Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ QUAN hệ GIỮA số LƯỢNG và CHẤT LƯỢNG CON NGƯỜI TRONG NÂNG CAO sức MẠNH CHIẾN đấu của QUÂN đội NHÂN dân VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 87 trang )

MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Xây dựng quân đội và nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội luôn là
vấn đề trọng yếu, là yêu cầu khách quan của mỗi quốc gia, dân tộc trong quá
trình tồn tại và phát triển. Đặc biệt, trong thời đại hiện nay, khi mà những
cuộc “chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy
đua vũ trang, hoạt động can thiệp lật đổ, khủng bố còn xảy ra ở nhiều nơi…”
[25,14], với chính sách cường quyền ngày càng lộ rõ và chiến lược toàn cầu
của chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là Mỹ, vấn đề nâng cao sức mạnh chiến đấu
của Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay càng trở lên cấp thiết.
Sức mạnh chiến đấu của đội quân cách mạng là sức mạnh tổng hợp do
nhiều yếu tố tạo thành, đó là sự kết hợp biện chứng giữa yếu tố vật chất và
yếu tố tinh thần, giữa con người và vũ khí, khoa học nghệ thuật quân sự và
kỹ năng chiến đấu, sức khoẻ của bộ đội… Trong đó, con người giữ vai trò
quyết định. Do vậy, để nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội phải giải
quyết tốt yếu tố con người, trước hết là mối quan hệ giữa số lượng và chất
lượng con người, đây là hai mặt hợp thành yếu tố con người trong sức mạnh
chiến đấu của quân đội.
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc cũng như lịch sử xây dựng,
trưởng thành và chiến thắng của quân đội ta đã khẳng định rằng, việc giải
quyết tốt mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng con người trong nâng cao
sức mạnh chiến đấu của quân đội là nhân tố hàng đầu tạo nên sức mạnh
chiến đấu phi thường của quân đội, để đánh bại nhiều đội quân xâm lược có
tiềm lực kinh tế, quân sự hùng mạnh, đặc biệt là hai đội quân đế quốc trong
nửa cuối thế kỷ 20.


Ngày nay, khi đất nước chuyển từ thời chiến sang thời bình, nhiệm vụ


chủ yếu là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, với mục
tiêu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh đã và đang đặt ra những
vấn đề cấp thiết về mô hình tổ chức quân đội trong thời bình, về giải quyết
mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng con người trong nâng cao sức
mạnh chiến đấu của quân đội ta hiện nay.
Quán triệt quan điểm của Đảng ta về xây dựng quân đội với quân số hợp
lý, chất lượng cao, lấy xây dựng chất lượng là chính, trong thời gian qua,
quân đội ta đã có nhiều cố gắng giải quyết mối quan hệ giữa số lượng và
chất lượng con người trong nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội. Tuy
nhiên, so với yêu cầu mới hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập: số lượng
con người có chỗ chưa hợp lý, cân đối, chất lượng con người có mặt chưa
cao, làm ảnh hưởng đến nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội ta hiện
nay.
Ngày nay, cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống sự xâm lược của “chủ
nghĩa can thiệp mới” đang xuất hiện nhiều đặc điểm mới. Việc sản xuất và
sử dụng các loại vũ khí công nghệ cao trong chiến tranh hiện đại đã tác động
mạnh mẽ đến cơ cấu tổ chức, biên chế của quân đội, đến phương thức tác
chiến, nghệ thuật chiến lược, chiến dịch…, đòi hỏi phải đổi mới trong nhận
thức và vận dụng giải quyết mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng con
người trong nâng cao sức mạnh chiến đấu của các đội quân chống xâm lược.
Do vậy, việc giải quyết mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng con
người trong nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội ta không chỉ là một
vấn đề lý luận, mà còn là một vấn đề thực tiễn cấp bách đối với sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, sẵn sàng đánh bại


mọi cuộc chiến tranh xâm lược, nhất là cuộc chiến tranh hiện đại, công nghệ
cao.
Từ góc độ lý luận chuyên ngành chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ

nghĩa duy vật lịch sử, vận dụng quy luật lượng - chất, tác giả muốn đi sâu
nghiên cứu và làm rõ mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng con người
nhằm góp phần hoàn thiện yếu tố con người trong nâng cao sức mạnh chiến
đấu của quân đội, xây dựng quân đội ta cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và
từng bước hiện đại.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Nghiên cứu nhân tố người trong sức mạnh chiến đấu của quân đội là một
vấn đề cơ bản, có ý nghĩa thực tiễn đối với quá trình xây dựng quân đội. Từ
trước đến nay, nó luôn thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều ngành
khoa học, trong đó có Triết học.
Với thế giới quan và phương pháp luận khoa học, khi nghiên cứu về
chiến tranh và quân đội, C.Mác, Ph. Ăng ghen và V.I.Lê nin đã đã có nhiều
tư tưởng sâu sắc về yếu tố con người trong sức mạnh chiến đấu quân đội.
Trong đó, các Ông đã đề cập đến những tư tưởng cơ bản về mối quan hệ
giữa số lượng và chất lượng con người, đến sự chuyển hoá giữa số lượng và
chất lượng con người trong quá trình tạo thành sức mạnh chiến đấu của quân
đội. Đó là những tư tưởng lý luận quý báu, làm cơ sở khoa học để nâng cao
sức mạnh chiến đấu, xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản.
Trong những năm vừa qua, trên thế giới đã có nhiều công trình khoa học
nghiên cứu về yếu tố con người, nghiên cứu mối quan hệ giữa lượng và chất
trong lĩnh vực quân sự. Đáng chú ý là: “Những biến đổi về lượng và chất
trong lĩnh vực quân sự” của I.A.Gru-đi-nhin, trong cuốn: “Phép biện chứng


và lĩnh vực quân sự hiện đại”, nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội,
1976;
Ở nước ta, thời gian gần đây, cũng có một số đề tài tập trung nghiên cứu
về con người, về chất lượng con người trong sức mạnh chiến đấu của quân
đội. Cụ thể như: “Mối quan hệ biện chứng giữa con người và vũ khí trong
sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay”, luận án

phó tiến sĩ triết học của Phạm Thanh Sơn, Hà Nội, 1996. “Nâng cao chất
lượng nhân tố con người trong sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân
Việt Nam hiện nay”, luận án phó tiến sĩ triết học của Hoàng Quang Đạt,
1996. “Xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong
giai đoạn cách mạng mới”, của Trần Danh Bích, Hà Nội, 1996. “Tích cực
hoá nhân tố con người của đội ngũ sĩ quan trong xây dựng Quân đội nhân
dân Việt Nam hiện nay'', luận án tiến sĩ khoa học quân sự của Nguyễn Văn
Tài, Hà Nội 1998. “Quan hệ lượng - chất của nghệ thuật “lấy nhỏ thắng
lớn”, “lấy ít địch nhiều” trong nghệ thuật quân sự Việt Nam”, luận án tiến sĩ
triết học của Nguyễn Văn Thuỳ, Hà Nội, 2001...
Dưới những khía cạnh khác nhau, các đề tài đều tập trung vào luận giải
nhân tố con người, xác định vị trí vai trò của con người trong sức mạnh
chiến đấu của quân đội. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công trình khoa
học chuyên biệt nào nghiên cứu yếu tố con người dưới góc độ: “Quan hệ
giữa số lượng và chất lượng con người trong nâng cao sức mạnh chiến đấu
của Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay”.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
* Mục đích của luận án
Nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản và cấp bách về mối quan hệ
giữa số lượng và chất lượng con người trong nâng cao sức mạnh chiến đấu


của quân đội; từ đó đề xuất một số giải pháp cơ bản giải quyết đúng đắn mối
quan hệ đó nhằm nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội ta hiện nay.
* Nhiệm vụ của luận án
+ Làm rõ thực chất mối quan hệ số lượng và chất lượng con người
trong nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội.
+ Phân tích thực trạng và những yêu cầu mới nhằm giải quyết mối
quan hệ giữa số lượng và chất lượng con người trong nâng cao sức mạnh
chiến đấu của quân đội ta hiện nay.

+ Đề xuất một số giải pháp cơ bản để giải quyết mối quan hệ giữa số
lượng và chất lượng con người trong nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân
đội ta hiện nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận án là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, các chỉ thị, nghị
quyết của Đảng uỷ quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị
về xây dựng quân đội. Luận án kế thừa các bài viết, bài nói của một số đồng
chí lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và quân đội; các công trình nghiên cứu
khoa học của nhiều tác giả trong và ngoài nước có liên quan trực tiếp đến đề
tài nghiên cứu.
Luận án xuất phát từ tình hình thực tiễn của các đơn vị trong quân đội,
các hoạt động tổ chức và xây dựng lực lượng vũ trang hiện nay, từ thực
trạng mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng con người, cũng như những
mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình giải quyết mối quan hệ giữa số lượng và
chất lượng con người trong quân đội ta hiện nay.
Luận án sử dụng hệ thống phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử như: lô gích - lịch sử; phân tích - tổng


hợp, quy nạp - diễn dịch và một số phương pháp khác: khảo sát, điều tra xã
hội, tổng kết thực tiễn...
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
- Luận án góp phần làm rõ các khái niệm số lượng, chất lượng con người
và mối quan hệ biện chứng của nó trong sức mạnh chiến đấu của quân đội
ta; bước đầu khái quát một số vấn đề có tính quy luật trong giải quyết mối
quan hệ giữa số lượng và chất lượng con người trong nâng cao sức mạnh
chiến đấu của quân đội.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm giải quyết mối quan hệ giữa số
lượng và chất lượng con người trong nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân

đội ta hiện nay.
6. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
- Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp phần vào giải quyết vấn đề số
lượng và chất lượng con người trong nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân
đội, xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho giảng dạy và nghiên
cứu khoa học trong các nhà trường quân sự.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, luận án gồm 3 chương (7 tiết), kết luận, danh mục
công trình khoa học của tác giả, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ
lục.
Chương 1
QUAN HỆ GIỮA SỐ LƯỢNG VÀ CHẤT LƯỢNG CON NGƯỜI
TRONG NÂNG CAO SỨC MẠNH CHIẾN ĐẤU CỦA QUÂN ĐỘI NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG


1.1. Quan niệm về số lượng và chất lượng con người trong sức mạnh
chiến đấu của quân đội
1.1.1. Sức mạnh chiến đấu của quân đội
Sự tồn tại, phát triển của quân đội luôn gắn liền với quá trình củng cố,
hoàn thiện và nâng cao sức mạnh chiến đấu của nó. Nâng cao sức mạnh
chiến đấu của quân đội là vấn đề cơ bản, chủ yếu trong xây dựng quân
đội, nó là kết quả của toàn bộ công tác tổ chức, huấn luyện, giáo dục và
trang bị trong quân đội. Đã có nhiều cách định nghĩa khác nhau về sức
mạnh chiến đấu của quân đội. Từ góc độ hệ thống - cấu trúc, sức mạnh
chiến đấu của quân đội được xác định là “tổng thể các nhân tố vật chất và
tinh thần quyết định trạng thái và năng lực thực hiện nhiệm vụ chiến đấu
của các đơn vị trong lực lượng vũ trang” [15, 537]. Quan niệm khác cho
rằng, sức mạnh chiến đấu của quân đội là “trình độ sẵn sàng chiến đấu và
khả năng chiến đấu của lực lượng vũ trang có thể tiến công địch hoặc đẩy

lùi cuộc tiến công của địch” [13, 477]. Theo đó, sức mạnh chiến đấu của
quân đội tồn tại ở hai dạng: 1. Tiềm năng bảo đảm sẵn sàng chiến đấu
(sức mạnh tiềm tàng), 2. Sức mạnh chiến đấu thực sự trên chiến trường
(mức độ hoàn thành các mục tiêu chiến lược, các nhiệm vụ chiến đấu
chủ yếu của quân đội).
Gần đây, có tác giả đã xác định: Sức mạnh chiến đấu của quân đội là
tổng hợp các yếu tố vật chất và tinh thần nói lên trình độ sẵn sàng chiến đấu
và khả năng hoàn thành các nhiệm vụ đấu tranh vũ trang và đấu tranh
chính trị - tư tưởng [34, 15].
Quan niệm này đã có sự phát triển mới và tương đối phù hợp với thực
tiễn xây dựng quân đội hiện nay. Sức mạnh chiến đấu của quân đội là khả
năng sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu giành thắng lợi trên cả mặt trận


quân sự và chính trị, cả vũ trang và phi vũ trang bảo vệ độc lập chủ
quyền toàn vện lãnh thổ đất nước, bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng, bảo vệ
chính quyền nhà nước, bảo vệ nhân dân. Trong thời bình, sức mạnh chiến
đấu của quân đội biểu hiện ở khả năng góp phần bảo đảm hoà bình, sự ổn
định, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để phát triển đất nước, làm
thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù. Khi chiến tranh xảy ra, sức
mạnh chiến đấu của quân đội thể hiện ở hiệu suất chiến đấu, ở kết quả
hoàn thành các nhiệm vụ được giao, ở khả năng giành thắng lợi trên
chiến trường.
Về cấu trúc sức mạnh chiến đấu của quân đội, phần lớn các kết quả
nghiên cứu đều thống nhất cho rằng, sức mạnh chiến đấu của quân đội được
tạo thành từ các yếu tố cơ bản là: Quân số với cơ cấu tổ chức, biên chế; yếu
tố chính trị, tinh thần và kỷ luật; số lượng và chất lượng vũ khí, trang bị kỹ
thuật; trình độ huấn luyện và thể lực; trình độ khoa học và nghệ thuật quân
sự; bản lĩnh lãnh đạo và trình độ tổ chức chỉ huy của đội ngũ cán bộ, sĩ quan
trong quân đội [105, 200].

Các yếu tố trên có vị trí, vai trò khác nhau nhưng quan hệ rất chặt chẽ,
khăng khít với nhau trong sức mạnh chiến đấu. Mỗi một yếu tố phải được
phát huy thật đầy đủ và kết hợp chặt chẽ với các yếu tố khác thì mới tạo
nên sức mạnh chiến đấu lớn nhất của quân đội. Cho nên, khi xem xét sức
mạnh chiến đấu của quân đội, cần phải nắm vững sự thống nhất biện
chứng giữa các yếu tố nói trên. Nếu nhấn mạnh một chiều yếu tố vật chất
kỹ thuật, xem nhẹ yếu tố chính trị, tinh thần, hoặc ngược lại, chỉ coi trọng
yếu tố tinh thần, tách rời tinh thần với cơ sở vật chất, với vũ khí, trang bị
kỹ thuật và các yếu tố khác là hoàn toàn sai lầm, trái với quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lê nin.


Trong các yếu tố tạo thành sức mạnh chiến đấu của quân đội thì yếu
tố con người và vũ khí, trang bị kỹ thuật là hai yếu tố cơ bản, trong đó
con người giữ vai trò trung tâm và quyết định. Do vậy, sức mạnh chiến
đấu của quân đội chính là sức mạnh của con người với tư cách là đội
quân chiến đấu được trang bị vũ khí, phương tiện kỹ thuật, được huấn
luyện, giáo dục, quản lý và chỉ huy. Sự thay đổi về chất trong sức mạnh
chiến đấu của quân đội trước hết phụ thuộc vào sự thay đổi về số lượng
và chất lượng của con người và của vũ khí, trang bị kỹ thuật. Đối với
quân đội ta, sức mạnh chiến đấu được tạo thành từ số lượng những con
người với một chất lượng nhất định, chất lượng ấy được quy định bởi sự
giác ngộ chính trị, sự am hiểu khoa học nghệ thuật quân sự, sử dụng
thành thạo các loại vũ khí, trang bị kỹ thuật trong các loại hình tác chiến,
các hình thức chiến thuật ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định.
1.1.2. Số lượng và chất lượng con người trong sức mạnh chiến đấu của
quân đội
Số lượng và chất lượng con người trong sức mạnh chiến đấu của quân
đội là những khái niệm mà đối tượng phản ánh là những con người hoạt
động trong lĩnh vực quân sự, một lĩnh vực hoạt động đặc thù của xã hội.

Để có nhận thức đầy đủ về số lượng và chất lượng con người trong sức
mạnh chiến đấu của quân đội, trước hết cần làm rõ quan niệm chung về
số lượng và chất lượng.
Số lượng và chất lượng là những khái niệm được sử dụng rất rộng rãi
trong đời sống xã hội, trong các môn khoa học tự nhiên cũng như trong triết
học, do vậy đã có khá nhiều cách diễn đạt khác nhau về hai khái niệm này.
Theo nghĩa thông thường: ‘’Số lượng là con số biểu thị sự có nhiều hay ít
của các sự vật’’ [126, 835]. Theo nghĩa này, số lượng được hiểu như những


con số cụ thể, phản ánh về một mức độ nào đó của sự vật. Quan niệm khác
cho rằng: “Số lượng là biểu hiện những mức độ khác nhau, những giai đoạn
phát triển và sự cấu tạo về lượng của sự vật hiện tượng” [108, 152]. Cách
khái quát trên đã phân biệt được số lượng và lượng của sự vật hiện tượng,
nhưng chưa nói rõ nội hàm cơ bản của số lượng. Một số tác giả khác lại
đồng nhất số lượng với lượng của sự vật hiện tượng, khi cho rằng: “Số lượng
- Đó là trình độ phát triển của sự vật, hiện tượng nói chung và của những đặc
điểm riêng của nó, đó là tính quy định của sự vật hiện tượng về mặt đại
lượng, khối lượng, trình độ, nhịp điệu phát triển, tốc độ v. v..” [42, 148].
Để có quan niệm chính xác và đầy đủ hơn về số lượng, cần phải trở lại
với những tư tưởng cơ bản của C.Mác, Ph.Ăng ghen và V.I.Lênin. Trong tác
phẩm “Biện chứng của tự nhiên”, khi bàn về số lượng và chất lượng, Ph.Ăng
ghen viết: “Số lượng và chất lượng, số là một sự quy định thuần tuý nhất về
lượng mà chúng ta được biết. Nhưng nó cũng chứa đầy những sự khác nhau
về chất” [4, 756]. “Mọi chất lượng đều có vô vàn những sự khác nhau về số
lượng, ví dụ những sắc thái của màu sắc, độ cứng và độ mềm, độ bền v.v..
và mặc dù các mức độ ấy khác nhau về chất nhưng chúng đều đo được và
nhận thức được” [4, 722]. Còn trong tác phẩm “Bút ký triết học’’ khi xác
định khái niệm lượng, V.I.Lênin cũng viết: “Lượng, mà trước hết là tính số
lượng với một tính quy định nào đó hay với một giới hạn nói chung, trong

tính quy định hoàn chỉnh của mình là một số” [49, 127]. “Tính phân thành số
hạng, cũng như... tính liên tục là một vòng khâu của lượng” [49, 127].
Như vậy, theo các nhà kinh điển các khái niệm số lượng và lượng là
những khái niệm cơ bản của triết học, giữa chúng có quan hệ chặt chẽ, bao
hàm nhau nhưng không đồng nhất với nhau. Về khái niệm lượng, các sách
giáo khoa triết học hiện nay đều xác định: “Lượng là khái niệm chỉ tính quy


định của sự vật hiện tượng, biểu thị bằng con số các thuộc tính, tổng số các
bộ phận, đại lượng nói lên trình độ, quy mô phát triển của sự vật hiện tượng”
[123, 124]. Hoặc: “Lượng là một phạm trù triết học để chỉ tính quy định vốn
có của sự vật biểu thị số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động
và phát triển của sự vật cũng như của các thuộc tính của nó” [45, 310].
Với khái niệm số lượng, khi đặt trong mối quan hệ với lượng của sự vật
hiện tượng, nó được xem là một biểu hiện cụ thể của lượng, là một mặt,
một yếu tố, một bộ phận, “một vòng khâu’’ tạo nên tính quy định về lượng
của sự vật hiện tượng. Số lượng là một biểu hiện của lượng nhưng là một
biểu hiện quan trọng nhất của lượng. Thông qua số lượng mà lượng của sự
vật được biểu hiện ra, do vậy sự biến đổi của lượng trước hết là biến đổi về
mặt số lượng. Lượng đổi làm chất thay đổi. Do vậy, trong tác phẩm “Biện
chứng của tự nhiên’’, Ph.Ăng ghen đã đồng nhất số lượng với lượng của sự
vật hiện tượng, lấy những ví dụ từ sự biến đổi về mặt số lượng dẫn tới những
khác biệt về chất lượng và gọi quy luật đó là “quy luật về sự chuyển hoá từ
số lượng thành chất lượng và ngược lại” [4, 511].
Theo Ph.Ăng ghen và V.I.Lênin, giữa khái niệm số lượng và con số cũng
không hoàn toàn đồng nghĩa với nhau. Mặc dù con số là đặc trưng cơ bản
của số lượng, nhưng con số là những số thuần tuý làm chức năng cơ bản là
tính toán về mặt số học. Do đó, nó có thể phản ánh về sự vật hiện tượng
trong giới tự nhiên hoặc cũng có thể không phản ánh về sự vật, suy cho
cùng, con số chỉ là một sự quy ước do con người đặt ra trong quá trình

nghiên cứu và trong hoạt động thực tiễn mà thôi, chẳng hạn như : số âm, số
dương, số ảo, số phức... Còn với khái niệm số lượng thì rõ ràng phải phản
ánh về một tập hợp các sự vật hiện tượng cụ thể, bao quát một loại thuộc
tính, một loại sự vật trong thế giới vật chất, phản ánh một mức độ nào đó về


sự vật. Chẳng hạn: số lượng học sinh, số lượng đảng viên, số lượng sản
phẩm, dân số...
Từ luận giải trên, có thể quan niệm số lượng là một biểu hiện của tính
quy định về lượng của sự vật hiện tượng, được biểu thị ở những con số cụ
thể, nói lên mức độ khác nhau và sự cấu tạo về lượng của sự vật hiện tượng
trong thế giới vật chất.
Đến nay có rất nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm chất và chất
lượng, có quan niệm đồng nhất chất với chất lượng của sự vật hiện tượng.
Theo họ, chất phải được hiểu là chất lượng của sự vật hiện tượng, là “tên gọi
tắt của chất lượng” mà thôi [10 ]. Nhưng theo chúng tôi, nên có sự phân biệt
chất với chất lượng của sự vật hiện tượng. Khi bàn về khái niệm chất, V.I.lê
nin đã viết: “Tính quy định, cô lập vì mình với tư cách là cái hiện có, đó là
chất”, “Chất được phân biệt như là cái hiện có, đó là thực tại” [49,114]. Như
vậy, theo V.I.Lênin, chất là tính quy định của sự vật, hiện tượng, là sự tồn tại
với tư cách là cái hiện có, quy định chiều hướng vận động, phát triển của sự
vật, hiện tượng. Khi tính quy định về chất mất đi thì sự vật, hiện tượng cũng
thay đổi theo. Chất là cái cấu tạo nên sự vật hiện tượng, cái để phân biệt sự
vật hiện tượng này với sự vật hiện tượng khác [127, 138]. Như vậy, “chất là
một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự
vật hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính, làm cho nó là nó mà
không phải là cái khác” [45, 307]. Còn chất lượng là một biểu hiện cụ thể
tính quy định về chất của sự vật hiện tượng, nó thường gắn với độ tốt xấu
của sự vật hiện tượng, với tính hiệu quả trong hoạt động của con người.
Chất lượng là “cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một con người, một sự vật

hiện tượng” [126, 139]. Là một biểu hiện của tính thống nhất, tính toàn vẹn


của sự vật hiện tượng, nó gắn liền với kết cấu của sự vật và phản ánh các cấp
độ khác nhau về chất của sự vật hiện tượng trong thế giới vật chất.
Việc thống nhất nhận thức chung về số lượng và chất lượng là cơ sở để
xác định khái niệm số lượng và chất lượng con người trong sức mạnh chiến
đấu của quân đội. Con người, xét theo nghĩa triết học, là một thực thể vật
chất phức tạp không chỉ bao gồm những yếu tố sinh học, mà còn là và chủ
yếu là sản phẩm của những quá trình xã hội, quá trình tâm lý, ý thức. C.Mác
viết: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà các mối
quan hệ xã hội” [64, 11]. Do vậy, nó là đối tượng nghiên cứu của nhiều
ngành khoa học khác nhau. Phạm vi đề tài này chỉ nghiên cứu con người
hoạt động trong lĩnh vực quân sự, một lĩnh vực hoạt động đặc thù của xã hội,
nên ngoài những đặc điểm của con người nói chung, còn mang những đặc
điểm riêng do đặc thù của lĩnh vực quân sự quy định.
Khi xây dựng khái niệm số lượng con người trong sức mạnh chiến đấu
của quân đội thì nội hàm cơ bản của nó cần xác định là những con số cụ thể
về đội ngũ cán bộ, sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ, quân nhân chuyên nghiệp và
viên chức quốc phòng... trong biên chế của quân đội, “là số đầu người phục
vụ trong quân đội nói chung và trong từng quân chủng, binh chủng, trong
các binh đoàn, bộ đội và phân đội” [98, 269]; là quân số của quân đội, từ
quân số của một đơn vị, quân số của một trung đoàn, một sư đoàn..., cho đến
tổng quân số trong toàn quân.
Với tính cách là một trong những yếu tố tạo nên sức mạnh chiến đấu của
quân đội, khái niệm số lượng con người ở đây không phản ánh những con
người riêng lẻ, biệt lập, mà là những con người trong một chỉnh thể, một tập
hợp, một tổng số những con người hiện thực, những quân nhân được sắp
xếp, liên kết lại với nhau trong một tổ chức và theo một cơ cấu thống nhất



của quân đội. “Các lực lượng vũ trang không phải là một tổng số đơn giản,
mà là một thể thống nhất, nhất định của những người có vũ trang được tổ
chức lại theo một cách thích hợp, là một hệ thống chặt chẽ có cơ cấu rõ ràng
và chỉ huy tập trung” [98, 228]. Mỗi con người tham gia vào tổ chức đó có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau tạo thành một chỉnh thể thống nhất trong một
tổ chức quân đội.
Số lượng con người trong sức mạnh chiến đấu của quân đội được xem
xét ở các cấp độ khác nhau: Ở cấp độ tổng thể cho ta nhận thức được
tổng quân số có trong biên chế của quân đội. Ở cấp độ cụ thể, nó phản
ánh quân số cụ thể của từng đơn vị, từng quân chủng, binh chủng trong
quân đội; phản ánh mối tương quan tỉ lệ giữa cán bộ, sĩ quan với chiến sĩ;
giữa sĩ quan sơ cấp, sĩ quan trung cấp và sĩ quan cao cấp; giữa cán bộ
chính trị, cán bộ quân sự và các loại cán bộ khác; giữa đơn vị với cơ
quan, giữa lực lượng thường trực chiến đấu với lực lượng dự bị động
viên, giữa lực lượng trực tiếp chiến đấu với lực lượng phục vụ chiến đấu
trong quân đội nói chung và trong từng quân chủng, binh chủng nói
riêng.
Yêu cầu tinh giảm về số lượng, xây dựng “quân số hợp lý” không chỉ là
hạ thấp tổng số con người tham gia quân đội, mà còn là ở chỗ bố trí, sắp xếp
và tổ chức lại các lực lượng bộ đội trong các quân khu, quân đoàn, các đơn
vị trong toàn quân. Điều chỉnh tỷ lệ giữa số lượng cán bộ với chiến sĩ, giữa
lực lượng thường trực với lực lượng dự bị động viên, giữa các vùng, miền
của đất nước một cách phù hợp để nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân
đội.
Từ phân tích trên, cho phép khẳng định: số lượng con người trong sức
mạnh chiến đấu của quân đội là khái niệm chỉ tổng số quân nhân có


trong biên chế của quân đội, được sắp xếp và liên kết lại với nhau theo

một cơ cấu, tổ chức tương ứng với một trình độ nhất định về chất lượng
con người, phù hợp với vũ khí, trang bị kỹ thuật, với khả năng kinh tế và
điều kiện dân số, với khoa học và nghệ thuật quân sự, đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ của quân đội trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định.
Như vậy, khái niệm số lượng con người không đồng nhất với lượng của
con người trong sức mạnh chiến đấu của quân đội. Tính quy
định về lượng của con người trong sức mạnh chiến đấu của
quân đội bao gồm số lượng con người với các đại lượng xác
định về bản lĩnh chính trị, lập trường giai cấp, trình độ học
vấn, tri thức khoa học, tính tổ chức kỷ luật…phản ánh quy
mô, trình độ vận động, phát triển của yếu tố con người trong
sức mạnh chiến đấu của quân đội. Như vậy, khái niệm lượng
con người trong sức mạnh chiến đấu của quân đội có nội
hàm rộng hơn nội hàm của khái niệm số lượng con người
trong sức mạnh chiến đấu của quân đội. Bên cạnh mặt cụ thể
(biểu hiện ở số lượng con người, số lượng các đơn vị, hạm
tàu, quân chủng, binh chủng), tính quy định về lượng con
người trong sức mạnh chiến đấu của quân đội còn biểu hiện
ở con số xác định về trình độ giác ngộ chính trị, trình độ học
vấn, tính tổ chức kỷ luật, trình độ kỹ năng kỹ sảo của bộ đội.
Còn nội hàm của khái niệm số lượng con người trong sức
mạnh chiến đấu của quân đội phản ánh một phạm vi rất hẹp
về lượng con người trong sức mạnh chiến đấu của quân đội,
là số lượng quân nhân (quân số), số lượng các đơn vị, số
lượng này được sắp xếp theo một cơ cấu tổ chức, biên chế
xác định trong mỗi quân đội. Ví dụ, một tiểu đội bộ binh gồm


9 người, trung đội bộ binh gồm 3 tiểu đội; trong toàn quân
bao gồm tổng quân số, các quân chủng, binh chủng; các quân

khu, quân đoàn v.v.. Tuy nhiên, số lượng con người trong
sức mạnh chiến đấu của quân đội là yếu tố quan trọng nhằm
xác định lên tính quy định về lượng con người trong sức
mạnh chiến đấu của quân đội. Sự biến đổi về mặt số lượng
con người trong sức mạnh chiến đấu của quân đội quy định
trực tiếp đến sự biến đổi về lượng con người trong sức mạnh
chiến đấu của quân đội.
Đối với mỗi quân đội, số lượng này được tổ chức ra nhiều hay ít không
phải do sự áp đặt chủ quan, tuỳ ý của các giai cấp, nhà nước tổ chức ra
nó. Việc xác định số lượng con người trong sức mạnh chiến đấu của quân
đội phải tương ứng với một trình độ chất lượng của những con người ấy;
phù hợp với trình độ phát triển của vũ khí, trang bị kỹ thuật trong quân
đội; với tổ chức, biên chế của mỗi quân đội; với điều kiện kinh tế, tình
hình dân số và sự phát triển dân trí của đất nước. Việc xác định số lượng
con người trong sức mạnh chiến đấu của quân đội xuất phát từ chiến lược
xây dựng và bảo vệ tổ quốc, từ nhiệm vụ quốc phòng an ninh, từ mục
tiêu, phương hướng xây dựng quân đội, xây dựng lực lượng vũ trang của
mỗi quốc gia, dân tộc nhằm đảm bảo cho quân đội hoàn thành thắng lợi
mọi nhiệm vụ được giao.
Việc xác định số lượng con người tham ra quân đội phải căn cứ vào mối
quan hệ giữa nhiệm vụ quốc phòng an ninh và nhiệm vụ phát triển kinh tế xã
hội của đất nước, trên cơ sở phân tích đúng âm mưu thủ đoạn của kẻ thù, các
đối tượng tác chiến của quân đội trong hiện tại và tương lai; trong thời bình


và khi có chiến tranh xảy ra nhằm đảm bảo cho quân đội hoàn thành thắng
lợi mọi nhiệm vụ được giao.
Số lượng con người trong sức mạnh chiến đấu của quân đội được xác
định phải phù hợp với vũ khí, trang bị kỹ thuật trong quân đội. Việc xác định
số lượng con người trong điều kiện vũ khí, trang bị kỹ thuật thô sơ khác với

số lượng con người được tổ chức ra trong điều kiện vũ khí, trang bị kỹ thuật
hiện đại. Số lượng con người cũng tuỳ thuộc vào cách đánh, vào khoa học
nghệ thuật quân sự của mỗi nước…
Số lượng con người trong sức mạnh chiến đấu của quân đội không phải
là những con số cố định, bất biến mà luôn luôn vận động biến đổi tuỳ theo
nhiệm vụ chính trị trong từng thời kỳ, yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
phương hướng xây dựng quân đội, vào mô hình tổ chức quân đội trong thời
chiến hoặcs thời bình.
Xem xét số lượng con người không tách rời với chất lượng con người
trong sức mạnh chiến đấu của quân đội. Tuân thủ quan niệm chung về chất
lượng, khi tiếp cận khái niệm chất lượng con người trong sức mạnh chiến
đấu của quân đội, các nhà nghiên cứu đều có sự thống nhất khi nêu bật các
yếu tố, các thuộc tính cơ bản, chủ yếu của chất lượng con người. I.A.Gru-đinhin cho rằng: “Tính quy định về chất của bộ đội bao gồm thành phần giai
cấp, trình độ giác ngộ chính trị tinh thần, tính tổ chức kỷ luật, kỹ năng chiến
đấu của chiến sĩ và nghệ thuật chiến dịch, chiến thuật của cán bộ chỉ huy,
trình độ trang bị, khoa học quân sự và truyền thống...” [42,143]. Đại tướng
Võ Nguyên Giáp đã khẳng định: “Chất lượng của lực lượng vũ trang chủ
yếu biểu hiện ở trình độ giác ngộ chính trị, ở tinh thần chiến đấu, ở tinh thần
đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân. Chất lượng của lực lượng vũ trang còn
biểu hiện ở trình độ kỹ chiến thuật và trình độ tổ chức chỉ huy” [38, 57].


Cũng có quan niệm cho rằng: “Chất lượng của quân đội là tổng hợp các chỉ
tiêu nói lên trạng thái tinh thần, bản lĩnh chiến đấu, trình độ rèn luyện về tâm lý
và thể lực của quân đội” [98, 269].
Để có một quan niệm chính xác và đầy đủ hơn khái niệm chất lượng
con người trong sức mạnh chiến đấu của quân đội, cần có phương pháp
tiếp cận phù hợp.
Thứ nhất, khái niệm “chất lượng con người trong sức mạnh chiến đấu của
quân đội” gắn liền với khái niệm “chất con người trong sức mạnh chiến đấu

của quân đội”. Chất con người trong sức mạnh chiến đấu của quân đội là
tổng hợp các mặt, các thuộc tính quy định phẩm chất chiến đấu, khả năng
chiến đấu của con người trong quân đội; bao gồm phẩm chất chính trị, ý chí
chiến đấu, tính tổ chức kỷ luật, trạng thái tâm lý, kỹ năng, kỹ xảo chiến đấu,
sức khoẻ… Trên cơ sở các yếu tố cấu thành chất con người trong sức mạnh
chiến đấu của quân đội để xác định các yếu tố hợp thành chất lượng con
người trong sức mạnh chiến đấu của quân đội. Đó là: sự giác ngộ chính trị,
tính tổ chức kỷ luật nghiêm minh, ý chí quyết tâm cao, trình độ học vấn, tri
thức, sự thành thạo các kỹ năng, kỹ xảo trong thực hành chiến đấu, có sức
khoẻ tốt…
Thứ hai, khi xem xét chất lượng con người trong sức mạnh chiến đấu của
quân đội phải xác định rõ các thuộc tính, các mặt, các đặc trưng vốn có của
những con người quân nhân, từ các thuộc tính tạo nên chất lượng của từng
con người đến các yếu tố quyết định chất lượng tổng hợp của tổng thể những
con người có trong biên chế của quân đội. Mặc dù chất lượng của từng con
người là cơ sở cấu thành chất lượng của tổng số những con người, nhưng khi
xét con người trong mối quan hệ với sức mạnh chiến đấu của quân đội thì
phải xem xét các yếu tố trong mối quan hệ hữu cơ để tạo nên tính quy định


về chất của tổng số con người hợp thành. Các thuộc tính tạo nên chất lượng
của từng người hoàn toàn không đồng nhất với các thuộc tính tạo nên chất
lượng của mỗi tổ chức quân đội và của tổng số con người trong sức mạnh
chiến đấu của quân đội.
C.Mác viết rằng: “Sức mạnh tiến công của một đại đội kỵ binh hay sức
chống cự của một trung đoàn bộ binh khác hẳn sức mạnh tiến công và
phòng ngự của từng người lính kỵ binh hay bộ binh gộp lại” [65,480].
Theo Ph.Ăng ghen, sức mạnh chiến đấu của quân đội chỉ có thể được
hình thành trên cơ sở của sự liên kết những con người quân nhân lại với
nhau mà “sự hợp tác của nhiều cá nhân, sự dung hợp của nhiều sức thành

một hợp sức, sẽ tạo ra, theo cách nói của Mác, một “sức mới” nào đó căn
bản khác với tổng số những sức cá biệt hợp thành nó” [3, 181]. Nếu xem
xét chất lượng con người chỉ dừng lại ở những cá nhân đơn lẻ thì không
thể hiểu được sức mạnh chiến đấu do những con người đó tạo thành.
Thứ ba, các thuộc tính tạo nên chất lượng con người, trong chừng mực
nhất định, cũng là các yếu tố nằm trong sức mạnh chiến đấu của quân đội.
Do vậy, quá trình xem xét chất lượng con người không được chung chung,
trừu tượng, tách rời, cô lập, mà phải gắn với hoạt động quân sự xác định, đặt
trong tổng thể các yếu tố tạo thành sức mạnh chiến đấu của quân đội; từ đó
chỉ ra các mặt, các thuộc tính cơ bản quyết định chất lượng con người trong
sức mạnh chiến đấu của quân đội. Nếu xem xét chất lượng con người không
gắn với sức mạnh chiến đấu của quân đội thì nó cũng chỉ là một khái niệm
trống rỗng, không có nội dung hiện thực để phản ánh. Xét cho cùng, sức
mạnh chiến đấu của quân đội là biểu hiện cụ thể của chất lượng con người
trong hoạt động quân sự, mà hoạt động quân sự là hoạt động của con người
sử dụng những công cụ, phương tiện có tính chất bạo lực nhằm tạo nên sức


mạnh để chiến đấu để chiến thắng kẻ thù. Nếu không hiểu rõ khái niệm sức
mạnh chiến đấu của quân đội thì không thể xác định đúng chất lượng con
người trong sức mạnh chiến đấu của quân đội.
Thứ tư, chất lượng của sự vật là sự tổng hợp các mặt, các thuộc tính, các
đặc trưng vốn có, nên quá trình xem xét chất lượng con người trong sức
mạnh chiến đấu của quân đội, một mặt, cần thấy được các quan hệ chất
lượng cơ bản, các thuộc tính chủ yếu quyết định, như: phẩm chất chính trị
tinh thần, bản lĩnh chiến đấu, sự tinh thông nghệ thuật quân sự, tính tổ chức
kỷ luật... Từ đó, chú trọng xây dựng chất lượng tổng hợp cho bộ đội. Mặt
khác, các thuộc tính tạo nên chất lượng con người luôn rất trừu tượng và
phức tạp, sự biến đổi của chúng, đặc biệt là sự biến đổi của yếu tố chính trị,
tinh thần, trạng thái tâm lý... không thể nhận thức đầy đủ ngay được, mà

phải qua quá trình khảo nghiệm, thử thách trong thực tiễn chiến đấu và công
tác của mỗi cán bộ, chiến sĩ trong quân đội.
Trong các thuộc tính quy định chất lượng con người trong sức mạnh
chiến đấu của quân đội, bản chất giai cấp, sự giác ngộ chính trị, tinh thần
được xem là yếu tố cơ bản hàng đầu. Nó là cơ sở và điều kiện để xây dựng,
nâng cao chất lượng con người; là cơ sở cho việc xây dựng sức mạnh tổng
hợp của quân đội. Theo Ph.Ăng ghen, xem xét khả năng chiến đấu của một
quân đội thì trạng thái chính trị - tinh thần là một chỉ tiêu quan trọng nhất.
Trạng thái chính trị tinh thần bao gồm một hệ thống những yếu tố: quan
điểm, lập trường, thái độ chính trị, tư tưởng, tình cảm... Nó có vai trò tác
động rất to lớn đến toàn bộ phẩm chất và năng lực hoạt động chiến đấu của
con người. Do đó, để đánh giá đúng sức chiến đấu của bộ đội phải hiểu biết
không chỉ về trang bị, về trình độ kỷ luật, mà còn phải hiểu biết về sự gan


dạ, lòng dũng cảm, ý chí chiến đấu và sự sẵn sàng chịu đựng gian khổ trong
chiến tranh.
Các nhà lý luận quân sự của giai cấp tư sản cũng đánh giá rất cao ý
nghĩa sức mạnh tinh thần của quân đội. Na-pô-lê-ông cho rằng: “Lực lượng
tinh thần mạnh gấp ba lần lực lượng thể chất”. Còn C.Ph.Clau-dơ-vít, nhà
quân sự lỗi lạc của giai cấp tư sản khẳng định: “Lực lượng tinh thần thấm
sâu vào toàn bộ yếu tố chiến tranh”, “Ý chí với tính cách là một đại lượng
tinh thần, chính là cái thúc đẩy và chỉ huy toàn bộ khối lượng vật chất” [14,
126]. Ông đã ví: “Những hiện tượng thể chất cũng giống như cái cán gỗ,
trong khi hiện tượng tinh thần là cái mũi nhọn thực sự, đúc bằng kim loại
quý” [14, 127].
Sở dĩ trong chiến tranh, tinh thần của các lực lượng tham chiến lại giữ
một vai trò quan trọng có ý nghĩa trực tiếp quyết định đến sự thành bại, bởi
chiến tranh là một hiện tượng đặc biệt phức tạp và nguy hiểm. Nếu như mục
đích của các lĩnh vực hoạt động khác của con người là ở chỗ đạt được ít hay

nhiều kết quả và sự mất mát về sinh mạng con người chỉ là một hiện tượng
ngẫu nhiên, trong những điều kiện bình thường là cá biệt và tương đối hiếm,
thì trong chiến tranh, điều đó lại là một hiện tượng tự nhiên, một “quy luật
nghiệt ngã” của mỗi bên tham chiến. Muốn thực hiện bất kỳ nhiệm vụ chiến
đấu nào, mỗi bước trong tiến công hay mỗi ngày đêm trong phòng ngự đều
có sự đổ máu, đều liên quan đến sinh mạng của mỗi người. Do vậy, vũ khí
càng nguy hiểm đến tính mạng của con người bao nhiêu thì tinh thần của
những người bị lôi cuốn vào cuộc chiến tranh lại càng trở nên quan trọng
bấy nhiêu. Yếu tố tinh thần của các bên tham chiến thực chất là chất lượng
con người trong quá trình chiến đấu. Thông qua hoạt động chiến đấu của con
người mà yếu tố tinh thần được bộc lộ ra và có vai trò trực tiếp quyết định.


Khi phân tích vai trò của nhân tố chính trị, tinh thần, V.I.Lênin đã nhấn
mạnh: “Trong mọi cuộc chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi đều tuỳ thuộc vào
tinh thần của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường” [58, 147]. Ý chí
đấu tranh, ý chí quyết thắng là biểu hiện cao nhất, tập trung vững chắc nhất
của tinh thần bộ đội. Lịch sử các cuộc chiến tranh đã chứng minh rằng, vũ
khí, thể lực, trí lực của người chiến binh sẽ được phát huy và sử dụng có
hiệu quả hơn chừng nào mà sự giác ngộ chính trị, tinh thần của bộ đội cao
hơn, rằng nếu không chú ý đúng mức đến yếu tố chính trị, tinh thần của bộ
đội thì cho dù vũ khí, trang bị kỹ thuật chiến đấu có đầy đủ và hiện đại đến
đâu cũng không đảm bảo được thắng lợi trên chiến trường. V.I.Lênin cho
rằng, khi mọi người đã hiểu rõ mục tiêu chiến đấu, con đường đi tới đích, tin
tưởng vào thắng lợi, nhận rõ ý nghĩa của cuộc chiến đấu thì mới thực sự tự
giác và xả thân “chiến đấu” dù có phải trải qua nhiều khó khăn thử thách.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá rất cao vai trò nhân tố chính trị, tinh
thần của những đội quân cách mạng, Người viết: “Tuy có những vũ khí tối
tân, nhưng chỉ dựa vào vũ khí và binh lực thì không thể thắng nổi quân địch.
Bằng chứng là Đức đã dùng được cả một kho tàng nguyên liệu, máy móc ở

châu Âu, động viên được hàng vạn, hàng triệu binh sĩ, đã chinh phục được
một phần lớn các nước lớn nhỏ ở Âu châu để làm tay sai cho mình, thế mà
không thắng được Liên Xô. Vì Liên Xô đã biết khéo dùng tất cả cái hay của
phép đánh trận và đã lợi dụng được hết lực lượng tinh thần của binh sĩ đã
biết dùng vũ khí ấy” [77, 221]. Trong dịp kỷ niệm sáu tháng kháng chiến
chống Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Tuy khí giới ta còn
kém, kinh nghiệm ta còn ít, nhưng lòng kiên quyết, chí hy sinh của tướng sĩ
ta đã đem tinh thần mà chiến thắng vật chất, hàng nghìn vị tướng sĩ ta đã lập
nên những chiến công oanh liệt vẻ vang” [82, 151].


Đảng ta cho rằng yếu tố quyết định sức mạnh của các lực lượng vũ trang
cách mạng là ở tinh thần chiến đấu, ở bản chất giai cấp vô sản của nó dưới
sự lãnh đạo của Đảng chứ không phải ở vũ khí, dù khi vũ khí còn ít và thô
sơ hay khi đã nhiều và hiện đại. Vì thế trong bất cứ giai đoạn nào của việc
xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, Đảng ta cũng coi xây dựng về
chính trị là quan trọng nhất. Thực tiễn cũng chứng minh rằng, khi không có
sự giác ngộ chính trị, khi trạng thái tinh thần, tâm lý bị khủng hoảng cao độ
thì dù có được vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại đến đâu, người chiến binh
cũng không thể tạo nên sức mạnh chiến đấu trên chiến trường.
Tính tổ chức và kỷ luật là một thuộc tính quan trọng tạo nên chất lượng
con người trong sức mạnh chiến đấu của quân đội. Tính tổ chức và kỷ luật
là yếu tố tạo nên sự đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, biến ý chí, tư
tưởng thành sức mạnh vật chất của người chiến binh trên chiến trường. Nhờ
có tính tổ chức và kỷ luật mà người quân nhân mới có thể “vất bỏ được
những giới hạn cá nhân và phát triển được những tiềm lực loài của mình”
[65, 480], để tạo nên sức mạnh tập thể lớn nhất trên chiến trường. Tinh thần
kỷ luật nghiêm minh chặt chẽ, tuyệt đối chấp hành luật lệ, điều lệnh và mệnh
lệnh của người chỉ huy một cách chính xác là cơ sở để tạo nên sức chiến đấu
và tinh thần luôn luôn sẵn sàng chiến đấu của người quân nhân.

Ph.Ăng ghen cho rằng: Nhiệt tình dân tộc có một ý nghĩa lớn lao đối với
cuộc chiến đấu nhưng nếu không có kỷ luật và tính tổ chức mà chỉ dựa vào
nhiệt tình thì không một ai có thể chiến đấu thắng lợi được. Theo V.I.Lênin:
“Một đội chiến đấu có tổ chức, đoàn kết chặt chẽ mà có nghị lực hăng hái thì
sẽ là một lực lượng ghê gớm” [48, 425]. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng viết
rằng: “Trong quân sự phải kiên quyết và bạo dạn. Bạo dạn dũng cảm không
phải là liều. Liều là dại. Dũng cảm là khôn. Kiên quyết và bạo dạn không


phải là một người mà là toàn bộ tất cả mọi người. Muốn toàn bộ kiên quyết
và bạo dạn thì phải có kỷ luật. Kỷ luật là động lực giữ sức mạnh của quân
đội” [85, 458]. “Quân đội mạnh là nhờ giáo dục khéo, nhờ chính sách đúng
và nhờ ở kỷ luật nghiêm” [90, 560]. Thực tiễn chứng minh rằng một quân
đội dù được trang bị đầy đủ vũ khí, lương thực nhưng không có kỷ luật,
không được tổ chức chặt chẽ thì cũng không thể tạo nên sức mạnh chiến đấu
lớn nhất để chiến thắng kẻ thù.
Trình độ học vấn, tri thức khoa học mà người quân nhân có được là một
yếu tố cấu thành chất lượng con người trong sức mạnh chiến đấu của quân
đôị. Trình độ học vấn, tri thức khoa học là cơ sở để mỗi người lính biết phân
tích, đánh giá tình hình, xác định quyết tâm và xử trí mau lẹ, chính xác các
tình huống xảy ra trong chiến đấu. Đặc biệt trong chiến tranh hiện đại, sử
dụng vũ khí công nghệ cao, trình độ học vấn và tri thức khoa học của người
quân nhân càng có ý nghĩa quan trọng và ngày càng tăng lên cùng với những
sự thay đổi quan trọng trong ngành quân sự. Việc xem xét chất lượng con
người trong cuộc chiến tranh hiện đại không chỉ dừng lại ở sự chịu đựng hy
sinh, gian khổ của người chiến binh trước sự ác liệt của chiến tranh; ở sự
cảm tử, sẵn sàng hy sinh vì tổ quốc, mà còn phải xem xét ở cả phương diện
trí tuệ, sự thông minh sáng tạo, sự tinh thông nghệ thuật quân sự và cả việc
sử dụng thành thạo các loại vũ khí công nghệ cao của mỗi người lính trên
chiến trường.

Phrun-de, nhà quân sự lỗi lạc của đất nước Xô-Viết cho rằng: “Nếu
người lính mà không có một trình độ kiến thức khá thì việc tiến hành chiến
đấu hiện nay sẽ không có hy vọng vì những cuộc chiến đấu hiện nay rất
phức tạp và đồng thời hết sức khác nhau” [100, 137]. C.Ph.Clau-dơ-vít đã
viết: “Nếu người ta suy nghĩ sâu xa hơn nữa để thử tìm xem chiến tranh đòi


hỏi những người tham gia phải có đức tính gì, chúng ta sẽ thấy rằng đức tính
trí tuệ chiếm hàng đầu” [14, 84]. Còn theo V.I.Lê nin, người có năng lực trí
tuệ mới có được tính nhạy bén chính trị cần thiết để giải quyết một cách
chính xác mau lẹ những vấn đề chính trị phức tạp.
Trình độ kỹ, chiến thuật, trình độ chỉ huy phản ánh tính quy định về chất
của bộ đội. Sức chiến đấu của tổ chức quân sự chỉ có thể có được khi bộ đội
được huấn luyện đầy đủ các kỹ năng, kỹ xảo chiến đấu, sử dụng thành thạo
các loại vũ khí, trang bị kỹ thuật thô sơ và hiện đại, biết vận dụng một cách
linh hoạt, sáng tạo các hình thức chiến thuật và nghệ thuật quân sự phù hợp.
Vũ khí, trang bị kỹ thuật dù có hiện đại đến đâu cũng chỉ có thể biến thành
sức mạnh khi tìm ra được những hình thức đúng đắn để sử dụng nó, khi bộ
đội biết vận dụng thành thạo các hình thức chiến thuật, nghệ thuật cách đánh
và kỹ năng, kỹ xảo thực hành chiến đấu.
Trình độ kỹ, chiến thuật, khả năng chiến đấu, ý chí chiến đấu, tình trạng
chính trị tinh thần… của mỗi quân nhân phụ thuộc rất lớn vào trình độ quản
lý, chỉ huy của đội ngũ cán bộ, sĩ quan, tướng lĩnh trong quân đội, phụ thuộc
vào khả năng nắm bắt được các quy luật của chiến tranh, khả năng dự đoán
các tình huống bất ngờ sảy ra và khả năng áp dụng các hình thức chiến thuật
phù hợp của người chỉ huy. Trong mọi thời đại và trong tất cả các quân đội,
người cán bộ chỉ huy là nòng cốt tổ chức và đại diện cho sức mạnh chiến
đấu của quân đội, là người đại diện cho khoa học nghệ thuật quân sự, truyền
thống quân sự. Người chỉ huy ở bất kỳ cấp nào không những là người chấp
hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh của cấp trên, mà còn biến những mệnh lệnh,

chỉ thị của cấp trên thành hành động lãnh đạo, chỉ huy bộ đội hoàn thành
mội nhiệm vụ được giao. Họ phải động viên cổ vũ cấp dưới lập chiến công
bằng phẩm chất và tài năng đánh giá tình hình của mình, bằng năng lực


×