộc Liên Xô trước
đây, không trực tiếp đề cập đến đề tài. Tuy nhiên, người viết luận án cũng cố gắng
tham khảo, nghiên cứu các tài liệu này về những vấn đề có liên quan (xem 55, 91,
110, 112, 115, v.v..)
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận án
Mục đích của luận án là thông qua việc nghiên cứu dưới góc độ triết học quá

trình hình thành và phát triển bản chất chính chính trị - xã hội của Quân đội nhân
dân Việt Nam để phát hiện, khái quát những vấn đề có tính qui luật của quá trình
này, góp phần cung cấp những luận chứng khoa học cho việc xây dựng quân đội ta
vững mạnh về chính trị, đáp ứng những yêu cầu khách quan của tình hình và nhiệm
vụ hiện nay.
Để đạt mục đích trên, nhiệm vụ của luận án bao gồm những vấn đề chủ yếu
sau đây:
1) Làm rõ các khái niệm “bản chất của quân đội”, “bản chất giai cấp của quân
đội”, “bản chất chính chính trị - xã hội của Quân đội nhân dân Việt Nam
2) Khái quát và phân tích những vấn đề có tính qui luật của quá trình hình
thành và phát triển bản chất chính chính trị - xã hội của Quân đội nhân dân Việt
Nam.
3) Tìm hiểu thực trạng, xác định yêu cầu, đề xuấtc ác giải pháp cơ bản của
việc xây dựng bản chất chính chính trị - xã hội của Quân đội nhân dân Việt Nam
trong tình hình hiện nay.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án là bản chất chính chính trị xã hội của Quân đội nhân dân Việt Nam được thể hiện trong những con người và tổ
chức quân sự. Con người ở đây là tất cả những người đã và đang hoạt động trong
quân đội- khái niệm quân nhân nói chung. Tổ chức quân sự ở đây là tất cả các cơ
quan, đơn vị ở các cấp, các ngành, các quân - binh chủng trong quân đội - khái
niệm tổ chức quân sự nói chung.


4. Những đóng góp về khoa học của luận án
- Bước đầu tiếp cận nội hàm khái niệm “bản chất chính trị - xã hội của Quân
đội”, từ đó làm rõ nội dung và những yếu tố cấu thành bản chất chính trị - xã hội
của Quân đội nhân dân Việt Nam.
- Bước đầu khái quát và phân tích ba vấn đề cơ bản có tính quy luật của quá
trình hình thành và phát triển bản chất chính trị - xã hội của Quân đội nhân dân
Việt Nam, căn cứ vào thực trạng và yêu cầu để đề xuất hệ thống giải pháp nhằm
xây dựng và phát triển bản chất chính trị - xã hội của quân đội ta lên một bước mới

về chất.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu.
Cơ sở lý luận của luận án là hệ thống các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa
Mác- Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam
về quân đội nhân dân Việt Nam nói chung, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam
nói riêng, đặc biệt là xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam về chính trị.
Cơ sở thực tiễn của luận án là thực tiễn lịch sử hình thành, phát triển bản
chính chính trị - xã hội của Quân đội nhân dân Việt Nam từ khi ra đời đến nay; các
tài liệu, báo cáo tổng kết, các đề tài khoa học cấp Nhà nước và cấp Bộ Quốc phòng,
các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài nước về các vấn đề
có liên quan; các kết quả điều tra xã hội học từ các đơn vị mẫu trong toàn quân và
kết quả khảo sát, điều tra, nghiên cứu, thực tế của cá nhân tác giả.
Đề tài luận án được nghiên cứu dưới góc độ triết học, trong đó người viết đã
vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử để giải quyết các vấn đề đặt ra trong nội dung luận án. Các phương pháp
nghiên cứu được sử dụng tổng hợp: lô gích - lịch sử, phân tích, tổng hợp, hệ thống
- cấu trúc, điều tra xã hội học, thống kê so sánh v.v.. trong đó, phương pháp lô gích
- lịch sử và hệ thống- cấu trúc được đặc biệt chú trọng.
6. Ý nghĩa thực tiễn của luận án


- Góp phần luận chứng khoa học cho việc Quân đội nhân dân Việt Nam về
chính trị và đề xuất hệ thống giải pháp cơ bản, toàn diện, có thể thực hiện được
trong xây dựng bản chính chính trị - xã hội của Quân đội nhân dân Việt Nam hiện
nay.
Luận án có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy các bộ
môn khoa học như: học thuyết Mác-Lênin về chiến tranh và quân đội, công tác
đảng - công tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam... trong hệ thống nhà
trường quân đội.
7. Kết cấu của luận án

Luận án gồm có: Phần mở đầu, hai chương, bốn tiết, phần kết luận, danh mục
tài liệu tham khảo và phần phụ lục.
CHƯƠNG I
BẢN CHẤT CHÍNH CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN
VIỆT NAM - MỘT SỐ VẤN ĐỀ CÓ TÍNH QUY LUẬT
CỦA QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN

I.1. bản chất chính chính trị - xã hội của Quân đội nhân dân Việt Nam
Quân đội là một hiện tượng lịch sử. Quân đội ra đời và tồn tại trong một giai
đoạn phát triển nhất định của xã hội loài người: giai đoạn xuất hiện chế độ tư hữu,
sự phân hoá thành các giai cấp khác nhau trong xã hội và nhà nước. Hiện tượng
lịch sử này đã được nhận thức ở nhiều góc độ khác nhau, theo những khuynh
hướng khác nhau.
Từ khi quân đội ra đời, ngay từ thời cổ đại, một số nhà tư tưởng đã biết đến
vai trò cơ bản của nó với tính cách là công cụ bạo lực của nhà nước. Tuy vậy, v ề
nguồn gốc, bản chất của quân đội, và mối liên hệ giữa quân đội với bản chất giai
cấp của nhà nước đã tổ chức và xây dựng nó, mối liên hệ giữa quân đội với chính


trị, một số nhà tư tưởng chưa đề cập tới, còn một số khác đã đề cập tới một cách sai
lệch.
Đến đầu thế kỷ XIX. C.P. Claudơvitx (1780-1831) - nhà lý luận quân sự Phổ
được V.I.Lênin đánh giá là “một trong những cây bút vĩ đại viết về lịch sử chiến
tranh”(4), “Một trong những tác giả sâu sắc nhất về những vấn đề quân sự”(5) đã
tiến hành xa hơn những người đi trước.
Xuất phát từ quan niệm coi quân đội là công cụ bạo lực để tiến hành chiến
tranh, Cladơvitx đã tập trung nghiên cứu bản chất hiện tượng chiến tranh. Ông
đã phát hiện và khái quát được mối quan hệ giữa chính trị với chiến tranh, vai
trò của chính trị đối với chiến tranh. Trong tác phẩm “Bàn về chiến tranh”
Claudơvitx đã khái quát một cách sâu sắc: “Chiến tranh không phải chỉ là một hành

vi chính trị, mà là một công cụ chính trị thực sự, một sự kế tục của những quan hệ
chính trị, một sự thực hiện các quan hệ chính trị bằng những biện pháp khác”(33).
Tuy nhiên, do xuất phát từ lý luận duy tâm về một nhà nước siêu giai cấp,
nhận thức của Claudơvitx đã bị hạn chế trong một quan niệm trừu tượng siêu giai
cấp về phạm trù chính trị. Ông coi chính trị là biểu hiện của “sự hài hoà về lợi ích”
giữa các giai cấp khác nhau trong một quốc gia. Ông đã tách rời một cách siêu hình
chính sách đối ngoại với chính sách đối nội, đồng thời tuyệt đối hoá vai trò của
chiến tranh, coi chiến tranh như một phương tiện vĩnh cửu để giải quyết những
mâu thuẫn giữa các quốc gia, dân tộc. Từ quan niệm về chính trị như vậy,
Claudơvitx đã không nhận thức được đúng đắn mối liên hệ giữa các vấn đề chính
trị, giai cấp đối với hiện tượng chiến tranh và quân đội.
Từ nửa cuối thế kỷ XIX, với việc xây dựng được một hệ thống lý luận phương pháp luận vừa duy vật vừa biện chứng, các nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác đã tiến đến nhận thức sâu sắc hơn, triệt để hơn về nguồn gốc, đặc trưng, cơ
sở kinh tế, cơ sở xã hội- giai cấp của các hiện tượng chiến tranh, chính trị, các


tổ chức, thiết chế thuộc kiến trúc thượng tầng như nhà nước, quân đội cũng
như mối liên hệ giữa chúng.
Trong bài viết cho cuốn “Bachs khoa toàn thư mới của Mỹ” (New America
Cyclopaedia), một cuốn sách tra cứu khoa học do một số nhà xuát bản ở Mỹ tổ
chức biên soạn và xuất bản với sự cộng tác của nhiều nhà bác học nổi tiếng của Mỹ
và Châu Âu, Ph.Ăngghen đã viết: “Quân đội là một tập đoàn có tổ chức gồm
những người được vũ trang, được nhà nước đài thọ để thực hiện chiến tranh tấn
công hoặc phòng ngự”(2).
Định nghĩa này đã chỉ rõ đặc trưng cơ bản của quân đội là “một tập đoàn có
tổ chức gồm những người được vũ trang, được nhà nước đài thọ” để phân biệt với
các tổ chức xã hội khác, nêu lên chức năng chủ yếu của quân đội “để thực hiện
chiến tranh tấn cộng hoặc phòng ngự”, đồng thời chỉ rõ mối liên hệ giữa quân đội
với nhà nước “được nhà nước đài thọ” và được nhà nước sử dụng như một công cụ
để tiến hành chiến tranh.

Trong các tác phẩm của C.Mác, Ph.Ăngghen viết về giai cấp, nhà nước, quân
đội, chính trị và chiến tranh, chúng ta thấyc ác vấn đề này đều có liên quan một
thiết với nhau.
Quân đội và nhà nước, với tính cách là những thiết chế thuộc kiến trúc
thượng tầng của xã hội, bên cạnh sự khác biệt về chức năng, vị trí, vai trò, hình
thức tổ chức, phương thức hoạt động của chúng trong đời sống xã hội, còn có
sự thống nhất về bản chất giai cấp. Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác,
nhà nước bao giờ cũng thuộc về một giai cấp nhất định - giai cấp giữ địa vị thống
trị về kinh tế, chính trị trong xã hội, do đó quân đội, với tính cách là công cụ bạo
lực của nhà nước, luôn luôn mang bản chất của chính giai cấp đã xây dựng và tổ
chức ra nhà nước và quân đội của nó.
Do những điều kiện lịch sử cuối thế kỷ XIX, Mác và Ăngghen chủ yếu chỉ đề
cập tới quân đội thường trực của các giai cấp bóc lột, đặc biệt là quân đội tư sản.


Từ thực tế lịch sử ở nửa cuối thế kỷ XIX, Mác và Ăngghen đã nêu lên sự cần thiết
phải vũ trang cho giai cấp vô sản, tổ chức ra “đội cận vệ vô sản độc lập”(1) của
công nhân “với những cán bộ chỉ huy và bộ tổng tham mưu riêng do chính công
nhân bầu ra”(1) nhằm đập tan sự phản kháng của giai cấp tư sản, giải tán quân đội
thường trực của nhà nước tư sản và thay thế nó bằng tổ chức vũ trang của giai cấp
công nhân.
Kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác trong điều kiện
lịch sử V.I. Lênin đã phân tích một cách sâu sắc mối liên hệ giữa quân đội và
nhà nước, vai trò của chính trị đối với quân đội và chiến tranh, sự thống nhất
bản chất giai cấp của quân đội với bản chất giai cấp của nhà nước đã xây dựng
và tổ chức ra nó cũng như biểu hiện cụ thể của các mối liên hệ này trong thời
đại đế quốc chủ nghĩa.
Xuất phát từ tình hình thực tế của nước Nga và của cuộc cách mạng Nga,
Lênin là người mácxít đầu tiên đã trình bày những nguyên lý cơ bản của việc xây
dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga. Nếu

như ý tưởng về tổ chức “Đội cận vệ vô sản độc lập” do Mác, Ăngghen nêu ra chủ
yếu đề cập tới lực lượng của giai cấp công nhân, thì tổ chức “Hồng quân công
nông” do Lênin đề xướng đã chỉ rõ cơ sở xã hội- giai cấp chủ yếu của quân đội
kiểu mới là liên minh giữa công nhân và nông dân - hai lực lượng cơ bản để xây
dựng Hồng quân công nông của nước Nga xô viết. Lênin cũng là người mácxít đầu
tiên nêu lên tư tưởng xây dựng Hồng quân công nông dựa trên cơ sở vũ trang toàn
dân.
Từ đây cũng đã xuất hiện thêm mối liên hệ giữa quân đội kiểu mới với
Đảng của giai cấp công nhân. Mối liên hệ này nảy sinh từ những yêu cầu cấp
bách của thực tiễn đấu tranh cách mạng của Đảng Bônsêvích Nga. Việc xây dựng
và giữ mối liên hệ này trong mọi giai đoạn của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa
bảo đảm cho việc xây dựng một quân đội mà thành phần xã hội - giai cấp của lực


lượng tham gia không phải thuần nhất từ công nhân nhưng vẫn luôn luôn có được
bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, đồng thời bảo đảm cho sự thống nhất
bản chất gia cấp của Hồng quân với Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế
giới. Mối liên hệ mật thiết giữa quân đội cách mạng với Đảng cộng sản - trong
đó quân đội luôn luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản - đã trở thành
điều kiện tiên quyết, nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong xây dựng quân đội
kiểu mới của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Lịch sử hình thành và phát triển của Quân đội nhân dân Việt Nam cho
thấy từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam đã kế thừa,
vận dụng sáng tạo những nguyên lý, nguyên tắc mácxít - lêninnít về xây dựng
quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam.
Nhận thức đúng đắn vai trò của bạo lực cách mạng trong cuộc đấu tranh
giành độc lập và tự do cho dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã sớm
chuẩn bị mọi mặt cho việc xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động Việt Nam. Ngay từ khi mới ra đời, trong “Chánh cương vắn tắt”
tháng 2-1930 do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo, Đảng ta đã xác định những

nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam trên các phương diện xã hội, chính trị và
kinh tế, trong đó có nhiệm vụ “Tổ chức ra quân đội công nông”(70).
Từ những hình thức sơ khai ban đầu như các đội tự vệ của phong trào 19301931, các đội du kích của phong trào tiền khởi nghĩa, đáp ứng nhu cầu gấp rút đón
thời cơ gành chính quyền, tháng 12-1944 lãnh tụ Hồ Chí Minh đã ra chỉ thị thành
lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, chính thức đánh dấu “mốc khởi
điểm” của Quân đội nhân dân Việt Nam. Những tư tưởng chỉ đạo chiến lược đặt
nền tảng cho toàn bộ sự phát triển của Quân đội nhân dân Việt Nam sau này đã
được thể hiện trong bản chỉ thị lịch sử; “Kháng chiến của toàn dân”, “động viên
toàn dân”, “vũ trang toàn dân”, quân đội vừa là lực lượng chính trị, vừa là lực
lượng quân sự (trong giai đoạn đầu thì “chính trị trọng hơn quân sự”); vừa có “đội


chủ lực”, vừa “duy trì lực lượng vũ trang trong các địa phương”. Lãnh tụ Hồ Chí
Minh còn đưa ra dự báo: “Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân là đội quân
đàn anh, mong cho chóng có những đội đàn em khác. Tuy lúc đầu quy mô của nó
còn nhỏ, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm của giải phóng quân,
nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam chúng ta” (7).
Như vậy, ngay từ khi mới ra đời, Quân đội nhân dân Việt Nam đã được đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, được xây dựng theo nguyên lý “kháng
chiến toàn dân”, có mối liên hệ máu thịt với nhân dân, với dân tộc. Đây là
những tiền đề chính trị rất cơ bản, có vai trò cực kỳ quan trọng đối với quá trình
hình thành và phát triển bản chất chính trị - xã hội của quân đội ta.
Quân đội là một tổ chức đặc biệt của xã hội, một thiết chế nhà nước thuộc
kiến trúc thượng tầng. Tính chất đặc biệt của tổ chức xã hội này đã được
Ph.Ăngghen chỉ rõ trong định nghĩa về quân đội (2).
Bản chất của quân đội - được thể hiện một cách phổ biến ở mọi loại hình
quân đội đã xuất hiện trong lịch sử - là công cụ bạo lực của nhà nước, giaic ấp,
dân tộc, được tổ chức dưới hình thức một tập đoàn người có vũ trang, với
phương thức hoạt động đặc thù là đấu tranh vũ trang, nhằm thực hiện lợi ích
của nhà nước, giai cấp, dân tộc đã xây dựng và tổ chức ra nó.

Nghiên cứu bản chất của quân đội không thể đề cập tới các vấn đề chính trị,
giai cấp, tổ chức vũ trang và đấu tranh vũ trang. Khi xem xét các loại hình quân đội
đã xuất hiện trong lịch sử, Mác- Ăngghen - Lênin đặc biệt chú ý tới sự phụ thuộc
của tổ chức vũ trang và hoạt động đấu tranh vũ trang vào quan hệ chính trị và
giai cấp, hay nói cách khác là sự chi phối của các quan hệ chính trị và giai cấp đến
tổ chức vũ trang và đấu tranh vũ trang.
Chính vì vậy, trong nhiều cuốn sách giáo khoa, giáo trình của học thuyết
Mác-Lênin về chiến tranh và quân đội, cũng như trong nhiều bài viết trên các tạp
chí nghiên cứu khoa học, bản chất của quân đội thường được qui giản về quan


hệ giai cấp, được diễn đạt bằng khái niệm “bản chất giai cấp của quân đội”
(35,103,107, v.v...)
Bản chất quân đội còn được xem xét từ các góc độ khác nhau, theo các phạm
vi khác nhau, và được diễn đạt bằng các khái niệm “bản chất xã hội của quân đội”
(107), “bản chất chính trị- xã hội của quân đội” (35, 55, 107). Mặc dù đều thể hiện
sự qui giản bản chất của quân đội về các quan hệ chính trị và giai cấp, nhưng nội
dung của các thuật ngữ này không hoàn toàn đồng nhất với nhau.
Khái niệm “bản chất giai cấp của quân đội” không đồng nhất với khái niệm
“bản chất của quân đội” đã trình bày ở trên.
Bản chất giai cấp của quân đội là tổng hợp những thuộc tính, đặc trưng cơ
bản trên phương diện chính trị - tư tưởng và tổ chức của giai cấp được biểu
hiện trong tổ chức quân sự do giai cấp đó đã xây dựng nhằm thực hiện lợi ích
của nó.
Như vậy, khái niệm “bản chất giai cấp của quân đội” có phạm vi hẹp hơn
khái niệm “bản chất của quân đội”. Nó đề cập đến khía cạnh giai cấp một cách tập
trung hơn, sâu sắc hơn so với khái niệm “bản chất của quân đội”. Nói cách khác,
bản chất giai cấp của quân đội chính là bản chất của quân đội được qui giản về
quan hệ giai cấp.
Quan hệ giai cấp là một bộ phận của hệ thống chính trị - xã hội, đồng thời là

cốt lõi của quan hệ chính trị - xã hội. Quan hệ chính trị - xã hội bao hàm quan hệ
giai cấp, nhưng không đồng nhất với quan hệ giai cấp. Thuật ngữ “chính trị - xã
hội” ở đây vừa dùng để chỉ khía cạnh chính trị của các quan hệ xã hội cơ bản có
tính độc lập tương đối với quan hệ giai cấp, đó là quan hệ dân tộc và quan hệ
cộng đồng xã hội trong một quốc gia- dân tộc.
Từ góc độ triết học và lôgich học, đồng thời, từ thực tiễn lịch sử hình thành
và phát triển của các kiểu, loại hình quân đội, có thể qui giản bản chất của quân đội
về hai mối quan hệ có liên quan chặt chẽ với nhau, nhưng có phạm vi khác nhau.


Thứ nhất, bản chất của quân đội cần được qui giản về quan hệ giai cấp mối quan hệ cốt lõi, cơ bản nhất. Việc qui giản bản chất của quân đội về quan hệ
giai cấp cho phép nhận thức được đúng đắn và sâu sắc nhất bản chất của bất kỳ
một quân đội nào. Bản chất giai cấp của một quân đội luôn luôn mang tính xác
định. Tính xác định trong bản chất giai cấp của quân đội cho phép khẳng định
Không có “quân đội phi giai cấp” hoặc “quân đội siêu giai cấp”.
Thứ hai, bản chất của quân đội có thể được qui giản về quan hệ chính trị xã hội, mối quan hệ bao hàm quan hệ giai cấp, trong đó quan hệ giai cấp giữ vị
trí, vai trò là mối quan hệ cốt lõi, cơ bản nhất, sâu sắc nhất của quan hệ chính
trị - xã hội. Việc qui giản bản chất quân đội về quan hệ chính trị - xã hội cho phép
nhận thức được đầy đủ hơn, phong phú hơn tương quan giữa quan hệ giai cấp
với các quan hệ chính trị - xã hội khác như quan hệ dân tộc và quan hệ cộng đồng
xã hội - các mối quan hệ cơ bản cấu thành bản chất chính trị - xã hội của quân đội
mà biểu hiện bản chất đó trong hiện thực như là tổng hoà của các quan hệ chính trị
- xã hội. Bản chất chính trị - xã hội của một quân đội cũng luôn luôn mang tính
xác định. Tính xác định này được qui định bởi bản chất giai cấp của quân đội. Tính
xác định trong bản chất chính trị - xã hội của quân đội cho phép khẳng định:
Không có “quân đội phi chính trị” hoặc “quân đội trung lập về chính trị”; cũng
không có quân đội biệt lập với xã hội, quân đội đứng ngoài các mối quan hệ
chính trị - xã hội.
Như vậy, bản chất chính trị - xã hội của một quân đội là tổng hợp những
thuộc tính, đặc trưng cơ bản trên phương diện chính trị- xã hội phản ánh

những mối liên hệ cơ bản giữa quân đội với giai cấp (và nhà nước đại diện cho
giai cấp đó) dân tộc và cộng đồng xã hội đã xây dựng, tổ chức, nuôi dưỡng và sử
dụng quân đội đó nhằm thực hiện lợi ích của giai cấp, dân tộc và cộng đồng xã
hội, trong đó mối liên hệ giữa quân đội với giai cấp đã xây dựng và tổ chức ra
nó là mối liên hệ cốt lõi, cơ bản.


Từ sự phân tích và cách tiếp cận trên đây, đồng thời từ thực tiễn lịch sử hình
thành và phát triển bản chất chính trị - xã hội của quân đội ta, có thể xác định rằng
bản chất chính chính trị - xã hội của Quân đội nhân dân Việt Nam là sự thống
nhất tính cách mạng của giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc
Việt Nam được biểu hiện trong một tổ chức quân sự nhằm thực hiện lợi ích của
giai cấp công nhân, nhân dân và dân tộc Việt Nam.
Cấu trúc bản chất chính chính trị - xã hội của Quân đội nhân dân Việt Nam,
như đã xác định trên đây, bao gồm ba yếu tố cơ bản vừa có tính độc lập tương đối
với nhau, vừa có mối liên hệ chặt chẽ với nhaut rong một thể thống nhất.
Tính cách mạng của giai cấp công nhân là yếu tố giữ vị trí trung tâm, cốt
lõi, cơ bản nhất, có vai trò quyết định trong hệ thống các yếu tố cơ bản cấu thành
bản chất chính chính trị - xã hội của Quân đội nhân dân Việt Nam. Tính cách mạng
của giai cấp công nhân là thuộc tính, đặc trưng cơ bản nhất trên phương diện chính
trị - xã hội phản ánh mối liên hệ giữa quân đội với giai cấp đã xây dựng và tổ chức
ra nó và đội tiên phong của giai cấp là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tính cách mạng là thuộc tính, đặc trưng cơ bản nhất trên phương diện chính
trị - tư tưởng và tổ chức của giai cấp công nhân. Do đó, “tính cách mạng của giai
cấp công nhân” là nội dung chủ yếu của các khái niệm “bản chất giai cấp công
nhân” hoặc “bản chất cách mạng của giai cấp công nhân”- những khái niệm cùng
loại và đồng nghĩa.
Tính cách mạng của giai cấp công nhân cũng là nội dung chủ yếu của khái
niệm “bản chất giai cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam”. Bản chất giai cấp của
quân đội ta chính là tính cách mạng của giai cấp công nhân được biểu hiện trên

phương diện chính trị - tư tưởng và tổ chức của một tổ chức quân sự do giai cấp
công nhân Việt Nam vàđội tiên phong của nó xây dựng, tổ chức, lãnh đạo và sử
dụng nhằm thực hiện lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân và dân tộc Việt
Nam.


Bản chất giai cấp của quân đội ta thống nhất với bản chất giai cấp của Đảng
ta - đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, và thống nhất với bản chất
giai cấp của Nhà nước ta - thành tố quant rọng nhất trong kiến trúc thượng tầng của
xã hội mới. Sự thống nhất này dựa trên nền tảng sự thống nhất về lợi ích của các tổ
chức, thiết chế quan trọng nhất trong kiến trúc thượng tầng với lợi ích của giai cấp
công nhân, nhân dân và dân tộc Việt Nam.
Tuy nhiên, tính đặc thù của tổ chức quân sự qui định nội dung và hình
thức biểu hiện tính cách mạng của giai cấp công nhân trong quân đội ta có
khác với các tổ chức, thiết chế như Đảng, Nhà nước. Trên phương diện chính trị
- tư tưởng, tính cách mạng của giai cấp công nhân thể hiện trong quân đội ta trước
hết là ở sự xác lập vững chắc vị trí, vai trò chủ đạo của hệ tư tưởng Mác-Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh trong quân đội, đặc biệt là tư tưởng quân sự; ở năng lực tiếp
thu và vận dụng sáng tạo tư tưởng đó vào hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực quân
sự của mọi quân nhân; ở lý tưởng cách mạng, trình độ giác ngộ và tinh thần tự giác
chiến đấu, hy sinh vì mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng, vì lợi ích của Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa, của nhân dân và của dân tộc Việt Nam... Trên phương diện
tổ chức, tính cách mạng của giai cấp công nhân thể hiện trong một tổ chức của
những người cách mạng hoạt động trong lĩnh vực quân sự là kết hợp giữa những
đặc tính của lực lượng sản xuất tiên tiến nhất như tính cách mạng triệt để, tính kỷ
luật nghiêm, tính tổ chức chặt chẽ và khoa học, tính tự giác cao, tính chính qui và
chính xác... với nguyên tắc tổ chức và qui luật phát triển của đội tiên phong của
giai cấp công nhân như nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ tự phê bình và phê
bình... phù hợp với những yêu cầu, điều kiện và tính chất của một tổ chức quân sự.
Toàn bộ nội dung và hình thức trên đây đều được hiện thực hoá trong hoạt

động thực tiễn của quân đội, trong đó quân đội thực hiện đầy đủ các chức năng
chiến đấu, công tác và sản xuất. Chính trong hoạt động thực tiễn thực hiện đầy đủ
các chức năng này, bản chất chính chính trị - xã hội của quân đội ta mới được thể


hiện đầy đủ và rõ nét, trong đó không chỉ thể hiện tính cách mạng của giai cấp
công nhân mà còn thể hiện cả tính nhân dân và tính dân tộc.
Tính nhân dân và tính dân tộc là những yếu tố giữ vị trí cơ bản, có vai trò
rất quan trọng, không thể thiếu trong hệ thống các yếu tố cấu thành bản chất chính
trị - xã hội của Quân đội nhân dân Việt Nam. Tính nhân dân và tính dân tộc của
quân đội ta là những thuộc tính, đặc trưng cơ bản trên phương diện chính trị - xã
hội phản ánh mối liên hệ giữa quân đội với quốc gia - dân tộc và cộng đồng xã hội
bao gồm các tầng lớp nhân dân đặc biệt là nông dân và trí thức yêu nước đã cùng
với giai cấp công nhân xây dựng, tổ chức, nuôi dưỡng và sử dụng quân đội.
Tính nhân dân của quân đội ta thể hiện mối liên hệ máu thịt giữa các tầng
lớp nhân dân với một quân đội kiểu mới thực sự của dân, do dân và vì dân. Trước
hết, trên phương diện chính trị - tư tưởng, mục tiêu chiến đấu của quân đội ta là
nhằm bảo vệ lợi ích của nhân dân, vì hạnh phúc của nhân dân. Trên phương diện tổ
chức, quân đội là bộ phận nòng cốt trong lực lượng vũ trang của nhân dân, trong đó
quân nhân là một bộ phận hữu cơ của nhân dân, xuất thân từ nhiều tầng lớp nhân
dân. Mọi hoạt động của quân đội, từ chiến đấu, công tác đến sản xuất đều có mối
liên hệ chặt chẽ với đời sống của nhân dân, quân đội phục vụ nhân dân, nhân dân
nuôi dưỡng và xây dựng quân đội.
Tính dân tộc của quân đội thể hiện tập trung ở mục tiêu chiến đấu của quân
đội ta là bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ chủ quyền quốc gia - dân tộc, bảo vệ sự tồn
tại và phát triển của bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam trong mối quan hệ với cộng
đồng các quốc gia - dân tộc khác trên thế giới.
Tính cách mạng của giai cấp công nhân có mối liên hệ chặt chẽ với tính
nhân dân và tính dân tộc trong một thể thống nhất, tác động biện chứng lẫn
nhau. Tính cách mạng của giai cấp công nhân đem lại nội dung khoa học và cách

mạng cho sự phát triển tính nhân dân, tính dân tộc của quân đội ta. Đồng thời tính
nhân dân và tính dân tộc bổ sung cho sự phát triển tính cách mạng của giai cấp


công nhân trong quân đội những nét đặc sắc, phong phú, hài hoà với truyền thống
văn hoá Việt Nam. Do đó, việc xây dựng, củng cố và tăng cường tính cách mạng
của giai cấp công nhân chính là vun trồng cái gốc vững chắc cho sự phát triển tính
nhân dân và tính dân tộc của quân đội, đồng thời, việc phát triển tính nhân dân, tính
dân tộc lên tầm cao mới trên lập trường cách mạng, khoa học của giai cấp công
nhân trong quân đội ta phát triển ngày càng sâu sắc, phong phú, hài hoà với truyền
thống lịch sử và tinh hoa văn hoá Việt Nam.
Nhận thức đúng đắn tính độc lập tương đối, vị trí, vai trò cũng như mối liên
hệ chặt chẽ giữa các yếu tố cơ bản cấu thành bản chất chính chính trị - xã hội của
Quân đội nhân dân Việt Nam có ý nghĩa rất quan trọng trong thực tiễn. Điều đó
cho phép tránh được hai khuynh hướng sai lầm cơ bản sau đây:
Thứ nhất là khuynh hướng tuyệt đối hoá vị trí, vait rò của quan hệ giai
cấp. Ở khuynh hướng này, nhận thức bản chất của quân đội ta chỉ bó hẹp trong
phạm vi quan hệ giai cấp. Trong thực tế, điều đó không tránh khỏi dẫn đến những
biểu hiện tả khuynh, chủ nghĩa thành phần, thái độ hẹp hòi, biệt phái hoặc chủ
nghĩa quốc tế hư vô, không khai thác được sức mạnh tổng hợp của cả cộng đồng
quốc gia - dân tộc, của khối đoàn kết toàn dân, của mọi tầng lớp nhân dân.
Thứ hai là khuynh hướng tuyệt đối hoá vị trí, vai trò của quan hệ dân tộc
và quan hệ cộng đồng xã hội. Ở khuynh hướng này, nhận thức bản chất của quân
đội ta lại thoát lý khỏi quan hệ giai cấp. Trong thực tế, điều đó không tránh khỏi
dẫn đến những biểu hiện hữu khuynh, cơ hội, xét lại. Điều này đặc biệt nguy hiểm
trong tình hình hiện nay, khi chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang ráo tiết
thực hiện âm mưu “phi chính trị hoá”, “phi đảng hoá” đối với quân đội cách mạng,
tạo ra sự mơ hồ về bản chất giai cấp của quân đội, tuyên truyền và cổ vũ cho luận
điểm “quân đội chỉ phục tùng nhà nước”, khuyếch đại vấn đề “quân đội quốc gia”,
“quân đội dân tộc” theo hướng xoá nhoà, làm lu mờ bản chất giai cấp của quân đội

ta, mưu toan tách quân đội khỏi sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.


Sự hình thành, phát triển bản chất chính trị - xã hội của Quân đội nhân dân
Việt Nam là một quá trình lịch sử, trong đó nổi lên một số vấn đề có tính qui luật.
Hiện nay, việc xây dựng bản chất chính chính trị - xã hội của quân đội ta
đang đứng trước những yêu cầu mới.
Để xác định đúng những yêu cầu và giải pháp cơ bản của việc xây dựng bản
chất chính trị - xã hội của Quân đội nhân dân Việt Nam trong tình hình hiện nay,
cần phát hiện, khái quát và phân tích từ góc độ triết học những vấn đề có tính qui
luật đó.
I.2. Một số vấn đề có tính qui luật của quá trình hình thành, phát triển bản
chất chính trị - xã hội của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Quá trình hình thành, phát triển bản chất chính trị - xã hội của Quân đội nhân
dân Việt Nam đã trải qua chiều dài lịch sử hơn nửa thế kỷ, trong đó bản chất chính
trị - xã hội của quân đội ta không phải đã được hình thành một cách ngẫu nhiên, cố
định, bất biến, tự phát, mà đã được tích cực, chủ động xây dựng, phát triển không
ngừng một cách tự giác. Trong quá trình đó, nhiều vấn đề cơ bản đã được giải
quyết một cách đúng đắn, sáng tạo cả về mặt lý luận cũng như trong thực tiễn, phù
hợp với qui luật khách quan, điều kiện khách quan.
Dưới đây là ba vấn đề cơ bản có tính quy luật của quá trình hình thành, phát
triển bản chất chính trị - xã hội của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Thứ nhất: bản chất chính trị - xã hội của Quân đội nhân dân Việt Nam
được hình thành và phát triển trên cơ sở sự tác động tổng hợp của nhiều yếu tố
thuộc kiến thức thượng tầng, trong đó sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam
là nhân tố cơ bản hàng đầu, giữ vai trò quyết định.
Nghiên cứu các quy luật về sự tồn tại và phát triển của quân đội, các nhà triết
học - xã hội học quân sự Xô viết thuộc Liên Xô cũ cho rằng sựt ồn tại và phát triển
của quân đội chịu sự tác động của hai nhóm qui luật.



Nhóm thứ nhất bao gồm các qui luật đặc thù, tác động trong một loại hình
lịch sử - giai cấp nhất định của quân đội. Ví dụ: đối với quân đội tư bản chủ nghĩa,
quá trình tăng cường chức năng cảnh sát là quá trình mang tính qui luật đặc trưng,
đặc biệt là ở giai đoạn đế quốc chủ nghĩa (107); hoặc đối với quân đội xã hội chủ
nghĩa, một qui luật phát triển chủ yếu phản ánh khái quát bản chất lực lượng vũ
trang xã hội chủ nghĩa là qui luật sự lãnh đạo của Đảng cộng sản đối với việc giải
quyết tất cả những vấn đề cơ bản về tổ chức, chỉ huy quân đội, bổ sung quân số,
huấn luyện và giáo dục bộ đội (107).
Nhóm thứ hai bao gồm các qui luật chung, tác động xuyên suốt quá trình tồn
tại và phát triển của quân đội. Ví dụ: qui luật về sức mạnh chiến đấu của quân đội
phụ thuộc vào điều kiện kinh tế của xã hội; qui luật về nội dung hoạt động của
quân đội do chế độ chính trị - xã hội, do tính chất giai cấp của nhà nước qui định;
qui luật về hoạt động của quân đội, tinh thần và khả năng chiến đấu của quân đội
gắn chặt với sức mạnh tinh thần và hệ tư tưởng của xã hội (107).
Sự hình thành và phát triển của Quân đội nhân dân Việt Nam cũng chịu sự
tác động của hai nhóm qui luật trên.
Xét từ góc độ cấu trúc của một hình thái kinh tế - xã hội, của quân đội - với
tính cách là công cụ của nhà nước, là bộ phận thuộc thiết chế của kiến trúc thượng
tầng - chịu sự chi phối của cơ sở hạ tầng và sự tác động trực tiếp của các yếu tố
khác thuộc kiến trúc thượng tầng. Toàn bộ quan điểm chính trị, pháp quyền, đạo
đức, văn hoá - nghệ thuật, tôn giáo... với những tổ chức, thể chế tương ứng như nhà
nước, đảng phái, các tổ chức chính trị - xã hội... có tác động rất quan trọng đến sự
hình thành và phát triển bản chất chính trị - xã hội của quân đội.
Khi chưa giành được chính quyền, bản chất chính trị - xã hội của các tổ chức
vũ trang tiền thân của quân đội ta đã được hình thành trên cơ sở mối liên hệ chặt
chẽ giữa các tổ chức vũ trang này với Đảng cộng sản, với những người dân yêu
nước, yêu độc lập tự do của dân tộc. Đảng cộng sản - đội tiên phong của giai cấp



công nhân Việt Nam, mầm mống đầu tiên trong thiết chế chính trị sơ khai của một
xã hội mới, đã trực tiếp xây dựng và tổ chức ra những đội quân vũ trang này.
Khi giành được chính quyền, bản chất chính trị - xã hội của quân đội ta tiếp
tục được hình thành và phát triển trên cơ sở sự tác động tổng hợp của nhiều yếu tố
thuộc kiến trúc thượng tầng, trong đó, đặc biệt là sự tác động của các tổ chức, thiết
chế quan trọng trong hệ thống chính trị như Đảng cộng sản, Nhà nước và các tổ
chức chính trị của xã hội.
Sự phân tích dưới đây tập trung nêu bật vị trí lãnh đạo của Đảng cộng sản
Việt Nam như là nhân tố cơ bản hàng đầu, giữ vai trò quyết định đối với quá trình
hình thành phát triển bản chất chính trị - xã hội của quân đội ta. Vị trí, vai trò này
được qui định bởi những yêu cầu khách quan của lịch sử.
Trong giai đoạn đấu tranh giành chính quyền (1930-1931), yêu cầu khách
quan cấp thiết đặt ra ngay từ đầu lực lượng vũ trang cách mạng phải được đặt dưới
sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng cộng sản, trở thành mầm mống vững chắc của một
quân đội kiểu mới, một quân đội có tính cách mạng của giai cấp công nhân, tính
nhân dân và tính dân tộc - những đặc trưng chính trị - xã hội cơ bản bảo đảm cho
nó có đủ sức mạnh thực hiện mọi nhiệm vụ chính trị của Đảng.
Trong giai đoạn kháng chién chống thực dân Pháp, với một quân đội non trẻ
mới được thành lập, phải đương đầu với đội quân viễn chinh nhà nghề của thực dân
Pháp, tình hình và nhiệm vụ chính trị, quân sự của giai đoạn này đòi hỏi tiếp tục
giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng cộng sản đối với quân đội.
Thành phần xã hội - giai cấp của quân đội lúc này tuyệt đại bộ phận là nông
dân. Trong quá trình phát triển, cùng với nhu cầu về số lượng (từ các trung đoàn
phát triển thành các đại đoàn chủ lực tập trung, đồng thời phát triển mạnh mẽ bộ
đội địa phương bên cạnh mạng lưới dân quân du kích) đã xuất hiện nhu cầu cấp
bách về nâng cao chất lượng, đặc biệt là chất lượng chính trị. Việc xây dựng một
quân đội cách mạng kiểu mới của giai cấp công nhân trong giai đoạn lịch sử này


đỏi hỏi phải tiến hành một cuộc đấu tranh trong nội bộ quân đội nhằm chống lại

những ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng, tâm lý, lối sống, tác phong của giai cấp
nông dân và tầng lớp tiểu tư sản chịu ảnh hưởng của ý thức hệ phong kiến. Ở từng
nơi, từng lúc đã xuất hiện nhu cầu đấu tranh chống bệnh gia trưởng, bè phái, bảo
thủ, thái độ dao động hoặc nôn nóng, tệ quân phiệt hoặc thậm chí cả khuynh hướng
“thổ phỉ hoá” ở một số đơn vị hoạt động phân tán lâu dài ở miền núi.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi đã mở đường cho cách
mạng Việt Nam bước vào một giai đoạn mới. Trong bối cảnh lịch sử đặc biệt của
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, về hình thức tổ chức của lực lượng cách
mạng Việt Nam lúc này, ở hai miền Nam- Bắc có hai đảng, hai chính phủ, hai quân
đội, nhưng thực chất là “một Đảng lãnh đạo thống nhất, một dân tộc, một quân đội
tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng khác nhau nhằm mục tiêu chung là
độc lập và thống nhất tổ quốc, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội” (21). Đòi hỏi
cấp thiết lúc này là tiếp tục giữ vững sự lãnh đạo thống nhất của Đảng đối với quân
đội trên cả hai miền Nam- Bắc, bảo đảm cho quân đội ta có đủ sức mạnh đánh
thắng tên đế quốc hung hãn nhất của thời đại.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã tạo ra một bước
ngoặt mới trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Yêu cầu khách quan lúc này là thực
hiện đồng thời cả hai nhiệm vụ chiến lược: vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi cả nước, v ừa bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV đến lần
thứ V đã cho thấy: có nhiều vấn đề mới mẻ, khó khăn, phức tạp trong việc thực
hiện hai nhiệm vụ chiến lược to lớn nói trên. Đối với quân đội, cùng với yêu cầu
tiếp tục giữ vững sự lãnh đạo của Đảng còn xuất hiện cả nhu cầu đổi mới cơ chế
lãnh đạo của Đảng cho phù hợp với những điều kiện lịch sử mới.


Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, yêu cầu khách quan đặt ra lúc này là
tiếp tục thực hiện đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trước mắt là
thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tạo đà phát triển mạnh mẽ.
Trong bối cảnh quốc tế có những biến động lớn và phức tạp, đặc biệt là sự

sụp đổi của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô, sự chuyển hướng
của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch sang thực hiện chiến lược “Diễn biến
hoà bình”, yêu cầu cấp thiết đặt ra đối với quân đội ta lúc này là bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,
sự ổn định chính trị, trật tự và an toàn xã hội, quyền làm chủ của nhân dân, làm thất
bại mọi âm mưu và hành động của các thế lực đế quốc, phản động phá hoại sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Đồng thời với việc làm tốt chức năng đội quân
chiến đấu, quân đội ta còn phải đáp ứng yêu cầu là đội quân công tác và đội quân
lao động sản xuất, góp phần tích cực xây dựng và bảo vệ vững chắc đất nước.
Chủ thể của quá trình xây dựng bản chất chính trị - xã hội của quân đội ta
là toàn bộ hệ thống chính trị của xã hội xã hội chủ nghĩa đang được xây dựng,
trong đó mỗi tổ chức, thiết chế có vị trí, vai trò khác nhau nhưng đều có mối liên
hệ mật thiết với nhau. Tác động của các tổ chức, thiết chế này đến quân đội là sự
tác động theo chức năng, vị trí, vai trò của từng bộ phận trong hệ thống chính trị,
đồng thời cũng là sự tác động tổng hợp của cả hệ thống đến mọi quân nhân, mọi tổ
chức trong quân đội (khái niệm quân nhân trong luận án là khái niệm qui ước,
chỉ mọi đối tượng đang hoạt động trong quân đội, từ đội ngũ đảng viên, đoàn
viên đến quần chúng, từ cán bộ đến chiến sĩ, từ cán bộ chính trị đến cán bộ quân
sự, cán bộ hậu cần, cán bộ chuyên môn kỹ thuật - nghiệp vụ và công nhân viên
quốc phòng).
Trước những yêu cầu khách quan đặt ra trên đây, chủ thể của quá trình xây
dựng bản chất chính trị - xã hội của quân đội ta đã có nhiều nỗ lực chủ quan mang
tính tích cực, chủ động, tự giác nhằm đáp ứng những yêu cầu khách quan đặt ra.


Xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể của cách mạng Việt Nam và dựa trên
nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa Mác- Lê-nin, từ rất sớm Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Đảng ta đã nhận thức được những yêu cầu khách quan trên đây, đồng thời trực tiếp
chỉ đạo, tổ chức thực hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội.
Từ khi mới ra đời, trong Cương lĩnh cách mạng của mình, Đảng ta đã khẳng

định con đường sử dụng bạo lực cách mạng - bạo lực chính trị và bạo lực vũ trang trong đó chỉ rõ biện pháp đấu tranh vũ trang để giành chính quyền và phương thức
tổ chức lực lượng để thực hiện nhiệm vụ này.
Trong “Chánh cương vắn tắt của Đảng” tháng 3-1930, Đảng ta đã chỉ rõ: “Tổ
chức ra quân đội công nông”(70).
Trong Đại hội lần thứ I của Đảng tại Macao (Trung Quốc) tháng 3-1945,
Đảng đưa ra “Nghị quyết về đội tự vệ” - văn kiện có giá trị như một cương lĩnh
quân sự đầu tiên của Đảng, trong đó khẳng định “Công nông cách mạng tự vệ đội
là dưới quyền chỉ huy thống nhất của Trung ương, Quân ủy của Đảng cộng
sản”(105).
Trong cuốn “Cách đánh du kích” viết năm 1941, lãnh tụ Hồ Chí Minh viết:
“Về mặt chính trị cấp nào cũng có một người chính trị phái viên do đoàn thể cách
mạng chọn trong bộ đội ấy hoặc phái người ngoài đến làm”(8).
Chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, trong nghị quyết Hội
nghị toàn quốc Đảng cộng sản Đông dương đã có chủ trương: “Phải tổ chức Đảng
trong Quân giải phóng Việt Nam (trung đội làm đơn vị tổ chức)”(70).
Sau cách mạng tháng 8-1945, trong tình thế hiểm nghèo của cách mạng ở giai
đoạn lịch sử đặc biệt 1945-1946, về hình thức, Đảng ta tuyên bố “tự giải tán”,
nhưng thực chất vẫn duy trì hoạt động lãnh đạo của Đảng trong quân đội (105).
Đội ngũ đảng viên và hệ thống các chi bộ vẫn là lực lượng lãnh đạo, là hạt nhân
của quá trình hình thành, phát triển bản chất chính trị - xã hội của quân đội.


Trong tác phẩm quan trọng “Kháng chiến nhất định thắng lợi” viết năm 1947,
đồng chí Trường Chinh đã khái quát mục tiêu chiến đấu và tính chất của quân
đội ta như sau:
“Quân đội của ta là quân đội cách mạng của nhân dân, vì nhân dân mà chiến
đấu.
Mục tiêu chiến đấu của quân đội ta gắn liền với nhiệm vụ của cách mạng Việt
Nam qua từng giai đoạn. Cuộc cách mạng của ta hiện nay là cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân. Cho nên mục tiêu chiến đấu trước mắt của quân đội ta là độc lập dân

tộc và dân chủ mới... tính chất của quân đội ta là dân tộc, dân chủ và nhân
dân”(71).
Trong tác phẩm này, đồng chí Trường Chinh cũng khái quát những nhân tố
chủ yếu bảo đảm cho việc xây dựng một quân đội cách mạng kiểu mới thực hiện
được mục tiêu và tính chất trên đây:
“Quân đội ta là của nhân dân, chủ yếu là của công nông do giai cấp công
nhân lãnh đạo. Thành phần trong quân đội có thể là công nhân, nông dân và trí
thức cách mạng, nhưng chủ yếu là công nhân, nông dân, mà tuyệt đại đa số là nông
dân. Nói chung, những cán bộ trong quân đội phải thuộc các thành phần cơ bản và
phải theo chủ nghĩa Mác- Lê-nin.
Công tác chính trị trong quân đội có tính chất quyết định đối với xây dựng
lực lượng cũng như đối với tác chiến. Công tác đó cốt làm cho quân đội có tinh
thần yêu nước nồng nàn và tinh thần quốc tế vô sản chân chính, có tinh thần xung
phong chiến đấu và dũng cảm hy sinh vì quyền lợi tối cao của dân tộc, có ý thức
phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân vô điều kiện, có kỷ luật tự giác, luôn luôn tăng
cường sự đoàn kết nội bộ, đoàn kết với nhân dân và biết tuyên truyền để làm tan rã
tinh thần quân địch.
Phải luôn luôn củng cố lập trường tư tưởng và bồi dưỡng đạo đức cách mạng
cho cán bộ v à binh sĩ, đồng thời xây dựng tư tưởng chiến lược, chiến thuật đúng


đắn cho quân đội ta. Muốn thế, phải rất coi trọng công tác giáo dục cho quân đội về
chủ nghĩa Mác- Lê-nin và đường lối, chính sách của Đoàn thể lãnh đạo và của
Chính phủ”(71).
Trong năm biện pháp nhằm tăng cường chuyên chính dân chủ nhân dân do
đồng chí Trường Chinh trình bày tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II (tháng 21952), biện pháp số một được xác định là “Củng cố vai trò lãnh đạo cách mạng của
giai cấp công nhân, tức là của Đảng”(71), trong đó trọng tâm là “củng cố vai trò
lãnh đạo của Đảng ta trong chính quyền, mặt trận và quân đội”(71).
Những vấn đề trên đây là nội dung cơ bản có ý nghĩa chỉ đạo việc xây dựng
quân đội ta trong các giai đoạn lịch sử của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân

dân.
Sau chiến tranh chống Mỹ, đất nước ta bước vào một giai đoạn lịch sử mới,
giai đoạn thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Trong bối cảnh lịch sử có nhiều khó khăn, phức tạp của giai đoạn 1975-1985,
nhờ tiếp tục giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, quân đội ta đã hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc,
đồng thời góp phần tích cực vào công cuộc khắc phục hậu quả chiến tranh, xây
dựng đất nước.
Từ cuối những năm tám mươi đến đầu những năm chín mươi, trong bối cảnh
quốc tế có nhiều biến động phức tạp, chủ nghĩa xã hội ở nhiều nước Đông Âu và
Liên Xô sụp đổi, Đảng ta vẫn tiếp tục khẳng định trong điều lệ của mình: Đảng
lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam tuyệt đối,
trực tiếp về mọi mặt.
Nhìn chung, những nỗ lực chủ quan nhằm tổ chức, thực hiện sự lãnh đạo
của Đảng đối với quân đội là liên tục, bền bỉ, mang tính tích cực, chủ động và tự
giác. Sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội đã được thực hiện một cách nhất


×