Tải bản đầy đủ (.docx) (63 trang)

ẩm thực của cộng đồng người Chăm ở Ninh Thuận qua các thời kì

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.19 MB, 63 trang )

ẨM THỰC CỦA CỘNG ĐỒNG NGƯỜI CHĂM Ở NINH THUẬN QUA CÁC
THỜI KÌ
MỤC LỤC

TRANG

MỞ ĐẦU
1. Chương 1 Các yếu tố hình thành nên nền văn hóa ẩm thực của người Chăm ở
Ninh Thuận
1.1 Môi trường tự nhiên ………………………………………..10.

1.1.1Khí hậu………………………………………………….10
1.1.2 Địa hình………………………………………………....10
1.1.4 Đồng bằng………………………………………………11
1.1.5 Biển……………………………………………………..11
1.2 Người Chăm và văn hóa Chăm…………………………….12
1.2.1 Chủng tộc ………………………………………………..12
1.2.2 Làng palei Chăm…………………………………………..12
1.2.3 Đời sống kinh tế…………………………………….12
1.2.4 Nghề thủ công truyền thống……………………………..13
1.2.4.1 Nghề gốm……………………………..13
1.2.4.2 Nghề dệt……………………………..13
1.2.4.3 Nghề luyện kim……………………………..13
1.2.4.4

Các nghề truyền thống khác…………………….14
1.2.5 Tín ngưỡng………………………………………14
1.2.6 Tôn giáo…………………………………..14
1.2.7 Đền tháp Chăm
khắc……………………………14




nghệ

thuật

kiến

trúc,

điêu

1


1.2.8Văn hóa nghệ thuật……………………………..14

2. Chương 2 Một số món ăn-thức uống tiêu biểu của nền văn hóa ẩm thực của
người Chăm ở Ninh Thuận
2.1 Các món ăn tiêu biểu,đặc trưng trong đời sống thường ngày của người
Chăm……………………………15
2.1.1 Món canh………………………………………15
2.1.2 Những món ăn được chế biến từ các loại thịt……………………………18
2.1.3 Những món ăn được chế từ thủy sản……………………………20
2.2 Những món bánh (Tapei ahar mưnưng)……………………………………21
2.2. 1.Tapei anăng baik (Bánh tét đòn)……………………………….21
2.2.2. Tapei anung banah (bánh tét cặp) ………………………………..22
2.2.3. Tapei dalik (Bánh ít) …………………………………22
2.2.4. Tapei adang (bánh xôi chè) ………………………………….23
2.2.5. Tapei racăm (Bánh tráng) ………………………………………23

2.2.6. Tapei kamang (bánh in) ………………………………..24
2.2.7. Tapei saip (bánh xếp) ……………………………24
2.2.8 .Sakaya angauk (Sakaya trên) …………………………25
2.2.9. Ginraung laya (Bánh củ gừng)…………………….26
2.2.10. Tapei kăng ……………………………..26
2.2.11. Akun (bánh chà cung) ………………………………26
2.2.12. Kadaur (Bánh đúc) …………………………………..27
2.3 Các loại rau (Djăm)……………………………..27
2


2.4 Chè-cháo-cơm-xôi……………………………….28
2.5 Mắm (mưthin) - Muối (sara) ………………………30
2.6 Thức uống (kaya mưnhum)………………………32
2.6.1 Nước nấu với cây cỏ ………………………………
2.6.2 Nước nấu với đậu………………………………….
2.6.3 Các loại rượu (Alăg-tapai)………………………..
3. Chương 3 :Sự biến đổi trong quan điểm ẩm thực của người Chăm hiện nay (từ
sau năm 1975 trở đi)
3.1 Quan điểm về ẩm thực của người Chăm……………………….33
3.1.1 Quan điểm …………………………………..33
3.1.2 Những đặc trưng cơ bản………………………………..35
3.2 Sự biến đổi văn hóa ẩm thực và các yếu tố tác động đến văn hóa ẩm thực của
người Chăm hiện nay……………………………………35
3.2.1

Sự

biến


đổi

văn

hóa

ẩm

thực

của

người

Chăm

hiện

nay…………………………39
3.2.2 Các yếu tố tác động đến sự biến đổi trong văn hóa ẩm thực của người
Chăm……………………………………43
4. KẾT LUẬN………………………………………….45
5. MỤC LỤC ẢNH…………………………………46

3


MỞ ĐẦU
1.


Lý do chọn đề tài.
Người Chăm Ninh Thuận là cư dân chiếm số dân đông nhất trong cộng đồng tộc
người Chăm cả nước. Tộc người Chăm ở tỉnh Ninh Thuận ngày nay là cư dân bản
địa, sinh tụ lâu đời, gắn liền với sự hình thành và phát triển vương quốc Champa cổ
từ thế kỷ thứ II đến nửa đầu thế kỷ XIX sau công nguyên, sau đó hòa nhập vào
cộng đồng đa dân tộc Việt Nam cho đến ngày nay. Trong suốt quá trình tồn tại và
phát triển, người Chăm đã sản sinh và để lại cho hậu thế một di sản văn hóa phong
phú, đa dạng và đặc sắc, trong đó phải kể đến nền văn hóa ẩm thực của người
Chăm.
Người xưa có câu “có thực mới vực được đạo” hay “học ăn,học nói,học gói,học
mở” cho ta thấy rằng ngay từ thời xa xưa chuyện ăn uống,nấu nướng rất được coi
trọng.Và trải qua thời gian ẩm thực đã trở thành yếu tố văn hóa tinh tế,phản ánh
được nét ứng xử hay lối sống của một cộng đồng,và cộng đồng người Chăm ở
Ninh Thuận cũng không ngoại lệ.
Vượt qua cả không gian và thời gian,ẩm thực của người Chăm đã trở thành một nét
văn hóa mang đậm sắc thái,tâm hồn của dân tộc và trở thành một mảng không thể
thiếu trong nền văn hóa Champa.
Cộng đồng người Chăm ở Ninh Thuận có hai tôn giáo chính: Bàlamôn và Hồi giáo
Bàni, ngoài ra có một bộ phận nhỏ theo đạo Hồi giáo Islam (bộ phận này được tách
ra từ Hồi giáo Bàni, du nhập vào tỉnh Ninh Thuận từ những năm 60 của thế kỷ
XX),mỗi tôn giáo lại có những đặc trưng riêng về ẩm thực,cũng như cách chế
biến,thường thức ẩm thực theo mỗi địa phương cư trú khác nhau.Ví dụ: Người Bà
4


La Môn kiêng ăn thịt bò,người Bà Ni lại kiêng thit heo,trong khi đó người Islam lại
kiêng tất cả những thịt mà mình không tự tay giết .Điều này đã tạo cho văn hóa ẩm
thực của người Chăm càng thêm phong phú và đa dạng hơn bao giờ hết.
Cho đến ngày nay,cuộc sống mỗi ngày càng thay đổi.Nhu cầu sinh hoạt của con
người cũng cao hơn chuyển từ “ăn no mặc ấm” sang “ăn ngon mặc đẹp”nên ẩm

thực mang tính truyền thống có vẻ cũng có những biến động theo thời gian.Vì vậy
lựa chọn đề tài “sự biến đổi ẩm thực của người Chăm Ninh Thuận qua các thời kì”
sẽ lí giải cho ta hiểu rõ hơn sự khác nhau,cũng như những biến động làm thay đổi
các tính chất giữa ẩm thực hiện đại với ẩm thực của những thập niên trong thế kỉ
trước.Qua đó ta có thể góp phần bảo tồn những giá trị truyền thống thông qua ẩm
thực,phát huy tốt hơn nữa những giá trị truyền thống đó.
2.

Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Ẩm thực người Chăm nói chung,cộng đồng người Chăm ở Ninh Thuận nói riêng
đã có rất nhiều nghiên cứu và đạt được nhiều thành tựu to lớn.Đặc biệt là trong thời
đại công nghệ thông tin đang phát triền, phủ sóng mạnh mẽ trên khắp cả nước thì
những nét đặc trưng của văn hóa Chawmpa cũng được giới thiệu rộng khắp.Tuy
nhiên,bên cạnh đó số lượng bài viết về ẩm thực của người Chăm qua các thời kì
còn rất hạn chế,một số bài viết cũng như mốt số sách được xuất bản hầu như chỉ đề
cập chung chung đến văn hóa ẩm thực thực của người Chăm.Nó vẫn chưa thực sự
khai thác sâu đến khía cạnh này của ẩm thực của người Chăm.
Vì phạm vi nghiên cứu hẹp trong tỉnh Ninh Thuận nên có một số đề tài nghiên cứu
chưa được cập nhật được vì vậy người viết sẽ cố gắng bổ sung vào bài làm sau.

3.
3.1

Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu:
Mục tiêu nghiên cứu

5


Khái quát và so sánh một số đặc điểm về ẩm thực của các tôn giáo của cộng đồng

Chăm Ninh Thuận qua các thời kì .Phân tích rõ hơn các yếu tố tác động đến ẩm
thực của nơi đây,đồng thời sẽ chỉ ra được những điểm khác và giống nhau ở mỗi
tôn giáo,mỗi địa phương trong một khoảng thời gian nhất định.
3.2

Nhiệm vụ nghiên cứu
-Nêu rõ hơn các đặc điểm chung và riêng về ẩm thực của cộng đồng người Chăm
Ninh Thuận.
-Làm rõ hơn các đặc điểm nổi bật trong nền ẩm thực của của người Chăm nói
chung,cộng đồng người Chăm ở Ninh Thuận nói riêng.
-Tìm hiểu một cách sâu sắc về vấn đề đang cần nghiên cứu,đó là sự biến đổi của
ẩm thực qua từng thời kì và các yếu tố tác động đên nó.
-Rút ra giá trị sâu sắc của vấn đề.
4.Phạm vi và nguồn tư liệu
4.1.Phạm vi nghiên cứu
Bài niên luận chủ yếu nghiên cứu về các đặc điểm của ẩm thực trong từng thời
kì,những đặc điểm đó theo thời gian đã bị biến đổi như thế nào ?Và có những tác
nhân nào tác động làm cho ẩm thực của cộng đồng này thay đổi theo thời gian.Sự
biến đổi trong ẩm thực tác động đến cộng đồng người Chăm trong thời kì hiện
nay.Bên cạnh đó bài nghiên cứu được thực hiện trong phạm vi ở một vài xã cụ thể
trong các cộng đồng Chăm Ninh Thuận như Phước Nam,An Hải,Hữu Đức,….
4.2.Nguồn tư liệu tham khảo

1.
2.

Nguyễn Ngọc Tỷ (2010), Người Chăm Việt Nam,NXB Lao Động [Tr.96,102-103]
.Thập Liên Trưởng (10/1994), Lễ hội Ramuwan Bà ni.

6



3.

Ngô Văn Doanh (1994), Văn hóa Chămpa, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, NXB.
Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

4.

Ngô Văn Doanh (1998), Lễ hội Rija Nưgar của người Chăm, NXB. Văn hóa dân
tộc.

5.
6.

Sakaya, Lễ hội Của người Chăm(2004), NXB Văn Hóa Dân Tộc [Tr.15-50]
Các trang web tham khảo
1. />2. />3. />5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Mục đích của phương pháp : nhằm thực hiện mục đích của đề tài nghiên cứu
- Các nội dung của phương pháp nghiên cứu :
+ Phát hiện đối tượng nghiên cứu cụ thể là ẩm thực của cộng đồng người Chăm ở
Ninh Thuận đã biến đổi như thế nào?.Đặt ra các câu hỏi để làm rõ những sự biến
đổi về ẩm thực theo thời gian.
+ Xây dựng giả thuyết nghiên cứu : Đây là những nhận định sơ bộ , hướng đi cụ
thể của người viết đối với vấn đề cần được nghiên cứu.
+ Xây dựng hệ thống các luận điểm và luận cứ cụ thể, chính xác,logic, đầy đủ. Sử
dụng phương pháp xử lý thông tin từ các nguồn tài liệu tham khảo
+ Tìm luận cứ lý thuyết và luận cứ thực tiễn
Tìm luận cứ lý thuyết để xây dựng cơ sở lý luận của nghiên cứu. Dữ liệu được thu
thập bao gồm những khái niệm, sự kiện, diễn giải và các số liệu cần thiết để chứng

minh cho vấn đề được nêu.
+ Xử lý và phân tích thông tin
7


Xử lý và phân tích thông tin , tài liệu đã thu thập,sử dụng các phương pháp đối
sánh, giải thích, diễn dịch, quy nạp, chứng minh, đối chiếu để làm rõ vấn đề cần
được nghiên cứu.
+ Viết kết quả nghiên cứu.
6. Đóng góp của đề tài
- Đây là công trình nghiên cứu một cách tương đối hệ thống và chi tiết về sự biến
đổi ẩm thực của cộng đồng người Chăm ở Ninh Thuận qua các thời kì.
-Qua việc tìm hiểu về vấn đề sẽ giúp chúng ta hiểu rộng hơn về đời sống văn hóa
tôn giáo, tinh thần cũng như sự biến đổi về ẩm thực của cộng đồng người Chăm ở
Ninh Thuận nói riêng,cộng đồng người Chăm trên cả nước nói chung , sẽ là nguồn
tài liệu bổ ích để tham khảo cho những ai đam mê và nghiên cứu về văn hóa
Champa.Đồng thời qua đó sẽ giúp cộng đồng người Chăm có thể lưu giũ và bảo
tồn nét văn hóa truyền thống của mình thông qua nền ẩm thực.
7. Bố cục đề tài.
7.1. Mục lục.
7.2. Phần mở đầu
7.3. Danh mục tài liệu tham khảo
7.4. Chương 1: Các yếu tố hình thành nên nền văn hóa ẩm thực của người Chăm ở
Ninh Thuận.
7.5. Chương 2: Một số món ăn-thức uống tiêu biểu của nền văn hóa ẩm thực của
người Chăm ở Ninh Thuận

8



7.6. Chương 3: Sự biến đổi trong quan điểm ẩm thực của người Chăm hiện nay (từ
sau năm 1975 trở đi)
7.7. Phần kết luận
7.8. Phụ lục ảnh

9


CHƯƠNG 1.CÁC YẾU TỐ HÌNH THÀNH NÊN NỀN VĂN HÓA ẨM THỰC
CỦA NGƯỜI CHĂM Ở NINH THUẬN
1.1

Môi trường tự nhiên:
1.1.1Khí hậu:
Khí hậu ở Ninh Thuận khắc nghiệt, ở đây có 2 mùa rõ rệt : mùa mưa ( từ tháng 9
đến tháng 11 ) và mùa khô ( từ tháng 12 đến tháng 3 ).Vì địa hình chủ yếu là núi
bao quanh nên lượng mưa hằng năm ở đây rất ít, vậy nên mùa khô ở đây kéo dài
trong năm.
1.1.2 Địa hình:
Phía bắc giáp tỉnh Khánh Hòa, nam giáp tỉnh Bình Thuận, đông giáp biển Đông và
phía tây giáp tỉnh Lâm Đồng.Trên đại thể Ninh Thuận giống như cái chảo, ba mặt :
bắc, tây, nam và một nửa phía đông bị núi bao bọc chỉ còn một nửa phía dông cón
lại thông thoáng hướng ra biển Đông.Địa hình này tạo nên khí hậu đặc trưng của
Ninh Thuận là khô và nóng.
1.1.3 Sông ngòi:
Với địa hình như thế đã hình thành nên hệ thống sông ngòi, suối rạch ở Ninh
Thuận như : s.Dinh, s.Cái, s.Ma Lâm, s.Quao, s.Pha, s.Lu và hàng ngàn con suối
chằng chịt như lòng bàn tay xòe chảy về đồng bằng như suối Ma Ty, suối Tía, suối
Than, suối Yahac, suối Dầu, suối Me,…Trong đó con sông lớn nhất là s.Dinh ( >
100km ).Đặc điểm cùa các con sông ở đây là ngắn, dốc có nhiều khe đá,…Do vậy

sông ngày thường thì cạn nước không sâu, đến mùa mưa thì nước đổ xuống từ các
núi đá chảy xiết, đổ vào lòng chảo, gây nên nhiều cơn lũ lụt.Do vậy để điều hòa

10


lượng nước, trên những khúc sông ngắn dốc người Chăm thường đắp đập, làm thủy
lợi để đưa nước sông về đồng bằng.
1.1.4 Đồng bằng:
Được bồi đắp bởi phù sa đọng lại qua thời gian lâu dài thành nhiều lớp lấp đầy
vùng vịnh và tạo nên đồng bằng ngày nay.Tuy nhiên về khí hậu ở đây khô nóng,
nên đồng bằng thường khô hạn, thiếu nước, đất đai cằn cỗi, khó khăn cho việc sản
xuất nông nghiệp.Mặc dù vậy người Chăm không đầu hàng thiên nhiên mà họ ra
sức khẩn hoang , ngăn sông đắp đập, đưa nước vào tưới tiêu cánh đồng.Sản xuất
được nhiều lương thực nuôi sống dân làng, hình thành nên làng xóm, cư dân trù
phú.
1.1.5 Biển:
Cùng nằm nối nhau trên bờ biển miền Trung Việt Nma, biển Ninh Thuận kéo dài
khoảng 100km.Bờ biển Ninh Thuận cao và dốc, có những bãi cát đẹp mịn màng
như bãi cát Ninh Chữ, bãi đá Cà Ná,…cùng với địa hình được bao bọc bởi núi nên
vùng biển này trở thành nơi tránh bão an toàn cho các chuyến tàu viễn hành bằng
đường biển.Ngoài địa thế thuận lợi, an toàn biển Ninh Thuận còn là biển có nhiều
hải sản như tôm cá, mực, ba ba, nghêu, sò, ốc, hến, san hô và các loại ngọc trai…
Đây chính là môi trường thuận lợi để người Chăm hướng ra biển hoạt động kinh tế
trên biển một thời phát triển.(1).
Nói chung,môi trường tự nhiên ở Ninh Thuận cúng mang đặc điểm chung với
miền Trung Việt Nam.Với điều kiện tự nhiên như vậy đã sản sinh ra nhiều loài
đông,thực vật như : trâu,bò,hươu,nai,các loài thủy hải sản,…hay lúa gạo, đậu
xanh,đậu nành,cà,dưa,chuối,dừa,hồ tiêu,…với nhiều loài động thực vật phong phú
như vậy,đã cung cấp nhiều loại lương thực thực phẩm cho cư dân ở đây quanh

11


năm,và nó hình thành nên thói quen ăn uống có một không hai của người Chăm, từ
đó góp phần hình thành nên một nền văn hóa ẩm thực đặc sắc riêng cho mình.
1.2 Người Chăm và văn hóa Chăm
1.2.1Chủng tộc:
Người Chăm thuộc chủng tộc Nam Á, tiếng nói của họ rất gần gũi với các dân tộc
Raglai, Churu, Jarai, Ê đê thuộc nhóm ngôn ngữ Nam Đảo.Họ có hệ thống chữ
viết dựa trên chữ Phạn của Ấn Độ và đến nay đã biến thành chữ Chăm thông dụng
mà người Chăm gọi là akhar thrah.
1.2.2 Làng palei Chăm:
Hiện nay người Chăm ở Ninh Thuận gồm 22 làng.Được chia thành 2 cộng đồng :
Chăn Ahier ( ảnh hưởng Bà La Môn giáo ) và Chăm Awal ảnh hưởng Hồi
giáo ).Trong tổng số 22 làng thì có 15 làng Chăm Ahier và 7 làng Awal, tuy nhiên 2
nhóm cộng đồng này vẫn cùng mang đặc trưng chung.
Palei Chăm thường định cư trên những vùng gó đất cao, xung quanh là ruộng lúa
và nương rẫy.Mỗi palei thường có 300-400 hoặc có thể nhiều hơn hộ gia đình sinh
sống, là tập hợp bởi nhiều tộc họ sinh sống với nhau.
1.2.3 Đời sống kinh tế:
Người Chăm có một nền nông nghiệp phát triển khá sớm.Biết chú trọng thủy lợi đê
điều từ lâu đời, họ còn có kĩ thuật canh tác ruộng nước khá cao đồng thời họ còn
biết sử dụng nhiều giống lúa ngắn ngày cho năng suất cao,…Ngoài ra họ còn trồng
nhiều rau màu.Bên cạnh đó họ còn biết khai thác rừng lấy gỗ mun, trầm hương, vỏ
cây làm thuốc nhuộm,…Họ cũng biết khai thác tài nguyên khoáng sản, nghề đi

12


biển cũng phát triển rất mạnh có nhiều mối quan hệ với các nước trong thời cổ

trung đại.
1.2.4 Nghề thủ công truyền thống:
1.2.4.1 Nghề gốm:
Người ta tìm thấy nhiều di chỉ đồ gốm của người Chăm trong vùng văn hóa Sa
Huỳnh. Ngày nay ở Ninh Thuận còn tồn tại duy nhất một làng gốm Bầu Trúc.Đây
là làng gốm cổ truyền, làm bằng tay không, không có bàn xoay, được trang trí
nhiều loại hoa văn.Gốm Bầu Trúc được nung lộ thiên với nhiên liệu là củi và rơm,
hiện nay trên thị trường sản phẩm gốm này rất được ưa chuộng và cũng đã được
xuất khẩu ra nước ngoài.
1.2.4.2 Nghề dệt:
Ngày xưa nghề dệt thủ công là nguồn cung cấp vải cho các giai tầng người Chăm
và các cư dân xung quanh như Raglai, Chu ru, Ê đê.Ngày nay nghề dệt vẫn còn
được lưu truyền và phát triển ở làng Chăm Mỹ Nghiệp-Ninh Thuận, nghề dệt
Chăm ngày xưa lắm công phu, phức tạp.Nhưng ngày nay trong kĩ thuật dệt họ đã
bỏ qua các khâu chuẩn bị nguyên liệu, mà chuyển sang dùng sợi công nghiệp, tuy
nhiên vẫn giữ được cách dệt truyền thống với nhiều hoa văn đặc sắc.Họ đã tạo ra
nhiều sản phẩm như khăn đội đầu, váy, áo, khăn quấn hay dây thắt lưng, các loại
ví,…
1.2.4.3 Nghề luyện kim:
Nghề luyện kim của người Chăm cũng một thời nổi tiếng và nó đã được đi vào sử
kí của Trung Quốc.Bằng chứng là các hiện vật sưu tầm ở các bảo tàng được làm
thủ công rất tinh xảo.
13


1.2.4.4 Các nghề truyền thống khác:
Ngoài những nghề truyền thống trên, người Chăm còn có một số nghề thủ công
khác như: đan lát, mây tre, đóng xe trâu, đan thúng, mủng, đóng tàu thuyền,…Tuy
nhiên ngày này các nghề này không còn phổ biến nữa.
1.2.5


Tín ngưỡng:
Tín ngưỡng của người Chăm phong phú, đa dạng.Hiện nay trong đời sống người
Căm vẫn còn tồn tại hình thức tô ten giáo thể hiện qua việc thờ cúng các loại cây,
hờ các dòng núi, dòng biển của các dòng họ Chăm…Tín ngưỡng người Chăm là
hạt nhân cơ bản hình thành nên diện mạo tôn giáo, lễ hội Chăm.
1.2.6 Tôn giáo
Hiện nay người Chăm có 3 nhóm chính: Chăm Ahier ( ảnh hưởng bà La Môn
giáo), Chăm Awal ( ảnh hưởng Hồi giáo ) và Chăm Islam (Hồi giáo chính
thống ).Nói chung tôn giáo Chăm, tuy chỉ có ảnh hưởng nhưng đã có tác động tích
cực vào trong quá trình phát triển lịch sử, văn hóa, xã hội và ngày nay vẫn còn chi
phối mạnh mẽ trong đời sống người Chăm.
Kết quả sự ảnh hưởng tôn giáo đó đã sản sinh nhiều đền tháp, tượng nhờ, nghi
lễ, tục cúng tế,…góp phần quan trọng trong việc hình thành nên sắc màu đa dạng
của lễ hội, của nền văn hóa Chăm.
1.2.7 Đền tháp Chăm và nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc:
Trong di sản văn hóa Chăm hiện nay nổi bật nhất là hệ thống đền tháp, điêu khăc,
tượng thờ, thành quách,bia kí,…

1.2.8

Văn hóa nghệ thuật:

14


Văn học nghệ thuật Chăm là một kho tàng văn hóa đặc sắc gồm các loại hình:
truyện cổ tích, truyền thuyết và ca dao, tục ngữ,…Cùng nền văn học , người Chăm
còn có loại hình ca máu nhạc rất đặc sắc với các điệu múa, điệu nhạc, làn điệu dân
ca truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc.

Yếu tố con người và văn hóa Champa đã kiến tạo nên một nền tảng vững chắc
cho nền văn hóa của người dân nơi đây.Kết hợp với những đặc điểm môi trường tự
nhiên mà mẹ thiên nhiên ban tặng,cùng với những sáng tạo phá cách phù hợp với
thổ nhưỡng,tính cách con người ở đây chính là tiền đề tạo nên một nền văn hóa ẩm
thực mang tính đặc sắc và rất riêng chỉ có ở mỗi người dân nơi đây.
CHƯƠNG 2 MỘT SỐ MÓN ĂN-THỨC UỐNG TIÊU BIỂU CỦA NỀN VĂN
HÓA ẨM THỰC CỦA NGƯỜI CHĂM Ở NINH THUẬN
2.1 Các món ăn tiêu biểu,đặc trưng trong đời sống thường ngày của người
Chăm
2.1.1 Món canh
Món canh Có thể nói món canh là món ăn chủ đạo của người Chăm, trong kho
tàng văn học dân gian “canh” được nói đến khá nhiều so với các món ăn khác. Từ
xa xưa người Chăm đã biết chế biến 3 loại canh: canh rau (ia habai), canh chua (ia
mưthăn) và xáo thịt (ia jan).
Người Chăm thích ăn canh bồi, một loại canh thập cẩm với nhiều thứ rau rừng như
rau đay, rau sam, ngọn bầu, bí, cà dĩa..
2.1.1.1

Canh

chua

15


Canh chua cũng được người Chăm ưa chuộng, nguyên liệu không thể thiếu để nấu
canh chua là lá me non. Cá đồng thường dùng để nấu canh chua, ngon nhất vẫn là
cá lóc. Vào mùa mưa có ễnh ương, người Chăm cũng có canh chua ễnh ương nấu
với
2.1.1.2



Canh

dĩa
rau

rất
(la

ngon.
habai)

Động từ “habai” của tiếng Chăm tương ứng với động từ “nấu canh” của tiếng Việt.
Danh từ “ia”, nghĩa tiếng Việt là “nước”. Như vậy, “nước” đóng vai trò quan trọng
trong việc nấu canh, rau có nhiều thứ: canh rau lá cá hoặc thịt, canh rau quả cá
hoặc thịt, có loại canh được nêm ngoài gia vị còn nấu chung với bột gạo rang hoặc
ngâm.
Canh rau rừng thập cẩm (ia habai djăm glai): Với ý thức khai thác rau tự nhiên tối
đa để phục vụ cho gia đình, canh rau tập tàng - nhiều loại rau như chùm bao, rau
đay, rau bồ ngót, và nhiều loại rau rừng nữa mà trong tiếng Việt không có tên như
djăm Kagauk, djăm kadit, djăm krưm… được nấu chung. Cách chế biến khá đơn
giản: Nấu nồi nước, nếu nấu với cá nước ngọt thì làm sạch cá bỏ vào cùng thời,
hoặc cá nước mặn thì chờ nước sôi mới bỏ cá. Cá chín nước đang sôi sùng sục thái
rau rửa sạch cho vào nồi canh. Rau chín khuấy bột gạo với nước lã đổ vào, chờ 15
phút sau nên gia vị (hành, muối) thường người ta nêm mắm (mắm nêm) vào nồi
canh, cuối cùng nhấc xuống “tra” bột ngọt, cách đây hơn 30 năm, người Chăm hay
dùng lá cây “hala kayaw” để nêm thay bột ngọt mà nồi canh vẫn ngon.
Canh rau đắng (ia habai djăm phik): Rau đắng mọc rất nhiều ở rẫy, vườn hoặc bờ
ruộng, nhất là vào tháng 4, 5, 6, 7 Dương lịch. Canh rau đắng tính mát ăn vào mùa

nắng ở Ninh Thuận là hợp lý. Canh rau đắng ít khi nấu đơn loại mà hay nấu chung
với cà dĩa. Cách nấu có khác với canh rau tập tàng, đem nồi nước với cà dĩa nấu sôi
(nếu cá nước ngọt bỏ vào cùng thời), cá chín, khuấy bột gạo đổ vào chờ chín mới
nêm gia vị, nhấc xuống bỏ rau đắng sau khi đã rửa sạch, cuối cùng bỏ vào nồi canh
16


chén lá me non sắc nhỏ và bột ngọt. Muốn cho nồi canh ngon và không đắng lắm
thì người ta không khuấy nồi canh sau khi bỏ rau, đồng thời rau sẽ có màu xanh
tươi hấp dẫn. Ít khi người Chăm nấu canh rau đắng với thịt, nếu có như thịt trâu,
bò…
Canh măng tươi (ia habai labung): Măng tươi có rất nhiều trên rừng núi ở tỉnh
Ninh Thuận, nó được khai thác vào tháng 9,10,11 hàng năm. Măng tươi sắc mỏng
ngâm nước lã hoà một ít muối. Bắt lên bếp từ đầu, khoảng từ 20-40 phút, khuấy
bột gạo đổ vào, chờ bột chín nêm gia vị và một ít lá me non thái nhỏ. Nếu nấu với
cá nước ngọt hay cá biển thì cách làm như canh rau tập tàng hoặc rau đắng. Khi
nhấc nồi canh xuống người ta giã lá “bột ngọt” - hala kayaw bỏ vào nồi canh, nối
canh sẽ mất ngon nếu không có loại lá “bột ngọt” thiên nhiên ban tặng
Canh môn (Ia habai djăm labua): Đây là loại canh rất được ưa chuộng trong cộng
đồng người Chăm, đặc biệt là canh môn được chế biến trong đám tang Bàni. Rau
môn (djăm labua) mọc rất nhiều nơi đồng ruộng, nương nước hoặc đầm lầy. Rau
môn rất ngứa, nếu không chế biến đúng kỹ thuật thì rất khó ăn và ngược lại. Nước
để nấu canh môn ngon nhất vẫn là nước xáo thịt, nước luộc thịt trong đám hoặc lễ
cúng như trâu, dê… Rau môn cắt về, tước vỏ ngoài, bẻ làm ba làm tư, rửa nước
xào qua khương (akhang) bằng đất nung (hoặc thùng nhôm), đun lửa vừa phải,
nước xáo bắt đầu sôi bỏ rau vào dùng que bằng cây cổ nắm tay nhấn thọc cho rau
mềm nhũn như bún. Thịt thái từ xương sườn con thú bỏ vào canh, bột gạo rang giã
nhuyễn bỏ vào sau đó. Khi khương canh đã mềm nhũn, bốc mùi thơm, người ta
nêm gia vị (ớt, hành, muối, mắm nêm) và lá me thái mỏng theo tỷ lệ số lượng rau.
2.1.1.3 Nước xáo (Iajanrâw)

Trong các cuộc đình đám người Chăm không thể nào thiếu món nước xáo (nước
lèo) thịt dê, trâu, gà, đó là những con vật hiến tế. Gọi chung là Iajanrâw. - Nước
17


xáo thịt gà gọi là Ia kanăng: được chế biến để ăn gia đình, khi đãi khách nhưng
nhiều nhất vẫn là trong các cuộc cúng thần hoặc thánh. Con gà được làm sạch sẽ,
băm nhỏ, xào qua cho chín rồi đổ nước, gạo hạt vào nấu. Đã chín, gạo nở đều như
cháo hoa, bốc mùi thơm gia vị ướp thịt, người ta nêm gia vị (ớt, hành, muối, mắm
nêm). Nếu là thịt gà luộc nguyên con để cúng, người ta dùng nước ấy bỏ gạo vào
để nấu nước xáo, gạo chín nêm gia vị. Người Chăm đã biết nấu canh gà với lá dang
(hala dang) rất sớm. Lá dang xung quanh địa bàn cư trú của người Chăm rất nhiều,
vì thế mà họ đã khai thác để ăn triệt để. - Nước xáo thịt dê, trâu gọi là Ia kanut
pabaiy, Ia kanut kaba. Nước xáo thịt dê, trâu được lấy từ nước luộc thịt để chế biến
thành món ăn. Nếu ở canh gà hoặc xáo gà người ta bỏ gạo hạt thì ở nước xáo dê,
trâu người ta rang gạo, giã thành bột gọi là apriêng để nấu chung. Nước xáo bốc
mùi thơm, người ta nêm gia vị gồm ớt, hành, muối và một ít mắm nêm. Ngày nay,
nước xáo thịt đã được thêm nhiều nguyên liệu như cà chua, hành tây… để làm cho
nước xáo thịt ngon thêm. Đồng bào Chăm hay dùng nước xáo thịt ăn với bánh aku,
một loại bánh bột gạo hấp, gọi món ấy là Akunla Janrâu.
2.1.2 Những món ăn được chế biến từ các loại thịt:
2.1.2.1 Món luộc
Thịt luộc được chế biến và sử dụng khá phổ biến trong cộng đồng Chăm. Các lễ
đám như đám tang, cúng giỗ, tôn chức… đều có thịt luộc. Người Chăm trình bày
quan điểm và món ăn chế biến từ thịt là “Pabaiy tuk mưnuk ăm” (Dê luộc - gà
nướng), và thường là những con vật nuôi như trâu, bò, dê, gà, vịt… luộc làm món
ăn, ngược lại thịt của thú rừng ít khi chế biến món này. Thịt được làm sạch sẽ đem
luộc và nước luộc thịt - nước xáo được chế biến làm thành món ăn với thịt trộn rau
ghém (thân chuối non sắc mỏng trộn với lá lốt thái). Ngày xưa khi giết mổ con vật
để dâng cúng (chỉ có dâng cúng mới được giết mổ trong nhà), ngoài thịt người

18


Chăm hay tận dụng da, sừng để làm thành vật dụng khác, như da trâu làm dây
thừng, bịt mặt trống ginăng, da dê bịt mặt trống ginăng, trống baranưng (loại trống
một mặt), dùng sừng trâu để làm tù và.
2.1.2.2 Món nướng (Rilaưw ăm)
Thịt nướng được dùng phổ biến trong cộng đồng người Chăm từ cúng tế đến bữa
ăn thường ngày.
Thịt nướng trong các lễ cúng gọi là kadang, ví dụ dê nướng là pabaiy kadang, gà
nướng là mưnuk kadang. Người Chăm thường nướng thịt thú rừng, ngon nhất là
thịt nướng các loại thú lông vũ như gà, chim… Thịt nướng ăn với đọt rau tự nhiên
như tanung (lim xanh), tạo vị giác hay hay. Thịt nướng trong cuộc cúng không bao
giờ họ tẩm gia vị và ngược lại trong bữa ăn hàng ngày họ hay bôi tẩm gia vị như
hỗn hợp hành, ớt, tỏi, sả, nước mắm… có khi họ tẩm loại gia vị mọc ngoài rừng
gọi là Halamưngei - lá xào giông. Ngày nay tiếp nhận cách chế biến hiện đại,
người Chăm còn bắt chước ướp nước chao, ngũ vị hương…
2.1.2.3 Món kho (Rilauwjơp - rilauw um)
Không biết món thịt kho có từ bao giờ, có lẽ được chế biến từ sau thế kỷ XIX, bởi
trong mâm cúng hiện nay, cúng ở đền tháp hoặc thánh đường, đám tang của người
Bàni không có thịt kho. Bất cứ thịt thú nào người Chăm cũng có thể kho được, kể
cả thịt giông, và thường kho trong những cái trã, hoặc bằng những cái trã nhỏ hơn
gọi là Klaig - bằng đất nung. Ngày xưa, người Chăm có cụm từ “Jrâu klaig” là cơm
trộn với “cặn” thịt đọng lại ở đáy Klaig (trã), được trẻ con rất ưa thích. Hai loại gia
vị thảo dược thường được sử dụng cho món thịt kho là sả (plăng) và lá xào giông
19


(halamưngei). Ngày nay, món thịt kho Chăm có sự biến đổi như người ta có thể
kho thịt với rau (quả, trái), và sử dụng nhiều gia vị mới như càri, ngũ vị hương…

2.1.2.4 Món gỏi (Laba)
Món gỏi -nộm (laba) là món ăn truyền thống và nhằm để đánh giá sự khéo tay của
người phụ nữ Chăm. Người Chăm làm món gỏi với nhiều loại thịt, lắm lúc người ta
dùng da thú vật (thịt rừng, bò, dê) để chế biến món gỏi. Mỗi loại thịt ứng với từng
loại rau (thường là rau rừng) hoặc bắp chuối, măng… như thiết phải có đậu phộng
rang giã và lá me non sắc nhỏ. Gia vị thường sử dụng cho món gỏi là hành, ớt, tỏi,
tiêu… có khi tùy sở thích mà người ta dùng cả mắm nêm để làm gia vị cho món
này. Người Chăm có thành ngữ “Auk laba ajah” (Nhả gỏi giông) để chỉ sự nuối tiếc
phải bị nhả ra món ăn ngon. Chế biến món gỏi khá công phu và phải khéo tay, nếu
không sẽ bị mặn hoặc chua, cay vì phải sử dụng nhiều gia vị và cũng phải lựa chọn
ra cho thịt nướng hay luộc. Món gỏi Chăm ngày nay đã có sự biến đổi, nguyên liệu
để chế biến như gỏi thịt gà dưa leo, ngó sen… Nhưng có lẽ người Chăm Bàlamôn
thích hơn cả là gỏi giông với cách chế biến truyền thống của họ. Ngoài những món
ăn từ thịt kể trên, người Chăm cũng đã biết bảo quản và tích trữ thịt, bằng cách thịt
xẻ ra ướp gia vị thường là muối, sả, đem phơi ngoài nắng cho thật khô, xếp vào giỏ
(apung) treo trong bếp lửa dùng dần. Nếu vào những ngày mưa, họ cũng làm như
trên và treo lên nơi bếp lửa gần giống với thịt hun khói của tộc người Tây nguyên.
2.1.3 Những món ăn được chế từ thủy sản
Địa bàn cư trú của người Chăm là nông thôn, đồng bằng tiếp giáp biển và miền
rừng núi, phong phú thủy hải sản. Chỉ riêng vùng đầm lầy khu vực xã Thành Hải
ngày nay, từ năm 1960 trở về trước là vựa cá nước ngọt của cả tỉnh Ninh Thuận.

20


Những món ăn mang tính truyền thống được chế biến từ cá gồm cá nướng (ikan
ăm), cá kho (ikan jơp - ikan um).
2.1.3.1 Món cá nướng (Ikan ăm)
Món cá nướng thường là cá nước ngọt như cá trê (ikan kăn), cá rô (ikan kruak), cá
chép (ikan cadu)… cá bắt được từ sông suối, hồ, ao… rửa sạch, có loại không cần

đánh vẩy và thường thường cá nướng không cần phải đánh vẩy, dùng cây xiên, lụi
nướng trực tiếp trên lửa. Cá tràu (cá quả) có khi người ta gói lá chuối, cột chặt bỏ
vào lửa rơm, thay vì nướng trực tiếp, nướng như vậy cá sẽ rất thơm. Ở một số nơi,
người ta bắt chước người dân Nam bộ nướng cá tràu bằng cách, gói cá bằng lá
chuối, đào hố bỏ cá vào đốt lửa phía trên. Cá nướng thường được ăn kèm với đọt
cây riềng như tanang (dừng), grak (lim), cốc chua… Lắm lúc người Chăm cũng ăn
cá nước mặn như cá trích, cá nục, cá mòi… ăn với khế (hamia), chuối chát, bắp
chuối… Tôm, cua bắt được có khi người ta nướng, nhiều nhà làm gỏi tôm với lá
me non, trộn lẫn với mấy thứ rau ngoài rừng.

2.1.3.2 Cá kho (Ikanjơp - Ikan um)
Trong các lễ cúng có thức ăn mặn lúc nào cũng có cá kho, người Chăm kho cả cá
nước ngọt và cá nước mặn. Nhưng gia vị khác nhau. Nếu là cá nước mặn như cá
thu, cá ngừ thậm chí là cá cơm gia vị ngoài hành ớt muối còn có tiêu. Và nếu như
cá nước ngọt như cá trê, cá tràu đến cá lòng tong, gia vị phải cay, không thể quên
sả hoặc lá xào giông, có nơi còn kho với đọt cay táo nhơn, nghệ… Và dụng cụ nấu
được yêu thích nhất vẫn là cái trã bằng đất nung. Đã từ lâu, người Chăm đã biết
bảo quản và tích trữ cá khi được nhiều hoặc dùng trong vụ mùa bận rộn, mưa bão.
Thường thường người ta lấy hết ruột, mang nếu là cá nước mặn, chặt đầu, bóc
21


mang và xẻ nếu là cá nước ngọt. Muối pha loãng, nhúng cá, đem phơi. Cá khô
người Chăm gọi là Arik, có nơi gọi là Ikan thu.
2.2 Những món bánh (Tapei ahar mưnưng)
2.2. 1Tapei anăng baik (Bánh tét đòn)
Bánh tét đòn của người Champa gần gũi vói bánh tét đòn người Việt Trung Nam
bộ, và người Raglai. Nguyên liệu chính là gạo nếp (điệp) và đậu (ralak). Gạo nếp là
sản phẩm nông nghiệp không thể thiếu của người Chăm, hai loại chính là Điệpkalu,
trắng, hột tròn mùi mướp hương, dẻo và Điệpgilai, trắng, hạt dài, dẻo và thoảng

hương thơm. Gạo nếp ngâm khoảng nửa giờ đồng hồ, vớt để ráo. Lá chuối (hala
pakei), nếu là lá chuối chát càng tốt, bánh sẽ xanh và thoảng hương dễ chịu. Lá
được phơi ngoài nắng cho dẻo dai để khi gói không bị nứt và rách. Đậu (ralak) như
đậu phộng (ralak lauw), đậu đen (ralak juk)… rửa sạch, trộn vào gạo nếp. Khi gói
người ta dùng lá chuối hai lớp làm vỏ, để dọc đậu nếp, cuộn tròn, cột bằng lạt
giang (kanuôr tiang), chắt chừng nào tốt chừng nấy. Luộc khoảng 5 - 6 giờ. Bánh
tét đòn được dùng rất nhiều trong lễ tế và cuộc sống đời thường: đám tang, lễ cúng
gia tiên, lễ hỏi, cưới… Ngày nay song song với việc trộng đậu vào nếp, người
Chăm còn có bánh tét đòn nhân lạt (kati taba) và nhân mặn (kati băk), có lẽ được
du nhập phương cách từ các tộc người cận cư. Bánh nhân lạt thường là đậu, nấu
chín, giã nhuyễn trộn với đường ăn (saradang). Bánh nhân mặn thường dùng đãi
khách trong dịp lễ tết, nhân mặn gồm thịt ướp gia vị đã được nấu chín hoặc chưa
nấu (thịt bò).
2.2.2. Tapei anung banah (bánh tét cặp)
Nguyên liệu như bánh tét đòn để dâng cúng, thường không có nhân (kati). Bánh
được gói ngắn hơn, hình bán nguyệt, khi cột lạt họ ghép hai bánh với nhau đối
22


xứng, tạo thành bánh đòn. Luộc trực tiếp trong nước đun sôi. Bánh tét cặp được
dùng trong các đám tang (padhi) cúng gia tiên (Pabăng mukkei), giỗ kỵ (patrip).
Loại bánh không có sự biến đổi vì chúng không được dùng trong những ngày
thường.
2.2.3. Tapei dalik (Bánh ít)
Bánh ít Chăm như bánh ít của người Việt. Bánh được làm từ gạo nếp ngâm giã
thành bột (tapung). Bột nếp nhồi với nước đường nấu để nguội. Người ta bốc từng
cục bột, dát mỏng, bọc lấy nhân, gói. Làm chín bánh theo phương thức hấp. Nhân
bánh thường được làm bằng đậu nấu chín giã nhuyễn hoặc dừa. Khi gói người ta
thoa một lớp dầu ăn hay cốt dừa trên một mặt lá phía trong để khi bốc không bị
dính. Bánh ít được dùng khá phổ biến trong đời sống hàng ngày của người Chăm

từ cúng lễ đến đãi khách.
2.2.4. Tapei adang (bánh xôi chè)
Bánh xôi chè được làm bằng gạo nếp đồ xôi trộn với đường, đậu (phộng hoặc đen).
Bánh chín người ta chiết từng cục, hoặc cắt thành miếng vuông, bọc lá chuối để hở
hai đầu. Tapei adang được người Chăm Bàlamôn dâng cúng trong đám tang. Người
Chăm Bàni làng Văn Lâm, huyện Ninh Phước làm tapei adang có khác với tapei
adang của bà con Bàlamôn gần như bánh tét cặp, nhưng bánh được làm bằng bột
nếp ngào đường như bánh ít, không nhân. Người Văn Lâm hay luộc từng cặp tapei
anung banah với tapei adang và ăn chung hai loại cùng nhau. Trong lễ cưới hoặc lễ
karơh (lễ nhập đạo), người Chăm Bàni làm bánh xôi chè gồm nếp đồ xôi ngào
đường. Bánh chín đổ ra nia, cán mỏng, dùng tay đập cho bánh ép chặt vào nhau.
Hai mặt bánh phủ một lớp bột đậu phộng hoặc mè rang. Dùng dao cắt thành từng
miếng vuông gọi là (tapei paul).
23


2.2.5 Tapei racăm (Bánh tráng)
Bánh tráng được sử dụng phổ biến trong đời sống cộng đồng của người Chăm.
Bánh tráng được chế biến bằng bột gạo, hòa với nước theo tỷ lệ nhất định, mè đen
(langư juk) hoặc mè trắng (langư bông). Người Chăm có hai loại bánh tráng có
kích thước khác nhau. Bánh tráng bằng đồng tiền kẽm chỉ được dùng (không ăn
được) trong lễ cưới của người Bàni và bánh lớn dùng để ăn thay cơm hoặc ăn với
thức ăn khác như gỏi, rau sống. Nếu muốn đổ bánh nhỏ (bằng đồng tiền), người ta
dùng lửa than, đặt lên đấy tấm kim loại (thường là mâm đồng), mút bột bằng
muỗng nhỏ đổ xuống mặt mâm. Khi chín cậy đem phơi. Bánh lớn, đường kính từ
30-35 cm, phải dùng khạp lớn (khang) căng mặt vải, đun nước bốc hơi, đổ bột
bánh, tráng mỏng, đậy nắp. Bánh chín dùng đũa tre vớt, đặt vào phên tre đem phơi.
Người ta dùng lửa than để nướng nếu thích. Bánh loại này dùng để ăn hàng ngày
và trong cúng tế. Bánh tráng ở các làng Chăm ít biến đổi, nếu có thì chỉ thay đổi
các loại đậu hoặc bột.

2.2.6. Tapei kamang (bánh in)
Là loại bánh ngọt, được người Chăm chế biến để ăn và đãi khách. Bánh được chế
biến từ lúa nếp rang đãi vỏ thành nổ (bỏng), người Chăm gọi là kamang. Kamang
giã mịn thành bột trộn đường ăn. Dùng khuôn bằng gỗ, thường bằng chén uống trà
nhận ép thành viên. Bánh tapei kamang của người Chăm được dùng nhiều trong
đám tang hoặc giỗ kỵ.
2.2.7. Tapei côh (bánh cuốn)
24


Bánh cuốn được dùng nhiều trong đám táng, giỗ kỵ của rngười Chăm từ rất lâu
đời. Bánh cuốn được làm từ bột nếp, ray mịn, nhân của nó được làm bằng mè, đậu
phộng rang giã mịn trộn đường ăn. Để làm bánh cuốn người ta dùng than lửa hồng,
đặt lên đấy mâm đồng. Thoa lên mặt mâm lớp dầu ăn, ray bột theo chiều dọc một
lớp mỏng, rãi đều hỗn hợp đậu làm nhân. Bánh chín dùng dao tre mỏng cuốn thành
thỏi bánh tròn. Bánh cuốn chưa có sự thay đổi lớn, có chăng người ta trộn bột bánh
với phẩm màu vàng hoặc đỏ với mục đích làm cho bánh trông hấp dẫn, sinh động
hơn.
2.2.8. Tapei saip (bánh xếp)
Tapei saip được người Chăm Bàni chế biến và dùng vào việc cúng tế rất lâu đời,
đặc biệt là trong đám tang. Tapei saip được làm từ bột gạo nếp, xay mịn hòa với
nước, trứng gà và đường ăn, tạo thành hỗn hợp sền sệt có màu mỡ trứng gà. Người
ta nướng bánh bằng một cái mâm đặt trên than lửa hồng. Trước khi đổ bánh, người
ta thoa một lớp dầu ăn hoặc dầu dừa nơi định đổ bột nhằm để khỏi bị dính vào mặt
mâm. Bao giờ bánh bốc mùi thơm, vàng người ta dùng dao tre cậy, xếp ba và gói
lại bằng lá chuối để hở hai đầu. 9. Sakaya Sakaya là loại bánh rất được ưa chuộng
trong cộng đồng Chăm. Những lễ cúng trọng đại của người Bàni không bao giờ
thiếu vắng Sakaya. Sakaya đã đi vào cuộc sống của người Chăm như biểu trưng
của sự kính trọng, thành khẩn, thành ngữ Chăm có câu: Tapei anung ala (Bánh tét
dưới)

2.2.9Sakaya angauk (Sakaya trên)
Sakaya được làm từ hỗn hợp trứng (gà, vịt), đậu phộng (giã nát), đường và gừng.
25


×