Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ ẢNH HƯỞNG của tư TƯỞNG đạo đức PHẬT GIÁO đến đạo đức của THANH NIÊN QUÂN đội NHÂN dân VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (447.46 KB, 94 trang )

3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong suốt quá trình hình thành, tồn tại và phát triển hơn hai nghìn năm
qua, Phật giáo đã kế thừa nhiều thành tựu văn hóa của nhân loại và để lại
những giá trị riêng có của nó. Phật giáo có những đóng góp làm nên bản sắc
văn hóa độc đáo của không ít các quốc gia, dân tộc nơi nó du nhập. Ở Việt Nam,
Phật giáo đã đồng hành cùng dân tộc qua bao thăng trầm, biến động của lịch
sử; đã hoà nhập vào nếp sống, suy nghĩ của bao thế hệ người dân. Trong suốt
tiến trình lịch sử ấy, điều không thể phủ nhận được rằng, Phật giáo là một
trong những thành tố quan trọng góp phần làm nên bản sắc văn hóa dân tộc, là
một phần không thể thiếu trong nền văn hóa Việt Nam. Phật giáo đã để lại
dấu ấn trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, nó tác động, ảnh hưởng sâu
sắc tới tâm lý, tình cảm, lối sống, ứng xử, phong tục tập quán… trong đó có
những ảnh hưởng khá đậm nét và góp phần hình thành những giá trị, chuẩn
mực đạo đức của người Việt Nam. Là thành viên trong cộng đồng dân tộc
Việt Nam, được sinh ra, nuôi dưỡng và lớn lên từ nhiều vùng văn hóa khác
nhau, TNQĐ cũng không nằm ngoài quá trình ảnh hưởng đó của tư tưởng
ĐĐPG. Quá trình ảnh hưởng tư tưởng ĐĐPG đến đạo đức TNQĐ diễn ra trên
hai bình diện, có những tác động tích cực và cả những tác động tiêu cực.
Là một bộ phận ưu tú của thanh niên Việt Nam, TNQĐ có vai trò to
lớn, là lực lượng đang trực tiếp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN. Họ là nguồn lực rất quan trọng trong sức mạnh chiến đấu của quân
đội ta. Xây dựng, bồi dưỡng và phát triển đạo đức TNQĐ về thực chất là xây
dựng, bồi dưỡng và phát triển ĐĐCM cho mỗi TNQĐ; chính là trực tiếp giáo
dục và rèn luyện tạo nên một thế hệ TNQĐ có chất lượng ngày càng cao về
chính trị, đạo đức, văn hóa, sức khỏe, lối sống và lý tưởng cao đẹp, sẵn sàng
chiến đấu, hi sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.


4


Thanh niên quân đội hiện nay luôn kiên định với mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, trung thành với Đảng, với Tổ quốc, gắn bó mật thiết
với nhân dân; đã và đang kế tục xứng đáng, phát huy bản chất, truyền thống
tốt đẹp của dân tộc, của Đảng, của quân đội; hăng hái trong học tập, huấn
luyện và công tác. Tuy nhiên, trong TNQĐ vẫn còn một bộ phận non yếu về
đạo đức, lối sống do chịu ảnh hưởng bởi những hạn chế trong tư tưởng
ĐĐPG. Sự ảnh hưởng này không chỉ đối với TNQĐ theo Phật giáo, gốc Phật
giáo mà ở cả những thanh niên không có đạo, dẫn tới hoàn thành nhiệm vụ ở
mức thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ của TNQĐ hiện nay. Những
ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng ĐĐPG không chỉ cản trở đến việc xây dựng,
giáo dục, bồi dưỡng, phát triển ĐĐCM ở TNQĐ, mà còn ảnh hưởng trực tiếp
đến xây dựng môi trường văn hóa, đạo đức lành mạnh ở các đơn vị; ảnh
hưởng đến kết quả xây dựng đơn vị vững mạnh, toàn diện. Vì vậy, vấn đề đặt
ra là cần phải làm thế nào để khai thác, phát huy tối đa những ảnh hưởng tích
cực của tư tưởng ĐĐPG, đồng thời hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của nó.
Do vậy, tìm hiểu tư tưởng ĐĐPG và nghiên cứu những ảnh hưởng của nó đến
đạo đức TNQĐ hiện nay là vấn đề cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
Từ những lý do trên đây, tác giả chọn vấn đề “Ảnh hưởng của tư
tưởng đạo đức Phật giáo đến đạo đức Thanh niên Quân đội nhân dân Việt Nam
hiện nay” làm đề tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Phật giáo là một tôn giáo lớn, đã có quá trình tồn tại, đồng hành cùng
dân tộc ta hàng nghìn năm qua. Nghiên cứu Phật giáo và nghiên cứu ảnh
hưởng của tư tưởng ĐĐPG đến đời sống đạo đức con người Việt Nam nói
chung và đời sống đạo đức quân nhân nói riêng từ lâu đã thu hút được sự
quan tâm của nhiều nhà khoa học cả trong và ngoài quân đội. Các công trình
nghiên cứu tiếp cận vấn đề trên từ các góc độ khác nhau, có thể tóm lược


5

thành những hướng nghiên cứu cơ bản với những công trình nghiên cứu cơ
bản sau đây:
Nghiên cứu Phật giáo như một bộ phận cấu thành lịch sử tư tưởng
Việt Nam: Mấy vấn đề về Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam, gồm nhiều
bài viết của Viện Triết học [54], trình bày về mối quan hệ giữa Phật giáo vào
lịch sử tư tưởng Việt Nam, về tính chất của Phật giáo Việt Nam.
Lịch sử tư tưởng Việt Nam, (tập1) do Nguyễn Tài Thư chủ biên [38]. Trong
công trình nghiên cứu này, các tác giả trình bày lịch sử hình thành của tư
tưởng Việt Nam từ thời nguyên thủy đến thế kỷ XVIII, trong đó có đề cập sâu
đến nhiều vấn đề về Phật giáo và triết học của các thiền sư thời Đinh, Tiền Lê,
Lý, Trần; sự phê phán Phật giáo ở cuối thế kỷ XIV; cũng như đi sâu phân tích
tư tưởng Phật giáo các thế kỷ XVI, XVII, XVIII. Tư tưởng Phật giáo
Việt Nam, của Nguyễn Duy Hinh [17], trình bày Phật giáo đại cương, nghiên
cứu nội dung tư tưởng Phật giáo Việt Nam. Chỉ ra đặc điểm Phật giáo Việt
Nam được hình thành trên cơ sở tín ngưỡng, tâm linh của cư dân bản địa có
tiếp thu tôn giáo ngoại nhập.
Nghiên cứu tìm hiểu Phật giáo trong lịch sử phát triển của nó:
Việt Nam Phật giáo sử luận, (3 tập) của Nguyễn Lang [26], trình bày lịch sử
của Phật giáo Việt Nam qua các thời kì, kiến thức về giáo lí của Đạo Phật
cũng như các vị thiền sư, cư sĩ trong từng giai đoạn lịch sử. Lịch sử Phật giáo
Việt Nam, do Nguyễn Tài Thư chủ biên [37]. Công trình nghiên cứu này, các
tác giả trình bày lịch sử hình thành của Phật giáo Việt Nam, sự phát triển của
Phật giáo Việt Nam qua các thời kỳ và chỉ rõ tư tưởng đạo gắn với đời, đặc
biệt gắn với đời sống văn hóa dân tộc; khẳng định vị trí, vai trò của Phật giáo
đối với đời sống của nhân dân Việt Nam, nhất là đời sống tinh thần.
Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, (2 tập) của Nguyễn Hùng Hậu [16].


6
Tác giả đã khái quát những nét cơ bản về quá trình du nhập, cũng như ảnh

hưởng của Phật giáo đến dân tộc Việt Nam.
Nghiên cứu Phật giáo trong mối quan hệ và sự ảnh hưởng của nó
đối với đời sống văn hóa, tinh thần dân tộc: Hồ Chí Minh với Phật giáo
Việt Nam (1945 – 1954), do Phùng Hữu Phú chủ biên [34]. Trong công trình
nghiên cứu này, các tác giả đã trình bày những quan điểm, tư tưởng cơ bản
của Hồ Chí Minh trong mối quan hệ với Phật giáo – Dân tộc. Đặc biệt, đã làm
rõ những triết lý Phật giáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thể hiện sự tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại, văn hóa phương Đông, trong đó có những giá trị
nhân bản, sâu sắc của Phật giáo. Phật giáo với văn hóa Việt Nam, của
Nguyễn Đăng Duy [8]. Tác giả đã nghiên cứu sự du nhập và mở rộng của
Phật giáo ở Việt Nam. Phân tích tư tưởng Phật giáo Việt Nam. Sự ảnh hưởng
của Phật giáo đến văn hóa hữu hình, văn hóa tinh thần, văn học nghệ thuật,
văn hóa đạo đức… trong đó đã phân tích khá sâu sắc ảnh hưởng của Phật giáo
đến văn hóa, đạo đức của người Việt Nam. Ảnh hưởng của những tư tưởng
triết học Phật giáo trong đời sống văn hóa tinh thần ở Việt Nam, Luận án tiến
sĩ triết học của Nguyễn Hữu Tuấn [47]. Tác giả trình bày những tư tưởng triết
học chủ yếu của Phật giáo và sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam. Phân
tích những ảnh hưởng của tư tưởng triết học Phật giáo đối với một số lĩnh vực
trong đời sống của người Việt Nam như: văn hóa và văn hóa tinh thần, trong
hệ tư tưởng và lịch sử dân tộc, trong nghệ thuật và đạo đức dân tộc. Trên cơ
sở đó đưa ra các giải pháp cơ bản nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực
cũng như hạn chế ảnh hưởng mặt tiêu cực của những tư tưởng triết học Phật
giáo đến đời sống văn hóa tinh thần ở Việt Nam hiện nay. Ảnh hưởng của tín
ngưỡng tôn giáo đến đời sống tinh thần quân nhân ở đơn vị cơ sở trong Quân đội
nhân dân Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học của Lê Đại Nghĩa [32].
Tác giả đã trình bày thực chất quá trình ảnh hưởng của tín ngưỡng tôn giáo


7
đến đời sống tinh thần quân nhân ở đơn vị cơ sở QĐNDVN hiện nay. Phân

tích thực trạng và dự báo xu hướng ảnh hưởng cũng như yêu cầu khách quan
đòi hỏi khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của tín ngưỡng tôn giáo đến đời sống
tinh thần của quân nhân ở đơn vị cơ sở hiện nay. Từ đó, nêu nên một số định
hướng, nguyên tắc và đề xuất những giải pháp khắc phục ảnh hưởng tiêu cực
của tín ngưỡng tôn giáo đến đời sống tinh thần quân nhân ở đơn vị cơ sở
QĐNDVN hiện nay.
Nghiên cứu về đạo đức Phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời
sống đạo đức xã hội Việt Nam: công trình nghiên cứu Đạo đức học Phật giáo,
do Hòa thượng Thích Minh Châu giới thiệu [5], gồm những bài tham luận của
nhiều tác giả, đã nêu những cơ sở và nhiều phạm trù ĐĐPG, phân tích và làm
rõ thêm những nội dung của các phạm trù này như: giới, hạnh, nguyện, thiện,
ác… Lý thuyết nhân sinh qua kinh tạng Pàli, của Hòa thượng Thích Chơn Thiện
[35]. Đây là một luận án tiến sĩ được dịch ra tiếng Việt và in thành sách. Nội
dung cơ bản đó là, tác giả lấy thuyết duyên sinh, ngũ uẩn của Phật giáo làm
cơ sở để lý giải nhân tính. Từ nhân tính theo nhãn quan của Phật giáo, tác giả
muốn góp phần phát hiện và xây dựng lối sống, đạo đức cho con người hiện
đại. Luận án tiến sĩ triết học Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo trong đời
sống đạo đức của xã hội Việt Nam hiện nay, của Tạ Chí Hồng [19]. Tác giả
làm rõ vị trí, vai trò tư tưởng của ĐĐPG, những cơ sở triết lý trực tiếp của
ĐĐPG: Phật giáo đặt trọng tâm vào con người; Phật giáo xây dựng đạo đức
trên nền tảng của thuyết nghiệp; Phật giáo xây dựng đạo đức trên nền tảng
của triết lý vô ngã, để lý giải câu hỏi vì sao con người hay chúng sinh có thể
giải thoát; Phật giáo cũng đề cao tinh thần của từ bi, trí dũng. Trong luận án,
tác giả cũng làm rõ quá trình du nhập, ảnh hưởng của ĐĐPG trong đời sống
đạo đức Việt Nam cả truyền thống và hiện tại. Luận án tiến sĩ triết học Ảnh
hưởng của đạo đức Phật giáo đến đạo đức con người Việt Nam, của tác giả


8
Đặng Thị Lan [24]. Tác giả đã bàn về những quan điểm của chủ nghĩa Mác –

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức tôn giáo và vai trò của đạo đức tôn
giáo trong đời sống xã hội. Trình bày những nội dung cơ bản của ĐĐPG. Tác
giả cũng phân tích khá rõ nét quá trình Phật giáo du nhập vào Việt Nam, chỉ
ra những đặc trưng cơ bản của ĐĐPG Việt Nam cũng như sự dung hợp giữa
ĐĐPG với đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam. Trên cơ sở phân tích
vai trò của ĐĐPG đối với việc xây dựng và hoàn thiện đạo đức con người
Việt Nam hiện nay; phân tích thực trạng đạo đức ở nước ta. Chỉ ra sự ảnh
hưởng của ĐĐPG đến việc hình thành ý thức và việc điều chỉnh hành vi đạo
đức của con người Việt Nam hiện nay. Từ đó, tác giả dự báo xu hướng phát
triển của Phật giáo ở Việt Nam và những biến đổi của đạo đức Phật giáo, nêu
nên những giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế, mặt tiêu cực của
ĐĐPG đối với việc xây dựng đạo đức con người Việt Nam hiện nay.
Ngoài các công trình nghiên cứu đã trình bày ở trên, còn có nhiều các
công trình khoa học, nhiều bài viết đăng trên Tạp chí Triết học nói về sự ảnh
hưởng của Phật giáo đến tư tưởng, đạo đức… của dân tộc như: Một số ảnh
hưởng của Phật giáo trong lối sống của người Việt Nam hiện nay, của
Nguyễn Quang Trường [50]; Phật giáo với lối sống của người Việt Nam hiện
nay, của Hoàng Thị Lan [25]; Đạo làm người trong triết lý nhân sinh Phật
giáo, ý nghĩa của nó đối với xã hội Việt Nam hiện nay, của Nguyễn Thị Thọ
[36]; Ảnh hưởng của Phật giáo Việt Nam trong phát huy các giá trị văn hóa
và đạo đức dân tộc, của Hoàng Minh Đô [13].
Nghiên cứu về đạo đức cách mạng ở các đối tượng cụ thể trong quân
đội có: Luận án Phó Tiến sĩ khoa học quân sự:“Tự giác hóa quá trình hình
thành, phát triển đạo đức cộng sản trong quân đội nhân dân Việt Nam” của
Nguyễn Tiến Bình [3]. Đã luận giải, chứng minh một cách sâu sắc vai trò
ngày càng tăng của nhân tố đạo đức trong sức mạnh chiến đấu của quân đội


9
và các đặc điểm tác động đến sự hình thành, phát triển đạo đức cộng sản của

quân đội. Tác giả đã đề xuất giải pháp trong tự giác hóa quá trình hình thành,
phát triển đạo đức cộng sản chủ nghĩa trong quân đội ta. Luận án tiến sĩ triết
học Phát triển đạo đức cách mạng ở thanh niên Quân đội nhân dân Việt Nam
trong tình hình hiện nay, của Nguyễn Hùng Oanh [33]. Tác giả trình bày
ĐĐCM ở TNQĐ; vai trò của ĐĐCM đối với TNQĐ hiện nay; những đặc
trưng bản chất và một số vấn đề có tính quy luật trong phát triển ĐĐCM ở
TNQĐ. Tác giả đã phân tích sâu sắc tình hình cũng như nêu nên một số yêu
cầu cơ bản trong phát triển ĐĐCM ở TNQĐ hiện nay. Từ đó, đề xuất một hệ
thống các giải pháp cơ bản để phát triển ĐĐCM ở TNQĐ hiện nay.
Có thể nói, các công trình nghiên cứu đã trình bày trên đã xem xét,
đánh giá Phật giáo trên nhiều phương diện khác nhau, cả những giá trị tích
cực và những mặt tiêu cực. Mỗi công trình nghiên cứu, luận án, bài viết ở các
khía cạnh và mức độ khác nhau đều trực tiếp hoặc gián tiếp bàn về sự ảnh
hưởng của triết học Phật giáo nói chung và tư tưởng ĐĐPG nói riêng đến đời
sống văn hóa tinh thần, đời sống đạo đức của con người Việt Nam; những vấn
đề ĐĐCM… Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một
cách cơ bản, hệ thống dưới góc độ triết học về ảnh hưởng và đặc điểm ảnh
hưởng của tư tưởng ĐĐPG đến đạo đức thanh niên QĐNDVN hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu của đề tài
Luận chứng làm rõ ảnh hưởng của tư tưởng ĐĐPG đến đạo đức
TNQĐ. Đề xuất giải pháp cơ bản nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực,
hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng ĐĐPG đến đạo đức TNQĐ
hiện nay.


10
* Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Tiếp cận, chỉ ra nội dung cơ bản của tư tưởng ĐĐPG và đặc điểm ảnh
hưởng của tư tưởng ĐĐPG đến đạo đức TNQĐ hiện nay.

- Đánh giá đúng thực trạng ảnh hưởng của tư tưởng ĐĐPG đến đạo đức
TNQĐ hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn
chế những ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng ĐĐPG đến đạo đức TNQĐ hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Những khía cạnh bản chất về ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức Phật
giáo đến đạo đức thanh niên quân đội.
*Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Vấn đề nghiên cứu được giới hạn ở sự ảnh hưởng của tư tưởng ĐĐPG
đến đạo đức TNQĐ từ năm 2007 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Cơ sở lý luận của đề tài: là hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo, đạo đức tôn giáo, về đạo đức
và ĐĐCM; các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam; các chỉ thị, nghị quyết
của Quân ủy Trung ương về công tác tôn giáo; về công tác giáo dục chính trị,
tư tưởng, đạo đức đối với thanh niên nói chung và TNQĐ nói riêng.
* Cơ sở thực tiễn của đề tài: là đời sống văn hóa, đạo đức và thực tiễn
ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống tinh thần, đạo đức TNQĐ; thực tiễn
xây dựng và phát triển ĐĐCM của TNQĐ. Luận văn còn dựa vào các văn
kiện, báo cáo của Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, của Tổng cục Chính
trị về TNQĐ, của một số đơn vị trong quân đội; số liệu điều tra, khảo sát về
TNQĐ của một số công trình khoa học có liên quan và số liệu điều tra, khảo
sát của chính tác giả.


11
* Phương pháp nghiên cứu của đề tài: sử dụng phương pháp luận của
triết học Mác – Lênin mà trực tiếp là phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch
sử để nghiên cứu, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể

khác như: lôgíc và lịch sử; phân tích và tổng hợp; khái quát hóa và trừu tượng
hóa; phương pháp chuyên gia; phương pháp điều xã hội học.
6. Ý nghĩa của đề tài
Góp phần làm rõ những giá trị, hạn chế của tư tưởng ĐĐPG. Chỉ ra
những ảnh hưởng của tư tưởng ĐĐPG đến đạo đức TNQĐ hiện nay. Từ đó,
đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực,
hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng ĐĐPG đến đạo đức TNQĐ
hiện nay. Ngoài ra, đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên
cứu, giảng dạy ở các nhà trường quân đội.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, kết luận, kết
cấu đề tài gồm 2 chương, 4 tiết.


12
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG
ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO ĐẾN ĐẠO ĐỨC THANH NIÊN
QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
1.1. Tiếp cận triết học về tư tưởng đạo đức Phật giáo và đánh giá
ảnh hưởng của nó đến đạo đức Việt Nam truyền thống
1.1.1. Tiếp cận triết học về tư tưởng đạo đức Phật giáo
Theo truyền thuyết, người sáng lập Phật giáo là thái tử, tên là Siddhàrta
(Trung Quốc dịch là Tất Đạt Đa), họ là Cồ Đàm, con trai của vua Tịnh Phạn, vua
một nước nhỏ ở bắc Ấn Độ nay thuộc nước NêPan. Được sinh ra trong hoàn cảnh
đặc biệt, hơn nữa lại là con độc nhất, do đó vua và hoàng hậu rất yêu quý Tất Đạt Đa.
Ngay từ nhỏ Tất Đạt Đa đã được sống trong môi trường giàu sang, tuổi trẻ không
được rời hoàng cung, chỉ sử dụng thời gian vào việc giải trí, yến tiệc, học hành, lễ
bái tế tự. Tất Đạt Đa không hề thấy và cũng không hề biết những gì đen tối, cực
nhọc, xấu xa, bất hạnh đang xảy ra xung quanh mình, thậm trí cũng không ngờ rằng

trong cuộc đời lại có cảnh đói khát, bệnh tật, già yếu và chết chóc bi thương.
Năm 17 tuổi, Ngài được vua cha cho kết duyên cùng công chúa Gia-du-đà-ra,
sau đó sinh được người con trai tên là Ra–hầu–la. Kể từ đó, Tất Đạt Đa mới có
điều kiện tiếp xúc với xã hội hiện thực. Thiên tính Ngài vốn nhân từ, hay thương
xót hết thảy mọi vật. Theo truyền thuyết, lý do dẫn đến bước ngoặt trong tâm
hồn trí tuệ đầy nhạy cảm của Tất Đạt Đa là những cảnh tượng gặp bất ngờ tại
bốn cửa ra vào hoàng cung. Tất Đạt Đa tận mắt nhìn thấy một cụ già còm cõi,
một người bị bệnh tật giày vò, và sau đó là cảnh một người chết đau thương. Lần
đầu tiên Tất Đạt Đa nhận thấy rằng bệnh tật, già yếu và cái chết là những điều
bất hạnh, bị kịch cho tất cả con người. Cuối cùng Tất Đạt Đa gặp một tu sĩ nghèo
với nét mặt dung dị, thanh thản khác thường và rồi Ngài quyết định noi theo vị
tu sĩ ấy. Ngài đã rời bỏ hoàng cung, từ chối cuộc sống giàu sang và quyền lực để


13
đi tu vào năm Ngài 19 tuổi. Sau sáu năm tu tập, thiền định ở núi Tuyết Sơn mà
vẫn chưa trở thành chính quả. Qua thực tế tu hành Tất Đạt Đa nhận ra rằng: con
đường đúng đắn phải là “trung đạo”, con đường tự mình đào sâu suy nghĩ để
nhận thức chân lý, con đường dẫn đến yên tĩnh và sự bừng sáng của tâm hồn, trí
tuệ. Chính vì vậy, Tất Đạt Đa đã từ bỏ tu khổ hạnh và đi vào tư duy trí tuệ. Sau
49 ngày thiền định dưới gốc cây Bồ Đề, cuối cùng Ngài đã giác ngộ được chân
lý, thấu hiểu được bản chất của tồn tại, nguồn gốc của khổ đau và con đường giải
thoát chúng sinh. Ngài lấy hiệu là Buddha. Người ta gọi ông là Sakya-muni
(Trung Quốc dịch là Thích Ca Mâu ni) có nghĩa là “nhà hiền triết sứ Sakya”. Từ
đó, Ngài chu du khắp lưu vực sông Hằng truyền bá đạo của mình. Theo truyền
thống, ông được cho là sinh năm 563 tr.CN, sống khoảng 80 năm. Sau khi ông
chết, các thế hệ học trò của ông đã tiếp tục phát triển tư tưởng của ông, xây dựng
thành một hệ thống tôn giáo – triết học lớn, có ảnh hưởng ở Ấn Độ và từ đó, lan
ra nhiều vùng trên thế giới, có ảnh hưởng lớn đến đời sống tinh thần và lịch sử
văn hóa của nhiều nước phương Đông, trong đó có Việt Nam.

Kinh điển Phật giáo rất đồ sộ, gồm ba bộ phận gọi là Tam tạng (Tripitaka),
gồm: Kinh (Sùtra), được coi là ghi lại lời Phật thuyết pháp. Luật (Vinaya), tức là
giới điều mà giáo đoàn Phật giáo phải tuân theo. Luận (Sàtras), tức là các tác phẩm
luận bàn, chú giải các vấn đề Phật giáo của các học giả, cao tăng về sau này bàn về
Kinh, Luật của Phật. Các giáo lý của Phật giáo được thâu tóm trong học thuyết
“Tứ diệu đế” nghĩa là bốn chân lý tuyệt diệu, thiêng liêng mà mọi người phải nhận
thức được. Chân lý thứ nhất là Khổ đế: Phật giáo đã khái quát toàn bộ cuộc sống
của cả đời người vào bốn chữ “đời là bể khổ” và cái khổ của cuộc đời được thâu
tóm trong “Bát khổ”. Chân lý thứ hai là Nhân đế: Phật giáo chỉ ra nguyên nhân của
mọi sự khổ đau. Có nhiều nguyên nhân dẫn con người tới khổ đau, song tựu trung
lại có ba nguyên nhân cơ bản đó là: “Tham, Sân, Si”. Những nguyên nhân ấy kết
hợp với “duyên khởi” hình thành thuyết “Thập nhị nhân duyên”. Chân lý thứ ba là


14
Diệt đế: Phật giáo khẳng định cái khổ có thể tiêu diệt được, có thể chấm dứt
được luân hồi bằng cách tiêu diệt các nguyên nhân sinh ra sự khổ đau ấy. Chân
lý thứ tư là Đạo đế: Phật giáo đưa ra con đường giải thoát, diệt khổ mà thực chất
là tiêu diệt vô minh. Cách thức ấy cần phải học là: Giới, Định, Tuệ. Có tám giải
pháp chính Phật gọi là “Bát chính đạo” để tiêu diệt khổ đau của con người.
Phật giáo với tư tưởng cơ bản là tiếng nói chống lại chế độ phân biệt đẳng
cấp, tố cáo bất công, đòi tự do và bình đẳng xã hội, nói lên khát vọng giải thoát
con người khỏi những bi kịch của cuộc đời. Đồng thời, Phật giáo cũng nêu cao
thiện tâm, từ bi, bác ái như là những tiêu chuẩn đạo đức cơ bản của đời sống xã
hội. Phật giáo về bản chất không phải là một học thuyết về đạo đức. Bởi lẽ, Phật
giáo không bàn riêng về đạo đức, không có kinh, sách chuyên bàn về đạo đức.
Tuy nhiên, trong giáo lý của mình, Phật giáo nhấn rất mạnh về đạo đức, cho nên
có thể gọi đây là một học thuyết về đạo đức. Xét ở góc độ nhận thức và thực
hành giáo lý theo tinh thần Phật giáo, thì ĐĐPG là cái nền để con người làm
phương tiện cụ thể để thực sự thoát khỏi tất cả những ràng buộc, đạt đến sự giải

thoát. Đạo đức cũng là cái nền để giữ gìn và phát triển Phật pháp. Chính vì vậy, tư
tưởng đạo đức Phật giáo là trung tâm có vai trò quan trọng nhất trong Phật giáo.
* Nội dung cơ bản của tư tưởng đạo đức Phật giáo
Giống như các tôn giáo khác, Phật giáo cũng có một hệ thống các chuẩn
mực và giá trị đạo đức nhằm điều chỉnh ý thức và hành vi đạo đức của các tín đồ.
Những chuẩn mực, giá trị đạo đức này, ngoài giá trị đặc thù là bảo vệ niềm tin tôn
giáo thiêng liêng, còn đề cập đến những chuẩn mực đạo đức mang tính nhân loại
như: hướng thiện, tránh xa cái ác, trung thực, nhân ái…. Giáo sư Nguyễn Hữu Vui
cho rằng: “Trong hệ thống những giá trị chuẩn mực tôn giáo, ngoài những điều
khuyên răn, cấm đoán tạo nên nội dung riêng của đạo đức tôn giáo còn có những
điều khuyên răn, cấm đoán không hề có nội dung tôn giáo, mà biểu hiện các mối
quan hệ thuần túy trần thế” [55, tr. 44]. Qua khảo cứu nhận thấy rằng, hầu hết các


15
kinh điển của Phật giáo đều bàn và hàm chứa tư tưởng đạo đức. Chẳng hạn, tư
tưởng về nhân sinh quan trong “Tứ diệu đế” có ý nghĩa về giáo dục đạo đức cho
con người rất lớn. Những chuẩn mực đạo đức cơ bản của Phật giáo đặt ra trong
Ngũ giới, Thập Thiện để các tín đồ thực hiện, có giá trị như những chuẩn mực đạo
đức góp phần duy trì nếp sống đạo đức trong sáng, lành mạnh mà bất kỳ một xã
hội văn minh nào cũng cần có. Thuyết nhân quả, nghiệp báo của Phật giáo có ý
nghĩa nhất định trong việc cổ vũ con người hướng thiện, cảnh báo những hành vi
phi đạo đức của con người trong xã hội. Với Luật nhân quả người ta tìm thấy ở
đây một đạo lý, một lối sống đạo đức đáng ngợi ca, vì nó đã “chống tư tưởng phục
thù, chống tư tưởng oán ghét, chống hằn học – một thứ “đạo đức Phật giáo tỏ ra
đẹp quá, người quá” [15, tr. 247]. Lối sống trong Lục độ, Lục hòa mà cốt lõi là
sống hòa hợp, vị tha dựa trên sự tự giác cũng là lối sống mà xã hội ta đang hướng
tới… Song cần thấy rằng, Phật giáo là một tôn giáo với tính chất phản ánh hư ảo
của nó cho nên bên cạnh những giá trị tích cực, tư tưởng ĐĐPG còn bộc lộ những
hạn chế nhất định. Bằng việc thông qua những quan niệm, chuẩn mực, quy tắc

được thể hiện trong giáo lý, giáo luật mà ĐĐPG thực hiện chức năng điều chỉnh
hành vi con người phù hợp với thế giới quan và nhân sinh quan Phật giáo. Chính
vì vậy, có thể quan niệm: tư tưởng đạo đức Phật giáo là toàn bộ những quan niệm,
những quy tắc, chuẩn mực đạo đức, được thể hiện trong giáo lý, giáo luật nhằm
điều chỉnh hành vi của con người theo thế giới quan và nhân sinh quan Phật giáo.
Trong toàn bộ giáo lý, giáo luật của Phật giáo, tư tưởng về đạo đức rất
rộng lớn. Với khả năng hạn chế của tác giả và phạm vi của luận văn cũng không cho
phép có thể bàn đến mọi khía cạnh, mọi vấn đề liên quan đến tư tưởng ĐĐPG, mà
chỉ tập trung nghiên cứu một số vấn đề cơ bản được thể hiện sâu sắc và có ảnh hưởng
mạnh mẽ đến đạo đức của con người Việt Nam nói chung và TNQĐ nói riêng.
Đạo đức Phật giáo gắn liền với tư tưởng về “giải thoát”. Mục đích cao
nhất của Phật giáo là chủ trương giải thoát con người. Giải thoát là cơ sở để hình


16
thành nên những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức. Ý thức, hành vi và những quan
hệ của con người được coi là có đạo đức khi nó phục vụ giải thoát. Mức độ phục
vụ cho giải thoát là những thang bậc để xác định những giá trị đạo đức, xác định
những cái gì liên quan đến hạnh phúc, lương tâm và danh dự…của con người.
Xuất phát điểm của tư tưởng giải thoát trong triết lý Phật giáo là bắt nguồn từ nỗi
khổ của con người. Nhiệm vụ, mục đích tối cao của sự giải thoát trong triết lý Phật
giáo là tu học, trau rồi trí tuệ, xóa bỏ vô minh, mê ngộ của con người, đạt tới sự
giác ngộ, với cái tâm sáng tỏ, nhận ra chân bản tính của mình và thực tướng của
vạn vật, từ đó dập tắt được ngọn lửa ái dục, thoát khỏi mọi khổ não của cuộc đời.
Tư tưởng giải thoát được trình bày trong “Tứ diệu đế”, Phật giáo cho rằng
đời người là bể khổ và nguyên nhân hàng đầu của khổ là do vô minh. Do vô
minh nên con người bị ngũ dục (năm thứ ham muốn: danh vọng, tiền tài, sắc đẹp,
ăn uống, ngủ nghỉ) che lấp mất phật tính, bị nô lệ hóa. Để giải thoát, Phật giáo
khuyên con người hãy sống theo phật tính, phát huy phật tính vốn có. Phật giáo
đã tạo cho con người niềm tin, động viên con người hãy tận dụng thời gian trong

cuộc đời của mình để nỗ lực, tu tâm, tu thiện, tích đức. Mặc dù tư tưởng giải
thoát của Phật giáo còn có hạn chế đó là sự giải thoát mang tính chất cá nhân,
thoát tục, yếm thế trên cơ sở tự giải thoát. Tuy nhiên, nếu đặt đúng thời điểm lịch
sử ra đời của Phật giáo thì tư tưởng này vẫn có những giá trị tiến bộ nhất định.
Triết lý Phật giáo thể hiện tính nhân bản ở chỗ tin tưởng vào khả năng của con
người, chỉ cho con người con đường và phương pháp đi tới hạnh phúc, an vui.
Đạo đức của Phật giáo là đạo đức bình đẳng, không phân biệt đẳng
cấp, không kỳ thị giữa người với người. Phật giáo công nhận quyền bình đẳng
giữa con người với con người, đó chính là tiếng nói của đa số quần chúng lao
động trong xã hội Ấn Độ cổ đại nhằm phản kháng lại chế độ phân biệt đẳng
cấp ngặt nghèo. Tinh thần triệt để bình đẳng là một điểm tiến bộ quý giá của
Phật giáo. Đức Phật đã từng tuyên bố: không có đẳng cấp trong dòng máu


17
cùng đỏ, không có đẳng cấp trong giọt nước mắt cùng mặn, con người ta sinh
ra không phải đã mang sẵn trong bào thai dây chuyền ở cổ hay dấu tin – ca
trên trán. Lời nói đó coi như một tuyên ngôn của Phật giáo chống lại sự bất
công trong một xã hội phân biệt đẳng cấp đến cùng cực.
Vấn đề bình đẳng nam nữ cũng được đề cập đến trong Phật giáo. Phật
giáo tôn trọng phẩm giá, nhân cách người phụ nữ, có thể nói đây là tư tưởng
bình đẳng, dân chủ xưa nhất trong lịch sử nhân loại, nó không chỉ bao hàm
trong giáo lý mà đã được thể hiện trong thực tế. Đức Phật đã cho phép thành
lập Giáo hội Tỳ kheo ni (Nữ tu sĩ), đây được coi như là một đoàn thể đầu tiên
của phụ nữ, hơn nữa, Ngài cũng từng nói: trong hàng phụ nữ có người còn tốt
hơn đàn ông. Như vậy, giữa xã hội Ấn Độ cổ đại đầy rẫy những bất công, hủ
tục như: người phụ nữ bị khinh rẻ, ruồng bỏ, bị cưỡng ép, buôn bán làm trò tiêu
khiển cho đàn ông thuộc giới quyền quý... thì Phật giáo đã đi ngược lại trào
lưu, tư tưởng lạc hậu đó không chỉ bằng lời nói mà còn bằng hành động, qua đó
chúng ta mới thấy hết được giá trị nhân văn sâu sắc trong Phật giáo. Điều này,

hoàn toàn trái ngược với Nho giáo, trong xã hội phong kiến người phụ nữ bị
trói buộc bởi lễ giáo phong kiến hà khắc. Đạo Hồi ra đời sau Phật giáo rất lâu
mà tư tưởng bình đẳng nam nữ là một vấn đề mà họ không chấp nhận.
Bình đẳng của tất cả mọi người về mặt nghiệp báo, luân hồi. Không phân
biệt giàu nghèo, địa vị cao thấp, tuổi tác, mọi người đều căn cứ vào nghiệp báo
của bản thân để quyết định sinh tử luân hồi. Điều này được thể hiện rõ trong
thuyết nhân quả, nghiệp báo, luân hồi. Thuyết nhân quả là một chân lý mà Đức
Phật đã giác ngộ được và dạy cho chúng sinh: muốn biến cái nhân đời trước của
mình thế nào thì hãy xem kết quả của cuộc đời ngày hôm nay, muốn biết kết quả
ngày mai của mình thế nào thì phải xem xét việc làm của mình ngày hôm nay.
Theo thuyết nhân quả, có hai loại nhân, làm lành gọi là thiện nghiệp, làm ác gọi
là ác nghiệp. Người làm thiện thì hưởng quả báo thiện, người làm ác thì chịu


18
quả báo ác, cho nên “con người vừa là chủ nhân của nghiệp, vừa là kẻ thừa tự
của nghiệp”. Với thuyết nhân quả, Phật giáo khẳng định: không có lực lượng
siêu nhiên nào phán xét, ban thưởng hay trừng phạt các hành động tốt, xấu của
con người, mà chính con người tự quyết định số phận, cuộc sống của mình
thông qua việc cố gắng trau dồi những tư tưởng, lời nói và hành động tốt đẹp.
Đề cao tinh thần bình đẳng giữa con người với con người là một điểm tiến
bộ của Phật giáo so với các tôn giáo khác. Khi nói về sự bình đẳng của đạo Cơ Đốc,
Ph.Ăng ghen đã nhận xét rất sắc sảo, ông viết: “Đạo Cơ Đốc chỉ biết một sự bình
đẳng đối với tất cả mọi người, đó là sự bình đẳng về tội tổ tông, một sự bình
đẳng hoàn toàn phù hợp với tính chất của nó là tôn giáo của những người nô lệ
và những người bị áp bức. Bên cạnh sự bình đẳng ấy, nhiều lắm thì đạo Cơ Đốc
cũng chỉ thừa nhận giữa những người được Chúa chọn, nhưng sự bình đẳng ấy
chỉ được người ta nêu ra vào thời kỳ đầu của đạo Cơ Đốc mà thôi” [1, tr. 150].
Như vậy là, công nhận có một đấng sáng tạo ban phát cho con người quyền bình
đẳng, chính đấy đã là sự bất bình đẳng. Nho giáo không những chính thức công

nhận bất bình đẳng trong xã hội mà còn đề cao nó, trong xã hội có người quân tử
và kẻ tiểu nhân. J.Nehru trong “Phát hiện Ấn Độ” đã đánh giá tư tưởng bình
đẳng của Phật giáo như sau: “Phật tổ không trực tiếp đả kích đẳng cấp, song
trong cách sắp xếp của mình, Ngài không thừa nhận nó. Và chắc chắn là toàn bộ
thái độ, hành động của Ngài đã làm suy yếu chế độ đẳng cấp” [31, tr. 190].
Đạo đức Phật giáo là đạo đức từ bi, khoan dung. Phật giáo chủ trương
đem tình yêu thương đến với mọi người. Phật giáo nhấn mạnh “từ bi”, đây là
phạm trù thuộc tứ vô lượng tâm của Phật giáo. Tứ vô lượng tâm bao gồm: từ,
bi, hỷ, xả. Tâm từ là tình thương bao la, không giới hạn; là đem lại hạnh phúc
cho mọi người, mọi loài, cứu khổ, cứu nạn cho chúng sinh mà quên đi những
lợi ích của bản thân. Tâm bi là thương xót vô lượng, vô biên nhưng không bi
lụy, vì thế trở thành động lực cho việc cứu khổ, cứu nạn. Đây cũng là đức tính


19
giúp cho con người sống cao thượng hơn, gần gũi hơn. Tâm hỷ là vui vẻ với
mình kể cả thất bại và nghịch cảnh, vui vẻ với thành công của người khác
cũng vô lượng vô biên. Tâm xả là đem hết sức mình để cứu người, giúp người
không mong bù đắp là tinh thần hy sinh vì tha nhân. Tâm từ và Tâm bi là tiền
đề, là khởi đầu cho Tâm hỷ, Tâm xả. Sự rung động, lòng trắc ẩn, cao thượng
hướng về nỗi đau của người khác sẽ định hướng cho con người trong lý trí và
hành động, sẵn sàng quên mình vì mọi người. Xây dựng tứ vô lượng tâm,
Phật giáo muốn nhấn mạnh vào cái tâm của con người, đó là đạo đức, lòng
người và trí tuệ. Cái tâm của con người nằm trong mối quan hệ biện chứng
với xã hội. Do đó, khi nói đến đạo đức của Phật giáo, người ta thường nói đến
từ, bi, hỷ, xả, vô ngã, vị tha, cho nên tứ vô lượng tâm vừa là cái thiện hoàn
chỉnh, vừa là lòng khoan dung rộng lớn của Phật giáo.
Phật giáo xây dựng một triết lý sống, đó là lấy vị tha làm lẽ sống cao cả và
lý tưởng của mình. Phật giáo nói đạo lý vô ngã là muốn con người hiểu rằng “cái
tôi” thực ra chỉ là giả tướng do bốn đại là: đất, nước, lửa, gió tạm thời hợp nhau

tạo thành mà thôi, theo quy luật có ngày nó sẽ bị tan rã, suy yếu, già rồi chết. Do
vậy, con người không nên mê muội theo đuổi danh lợi, không cần thiết phải tranh
giành mà cần phải độ lượng, khoan dung với mọi người. Đó cũng chính là cách
con người hoàn thiện bản thân để tiến tới giải thoát. Với thuyết vô thường, vô ngã,
Phật giáo đem lại cho con người một triết lý sống vị tha, nhân bản. Khi đã thấu
suốt được chân lý này, con người sẽ vươn lên khỏi cuộc sống vị kỷ mà sống theo
tinh thần từ, bi, hỷ, xả, vô ngã, vị tha. Như vậy, Phật giáo là một tôn giáo giàu tình
thương và yêu chuộng hòa bình. Với lý tưởng nhân văn, bác ái, Phật giáo dễ gắn
bó với quần chúng, gần gũi với quan niệm nhân đạo cộng sản chủ nghĩa.
Đạo đức Phật giáo là hướng thiện, chống cái ác và cảm hóa con
người. Trong giáo lý của Phật giáo, dù ở bất kỳ tập Kinh, tập Luận hay tập Luật
nào, dù ít hay nhiều cũng ngầm chứa những tư tưởng về cái thiện, mà tiêu chí


20
đầu tiên là “bất sát”, dù có biện luận như thế nào thì cũng phải công nhận đạo
Phật là một đạo thiện. Nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng nhận xét về ĐĐPG như
sau: “cái sống trong đạo đức Phật giáo là từ bi và cứu khổ, cứu nạn. Nó vượt qua
thời gian, không gian vì nó nhằm bảo vệ, phát huy, duy trì nhân bản “làm điều
lành”, “hướng về điều lành”, hoặc ít nhất “đừng làm cái ác”, “đừng hướng về cái
ác”.
Thuyết Nghiệp báo, Nhân quả, Luân hồi với mục đích thiết thực của Phật
giáo mong muốn ai cũng làm điều thiện, tránh điều ác. Nó có giá trị trong việc
giáo dục và thực hành đạo đức, đó là: con người gieo nhân nào thì sẽ được quả ấy.
Chính vì vậy, đã góp phần nâng cao trách nhiệm của mỗi cá nhân trong quá trình
sống trong môi trường xã hội. Nó có tác dụng điều chỉnh không chỉ ý thức đạo
đức mà cả hành vi đạo đức của con người. Khuyên con người sống nhân ái, vị tha,
làm điều thiện, tránh điều ác. Phạm vi ảnh hưởng của nó không chỉ với Phật tử và
còn cả xã hội. Trách nhiệm của cá nhân theo luật nhân quả là trách nhiệm cao nhất
đối với đạo đức của chính mình, con người cố gắng làm điều thiện, tu nhân tích

đức, tránh điều ác… để sẽ được nhân lành. Mặt khác, thuyết Nhân quả, Nghiệp
báo, Luân hồi còn cho thấy rằng: con người không chỉ phải chịu trách nhiệm về
hành động của mình lúc còn sống, mà còn phải chịu trách nhiệm kể cả sau khi
chết, vì chết chưa phải là hết. Sự kết thúc một cuộc đời này sẽ là sự kế tiếp của
cuộc đời khác. Như vậy, nó giúp cho con người hạn chế được dục vọng, thói ích
kỷ, đề cao cái tôi dẫn đến tham lam, tàn bạo, bất chấp lẽ phải, đạo lý…từ đó con
người nói riêng và xã hội nói chung sẽ có cuộc sống tốt đẹp hơn.
Để đạt tới mục đích tuyệt đối, chân lý cuối cùng để đi đến giác ngộ, giải
thoát. Phật giáo cho rằng điều đầu tiên phải giữ giới. Trong giới luật của Phật
giáo Ngũ giới có thể coi như là những chuẩn mực cơ bản của ĐĐPG. Bên cạnh
đó còn có Thập thiện, giới luật của Tỳ kheo, Tỳ kheo ni… nhưng chung quy lại
tất cả đều lấy Ngũ giới làm nền tảng. Ngũ giới có vị trí hết sức quan trọng, nó


21
được coi như là nấc thang ban đầu cho những ai đi vào Phật giáo. Ngũ giới bao
gồm: không sát sinh; không trộm cắp; không tà dâm; không nói dối; không uống
rượu. Theo Phật giáo, đạo đức được thể hiện rõ nhất trong việc giữ giới. Xét về
bản chất, đây là những lời răn dạy cơ bản về đạo đức con người dù người đó có
phải là phật tử hay không. Việc giữ gìn giới luật trước hết nhằm phát huy bản
tính thiện, diệt trừ tham, sân, si, là phương tiện giúp cho con người vượt qua u
mê, bể khổ, luân hồi đem lại cho bản thân con người sự trong sạch, giải thoát.
Thực hiện ngũ giới thực sự có ý nghĩa đối với mỗi con người và xã hội. Đối với
cá nhân con người, Ngũ giới giúp hoàn thiện trong tư tưởng và hành vi, hoàn
thiện nhân cách con người theo nhân sinh quan Phật giáo. Những giá trị mà Ngũ
giới đặt ra, một mặt ngăn ngừa mầm mống nguy hại đến tư cách đạo đức con
người, mặt khác có tác dụng kích thích những hành vi tốt đẹp, tránh xa cái ác,
hướng đến chân, thiện, mỹ. Đối với xã hội, Ngũ giới có ý nghĩa thiết thực trong
việc xác lập trật tự an ninh, bảo đảm nếp sống tiến bộ, lành mạnh, văn minh.
Những hạn chế trong tư tưởng đạo đức Phật giáo

Đạo đức Phật giáo đã để lại dấu ấn đậm nét trong lịch sử tư tưởng Ấn Độ
cũng như lịch sử tư tưởng nhân loại. Với tính nhân văn sâu sắc đã đáp ứng được
khát vọng của nhiều tầng lớp nhân dân. Mặc dù vậy, trong nội dung ĐĐPG bên
cạnh những giá trị đã được trình bày ở trên, còn bộc lộ những hạn chế như:
Đạo đức Phật giáo kêu gọi lòng từ bi, bác ái, nhưng đó là lòng từ bi bác
ái chung cho mọi xã hội có áp bức, có bóc lột giai cấp là một điều không
tưởng. Phật giáo khuyên con người sống nhân ái, vị tha, xóa bỏ hận thù. Song,
Phật giáo lảng tránh sự đấu tranh giai cấp, lảng tránh thực tại là sự đối lập về
điều kiện sống của những người bị áp bức và những kẻ áp bức. Về nỗi khổ
của con người, do quá nhấn mạnh vào nguyên nhân từ chính con người như
tham, sân, si, sinh, lão, bệnh, tử… mà Phật giáo quên đi các nguyên nhân
khác như áp bức bóc lột, bất công xã hội gây nên. Chính vì vậy, Phật giáo tìm


22
cách giải thoát con người không phải trong hoạt động cải tạo tự nhiên và xã
hội mà bằng việc hoàn thiện đạo đức. Đây chính là điểm mạnh về mặt lý
tưởng hóa, song lại là điểm yếu về phương diện hiện thực hóa của ĐĐPG. Tư
tưởng từ bi, hỉ xả, bình đẳng của Phật giáo rất đáng trân trọng, song mục đích
cuối cùng nhằm đạt tới cõi Niết bàn bên ngoài hiện thực. Do vậy, tư tưởng
giải thoát đau khổ cho con người của Phật giáo không kém phần hoang tưởng,
có chăng chỉ giải phóng cho người ta về mặt tinh thần mà thôi.
Phật giáo không hướng lý tưởng, mục đích của con người vào hiện thực
để xây dựng một nền đạo đức và con người hiện thực mà xây dựng một con
người không có tham vọng, không có ý chí phản khảng lại những áp bức của
đời sống hiện thực, tạo tâm lý bằng lòng với thực tại, khiến cho con người
cam chịu, nhẫn nhục trước những khó khăn, thách thức của cuộc sống. Với
triết lý nhân quả, duyên, nghiệp, vô ngã…không đem đến cho con người niềm
tin nơi trần thế mà là niềm tin của sự thoát tục, niềm tin vào sự giải thoát. Con
người phải gánh chịu những hậu quả của hành động của mình từ kiếp trước.

Do vậy, con người phải phấn đấu tu thân, trau dồi đạo đức nhưng lại không cố
gắng hết mình trong hoạt động thực tiễn xã hội. Lý thuyết về nghiệp, luân hồi,
quả báo của Phật giáo đã lôi kéo con người ra khỏi cuộc sống hiện thực để thu
mình trong cuộc sống tu tập. Về thực chất Phật giáo khuyên con người chấp nhận thế
giới chứ không cải tạo thế giới, chấp nhận hoàn cảnh chứ không cải tạo hoàn cảnh.
Mục đích cuối cùng, cao nhất của Phật giáo là hướng đến sự giải thoát.
Để làm được điều này, theo Phật giáo con người phải “diệt trừ tham ái”,
“thiểu dục, trí túc”, khước từ những ham muốn chính đáng của con người.
Mặc dù có ý nghĩa giáo dục, hướng con người đến một cuộc sống thanh cao, biết
vượt lên khỏi những ham muốn vật chất tầm thường. Tuy nhiên, nó có phần tiêu
cực là thủ tiêu sức sống và hành động của con người, không khuyến khích con
người nâng cao đời sống vật chất hiện thực. Sự khác nhau căn bản giữa ĐĐPG


23
và đạo đức mới (đạo đức cộng sản chủ nghĩa) là một bên thì diệt dục bằng ý chí,
vì coi dục là nguyên nhân của mọi tội lỗi, là kém đạo đức; còn bên kia thì cố
gắng thỏa mãn những nhu cầu ngày càng tăng về vật chất và tinh thần của con
người bằng năng xuất và chất lượng cao của lao động sản xuất nhằm cải tạo thế
giới, và coi đó là tiêu chuẩn đánh giá tính nhân đạo thực sự của tiến bộ xã hội.
Thông qua lao động để hoàn thiện con người và hoàn thiện xã hội.
Với thuyết nhân quả, nghiệp báo, luân hồi, bên cạnh những yếu tố tích
cực, tiến bộ là duy trì đạo đức xã hội, hạn chế lòng tham, ích kỷ của con
người. Tuy nhiên, mặt tiêu cực của nó là tạo cho con người suy nghĩ rằng sở
dĩ mình bị khổ là do nghiệp báo ở kiếp trước dẫn đến sự cam chịu số phận.
Điều này thực sự nguy hại khi giai cấp thống trị và bọn xâm lược lợi dụng để
ru ngủ quần chúng, thủ tiêu ý chí đấu tranh của quần chúng. Thuyết Duyên
khởi của Phật giáo khi áp dụng vào cuộc sống có mặt trái của nó là làm cho
tác phong của con người chậm chạp, thiếu chủ động, vì “gặp duyên lành thì làm”,
nên ảnh hưởng không nhỏ đến tiến trình phát triển chung của con người và xã hội.

Những hạn chế trên đây, xuất phát từ điều kiện kinh tế xã hội của Ấn Độ
trong thời điểm lịch sử Phật giáo xuất hiện, một xã hội với cơ sở kinh tế còn
nghèo nàn, đơn giản, sự phân chia đẳng cấp ngặt nghèo, thì tư duy con người
phản ánh những cơ sở kinh tế đó còn hạn chế là điều không thể tránh khỏi. Mặt
khác, ĐĐPG là đạo đức tôn giáo cho nên nó bị chi phối bởi đặc trưng cơ bản của
tôn giáo là tính chất hư ảo, duy tâm nên có những hạn chế là điều tất yếu.
* Bản chất của tư tưởng đạo đức Phật giáo
Đạo đức Phật giáo là đạo đức phi giai cấp, phi lịch sử, phi hành động,
phi hiện thực. Bởi vì, nếu tôn giáo là sự phản ảnh hư ảo, xuyên tạc hiện thực
khách quan với chức năng đề bù hư ảo, thì tưởng ĐĐPG cũng là sự phản ảnh
hư ảo ấy. Mặc dù, xét trên những nội dung cụ thể nó có những “hạt nhân hợp
lý” cần kế thừa. Phật giáo coi xã hội chỉ là một tập hợp những cá nhân khác


24
nhau về đạo đức, nhưng không loại trừ nhau về giai cấp, đẳng cấp. Phật giáo
không quan niệm con người với tư cách là thành viên của một quan hệ sản
xuất, quan hệ kinh tế hay chính trị.v.v.. mà chỉ đơn thuần là thực thể của quan
hệ đạo đức thiện – ác. Do đó, ĐĐPG không hướng vào cải tạo điều kiện sống
mà chỉ cố san bằng hố ngăn cách xã hội bằng đạo đức. Đạo đức Phật giáo
phát triển, nhưng chỉ là đạo đức cá nhân chứ chưa đạt đến đạo đức xã hội.
Đạo đức Phật giáo là đạo đức hướng về nội tâm con người. Thông qua
những quan niệm, chuẩn mực, quy tắc được thể hiện trong giáo lý, giáo luật mà
ĐĐPG thực hiện chức năng điều chỉnh hành vi con người phù hợp với thế giới
quan và nhân sinh quan Phật giáo, nhằm mục đích giải thoát con người khỏi khổ
đau. Cái mạnh của ĐĐPG chính là ngoài những điều phù hợp với tình cảm đạo
đức của con người, nó lại được thực hiện thông qua tình cảm, tín ngưỡng, lòng
tin mang tính chất tôn giáo. Do đó, ĐĐPG được con người tiếp thu tạo thành đức
tin thiêng liêng bên trong chi phối hành vi, ứng xử của họ trong các quan hệ xã
hội. Chính vì ĐĐPG thiên về nội tâm, phản tỉnh hơn là xử lý các quan hệ bề

ngoài. Cho nên, Phật giáo phát huy tối đa tính tự chủ cá nhân, trong việc thực
hành các quy tắc đạo đức. Sự phán xét của đạo đức là nghiệp báo, nghiệp quả
điều chỉnh đạo đức của mỗi người theo quy luật nhân quả. Phật giáo khẳng định
con người sẽ phải chịu hậu quả hay sẽ nhận thành quả mà thân nghiệp, khẩu
nghiệp, ý nghiệp của mình tạo ra. Mỗi người vừa là chủ nhân của nghiệp vừa là
thừa tự của nghiệp. ĐĐPG chủ trương con người phải bắt đầu từ chính mình,
phải tự cải tạo, tự hoàn thiện mình một cách bền bỉ, không mệt mỏi. Trong cuộc
sống con người phải chiến đấu với chính bản thân mình và con người phải chịu
trách nhiệm trước mỗi hành vi của mình đối với cộng đồng và đối với toàn xã
hội.
Theo quan điểm của Phật giáo, mọi giá trị luân lý, đạo đức đều diễn ra
trong thế giới nhân sinh chứ không phải do một thế lực siêu nhiên nào chi


25
phối. Phật tử lễ tượng Phật để bày tỏ lòng tôn kính của mình đối với một lý
tưởng, bày tỏ lòng tri ân đối với một con người đã đem lại cho chúng sinh
một tấm gương, một học thuyết về đạo hạnh, để tự nhắc nhở mình trước
những đam mê của đời thường. Quan điểm cốt lõi nhất về nhân sinh cũng là
những định hướng cơ bản nhất cho những tư tưởng về đạo đức của Phật giáo
là “Tứ diệu đế”. Những tư tưởng về thế giới quan và nhân sinh quan vừa chứa
đựng những định hướng vừa chứa đựng những chất liệu quan trọng nhất tạo
dựng nên những giá trị đạo đức xã hội và đời sống đạo đức cá nhân.
Giá trị lớn nhất của Phật giáo là giá trị thuộc về đạo đức và văn hóa.
Trong ĐĐPG thì tính thiện mang giá trị nổi bật. ĐĐPG giáo góp phần hướng
con người theo cái thiện chống cái ác, bồi dưỡng lòng nhân ái, vị tha…vì vậy
nó có những giá trị nhất định. Bản thân ĐĐPG không đủ khả năng để giải
quyết các yêu cầu của con người trong cuộc sống, song nó góp phần tạo ra sự
bình ổn, cân bằng tâm lý cho con người. ĐĐPG đưa ra những chuẩn mực
sống cao cả, lý tưởng, mặc dù, việc hiện thực hóa lý tưởng ấy là điều vô cùng

khó khăn, song đó là sự cổ vũ tinh thần cho con người trong việc vươn đến
những giá trị cao đẹp, các quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người. Tuy
nhiên, ĐĐPG không đề cập đến sức mạnh xã hội để khắc phục hiện thực mà
chỉ khuyên con người quay về tự hoàn thiện mình, tách khỏi các mối quan hệ
xã hội, vì vậy nó mang tính tiêu cực, thụ động.
Như vậy, từ những khía cạnh bản chất của tư tưởng ĐĐPG đã trình bày
trên cho thấy, mặc dù có những “hạt nhân hợp lý” và giá trị không thể phủ
nhận, nhưng tư tưởng ĐĐPG vẫn bị ngự trị bởi thế giới quan duy tâm tôn giáo
và có ảnh hưởng tiêu cực lâu dài tới đời sống tinh thần của con người. Do đó,
phải có thái độ khoa học trong xem xét ảnh hưởng của nó, cần biết phát hiện
ra những “hạt nhân hợp lý”, những giá trị phù hợp với đạo đức mới để kế
thừa, phát huy, nâng nó lên một chất lượng mới, đáp ứng yêu cầu xây dựng và


26
bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Đồng thời, cũng thấy được những ảnh hưởng tiêu
cực để có biện pháp phòng ngừa, đấu tranh, khắc phục.
1.1.2. Đánh giá ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức Phật giáo đến đạo
đức Việt Nam truyền thống
Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ khoảng thế kỷ thứ II tr CN và tồn
tại trên đất nước ta cho đến nay đã hơn hai nghìn năm. Về con đường du nhập
của Phật giáo vào nước ta có nhiều quan điểm khác nhau, tuy nhiên quan
điểm của Giáo sư Trần Quốc Vượng trong “Cơ sở văn hóa Việt Nam” nhận
được nhiều sự đồng tình của các nhà nghiên cứu đó là: “Đạo Phật tại Giao
Châu chắc chắn do từ Ấn Độ truyền sang trực tiếp, mãi về sau này mới lại do
từ Trung Quốc tiếp tục truyền xuống” [56, tr. 105]. Xuất phát từ hoàn cảnh lịch
sử khác nhau, nên mỗi thời kỳ Phật giáo mang những sắc thái khác nhau, có
vị trí, vai trò khác nhau trong đời sống, xã hội của con người Việt Nam. Theo
suốt chiều dài lịch sử, Phật giáo luôn có mặt, gắn bó mật thiết với dân tộc và
hầu như đã thấm sâu vào máu thịt rất nhiều người Việt. Bởi vậy, dù trực tiếp

hay gián tiếp hầu hết người Việt đều chịu ảnh hưởng ít nhiều của Phật giáo.
Tư tưởng ĐĐPG và đạo đức Việt Nam truyền thống có mối quan hệ
mật thiết, gắn bó, diễn ra theo cả hai chiều. ĐĐPG ảnh hưởng đến đạo đức
truyền thống và ngược lại, đạo đức truyền thống dân tộc tác động trở lại
ĐĐPG. Tất nhiên trong mối quan hệ này, đạo đức truyền thống dân tộc là nền
tảng, chi phối ĐĐPG. Cơ sở của sự hòa nhập đó là: xuất phát từ đặc điểm của
dân tộc Việt Nam là cư dân nông nghiệp trồng lúa nước với tín ngưỡng bản
địa là đa thần giáo, con người Việt Nam hiền hòa, yêu nước, yêu hòa bình, vì
nghĩa và giàu lòng nhân ái. Phật giáo với những giá trị tích cực như: từ bi, hỷ
xả, cứu khổ, cứu nạn, bình đẳng, bác ái đi vào lòng người, phù hợp với phong
tục, tập quán bản địa. Từ điều kiện lịch sử, dân tộc Việt Nam với gần một
ngàn năm Bắc thuộc, chịu biết bao đau khổ, khi Phật giáo được truyền vào


27
Việt Nam, với những giá trị của mình, Phật giáo đã góp phần xoa dịu nỗi đau, nó như
một liều thuốc an thần đối với nhân dân ta. Đó chính là những lý do để lý giải cho sự
dung hợp mang tính biện chứng giữa ĐĐPG với đạo đức Việt Nam truyền thống, sự
dung hợp và ảnh hưởng của nó được biểu hiện trên các vấn đề cơ bản sau:
Sự hòa nhập của tinh thần từ bi, hỷ xả với tinh thần yêu nước Việt Nam:
theo giáo sư Trần Văn Giàu: “Đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam là hệ
thống giá trị truyền thống yêu nước, cần cù, thương người, vì nghĩa, anh hùng,
sáng tạo và lạc quan, trong đó chủ nghĩa yêu nước là giá trị đạo đức tinh thần
đứng đầu bảng trong giá trị truyền thống Việt Nam, truyền thống đó được hình
thành trong quá trình hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Trong bối cảnh lịch
sử ấy và những giá trị đặc trưng truyền thống ấy, Phật giáo muốn tồn tại và phát
triển được ở Việt Nam tất nhiên phải có sự thích ứng hòa hợp” [14]. Phật giáo với
những giá trị đạo đức được xây dựng từ tinh thần đại từ, đại bi, cứu khổ, cứu nạn
đã hòa quyện với tư tưởng yêu nước, nhân nghĩa Việt Nam. Sự hòa nhập của tinh
thần từ bi, hỷ xả của Phật giáo với tinh thần yêu nước Việt Nam được thể hiện

trong suốt chiều dài lịch sử của quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.
Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo trong quan hệ ứng xử, giao tiếp:
nhiều phạm trù ĐĐPG tham gia vào nền đạo đức của dân tộc, đã trở thành
phương tiện diễn đạt quan niệm đạo đức truyền thống của người Việt Nam.
Các phạm trù như “từ bi, hỷ xả”, “vô ngã, vị tha”, “cứu nhân độ thế”, “tu nhân
tích đức”, “sống nhân từ để phúc cho đời sau”… đã không còn là những thuật
ngữ nguyên nghĩa của riêng Phật giáo, mà đã trở thành một phần trong lẽ sống
của người Việt, trở thành ngôn ngữ của đạo đức thực tiễn. Cách thức giao tiếp,
ứng xử của người Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng rất lớn bởi các quan niệm
Phật giáo. Nét phổ biến trong quan hệ ứng xử và giao tiếp của Phật giáo là cái
thật, cái thiện ở cả thân, khẩu, ý. Trong bát chính đạo của Phật giáo, có chính
ngữ (giữ cho lời nói được đúng mực), đó chính là một trong các điều kiện để


×