Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong triết học phương Đông và hương Tây.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.03 KB, 12 trang )

Đề tài tiểu luận: Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong triết học phương
Đông và hương Tây.

MỤC LỤC

ĐẶT VẤN ĐỀ............................................................................................................................................1

...................................................................................................................................................................2

NỘI DUNG.................................................................................................................................................2

KẾT LUẬN..............................................................................................................................................11

TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................................................12

TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................- 13 –

ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong quá trình khám phá thế giới, giải đáp những câu hỏi về nguồn gốc của
con người, nguồn gốc của thế giới và vị trí của con người trong thế giới làm hình
thành ở con người những quan niệm nhất định, trong đó có những yếu tố cảm xúc
và trí tuệ, tri thức và niềm tin... Cùng với sự phát hiển ngày càng đa dạng và phức
Nhóm 2.1 - Lớp KTHN 1605

Page 1


Đề tài tiểu luận: Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong triết học phương
Đông và hương Tây.
tạp của hoạt động thực tiễn, tư duy của con người không ngừng được “mài sắc”.
Sự ra đời của triết học cho thấy tính tích cực của tư duy con người đã đạt được


bước chuyển biến về chất nhờ sự xuất hiện của tầng lớp lao động trí óc trong xã
hội cổ đại.
Từ khi ra đời, triết học đóng vai trò quan trọng trong nhận thức cũng như hoạt
động của con người, Ph. Ăngghen viết: “Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh
cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận”. Nhưng tư duy lý luận chỉ
là một đặc tính bẩm sinh dưới dạng năng lực của người ta mà thôi. Năng lực ấy
cần phải được phát triển hoàn thiện mà muốn hoàn thiện thì cần nghiên cứu toàn
bộ triết học từ thời đại trước.
Trong các vấn đề nghiên cứu của triết học, mối quan hệ con người - tự nhiên là
một trong những vấn đề được quan tâm nghiên cứu của hầu hết các triết gia trong
mọi thời đại. Xuất phát từ cách giải quyết vấn đề này mà con người có thái độ
khác nhau trong quan hệ với môi trường xung quanh. Mối quan hệ con người - tự
nhiên được thể hiện qua những hành động trong cuộc sống hàng ngày, trước hết là
trong hoạt động sản xuất vật chất.
Sản xuất càng phát triển thì mức độ tác động của con người vào tự nhiên càng
gia tăng. Cách mạng khoa học và công nghệ, một mặt, đã mang lại cho con người
những tiến bộ vượt bậc trong việc chinh phục tự nhiên, phát triển sản xuất; mặt
khác nó cũng khiến tự nhiên bị tàn phá nặng nề. Mặt trái của sự phát triển đã bộc
lộ gay gắt hơn bao giờ hết: quan hệ tự nhiên - con người ngày càng phức tạp, làm
nảy sinh những vấn đề nóng bỏng về tài nguyên, môi trường, đe dọa sự tồn vong
của loài người.
Có giải quyết hài hòa được mối quan hệ giữa con người và tự nhiên mới có thể
tăng trưởng kinh tế một cách bền vững mà vẫn bảo vệ môi trường, thực hiện tiến
bộ công bằng xã hội. Đó là lí do chúng em chọn nghiên cứu đề tài “Mối quan hệ
giữa con người và tự nhiên trong triết học phương Đông và phương Tây”.

NỘI DUNG
I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ TRIẾT HỌC
Trong lịch sử nhân loại ở Phương Đông cũng như Phương Tây, triết học ra đời
từ rất sớm. Tuy nhiên, trong thời kỳ nguyên thủy con người chỉ mới có mầm mống

của tư duy triết học ở trình độ thấp, mang tính chất huyền thoại. Triết học chỉ thực
Nhóm 2.1 - Lớp KTHN 1605

Page 2


Đề tài tiểu luận: Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong triết học phương
Đông và hương Tây.
sự tồn tại với tư cách là một môn khoa học khi nhân loại bước sang xã hội chiếm
hữu nô lệ (ở Phương Tây, tại Hy Lạp khoảng thế kỷ thứ VII trc CN, ở Phương
Đông như Trung Quốc, Ấn Độ...chế độ chiếm hữu nô lệ còn xuất hiện sớm hơn).
Lúc đầu, triết học bao gồm tri thức của hầu hết các môn khoa học, triết học thậm
chí còn coi là “khoa học của các khoa học”. Qua thời gian và lịch sử do nhu cầu
ngày càng đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu thế giới nên các khoa học cụ thể dần dần
tách ra khỏi triết học để trở thành một môn nghiên cứu độc lập. Đổi tượng nghiên
cứu của triết học cũng từng bước được xác lập. Bản thân quan niệm về triết học
cũng có sự thay đổi trong lịch sử.
Triết học ra đời do kết quả của sự tách biệt giữa lao động chí óc và lao động
chân tay. Bên cạnh đó, triết học ra đời còn do tư duy nhân loại đã phát triển ở trình
độ cao - trình độ hệ thống hóa, khái quát hóa và trừu tượng hóa. Triết học ra đời
vào khoảng thế kỷ VIII-VI TCN gắn liền với sự ra đời của các nền văn minh cổ
đại như Trung Quốc, Ấn Độ, Hy lạp... “Triết” theo nghĩa chữ Hán là trí - Sự hiểu
biết của con người, là sự truy tìm bản chất của đối tượng trong quá trình nhận thức
thế giới. “Triết” theo nghĩa Án Độ là Darshna,là sự chiêm ngưỡng, suy ngẫm con
người đến chân lý, là sự hiểu biết nói chung. “Triết học” theo tiếng Hy lạp là
Philosophya ( sự ham mê hiểu biết cộng với sự thông thái). Như vậy dù là ở
Phương Đông hay phương tây, Triết học thời cổ đại đều có nghĩa là sự hiểu biết,
sự nhận thức chung của con người về thế giới.
Theo quan điểm của triết học Mác- Lênin: “Triết học là hệ thống các quan điểm
lý luận chung nhất về thế giới và vị trí của con người trong thế giới”. Ăngghen

khẳng định “vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học đặc biệt là của triết học hiện đại,
là quan hệ giữa tư duy với tồn tại”, vấn đề cơ bản của triết học gồm hai mặt:
- Mặt thứ nhất, tư duy và tồn tại (ý thức và vật chất) cái nào có trước cái nào có

sau? Cái nào quyết định cái nào?
- Mặt thứ hai, con người có khả năng nhận thức thế giới hay không?

Tùy theo cách giải quyết vấn đề cơ bản của triết học mà người ta phân chia thành
hai trường phái: duy vật và duy tâm.
+ Triết học duy vật cho rằng vật chất có trước, vật chất quyết định ý thức.
Con người hoàn toàn có thể nhận thức được thế giới, chỉ có những gì con người
chưa biết chứ không có cái gì con người không biết. Có những sự vật và hiện
tượng mà các thế hệ hôm nay chưa biết nhưng cùng với sự phát triển của thực tiễn,
của khoa học thì các thế hệ mai sau hoàn toàn có thể sẽ nhận thức được.
+ Triết học duy tâm (dù là duy tâm chủ quan hay duy tâm khách quan) đều
cho rằng ý thức có trước, ý thức quyết định vật chất. Nhìn chung thì triết học duy
Nhóm 2.1 - Lớp KTHN 1605

Page 3


Đề tài tiểu luận: Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong triết học phương
Đông và hương Tây.
tâm phủ nhận khả năng nhận thức của con người nếu có nhận thức được thì con
người chỉ có thể nhận thức được cái bề ngoài chứ không thể nhận thức được bản
chất bên trong của các sự vật hiện tượng.
Bên cạnh cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, lịch sử
triết học còn diễn ra cuộc đấu tranh giữa hai phương pháp: biện chứng và siêu
hình.
- Phương pháp biện chứng khẳng định các sự vật hiện tượng trong thế giới tồn


tại trong mối liên hệ phổ biến và vận động, phát triển không ngừng.
- Phương pháp siêu hình nhìn nhận thế giới trong sự cô lập, tách rời nhau, tĩnh

tại bất biến, nếu có vận động thì chỉ là sự tăng giảm về số lượng mà không có sự
biến đổi về chất.
Trên cơ sở nhận thức những vấn đề chung nêu trên, chúng ta có thể đánh giá
quan điểm triết học Phương Tây và Triết học Phương Đông cổ đại về mối liên hệ
giữa con người và tự nhiên.
II. TRIẾT HỌC PHƯƠNG ĐÔNG VÀ TƯ TƯỞNG VỀ SỰ THỐNG NHẤT,
HÀI HÒA GIỮA CON NGƯỜI VỚI TỰ NHIÊN.
Về mặt địa lý, Phương Đông cổ đại trải dài từ Ai Cập, Babilon tới Ấn Độ,
Trung Quốc...Phương Đông cổ đại là một trong những cái nôi của văn minh nhân
loại . Trung Quốc và Ấn Độ là những trung tâm phát triển rực rỡ nhất của nền văn
minh ấy.
1. Triết học Trung Hoa cổ đại:
Triết học Trung hoa cổ đại là một nền triết học lớn của nhân loại, có tới 103
trường phái triết học. Do đặc điểm của bối cảnh lịch sử Trung Hoa lúc đó là xã hội
loạn lạc, đời sống nhân dân cơ cực, đạo đức suy đồi nên triết học Trung hoa cổ đại
tập trung vào giải quyết các vấn đề về chính trị - xã hội. Những tư tưởng biện
chứng thời này chỉ thể hiện khi các nhà triết học kiến giải những vấn đề về vũ trụ
quan.
Một trong những học thuyết triết học mang tư tưởng biện chứng sâu sắc là
Học thuyết Âm - Dương. Đây là một học thuyết triết học được phát triển trên cơ sở
một bộ sách có tên là Kinh Dịch. Một trong những nguyên lý triết học cơ bản nhất
là nhìn nhận mọi tồn tại không phải trong tính đồng nhất tuyệt đối, mà cũng không
phải trong sự loại trừ biệt lập không thể tương đồng. Trái lại tất cả đều bao hàm sự
thống nhất của các mặt đối lập - đó là Âm và Dương. Âm - Dương không loại trừ,
không biệt lập, mà bao hàm nhau, liên hệ tương tác lẫn nhau, chế ước lẫn nhau.
Kinh dịch viết: "Cương nhu tương thôi nhi sinh biến hoá", "Sinh sinh chi vi dịch".

Nhóm 2.1 - Lớp KTHN 1605

Page 4


Đề tài tiểu luận: Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong triết học phương
Đông và hương Tây.
Sự tương tác lẫn nhau giữa Âm và Dương, các mặt đối lập, làm cho vũ trụ biến đổi
không ngừng. Đây là quan điểm thể hiện tư tưởng biện chứng sâu sắc. Học thuyết
này cũng cho rằng chu trình vận động, biến dịch của vạn vật trong vũ trụ diễn ra
theo nguyên lý phân đôi cái thống nhất như: Thái cực (thể thống nhất) phân đôi
thành lưỡng nghi (âm - dương), sau đó âm - dương lại tiến hành phân thành tứ
tượng (thái âm - thiếu âm, thái dương - thiếu dương), tứ tượng lại sinh ra bát quái,
và từ đó bát quái sinh ra vạn vật.
Tuy nhiên, học thuyết Âm - Dương cho rằng sự vận động của vạn vật diễn
ra theo chu kỳ lặp lại và được đảm bảo bởi nguyên tắc cân bằng Âm - Dương. ở
điểm này thì học thuyết Âm - Dương phủ nhận sự phát triển biện chứng theo
hướng đi lên mà cho rằng sự vận động của các hiện tượng chỉ dừng lại khi đạt
được trạng thái cân bằng Âm -Dương. Hơn nữa, trong học thuyết Âm - Dương còn
nhiều yếu tố duy tâm thần bí như quan điểm "Thiên tôn địa ty" cho rằng trật tự
sang hèn trong xã hội bắt nguồn từ trật tự của "trời đất", họ đem trật tự xã hội gán
cho giới tự nhiên, rồi lại dùng hình thức bịa đặt đó để chứng minh cho sự hợp lý
vĩnh viễn của chế độ đẳng cấp xã hội.
Tóm lại, học thuyết Âm - Dương là kết quả của quá trình khái quát hoá những
kinh nghiệm thực tiễn lâu dài của nhân dân Trung Quốc thời cổ đại. Mặc dù còn
những tính chất trực quan, chất phác ngây thơ và tồn tại những quan điểm duy tâm
thần bí về xã hội, nhưng học thuyết Âm - Dương đã bộc lộ rõ khuynh hướng duy
vật và tư tưởng biện chứng tự phát của mình trong quan điểm về cơ cấu và sự vận
động, biến hoá của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội.
2. Triết học Ấn Độ cổ đại

Triết học ấn Độ là hệ thống triết học có sự đan xen hoà đồng giữa triết học với
tôn giáo và giữa các trường phái khác nhau. Các tư tưởng triết học được thể hiện
dưới hình thức là một tôn giáo. Theo cách phân chia truyền thống, triết học ấn Độ
cổ đại có 9 trường phái, trong đó có 6 trường phái là chính thống và 3 trường phái
phi chính thống. Trong tất cả các học thuyết triết học đó thì học thuyết triết học thể
hiện trong Phật giáo là học thuyết mang tính duy vật và biện chứng sâu sắc tiêu
biểu của nền triết học ấn Độ cổ đại.
Phật giáo hình thành từ thế kỷ VI TCN do Tất Đạt Đa, tên hiệu là Thích Ca
Mầu Ni (563 - 483 TCN), khai sáng. Phật giáo cho rằng vạn vật trong thế giới
không do một đấng thần linh nào đó tạo ra mà được tạo ra bởi hai yếu tố là Danh
(tinh thần) và Sắc (vật chất). Trong đó Danh bao gồm tâm và thức, còn Sắc bao
gồm 4 đại (đại địa, đại thuỷ, đại hoả, đại phong). Chính nhờ tư tưởng nêu trên mà
Phật giáo được coi là tôn giáo duy vật duy nhất chống lại thứ tôn giáo thần học
đương thời. Đồng thời Phật giáo đưa ra tư tưởng "nhất thiết duy tâm tao", "vô
Nhóm 2.1 - Lớp KTHN 1605

Page 5


Đề tài tiểu luận: Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong triết học phương
Đông và hương Tây.
thường", "vô ngã". "Vô ngã" nghĩa là "không có cái ta, cái tôi bất biến", theo đó
không có cái gì là trường tồn là bất biến, là vĩnh hằng, không có cái gì tồn tại biệt
lập. Đây là tư tưởng biện chứng chống lại đạo Bàlamôn về sự tồn tại của cái tôi átman bất biến. "Vô thường" tức là biến, biến ở đây được hiểu như là sự biến đổi
của vạn vật theo chu kỳ: Sinh - Trụ - Dị - Diệt (đối với sinh vật); Thành - Trụ Hoại - Không (con người). Phật giáo cũng cho rằng sự tương tác của hai mặt đối
lập Nhân và Duyên chính là động lực cho làm cho thế giới vận động chứ không
phải là một thế lực siêu nhiên nào đó nằm ngoài con người, thế giới là vòng nhân
quả vô cùng vô tận. Nói cách khác một vật tồn tại được là nhờ hội đủ Nhân,
Duyên.
3. Sự thống nhất, hài hòa giữa con người với tự nhiên

a. Quan niệm Trung Quốc
Nghiên cứu về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, các quan điểm của
triết học trước Mác đã thể hiện một cách rõ nét và phổ biến hai luồng tư tưởng: đề
cao yếu tố tự nhiên (duy tự nhiên) hoặc đề cao yếu tố con người (duy xã hội).
Theo quan điểm duy tự nhiên, thì tự nhiên giữ vai trò quyết định trong mối
quan hệ giữa con người với tự nhiên. Khổng Tử - người sáng lập ra Nho giáo cho
rằng vạn vật trong vũ trụ luôn sinh thành biến hóa không ngừng theo đạo của nó,
ông thừa nhận “thiên mệnh” có nghĩa là vạn vật đều do mệnh trời qui định. Học
thuyết “duyên khởi” của Phật giáo cho rằng thế giới các hiện tượng đều có nhân
duyên của nó, không phụ thuộc vào ý thức của con người. Triết học Phật giáo bàn
về vấn đề bản thể luận, nhận thức luận, đạo đức nhân sinh nhưng mục đích bàn về
con người, vũ trụ để phủ nhận sự tồn tại chân thực của chúng, đề cao một thế giới
khác- một thế giới mà con người không thể lý giải bằng logic tư duy. Tiêu biểu
cho quan niệm duy tự nhiên còn phải kể đến Đạo giáo với học thuyết “vô vi” của
Lão Tử. Ông khẳng định “đạo pháp tự nhiên” và chỉ rõ bản chất của đạo thể hiện
hai tính chất tự nhiên thuần phác và trống không. Ông cho rằng con người chỉ có
thể thích ứng với qui luật tự nhiên một cách thụ động, đứng trước tự nhiên con
người không cần làm gì cả.
Theo thuyết tam tài - học thuyết về sự thống nhất giữa thiên địa nhân (nguyên)
là gốc của Nho giáo và Ðạo giáo thì con người là bộ phận không tách rời của trời
đất.
Tam tài trước hết là một thuyết tâm học về cấu trúc vũ trụ. Nội dung chủ yếu
của thuyết này là quan điểm Nho, Ðạo cho rằng nhân tâm như gương, trời đất có
thể coi là vật ngoài gương, nhưng cái mà ta gọi là vũ trụ chỉ là ảnh trong gương.
Ảnh đó tất không phải trời, không phải đất, cũng không phải tâm, mà là kết quả sự
Nhóm 2.1 - Lớp KTHN 1605

Page 6



Đề tài tiểu luận: Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong triết học phương
Đông và hương Tây.
hòa hợp của cả ba, con người bởi thế mới sánh ngang trời đất. Con người không
thể biết gì về bản thân trời đất, cũng không thể biến cải bản chất của chân tâm, mà
chỉ có thể dựa vào ảnh trên để suy ra đạo lý vũ trụ. Bởi vậy tuy chia làm ba ngôi
nhưng tam tài luôn phải được coi là nhất thể, Thiệu Ung nói: Khẳng bả tam biệt
lập căn nguyên. Việc duy nhất người ta cần làm là giữ cho gương sạch, khi đó ảnh
mới rõ ràng, đạo mới minh bạch.
Thuyết tam tài là một thuyết về mục đích của mọi hành động con người.
Thuyết này cho rằng con người phải hòa đồng với vũ trụ ngay cả trong những
hành động nhỏ nhất. Phần thực hành không thể tách khỏi tri thức thượng học.
Công Tôn Trừu hỏi: Ðạo thì thật cao đẹp, xong chẳng phải ai cũng tới được Trời.
Chi bằng cứ để cho kẻ thường nhân làm những việc họ dễ đạt được rồi dần dần
khuyến khích họ tiến bộ có hơn không? Mạnh Tử dạy: Người thợ giỏi chẳng thể vì
vài đứa học trò vụng mà bỏ đi mực thước, người thiện xạ chẳng vì vài kẻ bắn kém
mà thay đổi cung tên. Ai muốn đi xa cũng phải bước những bước đầu, xong nếu
cái đích không định được trước, sợ ngay bước đầu đã lạc lối rồi chăng?
Thuyết tam tài cuối cùng còn đề ra được biện pháp cho con người để giữ được
chân tâm, để đạt được mục đích chân-thiện-mỹ, để làm tròn bổn phận tài thành
thiên địa. Bởi vậy thuyết tam tài là một thuyết về nhân đạo. Về điểm này, Nho
giáo và Ðạo giáo có những trọng tâm khác nhau: theo Nho giáo thì vị trí con người
nằm ở giữa tam tài cho hay nhân đạo cốt ở đắc trung. Trung có một nghĩa là ở
giữa. Ðạo giáo thì không nhấn mạnh vào vị trí giữa của ngôi nhân, mà chú trọng
đặc biệt sự thống nhất không thể tách rời của tam tài. Do đó nhân đạo không khác
gì thiên đạo, địa đạo. Con người cứ xem theo đạo lý trời đất mà suy ra nhân đạo.
Nguyên lý thông thuận của Á Ðông này thường được đem ra so sánh với
nguyên tắc làm chủ, chế ngự thiên nhiên của phương Tây.
b. Quan niệm Ấn Độ
Quan niệm của người Ấn Độ cho rằng mối quan hệ giữa con người và vũ trụ là
mối quan hệ giữa tiểu ngã và đại ngã, giữa bộ phận và toàn thể, vừa đồng nhất,

vừa khác biệt.
Theo quan niệm của Bà La Môn giáo thì chúng sinh có Tiểu Ngã, khi chết sẽ
trở về với Đại Ngã. Đại Ngã giống như biển lớn, còn tiểu ngã giống như mỗi giọt
nước tượng trưng cho một chúng sinh.
Đạo Vệ Ðà của Ấn Độ toát lên giáo lý cơ bản là con người thường xuyên có
những mối liên hệ với thần linh, phản ánh sự hòa đồng giữa con người và vũ trụ.
Nhờ cúng tế, con người sẽ được các thần linh đó phù hộ che chở, sẽ tránh được
điều rủi gặp được điều may.
Nhóm 2.1 - Lớp KTHN 1605

Page 7


Đề tài tiểu luận: Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong triết học phương
Đông và hương Tây.
* Nhìn chung, truyền thống hòa hợp với tự nhiên, chủ yếu xem con người là bộ
phận của tự nhiên, từ đó dẫn đến thái độ tôn trọng tự nhiên và mô phỏng trật tự
của tự nhiên. Đây là một truyền thống đáng quý, nó tạo nên tâm hồn, tình cảm, nét
văn hóa phong phú, sinh động, độc đáo của phương Đông. Tuy nhiên nếu xu
hướng này bị đẩy đến cực quan sẽ hạn chế khả năng sáng tạo và những sức mạnh
to lớn trong việc tác động cải tạo giới tự nhiên của con người.
III. TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY VÀ TƯ TƯỞNG GIẢI PHÓNG CON
NGƯỜI, KHẲNG ĐỊNH THAM VỌNG CHINH PHỤC, THỐNG TRỊ TỰ
NHIÊN
1. Triết học Hi Lạp cổ đại- cơ sở của triết học phương Tây
Mặc dù hãy còn nhiều tính "cắt khúc", nhưng triết học Hy Lạp cổ đại đã có
những phát hiện mới đối với phép biện chứng. Chính trong thời kỳ này thuật ngữ
"biện chứng" đã hình thành. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế thời kỳ
chiếm hữu nô lệ, Hy Lạp cổ đại đã đạt được nhiều thành tựu to lớn về văn hoá,
nghệ thuật, mà trước hết là các thành tựu trong khoa học tự nhiên như: Thiên văn

học, vật lý học, toán học đã làm cơ sở thực tiễn cho sự phát triển của triết học
trong thời kỳ này. Triết học Hy Lạp cổ đại đã phát triển hết sức rực rỡ, trở thành
nền tảng cho sự phát triển của triết học phương Tây sau này.
Một trong những nhà triết học điển hình có tư tưởng biện chứng là Heraclit
(540 - 480 TCN). Theo đánh giá của các nhà kinh điển Mác - Lênin thì Heraclit là
người sáng lập ra phép biện chứng. Ông cũng là người đầu tiên xây dựng phép
biện chứng dựa trên lập trường duy vật.
Phép biện chứng của Heraclit chưa được trình bày dưới dạng một hệ thống các
luận điểm khoa học mà hầu như các luận điểm cốt lõi của phép biện chứng được
đề cập dưới dạng các câu danh ngôn mang tính thi ca và triết lý. Tư tưởng biện
chứng của Heraclit được thể hiện như sau:
Một là Quan niệm về sự vận động vĩnh cửu của vật chất. Theo Heraclit thì
không có sự vật, hiện tượng nào của thế giới là đứng im tuyệt đối, mà trái lại, tất
cả đều trong trạng thái biến đổi và chuyển hoá. Ông nói: "Chúng ta không thể tắm
hai lần trên một dòng sông vì nước mới không ngừng chảy trên sông"; "Ngay cả
mặt trời cũng mỗi ngày một mới". Theo quan điểm của Heraclit thì lửa chính là
bản nguyên của thế giới, là cơ sở duy nhất và phổ biến nhất của tất cả mọi sự vật,
hiện tượng. Đồng thời lửa cũng chính là gốc của mọi vận động, tất cả các dạng
khác nhau của vật chất chỉ là trạng thái chuyển hoá của lửa mà thôi.
Hai là Heraclit nêu lên tư tưởng về sự tồn tại phổ biến của các mâu thuẫn trong
mọi sự vật, hiện tượng. Điều đó thể hiện trong những phỏng đoán về vai trò của
những mặt đối lập trong sự biến đổi phổ biến của tự nhiên về "sự trao đổi của
Nhóm 2.1 - Lớp KTHN 1605

Page 8


Đề tài tiểu luận: Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong triết học phương
Đông và hương Tây.
những mặt đối lập", về "sự tồn tại và thống nhất của các mặt đối lập". Ông nói:

"cùng một cái ở trong chúng ta - sống và chết, thức và ngủ, trẻ và già. Vì rằng cái
này biến đổi là cái kia; và ngược lại, cái kia mà biến đổi thành cái này ...". Heraclit
đã phỏng đoán về sự đấu tranh và thống nhất của những mặt đối lập. Lê nin viết:
"Phân đôi cái thống nhất và nhận thức các bộ phận đối lập của nó là thực chất của
phép biện chứng. Điều này chúng ta đã thấy xuất hiện ngay từ nhà biện chứng
Heraclit".
Ba là Theo Heraclit thì sự vận động phát triển không ngừng của thế giới do quy
luật khách quan (mà ông gọi là Logos) quy định. Logos khách quan là trật tự
khách quan là mọi cái đang diễn ra trong vũ trụ. Logos chủ quan là từ ngữ học
thuyết của con người. Logos chủ quan phải phù hợp với logos khách quan. Người
nào càng tiếp cận được logos khách quan bao nhiêu thì càng thông thái bấy nhiêu.
Lý luận nhận thức của Heraclit mang tính biện chứng và duy vật sơ khai nhưng cơ
bản là đúng.
Ở thời cổ đại, xét trong nhiều hệ thống triết học khác không có được tư tưởng
biện chứng sâu sắc như vậy. Chính là những tư tưởng biện chứng sơ khai của
Heraclit sau này đã được các nhà biện chứng cổ điển Đức kế thừa và các nhà sáng
lập triết học Macxít đánh giá cao. C.Mác và Ph.Ănghen đã đánh gía một cách
đúng đắn giá trị triết học của Heraclit và coi ông là đại biểu xuất sắc nhất của phép
biện chứng Hy Lạp cổ đại: "Quan niệm về thế giới một cách nguyên thuỷ, ngây
thơ nhưng căn bản là đúng ấy, là quan niệm của các nhà Hy Lạp thời cổ và người
đầu tiên diễn đạt được rõ ràng quan niệm ấy là Heraclit". (1)
Trong học thuyết về nguyên tử của mình, Đêmôcrit (460 - 370 TCN) đã kế thừa
quan điểm của Heraclit về vận động. Ông cho rằng vận động của nguyên tử là vĩnh
cửu và ông đã cố gắng giải thích nguyên nhân vận động của nguyên tử là ở bản
thân nguyên tử, ở động lực tự thân. Ông cho rằng còn khoảng trống hay còn "chân
không" trong nguyên tử là điều kiện vận động của nó. Tuy nhiên Đêmôcrit đã
không lý giải được nguồn gốc của vận động.
Sau Đêmôcrit là Arixtốt (384 - 322 TCN) ông cho rằngvận động gắn liền với
các vật thể với mọi sự vật, hiện tượng của giới tự nhiên. Ông cũng khẳng định vận
động là không thể bị tiêu diệt "Đã có vận động và mãi mãi sẽ có vận động".

Arixtốt là người đầu tiên đã hệ thống hoá các hình thức vận động thành 6 dạng:
Phát sinh, tiêu diệt, thay đổi trạng thái, tăng, giảm, di chuyển vị trí .
Tuy nhiên Arixtốt lại dơi vào duy tâm vì cho rằng thần thánh là nguồn gốc của
mọi vận động.
Tóm lại, phép biện chứng thời cổ đại về căn bản là đúng nhưng chủ yếu mới
dựa trên những phỏng đoán, những trực kiến thiên tài. Phép biện chứng tự phát
thời cổ đại đã nhìn thấy bức tranh chung của thế giới trong sự tác động, liên hệ của


Nhóm 2.1 - Lớp KTHN 1605

Page 9


Đề tài tiểu luận: Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong triết học phương
Đông và hương Tây.
các mặt đối lập, song chưa đi sâu vào chi tiết của bức tranh. Vì vậy, nó không
tránh khỏi bị phủ định bởi phép siêu hình trong thời kỳ cận đại.
2. Tư tưởng giải phóng con người, khẳng định tham vọng chinh phục,
thống trị tự nhiên
Tư tưởng về vai trò quyết định của điều kiện tự nhiên trong đời sống xã hội
theo quan điểm duy tự nhiên đã được những nhà tư tưởng cổ đại như Platon,
Aristốt khẳng định để đối lập với quan điểm tôn giáo, thần thoại. Tiêu biểu cho
quan điểm này phải kể đến quyết định luận địa lí hay thuyết địa lí quyết định do
Môngtexkiơ khởi xướng vào thế kỷ XVIII. Trào lưu triết học này đã đặt sự
phát triển của xã hội trực tiếp lệ thuộc vào điều kiện địa lí (khí hậu, thổ
nhưỡng, sông ngòi...) đồng thời khẳng định đạo đức cũng như đặc điểm của một
dân tộc tùy thuộc vào hoàn cảnh địa lí của nước đó. Trên cơ sở đó, các nhà triết
học tư sản như Bớc– con, C.Rítte đã xây dựng thuyết địa lý chính trị để chứng giải
tính vĩnh viễn của sự bất bình đẳng xã hội, biện hộ cho sự bành chướng thuộc địa

của chủ nghĩa tư bản vào giữa thế kỷ XX. Họ cho rằng qui luật tự nhiên chi phối
toàn bộ đời sống xã hội và do đó, một nước có hoàn cảnh địa lí thuận lợi thì người
dân có khả năng thống trị và ngược lại, một nước có hoàn cảnh địa lí không thuận
lợi thì chịu sự thống trị.. Thực tế của sự phát triển của xã hội đã bác bỏ “thuyết địa
lí chính trị” vì qua bao nhiêu thế kỷ môi trường tự nhiên, hoàn cảnh địa lí thay
đổi chậm chạp và rất ít rất nhiều chế độ chính trị xã hội đã biến đổi vô cùng nhanh
chóng thông qua những cuộc cách mạng xã hội.
Quan điểm duy tự nhiên đề cao tuyệt đối hóa tự nhiên trong mối quan hệ giữa
con người và tự nhiên không phát huy vai trò của con người trong đời sống kinh tế
xã hội, con người thụ động trong mối quan hệ với tự nhiên.
Khác với quan điểm duy tự nhiên, quan điểm duy xã hội (con người) của hầu
hết các triết gia phương Tây lại đề cao tuyệt đối hóa yếu tố con người, vị trí con
người trong mối quan hệ với tự nhiên.
Triết học Hilạp cổ đại tôn vinh con người và tinh thần của Kitô giáo về sự sáng
tạo của Thượng Đế. Con người là đỉnh cao của sự sáng tạo ấy và là hình ảnh của
Chúa nên bản thân con người cũng có khả năng sáng tạo thế giới.
Các triết gia tiêu biểu như: Pitago, Sôcrat, Aristốt...luôn thể hiện quan điểm
con người là vị trí trung tâm của thế giới. Pitago khẳng định: “con người là thước
đo của mọi vật”. Đỉnh cao trong các quan niệm về con người trong triết học cổ đại
phương Tây là Aristốt, ông khẳng định: “do bản tính, con người là động vật chính
trị”. Đây là tư tưởng có ý nghĩa rất lớn trong việc nhận thức vấn đề con người cho
đến tận sau này.
Nhóm 2.1 - Lớp KTHN 1605

Page 10


Đề tài tiểu luận: Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong triết học phương
Đông và hương Tây.
Quan điểm duy xã hội (con người) được phát triển rực rỡ ở thời kỳ Phục hưng

cuối thế kỷ XV, với sự ra đời của “khoa học tự nhiên thực sự” Châu Âu đã đạt đến
sự tiến bộ khổng lồ trong lĩnh vực tự nhiên nhờ những phát kiến mới của Niutơn,
Lốccơ, Hốpxơ... Họ khẳng định khả năng chinh phục tự nhiên tuyệt đối của con
người.
Quan điểm này tiếp tục được phát triển trong triết học cổ điển Đức. Triết học
cổ điển Đức đã kế thừa và phát triển tư tưởng triết học thời kỳ Phục hưng và Khai
sáng là đề cao con người, đặc biệt là trí tuệ con người. Tuy nhiên, bị chi phối bởi
thế giới quan duy tâm nên con người đã bị cực đoan hóa đến mức là chúa tể sáng
tạo ra giới tự nhiên. Trong triết học Hêghen thì ý thức con người đã được thần
thánh hóa thành lực lượng siêu nhiên và chi phối toàn vũ trụ. Ông cho rằng: giới tự
nhiên được ý niệm tuyệt đối tha hóa cùng một lúc trong không gian. Như thế giới
tự nhiên không có quá trình phát triển theo thời gian, phủ nhận sự tồn tại của tự
nhiên là độc lập với ý thức con người.
Quan điểm duy xã hội còn được tiếp tục phát triển bởi các nhà triết học tư sản
thế kỉ XX thông qua thuyết kĩ trị. Thuyết “kỹ trị” đây là trào lưu xã hội học ra đời
ở nước Mỹ trên cơ sở những tư tưởng của nhà kinh tế học tư sản I Vêblen vào
được phổ biến rộng rãi trong những năm 30. Ở nước Mỹ và một số nước Châu Âu,
các hội nhà kỹ trị được thiết lập. Họ tuyệt đối hóa vai trò của khoa học kỹ thuật, đề
cao việc sử dụng máy móc, sản phẩm công nghiệp…
Quan điểm duy xã hội (con người) chỉ đề cao việc chinh phục một chiều của
con người trong mối quan hệ với tự nhiên. Đó là điều “phi lý và trái tự nhiên”,
sự thống trị ấy chính là nguyên nhân dẫn đến sự hủy hoại tự nhiên, làm mất cân
bằng sinh thái. Vì thế, đây là điều kiện để chính tự nhiên “báo thù” con người.
* Nhìn chung, theo quan điểm truyền thống phương Tây, tính tích cực chủ
động, sáng tạo của con người được đề cao trong quan hệ với tự nhiên. Trên tinh
thần đó con người đã đạt được những thành tựu to lớn trong việc chinh phục tự
nhiên, cải tạo hoàn cảnh. Nhưng cũng chính những điều đó đã để lại hậu quả nặng
nề về mặt môi sinh mà các thế hệ ngày nay và mai sau phải gánh chịu.

KẾT LUẬN

Như vậy, nhìn chung triết học Phương Tây và Phương Đông cổ đại đều xoay
quanh giải quyết vấn đề cơ bản của triết học. Tuy nhiên, do những đặc điểm kinh
tế xã hội và lịch sử triết học Phương Đông và triết học Phương Tây cũng có sự
khác biệt về nội dung, phương pháp tiếp cận, mục đích nghiên cứu, đối tượng của
triết học... Mặc dù có sự khác nhau nhất định, xong triết học Phương Tây cũng như
Nhóm 2.1 - Lớp KTHN 1605

Page 11


Đề tài tiểu luận: Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong triết học phương
Đông và hương Tây.
triết học Phương Đông đã cơ bản đáp ứng được những vấn đề cấp bách mà thời đại
lúc bấy giờ đã đặt ra. Theo như C.Mác: “mọi triết học chân chính đều là tinh hoa
về mặt tinh thần của thời đại mình”.
Tuy nhiên, các quan điểm của triết học phương Đông và phương Tây đều có
những mặt trái ảnh hưởng xấu đến mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong
sự phát triển. Thực chất, như Ănghen nói: trong tự nhiên rút cuộc lại, mọi cái diễn
ra biện chứng chứ không phải siêu hình. Cần có cách tiếp cận hai hệ thống triết lý
trên theo quan điểm biện chứng. Việc nghiên cứu quan điểm trong triết học
phương Đông và phương Tây là tiền đề để chúng ta tiếp cận với quan điểm đúng
đắn của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, về tự nhiên,
về vai trò của con người trong mối quan hệ với tự nhiên.
Việc nhận thức được mối quan hệ giữa con người và tự nhiên có ý nghĩa vô
cùng quan trọng, là cơ sở của sự phát triển kinh tế – xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Chúng em cho rằng việc giáo dục nhận thức đúng đắn về mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên ngày càng trở nên cấp thiết, vì nhân tố con người đóng vai trò
quan trọng đảm bảo sự thống nhất giữa con người và tự nhiên trong quá trình phát
triển.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ấn Độ Xưa và Nay. Tràn Thị Lý (chủ biên) cùng tập thể tác giả. Nxb

KHXH, 1997.
2. c. Mác và Ph Ăng ghen: Toàn tập (1995), Tập 21 Nxb Sự Thật, Hà Nội.
3. Đại Cương Triết Học Phương Đông cổ Đại, Doãn Chính (Chủ biên). Nxb

CTQG,1998.
4. Giáo Trình Triết Học Mác-Lê Nin (dùng cho các trường ĐH&CĐ), Bộ giáo

dục và đào tạo (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Giáo Trình Triết Học (Dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không

thuộc chuyên ngành Triết học), Nxb lý luận chính trị, Hà Nội, 2007.
6. Lịch Sử Triết Học, Tràn Đăng Sinh (chủ biên), Nxb Đại học sư phạm, 2009.

Nhóm 2.1 - Lớp KTHN 1605

Page 12



×