Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ CHẤT LƯỢNG CÔNG tác vận ĐỘNG NHÂN dân xây DỰNG cơ sở địa PHƯƠNG VỮNG MẠNH TRÊN địa bàn GIA LAI , KON TUM của BINH đoàn tây NGUYÊN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (440.98 KB, 84 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân. Do vậy công tác vận động
quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng của Đảng là nhiệm vụ có ý nghĩa
chiến lược. Công tác dân vận của Quân đội là một bộ phận trong công tác vận động
cách mạng của Đảng, là nguyên tắc xây dựng Quân đội kiểu mới, một nhiệm vụ
thuộc chức năng, bản chất, truyền thống của Quân đội. Trong đó, công tác vận
động nhân dân xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh là một mặt của công tác dân
vận. Tiến hành công tác vận động nhân dân xây dựng cơ sở địa phương vững
mạnh chính là góp phần giữ vững sự ổn định về chính trị; nâng cao hiệu lực, hiệu
quả lãnh đạo, điều hành của cấp uỷ, chính quyền địa phương và hoạt động của các
tổ chức quần chúng; tích cực tham gia các chương trình phát triển kinh tế, văn hoá
xã hội, xoá đói giảm nghèo, xây dựng cơ sở hạ tầng; thực hiện các chính sách xã
hội; củng cố quốc phòng – an ninh và nâng cao đời sống, dân trí của nhân dân.
Trong giai đoạn cách mạng mới, công tác vận động nhân dân xây dựng cơ sở
địa phương vững mạnh của Quân đội lại càng có vai trò to lớn góp phần thực hiện
thắng lợi mục tiêu cơ bản ở cơ sở mà Chỉ thị 58TTg của Thủ tướng Chính phủ đã
xác định. Vấn đề này lại càng có ý nghĩa quan trọng trên địa bàn Gia Lai, Kon
Tum. Bởi vì: trong những năm qua quán triệt và thực hiện đường lối đổi mới của
Đảng, các cấp, các ngành đã chú trọng chỉ đạo tập trung xây dựng cơ sở địa
phương vững mạnh. Tuy nhiên, hiện còn không ít những cơ sở yếu, kém, diễn biến
phức tạp. Ở một số xã (phường) đội ngũ cán bộ, đảng viên vừa yếu, vừa thiếu, hoạt
động của cấp uỷ, chính quyền và các đoàn thể quần chúng chưa phát huy hết chức
năng, đời sống của nhân dân còn nhiều khó khăn; các tôn giáo hoạt động trái phép
ngày càng gia tăng. Bên cạnh đó các thế lực thù địch đang thực hiện chiến lược
“diễn biến hoà bình” kết hợp gây bạo loạn lật đổ chính quyền cách mạng của ta ở
cơ sở để thiết lập chính quyền phản cách mạng, tiến tới thành lập “Nhà nước Đề
ga” độc lập tách khỏi Nhà nước Việt Nam thống nhất.
Trước tình hình đó, công tác vận động nhân dân xây dựng cơ sở địa phương
vững mạnh trên địa bàn Gia Lai, Kon Tum hiện nay vừa có ý nghĩa chiến lược lâu
dài, vừa là nhiệm vụ cấp bách của Đảng và Nhà nước ta.


Binh đoàn Tây Nguyên là đơn vị chủ lực trực thuộc Bộ, đóng quân trên địa bàn
Gia Lai, Kon Tum. Trong những năm qua, quán triệt và thực hiện các chỉ thị, nghị
quyết của Đảng, Nhà nước và quân đội về công tác VĐQCND. Công tác vận động
nhân dân xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh trên địa bàn Gia Lai, Kon Tum
của Binh Đoàn đã đạt được nhiều kết quả to lớn, góp phần xây dựng cơ sở địa
phương vững mạnh toàn diện. Song so với yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới,
công tác vận động nhân dân xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh của Binh đoàn
Tây Nguyên cũng còn nhiều hạn chế và bất cập.
Xuất phát từ vị trí chiến lược của địa bàn Tây Nguyên với cách mạng cả nước;
để phát huy những kết quả đã đạt được, kịp thời khắc phục những hạn chế, thiếu


sót đòi hỏi phải đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện, làm sáng tỏ về chất lượng
công tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh, tìm ra những giải pháp phù hợp để
nâng cao chất lượng công tác này trên địa bàn Gia Lai, Kon Tum của Binh đoàn
Tây Nguyên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Với lý do trên tác giả chọn đề tài "Chất lượng công tác vận động nhân dân
xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh trên địa bàn Gia Lai, Kon Tum của
Binh đoàn Tây Nguyên hiện nay" là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
vừa mang tính cấp bách vừa cơ bản lâu dài.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Công tác vận động quần chúng là một nhiệm vụ chiến lược của Đảng, do đó đã
có rất nhiều bài nói và viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các công
trình nghiên cứu của các nhà khoa học dưới các góc độ khác nhau. Đáng lưu ý gần
đây có các đề tài như:
- Tổng cục Chính trị: "Đổi mới công tác dân vận của Quân đội nhân dân
Việt Nam", Nxb QĐND, Hà Nội, 1996;
- Vũ Oanh: "Đổi mới công tác dân vận của Đảng, chính quyền, mặt trận và
các đoàn thể", Nxb CTQG, Hà Nội, 1996;
- Vũ Đình Tấn: "Đổi mới công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam

trong giai đoạn hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh", Luận án tiến sĩ Xây dựng
Đảng, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội, 2001...
- Nguyễn Văn Chỉnh: “Tăng cường công tác dân vận của các Trung đoàn
làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ
xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội, 2000…
Những công trình trên đã đi sâu nghiên cứu, lý giải trên các góc độ khác
nhau những vấn đề cơ bản của công tác vận động nhân dân. Tuy nhiên, chưa có
một công trình nào đi sâu nghiên cứu, giải quyết toàn diện, có hệ thống về Chất
lượng công tác vận động nhân dân xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh trên địa
bàn Gia Lai, Kon Tum của Binh đoàn Tây Nguyên. Vì vậy tác giả chọn đề tài này
để nghiên cứu làm cơ sở cho việc vận dụng tiến hành công tác vận động nhân dân
xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh trên địa bàn Gia Lai, Kon Tum của Binh
đoàn Tây Nguyên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng trong giai đoạn mới.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Mục đích của luận văn:
Trên cơ sở luận giải góp phần làm sáng tỏ lý luận và thực tiễn về chất lượng
công tác vận động nhân dân xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh trên địa bàn
Gia Lai, Kon Tum của Binh đoàn Tây Nguyên, luận văn đề xuất phương hướng,


yêu cầu và những giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng công tác này của Binh
đoàn Tây Nguyên, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
* Nhiệm vụ của luận văn:
- Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về chất lượng công tác vận động nhân
dân xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh trên địa bàn Gia Lai, Kon Tum của
Binh đoàn Tây Nguyên.
- Đánh giá đúng thực trạng chất lượng công tác vận động nhân dân xây dựng
cơ sở địa phương của Binh đoàn Tây Nguyên hiện nay, rút ra nguyên nhân và một
số kinh nghiệm chủ yếu.
- Đề xuất phương hướng, yêu cầu và một số giải pháp cơ bản nâng cao chất

lượng công tác vận động nhân dân xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh trên địa
bàn Gia Lai, Kon Tum của Binh đoàn Tây Nguyên hiện nay.
* Đối tượng nghiên cứu:
Chất lượng công tác vận động nhân dân xây dựng cơ sở địa phương vững
mạnh của Binh đoàn Tây Nguyên.
* Phạm vi nghiên cứu:
Thực tiễn hoạt động công tác vận động nhân dân xây dựng cơ sở địa phương
vững mạnh của các đơn vị thuộc Binh đoàn Tây Nguyên đóng quân trên địa bàn
Gia Lai, Kon Tum (bao gồm các đơn vị thuộc Sư đoàn 320; Sư đoàn 10 và các Lữ
đoàn trực thuộc Binh đoàn) thời gian từ 1996 đến nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn
* Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên quan điểm, lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, các Nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của Đảng, Nhà nước,
Quân đội và Binh đoàn Tây Nguyên về công tác vận động nhân dân để nghiên cứu.
* Cơ sở thực tiễn: Thực tiễn tiến hành công tác vận động nhân dân xây dựng
cơ sở địa phương vững mạnh trên địa bàn Gia Lai, Kon Tum của Binh đoàn Tây
Nguyên; các văn bản báo cáo tổng kết và các số liệu điều tra khảo sát về công tác
vận động nhân dân xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh của các quân khu, quân
đoàn, các địa phương đã được công bố. Trên cơ sở các nguồn tài liệu đó, tác giả
tiến hành tổng hợp, xử lý, chọn lọc làm căn cứ để luận giải những nội dung của
luận văn.
* Phương pháp nghiên cứu: Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin; luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp của các khoa học
chuyên ngành, liên ngành; trong đó đặc biệt coi trọng các phương pháp: Phân tích,
tổng hợp; kết hợp lôgíc với lịch sử, so sánh; điều tra; khảo sát; tổng kết thực tiễn
và phương pháp sử dụng chuyên gia.
5. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp luận cứ khoa học về công
tác vận động nhân dân xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh trên địa bàn Gia
Lai, Kon Tum của Binh đoàn Tây Nguyên; giúp cho lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị



thuộc Binh đoàn Tây Nguyên tham khảo, vận dụng trong quá trình tiến hành công
tác vận động nhân dân xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh đáp ứng mục tiêu,
yêu cầu nhiệm vụ cách mạng hiện nay.
6. Kết cấu của luận văn
Gồm: Phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham khảo
và phụ lục
Chương 1
CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG NHÂN DÂN
XÂY DỰNG CƠ SỞ ĐỊA PHƯƠNG VỮNG MẠNH TRÊN ĐỊA BÀN GIA
LAI - KON TUM CỦA BINH ĐOÀN TÂY NGUYÊN – MỘT SỐ VẤN ĐỀ
CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Công tác vận động nhân dân và chất lượng công tác vận động nhân
dân xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh trên địa bàn Gia Lai, Kon Tum
của Binh đoàn Tây Nguyên
1.1.1. Công tác vận động nhân dân xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh
trên địa bàn Gia Lai, Kon Tum của Binh đoàn Tây Nguyên
* Công tác vận động nhân dân xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh
Đảng Cộng sản Việt Nam - Người tổ chức và lãnh đạo cách mạng Việt Nam,
đã đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đảng đã lãnh
đạo nhân dân ta đoàn kết chiến đấu làm cách mạng tháng Tám thành công, kháng
chiến thắng lợi, giành độc lập tự do và thống nhất đất nước xây dựng CNXH và
bảo vệ Tổ quốc XHCN. Có được những thành tựu vĩ đại đó là do Đảng ta đã đề ra
được đường lối cách mạng đúng đắn phù hợp với lợi ích của dân tộc và nguyện
vọng của nhân dân, tập hợp và phát huy cao độ được sức mạnh của khối đoàn kết
toàn dân. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn xác định và đánh giá đúng vai trò, sức mạnh to lớn của nhân dân: "Lực
lượng của dân rất to, việc dân vận rất quan trọng, dân vận kém thì việc gì cũng
kém, dân vận khéo thì việc gì cũng thành công" [23, tr.700] và coi công tác

VĐQCND là một bộ phận cấu thành rất quan trọng trong toàn bộ hoạt động cách
mạng của Đảng, là điều kiện để Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân nhằm củng cố
bản chất cách mạng của Đảng và phát huy sức mạnh của nhân dân trong công cuộc
cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân và cách mạng XHCN.


Cơ sở để Đảng ta đề ra và từng bước hoàn chỉnh quan điểm, chủ trương về
công tác VĐQCND trong sự nghiệp cách mạng được xuất phát từ sự vận dụng
đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của
QCND. Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định: QCND là người sáng tạo ra lịch sử, là
động lực căn bản của mọi cuộc cách mạng. C.Mác viết: “Cũng giống như tôn giáo
không tạo ra con người mà con người tạo ra tôn giáo. Ở đây cũng vậy không phải
chế độ Nhà nước tạo ra nhân dân mà nhân dân tạo ra chế độ nhà nước” [18, tr.350].
Song chủ nghĩa Mác -Lênin cũng chỉ ra rằng: để quần chúng phát huy được sức
mạnh to lớn đó thì họ phải được giáo dục, tổ chức lại để có được các hành động tự
giác. Vì lẽ đó trong cuộc cách mạng vô sản - một cuộc cải biến cách mạng to lớn,
sâu sắc và triệt để nhất trong lịch sử loài người, tất yếu phải huy động được sức
mạnh của đông đảo QCND. Giai cấp công nhân không chỉ là người lãnh đạo mà
còn phải liên minh chặt chẽ với các giai cấp, tầng lớp bị áp bức bóc lột khác trong
xã hội, từ đó mà tập hợp, tổ chức hướng dẫn quần chúng đấu tranh. Nếu không
thấy được sức mạnh của quần chúng, hoặc không làm tốt công tác vận động quần
chúng thì không thể thu phục, lôi kéo quần chúng về phía mình. Lênin đã chỉ rõ:
"Không có sự đồng tình và ủng hộ của đại đa số nhân dân lao động đối với đội tiền
phong của mình, tức là đối với giai cấp vô sản thì cách mạng vô sản không thể thành
công được" [16, tr.251].
Thấm nhuần sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng vào hoàn
cảnh nước ta, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến công tác
VĐQCND trong sự nghiệp cách mạng. Ngay từ những nghị quyết đầu tiên cho đến
nay Đảng ta đều khẳng định: "Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng", "dựng
nước và giữ nước là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân". Trong tác phẩm "Đường

cách mệnh" Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Cách mệnh là việc chung của dân chúng
chứ không phải việc một, hai người" [20, tr.261]. Do đó "phải vận động tất cả lực
lượng của mỗi người dân, không để sót một người nào góp thành lực lượng của toàn
dân để thực hiện những việc nên làm. Những công việc mà Chính phủ và đoàn thể đã
giao cho" [23, tr.698]. Vì theo Người "Dân chúng đồng lòng thì việc gì cũng làm
được, dân chúng không ủng hộ thì việc gì cũng không nên", "nước lấy dân làm gốc”,
“gốc có vững cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân" [21, tr.410].


Từ quan điểm đúng đắn đó, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam,
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi công tác VĐQCND là vấn đề chiến
lược, là một nguyên tắc xây dựng Đảng. Tiến hành công tác VĐQCND là: Xây
dựng cái gốc vững chắc của cách mạng, của chế độ và của mọi hoạt động giải
phóng giai cấp, giải phóng con người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
XHCN. Thông qua làm tốt công tác VĐQCND mà giữ vững mối quan hệ chặt chẽ
giữa Đảng và quần chúng, quần chúng tin yêu Đảng, đi theo Đảng vượt qua mọi
khó khăn thử thách đưa đất nước đến ngày hôm nay.
Hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng nước ta đang chuyển sang
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Đánh giá tổng kết về công tác VĐQCND
trong sự nghiệp đổi mới, Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định:
"Chính những ý kiến nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình
thành đường lối đổi mới của Đảng. Cũng do nhân dân ủng hộ đường lối đổi mới,
dũng cảm phấn đấu vượt qua biết bao khó khăn thử thách mà công cuộc đổi mới
đạt được những thành tựu hôm nay. Để tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới tiến lên
giành thắng lợi lớn hơn cần thực hiện tốt hơn việc mở rộng và tăng cường khối
đoàn kết toàn dân cả trong nước và nước ngoài. Phát huy dân chủ, động viên tối đa
sức mạnh của toàn thể dân tộc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
văn minh" [13, tr.73].
Như vậy, từ những phân tích trên có thể khẳng định công tác VĐQCND là một

bộ phận rất quan trong trong hoạt động lãnh đạo của Đảng nhằm tăng cường mối
liên hệ máu thịt giữa Đảng và nhân dân. Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo cách
mạng bằng việc định ra đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn; bằng việc tuyên
truyền, giáo dục, tổ chức thực hiện và kiểm tra quá trình tổ chức thực hiện đường
lối đó. Trong qui trình lãnh đạo của Đảng, việc định ra đường lối lãnh đạo đúng
đắn là vấn đề cơ bản nhất, nhưng để đường lối đó đi vào cuộc sống, thành các
phong trào cách mạng, thành ý thức tự giác trong hoạt động thực tiễn của mỗi
người dân nhất thiết phải thông qua công tác vận động quần chúng của Đảng và
của các tổ chức xã hội. Vì vậy, trong điều kiện Đảng cầm quyền, tiến hành công
tác VĐQCND là trách nhiệm của mọi chủ thể trong hệ thống chính trị dưới sự lãnh
đạo của Đảng.


Vấn đề này càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với công tác xây
dựng CSĐP vững mạnh. Vì CSĐP là nơi trực tiếp thực hiện mọi đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; là cầu nối giữa toàn bộ hệ thống
chính trị với nhân dân; hàng ngày tiếp xúc và làm việc với nhân dân, nắm bắt và
phản ánh tâm tư nguyện vọng của nhân dân, tổ chức và VĐND thực hiện đường
lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; tăng cường đại đoàn kết toàn
dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển
kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống dân cư. Đồng thời CSĐP cũng là nơi trực
tiếp đấu tranh giữa lực lượng cách mạng và lực lượng phản cách mạng.
Từ vai trò quan trọng đó, nên Đảng ta chỉ rõ: Cần phải làm tốt công tác
VĐQCND, huy động sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân và của cả hệ thống
chính trị, tập trung xây dựng CSĐP vững mạnh toàn diện. Vì xây dựng CSĐP
vững mạnh chính là xây dựng nền tảng vững chắc của cách mạng. Sự ổn định về
chính trị, vững mạnh về kinh tế, quốc phòng - an ninh ở cơ sở là yếu tố hàng đầu
quyết định sự tồn tại của chế độ XHCN. Chỉ thị 58/TTg của Thủ tướng Chính phủ
đã khẳng định: "Xây dựng cơ sở vững mạnh là vấn đề có ý nghĩa chiến lược trong
tình hình hiện nay và là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách của toàn Đảng, toàn dân

và của cả hệ thống chính trị, đòi hỏi sự cố gắng và sự phối hợp đồng bộ kiên trì của
tất cả các cấp, các ngành" [37].
Quân đội nhân dân Việt Nam từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu do
Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức và lãnh đạo. Ngay từ khi mới thành lập, Đảng
ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định: "Đó là một quân đội kiểu mới, quân
đội công nông dưới sự lãnh đạo của Đảng đủ sức làm nòng cốt cho toàn dân
chống lại bạo lực của kẻ thù. Quân đội đó mang bản chất giai cấp công nhân,
tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc”. Chức năng của quân đội kiểu mới đó
“không phải chỉ là đội quân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, mà còn là đội
quân chính trị thực hiện công tác vận động quần chúng nhân dân của Đảng và
biết lao động sản xuất, thực hành tiết kiệm để cải thiện đời sống bộ đội…” [30,
tr.11].
Quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng, trong suốt quá trình xây dựng, chiến
đấu và trưởng thành, Quân đội ta luôn hoàn thành tốt các chức năng, nhiệm vụ của
mình. Đặc biệt đối với thực hiện chức năng "đội quân công tác", Quân đội ta đã


thực sự thể hiện là một lực lượng có khả năng to lớn trong VĐND ở mọi địa bàn,
mọi tình huống, tham gia có hiệu quả trong các cuộc vận động chính trị của Đảng
cả trong thời kỳ đất nước có chiến tranh cũng như trong giai đoạn xây dựng
CNXH. Trong đó tiến hành công tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh luôn
được xác định là một nhiệm vụ chính trị trọng tâm, một nội dung then chốt của
công tác dân vận, một bộ phận của công tác vận động cách mạng của Đảng và đã
trở thành bản chất, truyền thống tốt đẹp của Quân đội ta.
Trong giai đoạn cách mạng mới, với tư cách là lực lượng chính trị tin cậy của
Đảng, một bộ phận trong hệ thống chính trị XHCN, Quân đội cần phải tiến hành
tốt công tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh toàn diện. Chỉ thị 137/ ĐUQSTW
của Đảng uỷ Quân sự Trung ương đã chỉ rõ: "Phát huy truyền thống tốt đẹp về
quan hệ "cá, nước" quân dân, truyền thống VĐND thực hiện đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước; giúp đỡ nhân dân trong sản xuất và đời sống, thực

hiện nghiêm chỉnh lời dạy của Bác Hồ về kỷ luật trong quan hệ quân dân; thực
hiện toàn dân tham gia xây dựng địa phương, xây dựng cơ sở chính trị vững
mạnh nhằm góp phần đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới" [15].
* Công tác vận động nhân dân xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh trên địa
bàn các tỉnh Gia Lai, Kon Tum của Binh đoàn Tây Nguyên.
Binh đoàn Tây Nguyên là đơn vị chủ lực cơ động, sinh ra và trưởng thành trên
mảnh đất Tây Nguyên, đã nhiều năm gắn bó với Đảng bộ, chính quyền và nhân
dân các tỉnh Gia Lai, Kon Tum. Chức năng, nhiệm vụ của Binh đoàn hiện nay là
huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, kết hợp thực hiện tiến hành công tác dân vận và
tham gia lao động sản xuất. Trong đó tiến hành công tác VĐND xây dựng CSĐP
vững mạnh trên địa bàn các tỉnh Gia Lai, Kon Tum được Đảng uỷ, Bộ Tư lệnh
Binh đoàn xác định là một trong những nhiệm vụ chính trị trọng tâm, một nội dung
then chốt của công tác dân vận nhằm góp phần xây dựng cơ sở chính trị địa
phương vững mạnh, khu vực phòng thủ vững chắc vành đai an toàn, nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần, dân trí của nhân dân.
Qua nghiên cứu bước đầu có thể trình bày quan niệm về công tác VĐND xây
dựng CSĐP vững mạnh trên địa bàn Gia Lai, Kon Tum của Binh đoàn Tây
Nguyên như sau:


Công tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh trên địa bàn Gia Lai, Kon Tum
của Binh đoàn Tây Nguyên là một nội dung then chốt trong công tác dân vận của
Quân đội, một bộ phận của công tác vận động cách mạng của Đảng. Đó là công
tác tuyên truyền vận động, hướng dẫn nhân dân các tỉnh Gia Lai, Kon Tum tích
cực thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước; hăng hái tham gia xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở (xã, phường) vững
mạnh; phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội; củng cố quốc phòng - an ninh, góp phần
làm thất bại chiến lược "diễn biến hoà bình" bạo loạn lật đổ của kẻ thù và sẵn
sàng đối phó thắng lợi với các tình huống khác.
Quan niệm trên chỉ ra những nội dung cơ bản sau:

Một là: Công tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh trên địa bàn Gia Lai,
Kon Tum của Binh đoàn Tây Nguyên là một nội dung then chốt trong công tác dân
vận của Quân đội, một bộ phận của công tác vận động cách mạng của Đảng.
Quân đội nhân dân Việt Nam ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta và Chủ tịch
Hồ chí Minh đã xác định: Tiến hành công tác dân vận là một chức năng của đội
quân kiểu mới. Binh đoàn Tây Nguyên là một bộ phận của Quân đội nhân dân Việt
Nam, cho nên Binh đoàn cũng phải thực hiện tốt chức năng đó. Việc Binh đoàn
Tây Nguyên thực hiện chức năng tiến hành công tác VĐND cũng chính là thực
hiện công tác vận động cách mạng của Đảng đối với nhân dân địa phương nơi
đóng quan. Điều đó đòi hỏi quá trình tiến hành công tác VĐND xây dựng CSĐP
vững mạnh của Binh đoàn phải bám sát vào các chủ trương, đường lối, chính sách
của Đảng, của Quân đội về công tác VĐQCND trong từng thời kỳ, từng giai đoạn
cách mạng, từ đó để cụ thể hoá thành các chủ trương, biện pháp tiến hành cho phù
hợp, bảo đảm cho đơn vị thực hiện thắng lợi nhiệm vụ được giao.
Hơn nữa, trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần thấy được mối quan hệ
chặt chẽ giữa công tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh của Binh đoàn Tây
Nguyên với công tác dân dận của Đảng, của Quân đội. Đây là mối quan hệ giữa bộ
phận và toàn bộ, bộ phận phải phục tùng toàn bộ. Nghĩa là công tác VĐND xây
dựng CSĐP vững mạnh trên địa bàn Gia Lai, Kon Tum của Binh đoàn Tây
Nguyên phải xuất phát từ đường lối, quan điểm về công tác dân vận của Đảng, của
Quân đội. Do đó, chất lượng công tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh của


Binh đoàn Tây Nguyên phụ thuộc vào sự quán triệt đường lối, quan điểm của
Đảng, của Quân đội về công tác dân vận của chủ thể tiến hành và kết quả của công
tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh của Binh đoàn Tây Nguyên có ảnh hưởng
trực tiếp đến chất lượng công tác dân vận của Đảng, của Quân đội.
Hai là: Mục tiêu tiến hành công tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh của
Binh đoàn Tây Nguyên là góp phần vận động nhân dân các tỉnh Gia Lai, Kon Tum
tích cực thực hiện mọi chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và

Nhà nước, hăng hái tham gia xây dựng CSĐP vững mạnh nhằm đạt cho được mục
tiêu cơ bản ở cơ sở mà chỉ thị 58/TTg của Thủ tướng Chính phủ đã xác định là "ổn
định về chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần
của nhân dân, quốc phòng - an ninh vững, có nếp sống văn minh lành mạnh góp
phần làm thất bại chiến lược "diễn biến hoà bình" và sẵn sàng đối phó thắng lợi với
các tình huống khác" [37].
Ba là: Chủ thể tiến hành công tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh trên địa
bàn Gia Lai, Kon Tum của Binh đoàn Tây Nguyên.
Chủ thể tiến hành công tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh là toàn bộ cán
bộ, chiến sĩ Binh đoàn, trong đó các tổ chức Đảng giữ vai trò lãnh đạo, chỉ huy các
đơn vị chịu trách nhiệm tổ chức, quản lý điều hành, các cơ quan mà nòng cốt là cơ
quan chính trị làm tham mưu. Quá trình tiến hành công tác VĐND phải phát huy
sức mạnh của tập thể đơn vị và phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ với các tổ chức
đảng, chính quyền, các tổ chức quần chúng địa phương và các đơn vị bạn có liên
quan để tạo nên sức mạnh tổng hợp trong quá trình tổ chức thực hiện. Việc tạo
sức mạnh tổng hợp trong công tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh của Binh
đoàn còn phải được thực hiện ở tất cả các khâu, các bước, từ nghiên cứu nắm
tình hình, xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện, sơ tổng kết, rút kinh nghiệm,
nhân điển hình và giải quyết những vấn đề nảy sinh.
Bốn là: Đối tượng của công tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh trên địa
bàn Gia Lai, Kon Tum của Binh đoàn Tây Nguyên bao gồm: nhân dân các dân tộc
đang cư trú trên địa bàn, giáo dân và chức sắc các tôn giáo, bọn nguỵ quân, nguỵ
quyền cũ đã được cải tạo hoặc một số chưa được cải tạo, lực lượng theo Pulrô chưa
lộ nguyên hình... Từ tính chất phức tạp đó đòi hỏi quá trình tiến hành công tác


VĐND của Binh đoàn phải biết phân loại đối tượng để xác định nội dung, hình
thức tuyên truyền thuyết phục phù hợp, kết quả công tác VĐND mới có chất lượng
cao.
Năm là: Nội dung tiến hành công tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh phải

hướng vào củng cố thực lực chính trị, nâng cao hiệu lực và hiệu quả lãnh đạo, chỉ
đạo, điều hành của cấp uỷ, chính quyền địa phương, hoạt động của các tổ chức
quần chúng, bồi dưỡng, đào tạo nguồn cán bộ, đảng viên, lực lượng cốt cán cho cơ
sở. Tích cực tham gia các chương trình phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, xoá
đói giảm nghèo, xây dựng cơ sở hạ tầng, thực hiện chính sách xã hội, ổn định và
nâng cao đời sống, dân trí của nhân dân. Đặc biệt chú ý đầu tư cho các cơ sở
vùng sâu, vùng xa, biên giới, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tôn giáo. Thông
qua công tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh để nắm vững tình hình địa bàn
xây dựng vành đai, cụm địa bàn an toàn tại các cơ sở địa phương nơi đóng quân
và địa bàn được phân công, góp phần củng cố quốc phòng - an ninh. Xây dựng
các phương án tác chiến A và A 2, xây dựng thế trận lòng dân, thế trận chiến
tranh nhân dân và khu vực phòng thủ vững chắc. Chủ động tham gia ngăn ngừa
và giải quyết có hiệu quả các vụ việc phức tạp và mâu thuẫn trong nội bộ nhân
dân, giữ vững ổn định chính trị, xã hội làm thất bại âm mưu "diễn biến hoà
bình", bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch bảo vệ Đảng, chính quyền và
nhân dân trên từng địa bàn, từng cơ sở.
Sáu là: Hình thức, phương pháp tiến hành công tác VĐND xây dựng CSĐP
vững mạnh của Binh đoàn Tây Nguyên.
Công tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh của Binh đoàn Tây Nguyên là
một nội dung then chốt trong công tác dân vận của Quân đội. Do đó, Binh đoàn
cần căn cứ vào đặc điểm, yêu cầu nhiệm vụ chính trị của mình và thực tiễn địa
phương để vận dụng linh hoạt các hình thức, phương pháp tiến hành công tác dân
vận của Quân đội đã được tổng kết. Các hình thức đó là: Tổ chức hành quân dã
ngoại kết hợp tiến hành công tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh; tổ chức kết
nghĩa giữa đơn vị với các tổ chức chính trị địa phương; cử các tổ đội công tác tham
gia cùng địa phương tiến hành công tác VĐND. Ngoài các hình thức trên các đơn
vị còn có thể vận dụng tiến hành các hoạt động giao lưu văn hoá, văn nghệ, thể


dục, thể thao; tham gia các hoạt động "đền ơn đáp nghĩa"; kết hợp với tổ chức đoàn

thanh niên địa phương xây dựng "bản, làng thanh niên kiểu mẫu"...
Tuy nhiên, do tính đa dạng phức tạp của đối tượng vận động và tình hình an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay có nhiều
biến đổi so với trước đây. Nên khi tiến hành công tác VĐND phải quan tâm đến
phong tục tập quán của từng dân tộc, ở từng địa bàn để có cách làm khoa học,
tránh chủ quan, tuỳ tiện, duy ý chí, kinh nghiệm chủ nghĩa, máy móc, dập khuôn...
khắc phục cách VĐND đơn giản, tuỳ tiện, quan liêu, hành chính hoá.
* Vai trò của công tác vận động nhân dân xây dựng cơ sở địa phương vững
mạnh của Binh đoàn Tây Nguyên.
Là một bộ phận của công tác dân vận của Đảng, của Quân đội, công tác
VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh trên địa bàn Gia Lai, Kon Tum của Binh
đoàn Tây Nguyên có vai trò đặc biệt quan trọng, được thể hiện ở những nội
dung cơ bản sau:
Một là: Trực tiếp góp phần củng cố và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa
Đảng, Nhà nước, Quân đội với nhân dân địa phương; xây dựng cơ sở chính trị địa
phương vững mạnh toàn diện, thực hiện thắng lợi mọi đường lối, chủ trương,
chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Khẳng định vai trò trên được xuất phát từ quan điểm của Đảng về mối quan hệ
giữa Đảng với quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng và yêu cầu, đòi
hỏi của sự nghiệp cách mạng hiện nay. Sự nghiệp cách mạng XHCN do Đảng ta tổ
chức và lãnh đạo đó là cuộc cách mạng sâu sắc, toàn diện và triệt để trên tất cả mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội và trên phạm vi cả nước. Lợi ích của cách mạng mang
lại không chỉ cho giai cấp công nhân mà cho mọi tầng lớp nhân dân lao động. Để
thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng, Đảng phải thiết lập mối quan hệ mật thiết
giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân và phải có cơ sở nền tảng vững chắc. Có như
vậy mới tạo được nguồn sức mạnh tổng hợp để chiến thắng kẻ thù và xây dựng
thành công CNXH trên đất nước ta. Biện pháp để thiết lập mối quan hệ đó phải
bằng nhiều hoạt động, nhiều hình thức tổ chức với sự tham gia của tất cả các tổ
chức trong hệ thống chính trị của Nhà nước.



Binh đoàn Tây Nguyên là một bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam. Việc
Binh đoàn tiến hành công tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh là yêu cầu khách
quan của sự nghiệp cách mạng, là chức năng, bản chất, truyền thống của Quân đội.
Để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, quá trình tiến hành công tác VĐND xây
dựng CSĐP vững mạnh Binh đoàn phải lấy việc tuyên truyền, vận động nhân dân
địa phương thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước làm mục đích hoạt động, thông qua đó để nâng cao nhận thức trách nhiệm
cho nhân dân địa phương trong việc đẩy mạnh phong trào hành động cách mạng,
tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân; củng cố lòng tin đối với Đảng và kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Tham gia xây dựng và nâng cao năng lực, hiệu
quả lãnh đạo, quản lý của cấp uỷ, chính quyền, hoạt động của các ban, ngành, đoàn
thể chính trị – xã hội; đào tạo bồi dưỡng nguồn cán bộ, đảng viên, lực lượng cốt
cán cho các địa phương… Đồng thời thông qua hoạt động VĐND xây dựng
CSĐP vững mạnh để nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng, đời sống của nhân dân
địa phương để phản ánh trở lại với Đảng, Nhà nước trong việc ban hành, hoàn
thiện đường lối, chính sách, pháp luật. Chính quá trình đó đã góp phần củng cố và
tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước, Quân đội với nhân dân
các tỉnh Gia Lai, Kon Tum; góp phần xây dựng các tổ chức trong hệ thống chính
trị địa phương vững mạnh; phát triển kinh tế – xã hội; củng cố quốc phòng – an
ninh; thực hiện thắng lợi mọi chủ trương đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước.
Hai là: Góp phần nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng cho nhân dân
các tỉnh Gia Lai, Kon Tum, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù phá
hoại CSĐP, giữ vững an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đóng
quân.
Hiện nay CNĐQ và các thế lực thù địch đang tiến hành chiến lược "diễn biến
hoà bình" để chống phá cách mạng nước ta. Với âm mưu cơ bản là xoá bỏ vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xoá bỏ CNXH trên đất nước ta. Để thực
hiện được âm mưu đó, CNĐQ đã và đang sử dụng tất cả mọi thủ đoạn hết sức tinh

vi nham hiểm để làm tan rã niềm tin của nhân dân ta đối với Đảng, với chế độ
XHCN, hòng chia rẽ mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng, Nhà nước, Quân đội
với nhân dân, phá vỡ sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân. Cho nên Binh đoàn


Tây Nguyên tiến hành công tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh chính là tiến
hành công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục cho nhân dân các tỉnh Gia Lai, Kon
Tum nhận thức đúng bản chất của CNĐQ, thấy rõ âm mưu thủ đoạn của kẻ thù từ
đó để nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng sẵn sàng đập tan các hành động phá
hoại của kẻ thù. Đồng thời thông qua công tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh
để giúp nhân dân các tỉnh Gia Lai, Kon Tum nhận thức đúng và thực hiện có kết
quả đường lối quan điểm về quốc phòng - an ninh của Đảng. Trên cơ sở đó để
góp phần cùng cấp uỷ, chính quyền địa phương tích cực xây dựng tiềm lực quốc
phòng - an ninh, xây dựng lực lượng vũ trang địa phương, làm tròn chức năng,
nhiệm vụ của mình, góp phần giữ vững an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội,
tạo cơ sở cho nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội đạt chất lượng
cao.
Ba là: Làm tốt công tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh còn trực tiếp góp
phần xây dựng binh đoàn vững mạnh toàn diện.
Một trong những yêu cầu đòi hỏi hiện nay là các đơn vị trong toàn quân phải
tích cực xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân
đội nhân dân "cách mạng, chính qui, tinh nhuệ, từng bước hiện đại". Để đáp ứng
yêu cầu đó các đơn vị phải tiến hành bằng nhiều biện pháp, trong đó tiến hành
công tác VĐND là một trong những biện pháp rất quan trọng. Bởi vì, chính quá
trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh là quá trình
rèn luyện nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng, khả
năng điều hành, quản lý của người chỉ huy các cấp, tính năng động sáng tạo của
các tổ chức quần chúng. Đồng thời giúp cán bộ, chiến sĩ có nhận thức sâu sắc hơn,
đầy đủ hơn những thuận lợi khó khăn trong xây dựng đơn vị vững mạnh, qua đó để
rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị, bản chất giai cấp công nhân cho bộ đội, góp

phần giáo dục bộ đội thấm nhuần sâu sắc lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh "Quân
đội ta là quân đội nhân dân, do dân đẻ ra, vì nhân dân mà chiến đấu yêu nước, yêu
dân cho nên hy sinh gian khổ" [22, tr.722]. Xây dựng ý thức thái độ kính trọng
dân, nâng cao năng lực phương pháp tác phong VĐND, tạo cơ sở cho mỗi cá nhân,
mỗi đơn vị thực hiện tốt chức năng "đội quân công tác" và góp phần xây dựng đơn
vị vững mạnh toàn diện.


Hơn nữa, trong giai đoạn cách mạng hiện nay, xây dựng đơn vị vững mạnh
toàn diện phải lấy xây dựng vững mạnh về chính trị làm cơ sở. Trong đó sự vững
mạnh về chính trị của địa phương khu vực đóng quân là yếu tố quan trọng tác động
trực tiếp đến sự vững mạnh của đơn vị. Nếu môi trường chính trị ở địa phương
vững mạnh sẽ tạo điều kiện cho công tác giáo dục, quản lý, rèn luyện bộ đội và
thực hiện các nhiệm vụ được giao thuận lợi. Ngược lại, nếu môi trường chính trị ở
địa phương suy yếu, hệ thống chính trị của địa phương hoạt động kém hiệu quả,
nhân dân mất lòng tin sẽ rất khó khăn cho việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ
được giao, không thực hiện được mục tiêu xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện.
Vì vậy, nâng cao chất lượng công tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh là một
biện pháp trực tiếp để xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện trong tình hình hiện
nay. Mọi biểu hiện trong nhận thức và hành động xem nhẹ công tác VĐND đều
làm suy giảm chất lượng và hiệu quả xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện không
thể hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao cho.
1.1.2. Chất lượng công tác vận động nhân dân xây dựng cơ sở địa phương
vững mạnh trên địa bàn Gia Lai -Kon Tum của Binh đoàn Tây Nguyên
* Quan niệm về chất lượng công tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh.
Để nâng cao chất lượng công tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh trên địa
bàn Gia Lai, Kon Tum của Binh đoàn Tây Nguyên đòi hỏi trước hết phải tìm hiểu
và thống nhất quan niệm về chất lượng và chất lượng công tác VĐND xây dựng
CSĐP vững mạnh làm cơ sở để đánh giá chất lượng công tác VĐND xây dựng
CSĐP vững mạnh trên địa bàn Gia Lai, Kon Tum của Binh đoàn Tây Nguyên.

Một là, theo Đại từ điển tiếng Việt: Chất lượng “là cái tạo nên phẩm chất, giá
trị con người, sự vật” [41, tr.331]. Theo quan niệm như trên thì chất lượng tồn tại ở
con người, ở sự vật và ở các hoạt động tạo nên bản chất sự vật. Do đó đánh giá
chất lượng phải căn cứ vào giá trị của sự vật. Quan niệm về giá trị và thang bậc của
nó hiện nay vẫn có những ý kiến khác nhau tuỳ theo cách nhìn của mỗi người, mỗi
giai cấp và góc độ của mỗi ngành khoa học. Nhưng trên bình diện chung nhất thì
có thể hiểu chất lượng công tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh là cái tạo nên
kết quả, giá trị của công tác đó. Vậy cái gì tạo nên giá trị của công tác VĐND và
kết quả của công tác VĐND là gì ?


Công tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh của Quân đội là một hiện tượng
chính trị – xã hội, là sự tác động trên lĩnh vực nhận thức tư tưởng của Đảng vào
một đối tượng cụ thể là quần chúng nhân dân ở CSĐP. Do đó cái tạo nên kết quả
công tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh của Quân đội chính là các tổ chức
đảng, tổ chức chỉ huy và của toàn bộ cán bộ, chiến sĩ. Giá trị của công tác VĐND
xây dựng CSĐP vững mạnh là ở khả năng tiếp thu và mức độ chuyển biến nhận
thức thành hành động của đối tượng sau khi được tác động phù hợp với mục đích,
nhiệm vụ. Như thế thì: Chất lượng công tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh
được tạo nên bởi năng lực chuyển tải nội dung của chủ thể đến với đối tượng và
mức độ tiếp nhận chuyển biến nhận thức hành động của đối tượng.
Hai là, công tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh là hoạt động có ý thức, có
mục đích nên các yếu tố, các bộ phận hợp thành công tác này không phải xuất
hiện, diễn ra ngẫu nhiên mà có chủ định, có tổ chức do nhiều yếu tố hợp thành.
Các yếu tố đó là: Chủ thể, khách thể, mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung, hình thức,
phương pháp, phương tiện tiến hành công tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh.
Do đó nói đến chất lượng công tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh là phải nói
đến chất lượng tổng hợp của từng yếu tố đó. Vì vậy nếu một bộ phận, một yếu tố
nào hoạt động kém chất lượng sẽ làm giảm sút đến chất lượng tổng hợp toàn bộ
hoạt động của công tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh. Nên khi xem xét,

đánh giá chất lượng công tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh của Binh đoàn
Tây Nguyên phải xem xét, đánh giá chất lượng các yếu tố hợp thành của nó, và để
nâng cao chất lượng công tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh cũng phải đi vào
nghiên cứu, tìm giải pháp nâng cao chất lượng từng yếu tố đó.
Ba là, quan niệm về chất lượng như trên mới chỉ là phương pháp luận để nhận
biết, xây dựng nên chất lượng của các sự vật, hoạt động nói chung. Thực tế mỗi
con người, sự vật và hoạt động khác nhau thì có chất lượng khác nhau. Vì vậy, với
mỗi sự vật, hiện tượng cần có những phương pháp đánh giá chất lượng khác nhau.
Công tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh là hoạt động khoa học xã hội.
Cho nên khi đánh giá chất lượng của hoạt động khoa học xã hội phải khác với các
hoạt động khoa học kỹ thuật. Vì trong lĩnh vực hoạt động khoa học xã hội chất
lượng của nó thường không thể thấy được trực tiếp mà phải qua kết quả hoạt động


khác. Kết quả có khi thể hiện ngay, có khi phải qua một thời gian dài về sau. Công
tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh là sự tác động vào con người, chất lượng
của nó không chỉ phụ thuộc và chịu ảnh hưởng của các yếu tố ngoại cảnh như môi
trường xã hội; điều kiện xã hội; hình thức, nội dung, phương tiện tuyên truyền
VĐND, mà còn chịu sự chi phối rất lớn của các yếu tố bên trong như năng lực của
chủ thể và khả năng tiếp thu của đối tượng. Do đó, khi đánh giá chất lượng công
tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh của Binh đoàn Tây Nguyên phải đánh giá
toàn diện các yếu tố tác động nói trên. Nhưng chủ yếu nhất là xem xét ở kết quả
hoạt động của đối tượng mà công tác VĐND tác động. Kết quả đó không những
phải được xem xét ở mức độ nhận thức hiểu biết, niềm tin… mà còn phải được
xem xét thông qua hành động và kết quả hành động. Dựa vào kết quả của hành
động mới là tiêu chí đánh giá chuẩn xác nhất chất lượng công tác VĐND xây dựng
CSĐP vững mạnh.
Theo các quan điểm và phương pháp tiếp cận trên đây về chất lượng công tác
VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh có thể quan niệm:
Chất lượng công tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh trên địa bàn Gia

Lai, Kon Tum của Binh đoàn Tây Nguyên là tổng hợp chất lượng các yếu tố, các
bộ phận công tác VĐND được tạo nên bởi trình độ, năng lực của các tổ chức và
mọi cán bộ, chiến sĩ Binh đoàn trong tuyên truyền, vận động nhân dân địa phương
thực hiện có kết quả mục tiêu: xây dựng các tổ chức trong hệ thống chính trị vững
mạnh; phát triển kinh tế – xã hội; củng cố quốc phòng – an ninh”.
Quan niệm trên đã chỉ ra chất lượng các yếu tố, các bộ phận hợp thành công
tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh. Chất lượng các yếu tố, các bộ phận đó bao
gồm cả trình độ, năng lực tuyên truyền VĐND của chủ thể và kết quả hành động
của đối tượng để thực hiện thắng lợi các mục tiêu xây dựng CSĐP vững mạnh.
Với quan niệm trên khi đánh giá chất lượng công tác VĐND xây dựng CSĐP
vững mạnh trên địa bàn Gia Lai, Kon Tum của Binh đoàn Tây Nguyên cần phải
xác lập một hệ tiêu chí làm cơ sở đánh giá.
* Tiêu chí đánh giá chất lượng công tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh.


Theo từ điển tiếng Việt: Tiêu chí là dùng để chỉ "tính chất dấu hiệu làm căn cứ
để nhận biết xếp loại một sự vật, một khái niệm". Theo đó thì kết quả công tác
VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh so với mục tiêu, yêu cầu đặt ra được xác định
bởi một loạt các dấu hiệu, các chỉ số cả về mặt định lượng và định tính. Các dấu
hiệu, các chỉ số đó xác định càng cụ thể và chính xác bao nhiêu thì việc đánh giá
chất lượng càng chính xác bấy nhiêu. Nhờ kết quả đánh giá đó mà có thể tìm ra
được những nguyên nhân của ưu điểm khuyết điểm, đề ra được các giải pháp nâng
cao chất lượng, bảo đảm tính khoa học và có tính khả thi cao. Các dấu hiệu, các chỉ
số của công tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh được chia thành ba nhóm cơ
bản qui định bản chất của nó, có thể lấy đó làm tiêu chí để đánh giá chất lượng
công tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh.
Một là: Tiêu chí đánh giá chất lượng hoạt động của chủ thể tiến hành công tác
VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh trên địa bàn Gia Lai, Kon Tum.
Chất lượng hoạt động của chủ thể là vấn đề quan trọng hàng đầu tạo nên chất
lượng công tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh. Do đó khi đánh giá chất lượng

công tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh của Binh đoàn Tây Nguyên trước hết
cần phải xem xét đánh giá chất lượng hoạt động của chủ thể tiến hành công tác
VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh dưới các góc độ như: Mức độ quán triệt lý
luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách, pháp luật của
Đảng và Nhà nước, các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên về công tác VĐND xây
dựng CSĐP vững mạnh của cán bộ, chiến sĩ; năng lực lãnh đạo của các tổ chức
đảng: được thể hiện ở phẩm chất, trình độ của đội ngũ cán bộ, đảng viên, sự trong
sạch vững mạnh của các tổ chức đảng, tính đúng đắn sáng tạo của nghị quyết lãnh
đạo; năng lực của cán bộ chỉ huy trong xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện kế
hoạch; thái độ trách nhiệm của cán bộ, chiến sĩ đối với công tác VĐND xây dựng
CSĐP vững mạnh và ý thức tổ chức kỷ luật trong quá trình thực hiện nhiệm vụ;
năng lực tiến hành VĐND theo phạm vi trách nhiệm được giao, bao gồm năng lực
tuyên truyền, giác ngộ nhân dân nắm vững đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật Nhà nước, khả năng vận dụng lý luận vào thực tiễn để làm sáng tỏ
nội dung tuyên truyền, biết cách nắm tình hình tư tưởng trong nhân dân, cách giao


tiếp ứng xử với đối tượng, cách kết hợp giữa tuyên truyền bằng lời nói và những
việc làm cụ thể, cách tổ chức hướng dẫn cho nhân dân tham gia vào các phong trào
cách mạng.
Đánh giá chất lượng hoạt động của chủ thể tiến hành công tác VĐND còn phải
xem xét đánh giá chất lượng nội dung, hình thức tiến hành. Vì nội dung hình thức
VĐND là yếu tố rất quan trọng quyết định đến chất lượng công tác VĐND xây
dựng CSĐP vững mạnh.
Khi đánh giá chất lượng nội dung VĐND cần tập trung đánh giá việc xác định
các nội dung tuyên truyền, vận động của chủ thể theo đúng đường lối, quan điểm
của Đảng, trong đó cần xem xét việc xác định nội dung trọng tâm, trọng điểm phù
hợp với từng đối tượng, từng giai đoạn. Về hình thức cần phải xem xét đánh giá sự
vận dụng linh hoạt các hình thức dân vận đã được tổng kết của quân đội và sự vận
dụng sáng tạo các hình thức khác trên từng địa bàn; kết quả của từng hình thức vận

động; thái độ hành vi của nhân dân đối với từng hình thức.
Hai là: Tiêu chí đánh giá kết quả hoạt động VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh.
Chất lượng của công tác VĐND được thể hiện ở tính hiệu quả của quá trình
hoạt động. Do vậy, khi đánh giá chất lượng công tác VĐND xây dựng CSĐP vững
mạnh của Binh đoàn Tây Nguyên phải trên cơ sở kết quả đã đạt được trong thực
tiễn. Kết quả đó được thể hiện ở trình độ, kiến thức của nhân dân sau khi được lĩnh
hội các nội dung tuyên truyền, giáo dục, nhất là kiến thức về nắm nội dung đường
lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước các chủ trương phát triển kinh tế –
xã hội ở địa phương; kết quả tham gia xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững
mạnh bao gồm xây dựng tổ chức Đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội
khác; kết quả tham gia chương trình phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội ở địa phương;
kết quả tham gia xây dựng củng cố quốc phòng - an ninh, chống "diễn biến hoà bình",
bạo loạn lật đổ trên địa bàn; thái độ niềm tin của nhân dân khi tiếp nhận các chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Ba là: Tiêu chí đánh giá kết quả việc kết hợp thực hiện nhiệm vụ xây dựng đơn vị
vững mạnh toàn diện với thực hiện tiêu chuẩn "đơn vị dân vận tốt".


Công tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh là một bộ phận then chốt trong
công tác dân vận, do đó khi đánh giá việc kết hợp xây dựng đơn vị vững mạnh toàn
diện với thực hiện tiêu chuẩn "đơn vị dân vận tốt" phải lấy kết quả tiến hành công
tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh làm cơ sở. Khi đánh giá cần làm rõ: sự
quan tâm của lãnh đạo, chỉ huy đơn vị và các cơ quan chức năng đối với công tác
xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện kết hợp với thực hiện chức năng tiến hành
công tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh; kết quả giáo dục nâng cao nhận thức
trách nhiệm cho bộ đôi đối với việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng đơn vị vững
mạnh và thực hiện công tác VĐND; kết quả xây dựng mối quan hệ giữa đơn vị với
địa phương, cần khắc phục triệt để nhận thức và hành vi tách rời nhiệm vụ xây
dựng đơn vị vững mạnh toàn diện với thực hiện tiêu chuẩn "đơn vị dân vận tốt".
Các tiêu chí trên đây là những cơ sở để xem xét đánh giá chất lượng công tác

VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh của Binh đoàn Tây Nguyên hiện nay. Tuy
nhiên, khi đánh giá chất lượng công tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh không
nên xem xét tách rời các tiêu chí đó, mà đặt chúng trong một thể thống nhất biện
chứng với nhau trong một chu trình thống nhất của công tác VĐND nói riêng và
với toàn bộ các mặt công tác khác trong xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện.
1.2. Thực trạng chất lượng công tác vận động nhân dân xây dựng cơ sở
địa phương vững mạnh trên địa bàn Gia Lai, Kon Tum của Binh đoàn Tây
Nguyên, nguyên nhân và một số kinh nghiệm chủ yếu
1.2.1. Thực trạng chất lượng công tác vận động nhân dân xây dựng cơ sở
địa phương vững mạnh trên địa bàn Gia Lai, Kon Tum của Binh đoàn Tây
Nguyên hiện nay
* Khái quát một số nét về tình hình đặc điểm các tỉnh Gia Lai, Kon Tum.
Các tỉnh Gia Lai, Kon Tum là địa bàn rừng núi thuộc khu vực Tây Nguyên có
diện tích tự nhiên 29.650 km 2. Có chung đường biên giới với hai nước bạn Lào và
Cămpuchia dài 365km. Gồm 19 huyện, thị, 1 thành phố; có 246 xã, phường (trong
đó có tới 102 xã thuộc khu vực vùng sâu, vùng xa, biên giới, vùng đồng bào các
dân tộc thiểu số). Địa hình nằm ở trung độ của cả nước, dễ cơ động ra Bắc vào
Nam, là thế đứng cực kỳ có lợi về mặt quân sự. Đất đai màu mỡ, có nhiều tiềm
năng lớn về phát triển kinh tế và du lịch. Dân số hiện nay khoảng 1.257.000 người


gồm 36 dân tộc, trong đó đồng bào các dân tộc thiểu số chiếm khoảng gần 50%.
Địa hình cư trú của đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên khác với các tỉnh
miền núi và trung du Bắc Bộ là nơi mà đồng bào các dân tộc thiểu số sống xen kẽ
với nhau nên không có địa bàn cư trú rõ nét. Ngược lại ở Gia Lai, Kon Tum đồng
bào các dân tộc cư trú theo khu vực. Người Kinh sống chủ yếu ở thị trấn, thị xã,
dọc trục giao thông liên tỉnh, liên huyện; người các dân tộc thiểu số sống chủ yếu ở
miền núi cao, gần rừng và mỗi dân tộc có một địa bàn cư trú riêng. Dân tộc Gia rai
có địa bàn cư trú rộng nhất bao chiếm phần lớn toàn bộ 2 tỉnh (gồm các huyện Sa
Thầy, Chư Pả, Chư Prông) và lan về phía đông nam (huyện Chư Xê, Agun Pa,

Krông Pa). Người Gié Triêng lại tập trung ở huyện Đắc Glây, người Xê Đăng ở
bắc Sa Thầy (Kon Tum)... Các dân tộc thiểu số ở Gia Lai, Kon Tum tuy mỗi dân
tộc có một phong tục tập quán tâm lý khác nhau, nhưng nhìn chung họ đều có một
tâm lý ít muốn sống ở khu vực đông dân cư như thị tứ, thị xã. Người dân tộc thiểu
số Gia Lai, Kon Tum thường có bản tính là trung thực, mạnh mẽ, song còn mang
nặng tính bảo thủ, cực đoan. Họ thường dễ tin vào vấn đề cụ thể, cái gì cũng phải
mắt thấy, tay sờ mới tin được, những việc làm có lợi trước mắt, ít chú ý đến tính
hiệu quả công việc, thậm chí còn không để ý đến hậu quả xấu từ việc làm của họ.
Gia Lai, Kon Tum hiện có 3 tôn giáo lớn đang hoạt động là đạo Công giáo,
Phật giáo, Tin lành với hơn 292.400 tín đồ. Nhìn chung đồng bào các dân tộc, tôn
giáo Gia Lai, Kon Tum có truyền thống đoàn kết đấu tranh cách mạng kiên cường,
thật thà, chất phác, cần cù lao động. Có văn hoá dân tộc vừa đa dạng, phong phú
vừa có nhiều nét đặc thù.
Những năm qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, chính quyền các cấp
từ Trung ương đến địa phương kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh các tỉnh
Gia Lai, Kon Tum đã đạt được những thành tựu rất quan trọng, cơ sở kinh tế xã hội và hạ tầng vật chất kỹ thuật có nhiều thay đổi lớn. Thu nhập đầu người
hiện nay tăng gấp 2,5 lần so với trước những năm 1990. Tỷ lệ hộ đói, nghèo
giảm từ 50% năm 1990 xuống còn 17% năm 2001. Hệ thống chính trị ở CSĐP
(xã, phường) từng bước được củng cố; văn hoá xã hội có nhiều chuyển biến tích
cực; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội về cơ bản được giữ vững; thế trận
quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân từng bước được tăng cường.


Tuy nhiên những thành tựu đã đạt được của Gia Lai, Kon Tum vẫn chưa tương
xứng với tiềm năng thế mạnh của vùng. Sự chỉ đạo thực hiện các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước ở các cấp, các ngành chưa tập trung, thiếu đồng bộ,
chưa tạo được sự chuyển biến nhanh về phát triển kinh tế. Đời sống vật chất, tinh
thần còn nhiều khó khăn nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số và tôn giáo. Sự
phân hoá giàu nghèo giữa các vùng, các tầng lớp dân cư ngày càng tăng. (Hiện nay
chênh lệch thu nhập giữa 20% số hộ có mức thu nhập cao so với 20% số hộ có

mức thu nhập thấp là 13 lần). Số dân được cải thiện đời sống hầu hết là đồng bào
cư trú gần thành phố, thị xã, thị trấn, gần đường giao thông và một số vùng sản
xuất tập trung như nông, lâm trường. Số còn lại bao gồm khoảng 700 buôn, làng
thuộc 142 xã với gần nửa triệu dân đang sống ở khu vực đặc biệt khó khăn (khu
vực 3). Trong đó số hộ có mức sống đói và nghèo chiếm gần 60%. Trình độ dân trí
thấp, đặc biệt là đồng bào các dân tộc thiểu số và tôn giáo ở khu vực 3. Qua điều
tra ở 142 xã trên cho thấy có 37% số người được hỏi không biết chữ, hơn 6,6% trẻ
em trong độ tuổi đi học đã bỏ học. Do y tế chậm phát triển và khí hậu khắc nghiệt
nên thường xảy ra các dịch bệnh sốt rét, tả, thương hàn, phong, bướu cổ; còn tới
hơn 40% trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng. Tình trạng di dân, chặt phá rừng,
buôn bán, tranh chấp đất đai còn nghiêm trọng. Các tập tục lạc hậu trong ma chay,
cưới xin, những tàn dư của chế độ cũ ở nhiều địa phương còn nặng nề. Hệ thống
điện lưới quốc gia còn hạn chế, đường giao thông từ trung tâm huyện đến các xã
còn khó khăn, có nơi ô tô chỉ đi được mùa khô, đường thôn, bản chủ yếu là đường
mòn.
Trong phát triển kinh tế - xã hội chưa gắn chặt với việc xây dựng hệ thống
chính trị, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước và xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân. Hệ thống chính trị ở cơ sở nhiều nơi "hiệu quả lãnh đạo, chỉ
đạo và hoạt động còn nhiều hạn chế, cá biệt có xã buông lỏng lãnh đạo quản lý,
nhiều tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể còn yếu, kém. Đội ngũ cán bộ về cơ
bản được bố trí đủ nhưng trình độ năng lực chưa đáp ứng với yêu cầu. Cán bộ chủ
chốt là người dân tộc thiểu số còn ít (hiện nay mới chiếm khoảng 10% tổng số cán
bộ toàn khu vực). Công tác phát triển Đảng chậm, có nhiều thôn bản chưa có đảng
viên" [10, tr.6].


Trong khi đó, những năm gần đây dân di cư tự do các tỉnh phía Bắc và miền
Trung đến Tây Nguyên tăng nhanh. Đến nay có khoảng 850.000 người, trong đó
đồng bào dân tộc thiểu số phía Bắc chiếm hơn 30% hầu hết là dân có đời sống khó
khăn, dân trí thấp, làm cho các vấn đề kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh trên

địa bàn càng thêm phức tạp. Bên cạnh đó, núp dưới chiêu bài "tôn giáo", "nhân
quyền" bọn phản động đẩy mạnh phát triển tà đạo trong đạo Tin lành bằng mọi
biện pháp như hoạt động truyền đạo trái phép, mua chuộc lôi kéo các tín đồ là
người dân tộc thiểu số. Do đó đã làm cho đạo Tin lành trong mấy năm gần đây
phát triển nhanh. Chỉ tính riêng Gia Lai, đạo Tin lành đã phát triển tới 93.000
người chiếm trên 1/3 tổng số người theo các tôn giáo. Riêng ở huyện Chư Xê (Gia
Lai) có 14/16 xã với 110/213 làng, bản có tín đồ "Tin lành Đề ga". Không chỉ vậy,
Gia Lai, Kon Tum còn là một địa bàn có nhiều đối tượng của chế độ cũ như nguỵ
quân, nguỵ quyền, Fulrô trong đó có nhiều tên đang có mối quan hệ mật thiết với
nước ngoài, một số tên chưa chịu cải tạo, ngấm ngầm hoạt động chống đối cách
mạng.
Nhận thấy vị trí chiến lược của địa bàn Tây Nguyên nói chung, Gia Lai, Kon
Tum nói riêng, lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo và những khó khăn trên,
CNĐQ và các thế lực thù địch đã và đang chọn Tây Nguyên làm trọng điểm để
thực hiện chiến lược "diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ. Âm mưu thủ đoạn cơ
bản của chúng là tổ chức, nuôi dưỡng và chỉ đạo bọn phản động người Việt Nam
lưu vong móc nối với lực lượng phản động ở trong nước để tiến hành chống phá ta,
liên kết giữa các lực lượng phản động trong đạo Tin lành và Fulrô với ý đồ gây bạo
loạn lật đổ chính quyền cách mạng của ta ở cơ sở để thiết lập chính quyền phản
cách mạng tiến tới thành lập "Nhà nước Đề ga" độc lập tách khỏi Nhà nước Việt
Nam thống nhất. Trên thực tế chúng đã gây ra vụ bạo loạn chính trị cường độ thấp
vào tháng 2 năm 2001. Tuy nhiên, cuộc bạo loạn đã nhanh chóng bị dập tắt. Nhưng
hiện nay đồng thời với việc chỉ đạo thành lập Hội người Thượng Đề ga (MDA) và
Hội những người Miền núi (MFI) ở trong nước, Mỹ và các thế lực thù địch đang
ráo riết vận động cưỡng ép người dân tộc thiểu số, tôn giáo chạy trốn ra nước
ngoài và tích cực tìm kiếm ngọn cờ trong người Thượng ở Tây Nguyên nhằm tập
hợp lực lượng chống phá cách mạng. Thực tế từ năm 1999 đến nay hàng chục tên
Fulrô đã trở về Tây Nguyên tìm cách móc nối với một số đối tượng là cán bộ cao cấp



đã nghỉ hưu là người các dân tộc thiểu số; gửi thư tới lãnh đạo, chính quyền cấp
tỉnh kêu gọi sự ủng hộ đối với Fulrô, kích động gây chia rẽ người trong nội bộ
Đảng, chính quyền địa phương; tích cực tìm kiếm, lựa chọn trong sinh viên trí thức
tại các trường dân tộc nội trú, trường đại học để mua chuộc lôi kéo nhằm sử dụng họ
trở thành những nhân vật cốt cán trong hàng ngũ những người dân tộc để chống
phá cách mạng và thực hiện âm mưu lâu dài.
Tình hình trên là những cản trở lớn cho sự phát triển ở CSĐP, tác động sâu sắc
đến tư tưởng, đời sống bộ đội và ảnh hưởng không ít đến hiệu quả triển khai thực
hiện nhiệm vụ tiến hành công tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh của Binh
đoàn.
* Đánh giá thực trạng chất lượng công tác vận động nhân dân xây dựng cơ sở
địa phương vững mạnh trên địa bàn Gia Lai, Kon Tum của Binh đoàn Tây Nguyên
hiện nay.
Quán triệt và tổ chức thực hiện nghị quyết 8 B của BCHTW Đảng (khoá VI) về
"Đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và
nhân dân"; chỉ thị 58/TTg của Thủ tướng Chính phủ về "Tăng cường chỉ đạo xây
dựng cơ sở vững mạnh toàn diện để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ quốc phòng - an
ninh trong tình hình mới"; Chỉ thị 137/ĐUQSTW về tăng cường công tác dân vận
trong tình hình mới; các chỉ thị của Đảng uỷ Quân sự Trung ương về công tác dân
vận của quân đội, và xuất phát từ tình hình thực tiễn. Trong những năm qua Đảng
uỷ, Bộ Tư lệnh Binh đoàn luôn xác định: Làm tốt công tác VĐND xây dựng CSĐP
vững mạnh trên địa bàn đóng quân không những là thực hiện một nhiệm vụ rất
quan trọng của Đảng, một chức năng cơ bản của lực lượng vũ trang, là thể hiện bản
chất cách mạng, truyền thống vẻ vang của quân đội, mà còn là dịp để Binh đoàn
đền ơn, đáp nghĩa với Đảng bộ, chính quyền và đồng bào các dân tộc Gia Lai, Kon
Tum đã che chở đùm bọc, giúp đỡ cán bộ, chiến sĩ Binh đoàn trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ trước đây, cũng như trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời còn là
môi trường để rèn luyện, xây dựng bản lĩnh chính trị, bản chất cách mạng cho cán
bộ, chiến sĩ, làm cơ sở để xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện hoàn thành thắng
lợi mọi nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Đây là một yêu cầu khách quan, có ý nghĩa

cực kỳ quan trọng vừa mang tính cơ bản, chiến lược lâu dài vừa là yêu cầu cấp
bách đối với Binh đoàn. Do đó ngay từ khi mới trở lại Tây Nguyên, Đảng uỷ, Bộ Tư


lệnh Binh đoàn đã xác định "Binh đoàn có đứng vững được hay không vấn đề cốt lõi
là phải dựa vào dân, thắt chặt mối quan hệ đoàn kết giữa đơn vị với Đảng bộ, chính
quyền và nhân dân các dân tộc địa phương, tích cực tham gia xây dựng CSĐP vững
mạnh, xây dựng thế trận quốc phòng - an ninh trên địa bàn vững chắc" [11, tr.14].
Để thực hiện được chủ trương trên, Binh đoàn đã đề ra phương hướng, nhiệm
vụ cụ thể là: Phải chú trọng làm tốt công tác VĐND tại địa bàn đóng quân, căn cứ
hậu cần của đơn vị cũng như các địa bàn được giao, từng bước đến vùng sâu, vùng
xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, tôn giáo, vùng còn nhiều khó khăn phức
tạp. Trọng tâm là tham gia xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh, giúp
đỡ nhân dân phát triển sản xuất xoá đói, giảm nghèo, xây dựng và củng cố thế trận
quốc phòng - an ninh vững chắc.
Quá trình tổ chức thực hiện có thể đánh giá những ưu điểm cơ bản và kết
quả đạt được ở những nội dung cơ bản sau:
Một là, đánh giá về chất lượng hoạt động của chủ thể tiến hành công tác
VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh.
- Trên cơ sở giáo dục quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Nhà nước,
quân đội đã tạo được bước chuyển biến cơ bản về nhận thức trách nhiệm tiến
hành công tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh cho cán bộ, chiến sĩ.
Để đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ công tác VĐND trong tình hình mới, trong
những năm qua từ Đảng uỷ, Bộ Tư lệnh Binh đoàn đến cấp uỷ, chỉ huy các đơn vị
cơ sở đã thường xuyên coi trọng công tác lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ việc tổ chức
giáo dục, quán triệt, bồi dưỡng nâng cao nhận thức năng lực tiến hành công tác
VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh cho bộ đội. Nội dung giáo dục đã tập trung
nâng cao nhận thức quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
Đảng ta về vai trò của quần chúng và công tác quần chúng trong sự nghiệp cách
mạng. Gắn với các đợt học tập sinh hoạt chính trị từng đơn vị đều tổ chức cho bộ

đội mà trước hết là đội ngũ cán bộ, đảng viên được học tập quán triệt các chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác VĐQCND,
phương hướng nhiệm vụ tiến hành công tác VĐND xây dựng CSĐP vững mạnh
của Đảng, của Quân đội trong giai đoạn hiện nay, đồng thời giáo dục cho cán bộ,
chiến sĩ hiểu rõ, nắm chắc chính sách dân tộc, tôn giáo, chính sách đại đoàn kết


×