1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử phát triển xã hội, gia đình có vị trí đặc biệt, bởi nó
chính là tế bào của xã hội; từ gia đình, con người được sinh ra và trưởng
thành cả về thể chất và nhân cách. Xã hội và gia đình có tác động qua lại
với nhau; xã hội phát triển tạo điều kiện cho gia đình phát triển và ngược lại,
gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Ngày nay, vấn đề gia đình được thế giới rất
quan tâm. Liên hợp quốc đã lấy năm 1994 là "Năm quốc tế gia đình"; nhiều
nước phát triển và đang phát triển cũng nhận thức rõ rằng, củng cố sự vững
chắc của gia đình là nhân tố quan trọng để ổn định và phát triển xã hội.
Thực tế cho thấy, trong quá trình chuyển từ xã hội cổ truyền sang
xã hội hiện đại, sự biến đổi của gia đình đã diễn ra một cách sâu sắc, đồng
thời cũng đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết, đặc biệt là trong quá trình đô
thị hóa (ĐTH). Nhiều quốc gia đã phải đối diện với không ít vấn đề liên
quan tới gia đình như nghèo đói, sự bùng nổ dân số, mâu thuẫn thế hệ, lệch
lạc trong mô hình gia đình; v.v.. Nghiên cứu các vấn đề này và đưa ra các
giải pháp phù hợp với bối cảnh hiện đại và tiếp nối với truyền thống đang
được nhiều quốc gia chú ý.
Ở Việt Nam nói chung, Thành phố Hồ Chí Minh (TP HCM) nói riêng,
trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), hội
nhập thế giới hiện nay, gia đình đang chứa đựng nhiều quan hệ đa dạng,
phức tạp và có nhiều biến đổi. Bối cảnh quá trình ĐTH đã làm cho gia đình
ở TP HCM thay đổi nhanh chóng và đối diện với nhiều thách thức mới để
thích nghi, tồn tại và phát triển. Thực tế cho thấy, không ít gia đình không
thích ứng được hoặc không thích ứng kịp với hoàn cảnh mới đã rơi vào
khủng hoảng, thậm chí đổ vỡ... Trước thực tế ấy, việc định hướng đúng sự
2
tác động của xã hội tới gia đình; nhận diện, tìm ra một mô hình thích hợp
cho gia đình nơi đây đang là một đòi hỏi cấp bách.
Nhằm đánh giá sự vận động, biến đổi của gia đình và phân tích, lý
giải, tìm giải pháp xây dựng gia đình ở TP HCM trong bối cảnh ĐTH, tác
giả lựa chọn vấn đề: "Gia đình trong quá trình đô thị hóa ở Thành phố
Hồ Chí Minh hiện nay" làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những năm gần đây đã có nhiều công trình, hội thảo khoa học đề
cập vấn đề gia đình và ĐTH ở Việt Nam từ các góc độ khác nhau.
Nghiên cứu chung về gia đình có một số công trình, bài viết của
nhiều tác giả. Trong Hội thảo khoa học của Viện Khoa học xã hội và Trung
tâm Nghiên cứu khoa học về phụ nữ tổ chức năm 1991, tác giả Lê Ngọc
Lân có bài: "Góp vào nhận diện gia đình Việt Nam"; Hồng Hà có bài:
"Nhận diện hiện trạng gia đình Việt Nam trong sự chuyển biến của xã
hội"... phản ánh những biến đổi của gia đình Việt Nam trong bối cảnh hiện
đại. Trong cuốn sách: "Những nghiên cứu xã hội học về gia đình Việt Nam",
Viện Xã hội học, Hà Nội, 1991, trong chuyên đề "Về gia đình truyền thống
Việt Nam với ảnh hưởng Nho giáo", Trần Đình Hượu đã nhấn mạnh tác
động của gia đình truyền thống Việt Nam dưới ảnh hưởng của Nho giáo và
tiếp biến với hiện đại. Trong cuốn "Gia đình với chức năng xã hội", Nxb Giáo
dục, 1996, Lê Ngọc Văn nhìn nhận gia đình Việt Nam trong quan hệ với
quá trình phát triển của xã hội hiện đại. Tác giả Lê Thi đã có một loạt công
trình chuyên khảo như: "Gia đình Việt Nam - các trách nhiệm, các nguồn
lực trong sự đổi mới của đất nước", Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995;
"Vai trò gia đình trong việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam", Nxb
Phụ nữ, 1997; "Việc làm, đời sống phụ nữ trong chuyển đổi kinh tế ở Việt
Nam", Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1999. Trong bài "Về gia đình Việt
Nam và vai trò người phụ nữ trong gia đình", Tạp chí Cộng sản, số 18-
3
2002, tác giả Nguyễn Linh Khiếu đã nhấn mạnh vai trò của người phụ nữ
không chỉ trong chức năng giáo dục, mà còn trong chức năng kinh tế.
Trong bài "Suy nghĩ về việc xây dựng chiến lược phát triển gia đình hiện
nay" đăng trên Tạp chí Cộng sản, số 10-2003, Lê Thị Quý đã nhấn mạnh
việc phát triển gia đình trong mối quan hệ giới và bình đẳng giới; v.v.. Các
bài viết trên đã đề cập nhiều khía cạnh của vấn đề gia đình; phân tích mối
quan hệ biện chứng giữa phát triển gia đình và phát triển xã hội; tính tất
yếu khách quan của sự biến đổi cơ cấu, quy mô gia đình khi chuyển từ xã
hội nông nghiệp sang xã hội công nghiệp. Các tác giả cũng đã lý giải sâu
sắc ảnh hưởng nhiều mặt của xã hội với sự biến đổi của gia đình và dự báo
những xu hướng phát triển của gia đình.
Về ĐTH và mối quan hệ của nó với gia đình hiện nay cũng đã có
nhiều tác giả đề cập. Chẳng hạn, Trần Cao Sơn: "Dân số và tiến trình đô thị
hóa - động thái phát triển và triển vọng", Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,
1995; Hoàng Ngọc Hòa: "Đô thị hóa trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở nước ta", Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 11-1996; Trần Ngọc
Hiên: "Kinh nghiệm về đô thị hóa ở các nước và sự vận dụng vào nước ta",
Tạp chí Cộng sản, số 13-1997; Hà Thị Phương Tiền - Hà Quang Ngọc:
"Lao động nữ di cư tự do, nông thôn - thành thị", Nxb Phụ nữ, Hà Nội,
2000; v.v.. Sự quan tâm chung của các tác giả là mối quan hệ qua lại trên
nhiều mặt giữa phát triển đô thị và xây dựng gia đình.
Đã có một số công trình, bài viết đề cập cụ thể hơn tới quan hệ
giữa gia đình và ĐTH ở TP HCM, như: Nguyễn Thành Rum: "Gia đình và
hôn nhân người Việt ở ngoại thành Thành phố Hồ Chí Minh", Luận án phó
tiến sĩ khoa học lịch sử, 1996; Lê Minh Nga: "Hai nguyên nhân làm tan rã
gia đình", Tạp chí Phụ nữ TP HCM, số 19-1996; Nguyễn Minh Hòa:
"Những tác động ban đầu của công nghiệp hóa, đô thị hóa tới gia đình ở
Thành phố Hồ Chí Minh", Tạp chí Cộng sản, số 8-1997; "Hôn nhân và gia
đình ở Thành phố Hồ Chí Minh - nhận diện và dự báo", Nxb TP HCM,
4
1998; Nguyễn Duy Bính: "Hôn nhân của người Hoa ở Nam Bộ", Luận án
tiến sĩ lịch sử, 1999; v.v.. Những bài viết trên đã phản ánh, phân tích các
khía cạnh khác nhau của vấn đề gia đình TP HCM trong quá trình ĐTH hiện
nay.
Nhìn chung, các công trình trên là những tài liệu tham khảo tốt. Tuy
nhiên, vẫn chưa có công trình nào lý giải đầy đủ và thấu đáo mối quan hệ
giữa phát triển gia đình trong quá trình phát triển đô thị trên địa bàn TP HCM.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Mục đích của luận án: Từ lý luận và thực tiễn có liên quan đến gia
đình trong quá trình ĐTH, luận án chỉ ra các vấn đề cần giải quyết và xác
định những giải pháp phù hợp cho quá trình xây dựng gia đình mới ở TP
HCM hiện nay.
Nhiệm vụ của luận án:
- Làm rõ những quan niệm khoa học về gia đình, đô thị và ĐTH;
ảnh hưởng của quá trình ĐTH đối với sự vận động, biến đổi gia đình và
xây dựng gia đình trong quá trình ĐTH.
- Phân tích, lý giải những xu hướng tích cực và hạn chế của sự vận
động và biến đổi gia đình trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đặc
biệt trong quá trình ĐTH ở TP HCM thời gian qua.
- Nêu phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng mô hình
gia đình mới trong quá trình ĐTH ở TP HCM hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án: Gia đình ở TP HCM và sự vận
động của nó trong quá trình ĐTH hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu của luận án: Gia đình ở TP HCM được nghiên
cứu dưới góc độ chính trị - xã hội, trong quá trình ĐTH, nhất là trong thời
5
kỳ đổi mới đất nước từ năm 1986 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
Cơ sở lý luận của luận án: Được thực hiện dựa trên những quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng,
chính sách và pháp luật của Nhà nước; kế thừa những thành tựu nghiên cứu
gần đây của các nhà khoa học về gia đình trong quá trình ĐTH.
Phương pháp nghiên cứu của luận án: Sử dụng các phương pháp
thống kê và điều tra xã hội học, phân tích và tổng hợp, gắn lôgíc với lịch sử
...
6. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án luận chứng khoa học về những biến động của gia đình
trong quá trình ĐTH ở một thành phố trọng điểm - TP HCM - mang sắc
thái đặc thù của vùng đất phía Nam.
- Qua nghiên cứu, luận án đề xuất một số giải pháp chủ yếu, phù
hợp, góp phần xây dựng gia đình trong quá trình ĐTH ở TP HCM.
7. Ý nghĩa của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể góp phần làm sáng tỏ thêm
những luận điểm lý luận và thực tiễn trong việc xây dựng mô hình gia đình
đô thị ở thành phố lớn; làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu khoa học
và giảng dạy một số chuyên đề liên quan của các bộ môn: Chủ nghĩa xã hội
khoa học, Xã hội học, Văn hóa xã hội chủ nghĩa...; góp phần làm luận cứ
cho việc hoạch định chủ trương, biện pháp của TP HCM đối với vấn đề gia
đình.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận án gồm 3 chương, 7 tiết.
6
7
Chương 1
GIA ĐÌNH VÀ ĐÔ THỊ HÓA NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
1.1. QUAN NIỆM VỀ GIA ĐÌNH, ĐÔ THỊ VÀ ĐÔ THỊ HÓA
1.1.1. Quan niệm về gia đình
1.1.1.1. Khái niệm "gia đình"
"Gia đình" là một khái niệm không ngừng thay đổi cùng với sự vận
động, biến đổi của xã hội. Mỗi giai đoạn lịch sử có quan niệm khác nhau về
gia đình.
Trong tác phẩm "Hệ tư tưởng Đức" (1845), khi luận chứng về
những điều kiện tiền đề cho sự tồn tại của con người, C. Mác và Ph.
Ăngghen đã đưa ra định nghĩa về gia đình: "Hàng ngày tái tạo ra đời sống
của bản thân mình, con người còn tạo ra những người khác, sinh sôi nảy nở
- đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình" [53, tr.
41]. Với quan niệm này, khái niệm "gia đình" được làm rõ: Thứ nhất, gia
đình ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của xã hội loài người, cùng
với quá trình tái tạo ra chính bản thân con người; thứ hai, gia đình được tạo
ra chủ yếu bởi hai mối quan hệ: quan hệ hôn nhân (chồng - vợ) và quan hệ
huyết thống (cha, mẹ - các con).
Khái niệm "gia đình" luôn gắn với khái niệm xã hội, trong đó gia
đình được xem là tế bào của xã hội. Trong tác phẩm "Nguồn gốc của gia
đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước" (1884), Ăngghen cũng đã chỉ ra
mối quan hệ biện chứng giữa gia đình và xã hội:
Theo quan điểm duy vật, nhân tố quyết định trong lịch sử,
quy cho đến cùng là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp.
8
Nhưng bản thân sự sản xuất đó lại có hai loại. Một mặt là sản
xuất ra tư liệu sinh hoạt, ra thức ăn, quần áo và nhà ở và những
công cụ cần thiết để sản xuất ra những thứ đó; mặt khác, là sự
sản xuất ra bản thân con người, là sự truyền nòi giống. Những
thiết chế xã hội, trong đó những con người của một thời đại lịch
sử nhất định đang sống là do hai loại sản xuất đó quyết định: Một
mặt là do trình độ phát triển của lao động và mặt khác là do trình
độ phát triển của gia đình [54, tr. 44].
Như vậy, theo Ăngghen, các mô hình gia đình trong lịch sử luôn
gắn với phương thức sản xuất và chế độ xã hội nhất định. Sự vận động,
biến đổi của gia đình luôn phụ thuộc vào sự vận động và biến đổi của xã
hội.
Gia đình luôn gắn liền với những đặc trưng và trình độ của phương
thức sản xuất của một xã hội nhất định. Lịch sử đã chứng minh rằng, trong
quá trình vận động của mình, mỗi hình thái kinh tế - xã hội có những hình
thức gia đình tương ứng. Theo quan điểm của L.H. Moóc-gan và được
Ăngghen tán thành, thì: "Gia đình là một yếu tố năng động, nó không bao
giờ đứng nguyên một chỗ, mà chuyển từ hình thức thấp lên một hình thức
cao, như xã hội phát triển từ một giai đoạn thấp lên một giai đoạn cao" [54,
tr. 57].
Trải qua quá trình lịch sử, gia đình đã lần lượt trải qua các hình thức
chủ yếu sau: "ở thời đại mông muội, có chế độ quần hôn; ở thời đại dã
man, có chế độ hôn nhân cặp đôi; ở thời đại văn minh, có chế độ một vợ,
một chồng…" [54, tr. 119]. Trong xã hội văn minh, bản thân gia đình một
vợ một chồng cũng trải qua những biến động như: Gia đình gia trưởng phụ
quyền dưới chế độ phong kiến, rồi gia đình một vợ, một chồng được bổ
sung bằng tệ ngoại tình và nạn mại dâm phổ biến dưới chế độ tư bản.
Ngày nay, với sự phát triển nhanh chóng của khoa học - công nghệ
9
và những biến đổi sâu sắc trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, quan niệm
về gia đình cũng có những nét khác trước.
Ở phương Tây, nhiều học giả đưa ra những quan niệm mới về gia
đình. Trong các tác phẩm "Làn sóng thứ ba", "Cú sốc tương lai", A. Tô-phơ-lơ
đã đề cập rất nhiều lý thuyết về gia đình, từ kiểu "gia đình không con",
"gia đình khuyết thiếu", đến "gia đình hợp đồng", "gia đình đồng tính luyến
ái"... Dưới dạng khái quát nhất, tác giả cho rằng: Với nền văn minh nông
nghiệp có kiểu gia đình gia trưởng, với nền văn minh công nghiệp có
kiểu gia đình hạt nhân và với nền văn minh hậu công nghiệp có sự đa
dạng về thể loại, tính chất, quy mô gia đình. Để chứng minh cho lý luận
gia đình trong xã hội hậu công nghiệp, trong "Làn sóng thứ ba", tác giả đã
nhấn mạnh:
Các nước tiên tiến về công nghiệp và ngày nay là những
tổ ong với cả một mớ hỗn tạp những hình thức gia đình: Các
cuộc hôn nhân cùng giới, các công xã, các tập đoàn, bộ lạc, trong
một số dân tộc thiểu số và các hình thức khác chưa hề thấy. Có
những cuộc hôn nhân khế ước, hôn nhân chuỗi…những cụm gia
đình, hôn nhân thí nghiệm, hôn nhân sự nghiệp [2, tr. 313].
Khi mô tả sự đa dạng, phức tạp của kiểu hôn nhân và gia đình
phương Tây, tác giả coi sự biến đổi về hôn nhân và gia đình như là một quy
luật tất yếu của lịch sử mà không nhìn thấy những ảnh hưởng tiêu cực của
xã hội tư bản đến vấn đề gia đình; những chuẩn mực của gia đình truyền
thống và gia đình hạt nhân đang bị xói mòn trong xã hội phương Tây.
Những kiểu gia đình mới lạ - như tác giả mô tả - chỉ chứng minh cho sự
suy đồi, bế tắc của gia đình trong xã hội tư bản. Những mô hình gia đình đó
không phải là quy luật phổ biến đối với tất cả các quốc gia trên thế giới.
Đây chính là mặt hạn chế và sai lầm của Tô-phơ-lơ.
10
Tổ chức Văn hóa, khoa học và giáo dục của Liên hợp quốc
(UNESCO) đưa ra định nghĩa: "Gia đình là một nhóm người có quan hệ họ
hàng, cùng sống chung và ngân sách chung" [75, tr. 10]. Định nghĩa này đã
nhấn mạnh hai chức năng cơ bản của gia đình là chức năng sinh đẻ (huyết
thống) và chức năng kinh tế. Khái niệm "gia đình" ở đây được sử dụng để
chỉ một nhóm xã hội hình thành trên cơ sở quan hệ hôn nhân và huyết
thống, phản ánh mối quan hệ cùng chung sống giữa cha mẹ, con cái, họ
hàng, đồng thời gắn liền với nó là chức năng kinh tế của gia đình. Theo
trình độ phát triển của xã hội, gia đình ngày càng tỏ rõ vai trò là một đơn vị
kinh tế cơ sở; chính hoạt động kinh tế chủ động và tự chủ này tạo nên sự
bền vững của gia đình.
Ở Việt Nam, khi bàn tới khái niệm "gia đình", một số tác giả cũng
có những định nghĩa khác nhau, tùy theo góc độ tiếp cận. Theo Đại từ điển
tiếng Việt, "gia đình là tập hợp những người có quan hệ hôn nhân và huyết
thống sống chung trong cùng một nhà" [95, tr. 719]. Trong cuốn "Tâm lý
học gia đình", Ngô Công Hoàn đã đưa ra khái niệm: "Gia đình là một nhóm
nhỏ xã hội, có quan hệ gắn bó về hôn nhân hoặc huyết thống, tâm sinh lý,
có chung các giá trị vật chất, tinh thần, ổn định trong các thời điểm lịch sử
nhất định" [33, tr. 9]. Cũng từ góc độ tâm lý học, trong cuốn "Tâm lý gia
đình", tác giả Nguyễn Khắc Viện đã đưa ra định nghĩa: "Gia đình, đó là sự
chung sống của hai nhóm người, cha mẹ và con cái, nó cùng một mối quan
hệ là những người sinh ra và những người nối dõi" [94, tr. 20]. Dưới góc độ
luật học, nhà nghiên cứu Nguyễn Quốc Tuấn lại cho rằng: "Gia đình là một
tập hợp dựa trên các quan hệ về hôn nhân và huyết thống và về nuôi dưỡng
đã gắn bó những người có quan hệ với nhau bởi các quyền và nghĩa vụ về
tài sản và nhân thân, bởi sự cộng đồng về đạo đức và vật chất, để tương trợ
nhau, cùng làm kinh tế chung và nuôi dạy con cái" [88, tr.15-16]. Khi bàn
đến khái niệm gia đình, tác giả Lê Thi viết:
11
Khái niệm gia đình được sử dụng để chỉ một nhóm xã hội
hình thành trên cơ sở quan hệ hôn nhân và huyết thống, nảy sinh
từ quan hệ hôn nhân đó và cùng chung sống (cha mẹ, con cái,
ông bà, họ hàng nội, ngoại). Đồng thời gia đình cũng có thể bao
gồm một số người được gia đình nuôi dưỡng, tuy không có quan
hệ huyết thống. Các thành viên trong gia đình gắn bó về trách
nhiệm và quyền lợi (kinh tế, văn hóa, tình cảm), giữa họ có
những điều ràng buộc có tính pháp lý, được Nhà nước thừa nhận
và bảo vệ (được ghi rõ trong Luật Hôn nhân và gia đình của nước
ta). Đồng thời, trong gia đình có những quy định rõ ràng về
quyền được phép và những cấm đoán trong quan hệ tình dục giữa
các thành viên [78, tr. 20-21].
Với quan niệm đó, tác giả đã xem gia đình vừa như một nhóm tâm
lý - tình cảm xã hội đặc thù, vừa như một thiết chế xã hội. Tác giả đã làm
rõ mặt nổi bật của gia đình là nhóm tâm lý - tình cảm xã hội đặc thù. Gia
đình được kết cấu, duy trì và củng cố bởi các mối quan hệ nội tại giữa các
thành viên, bắt nguồn từ các quan hệ huyết thống ruột thịt và quan hệ tình
cảm. Quan hệ giữa họ là huyết thống, tình cảm, là trách nhiệm và sự quan
tâm thường xuyên, gắn bó lâu dài, để tạo nên sự bền vững gia đình.
Mặt khác, gia đình là một thiết chế xã hội. Nó tồn tại như là một bộ
phận cùng với các thiết chế khác để cấu trúc nên xã hội; chịu sự chi phối và
quản lý của xã hội. Cùng với tác động về mặt kinh tế - xã hội còn chi phối gia
đình bằng sự thừa nhận, phê chuẩn và bảo vệ sự chung sống của hôn nhân gia đình thông qua các quy định có tính pháp lý, nhất là Luật Hôn nhân và
gia đình.
Rõ ràng, có nhiều cách tiếp cận khác nhau về vấn đề gia đình, tùy
theo mục đích, đối tượng nghiên cứu của từng ngành khoa học, của các
12
quan điểm nhận thức. Sẽ không có một định nghĩa gia đình duy nhất cho
mọi nền văn hóa, mọi chế độ xã hội, mọi thời kỳ lịch sử.
Sau khi nghiên cứu tham khảo nhiều tài liệu khác nhau, đặc biệt qua
đề tài khoa học của PGS Phan Khanh, chúng tôi hiểu rằng: Gia đình là tế
bào của xã hội, một thiết chế xã hội tồn tại bền vững, gắn bó với nhau trên
cơ sở kết hợp những thành viên khác giới của bố mẹ, thông qua hôn nhân
không cùng huyết thống để tái sản xuất nòi giống; hoặc thông qua quan hệ
nuôi dưỡng (con nuôi...) cùng làm kinh tế, nuôi dạy con cái trưởng thành,
trở thành những người con hiếu thảo, biết thương yêu, có trách nhiệm chăm
sóc ông bà, cha mẹ, anh em, họ hàng; luôn nhớ về cội nguồn, thờ phụng tổ
tiên; trở thành người công dân tốt, có tư cách, đạo đức, học vấn, nghề
nghiệp, văn hóa; biết bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa dân tộc,
văn hóa hiện đại; tích cực phòng chống các tệ nạn xã hội... tạo dựng cuộc
sống gia đình no ấm, hòa thuận, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững,
góp phần xây dựng quê hương đất nước. Gia đình là một phạm trù lịch sử,
thay đổi cùng với sự phát triển của xã hội [40, tr. 7].
Từ cách hiểu trên, với phương pháp tiếp cận lịch sử, trình bày một
cách khái quát, chúng tôi quan niệm: Gia đình là tế bào của xã hội, trong đó
các thành viên cùng sinh sống dựa trên mối quan hệ hôn nhân và huyết thống,
cùng có chung những giá trị vật chất và tinh thần, cùng thực hiện các chức
năng khách quan phù hợp với yêu cầu, đặc điểm của mỗi giai đoạn lịch sử
nhất định.
1.1.1.2. Vai trò, chức năng của gia đình
Vai trò, chức năng của gia đình là một trong những nội dung then
chốt của việc nghiên cứu gia đình. Chức năng gia đình là cụ thể hóa vai trò
của gia đình; chức năng gia đình là cách thức cơ bản thỏa mãn các nhu cầu
sống, sinh hoạt và phát triển của gia đình trong quan hệ với xã hội. Các
13
nghiên cứu về gia đình - dù xét trên cấp độ vĩ mô (trong mối quan hệ với xã
hội tổng thể), hay xét ở cấp độ vi mô (trong mối quan hệ tương quan và tác
động qua lại giữa các thành viên) - đều khẳng định: gia đình có những chức
năng cụ thể, đặc trưng. Gia đình được tạo lập, tồn tại và phát triển chính là
do nó có sứ mệnh đảm đương những chức năng đặc biệt mà xã hội và tự nhiên
đã trao cho, không một thiết chế xã hội nào thay thế được. Quan hệ giữa gia
đình và xã hội cũng như quan hệ giữa các thành viên và các thế hệ trong gia
đình thông qua việc thực hiện các chức năng gia đình.
Mặt khác, gia đình là một phạm trù lịch sử. Mỗi thời đại lịch sử cũng
như mỗi chế độ xã hội đều sản sinh ra một loại gia đình tương ứng, xây
dựng một kiểu gia đình lý tưởng phù hợp với những chức năng xã hội của
nó. Ở thời tiền sử - như Mác và Ăngghen viết trong "Hệ tư tưởng Đức":
Gia đình "là quan hệ xã hội duy nhất". Khi đó, gia đình có vai trò vừa là
cộng đồng lao động, vừa là cộng đồng sinh hoạt, là khuôn khổ tồn tại của
xã hội; chức năng của gia đình cũng đồng thời là chức năng của xã hội (gia
đình - xã hội sơ khai), thực hiện chức năng gia đình cũng là thực hiện chức
năng xã hội và ngược lại. Lúc này, chức năng gia đình không thể khác hơn
là kiếm sống và duy trì nòi giống. Về sau, khi dân số tăng lên, nhiều nhu
cầu mới xuất hiện. Khi nhu cầu của con người phát triển lại xuất hiện
những quan hệ xã hội mới làm cho gia đình từ chỗ "là quan hệ duy nhất"
trở thành "quan hệ phụ thuộc" [53, tr. 41]. Sự chuyển biến này gắn liền với
quá trình phân công lao động xã hội, với quá trình phát triển xã hội, dẫn
đến có sự độc lập tương đối của gia đình đối với xã hội, thậm chí có sự đối
lập giữa gia đình và xã hội. Trong các xã hội thị tộc, bộ lạc, sự đối lập giữa
gia đình và xã hội còn rất mờ nhạt. Sự đối lập đó chỉ có thể trở thành "quan
hệ phổ biến" khi có sự hình thành phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
(TBCN). Với sự phát triển của phương thức sản xuất TBCN, sự biến đổi
chức năng của gia đình như là kết quả của quá trình ĐTH, CNH, HĐH.
14
Khi bàn đến chức năng gia đình, bên cạnh những ý kiến thống nhất
thì vẫn còn ý kiến khác nhau trong trình bày số lượng, trật tự trước sau hay
các khía cạnh cụ thể trong từng chức năng của gia đình. Chẳng hạn, có tác
giả phân chia các chức năng như sau:
- Chức năng tái sản xuất ra con người;
- Chức năng giáo dục;
- Chức năng kinh tế;
- Chức năng thỏa mãn nhu cầu sinh lý, tình cảm;
- Chức năng xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh
phúc [77, tr. 60].
Trong cách phân tích, đánh giá, tác giả này nhấn mạnh chức năng xây
dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, coi đây là chức năng
tổng hợp quan trọng nhất, nó là rõ mục đích, giá trị mà gia đình hướng tới.
Còn theo GS. Lê Thi, ngoài các chức năng tái sản xuất ra con người;
làm kinh tế; nuôi dạy, giáo dục con cái; thỏa mãn nhu cầu tình cảm, cân
bằng tâm lý, gia đình còn có chức năng bảo vệ, chăm sóc sức khỏe người ốm,
người già, phụ nữ, trẻ em [79, tr. 46]. Đây là một chức năng mà ít tài liệu nói
tới. TS. Lê Ngọc Văn lại cho rằng, gia đình có ba chức năng cơ bản: Chức
năng kinh tế; chức năng sinh đẻ và chăm sóc sức khỏe gia đình; chức năng
giáo dục - xã hội hóa [8, tr. 114-115]. Khi đề cập tới các chức năng này, tác
giả đã chú ý làm rõ sự khác biệt trong thực hiện các chức năng gia đình
giữa gia đình nông thôn và gia đình đô thị qua một số nội dung như: vai trò
hoạt động kinh tế của gia đình; sự thay đổi về nhận thức và nhu cầu trong
thực hiện chức năng sinh đẻ và chăm sóc sức khỏe gia đình; những khó
khăn, thuận lợi và xu hướng trong việc thực hiện chức năng giáo dục - xã
hội hóa gia đình.
15
Trong giáo trình môn "Chủ nghĩa xã hội khoa học" hiện hành [35, tr.
422] lại trình bày tách riêng chức năng sản xuất (kinh tế) và chức năng tiêu
dùng ra làm hai chức năng độc lập.
Trong nội dung chức năng giáo dục của gia đình, có tác giả không
trình bày rõ quan hệ giữa các thành viên trong việc nuôi dưỡng vật chất,
sinh học mà chủ yếu chỉ trình bày mặt giáo dục. Có tác giả đồng nhất chức
năng tiêu dùng với chức năng kinh tế; chức năng sinh đẻ với tái sản xuất ra
con người... Đúng ra, tiêu dùng bao gồm cả mặt vật chất và mặt tinh thần,
nên không thể đồng nhất chức năng tiêu dùng với chức năng kinh tế; chức
năng tái sản xuất ra con người cũng rộng hơn (bao gồm cả nuôi dưỡng,
giáo dục, tự phát triển) so với chức năng sinh đẻ, duy trì nòi giống.
Qua tham khảo nhiều cách tiếp cận khác nhau và bằng sự nghiên
cứu, phân tích của mình, chúng tôi chia ra 5 chức năng chủ yếu của gia
đình trong sự liên hệ với gia đình ở nước ta, như sau:
Một là: Chức năng sinh đẻ (tái sản xuất ra con người)
Gia đình bắt đầu hình thành khi thực hiện nhu cầu hôn nhân (trong
đó có tình dục giữa cha và mẹ - hai nhân vật chính đầu tiên kiến tạo nên gia
đình), từ đó thực hiện chức năng sinh con đẻ cái, duy trì nòi giống, tái sản
xuất ra con người. Tái sản xuất ra con người theo nghĩa hẹp là sinh con đẻ
cái, theo nghĩa rộng bao hàm cả nuôi dưỡng và giáo dục của gia đình.
Xã hội tồn tại và phát triển dựa trên hai cơ sở quan trọng là tái sản
xuất ra của cải vật chất và tái sản xuất ra chính bản thân con người. Sự tồn
tại của loài người phụ thuộc vào chức năng thứ hai này của gia đình. Việc
tái sản xuất ra thế hệ tương lai, một mặt đáp ứng yêu cầu cung cấp lực
lượng lao động mới cho xã hội, mặt khác đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu của
chính gia đình. Con cái trở thành chỗ dựa, nguồn tình cảm của ông bà, cha
mẹ và của cả dòng tộc.
16
Trong xã hội nông nghiệp, chức năng này được đề cao. Quá trình
sản xuất nông nghiệp đòi hỏi phải có lực lượng lớn lao động, nhất là lao
động của người đàn ông. Gia đình càng đông con thì lực lượng lao động
càng lớn và điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô, cách thức tổ chức lao
động sản xuất, đến các quan hệ họ hàng, quan hệ xã hội. Với các quan niệm
"nhiều con hơn nhiều của", "sinh con trai để nối dõi tông đường", gia đình
truyền thống Việt Nam đặc biệt coi trọng chức năng sinh đẻ. Tuy nhiên,
hiện nay, với xu hướng chuyển sang xã hội công nghiệp, quan hệ gia đình,
họ hàng, quan hệ xã hội đã có những thay đổi, người ta chú ý nhiều hơn
đến chất lượng gia đình và con người. Trong gia đình, điều quan trọng không
phải là số lượng thành viên nhiều hay ít, mà được quyết định bởi chất
lượng của các thành viên.
Hai là: Chức năng kinh tế (sản xuất các giá trị vật chất)
Cùng với quá trình phát triển lực lượng sản xuất, gia đình trở thành
một đơn vị kinh tế. Gia đình là một đơn vị có chung tài sản, trước hết về mặt
vật chất và sáng tạo ra các tài sản đó thông qua hành vi sản xuất, làm kinh
tế. Đây là một nền tảng vật chất không thể thiếu của gia đình. Tất nhiên,
mức độ biểu hiện của chức năng này rất khác nhau trong tiến trình lịch sử.
Trong xã hội Việt Nam truyền thống, đơn vị kinh tế gia đình gắn liền
với nền kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ, kinh tế hàng hóa chưa phát triển, lại
chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng nho giáo. Ở đó nặng về tư tưởng "trọng
nông, ức thương", tự cung, tự cấp. Với phương châm tự cung, tự cấp,
"trước khi thực dân Pháp xâm chiếm nước ta, chưa có một triều đại nào cho
phép thương nhân trong nước ra nước ngoài buôn bán, quá lắm là mở cửa
biển cho tàu buôn nước ngoài đến" [10, tr. 55]. Nhiều triều đại của nhà
nước phong kiến đã chủ trương phát triển nông nghiệp và coi lao động nông
nghiệp của các hộ gia đình nông dân như là một yếu tố để đảm bảo đời
17
sống của từng gia đình và đồng thời là một nhân tố cơ bản phát triển kinh tế
quốc gia.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH), do còn sản xuất
hàng hóa, còn nhiều thành phần kinh tế, khi kinh tế nhà nước và kinh tế tập
thể chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu của cuộc sống, thì kinh tế gia đình (tồn tại
dưới hình thức hộ gia đình cá thể, tiểu chủ) là điều cần thiết. Kinh tế gia
đình vừa tăng thêm thu nhập cho gia đình, vừa góp phần tạo ra nhiều của
cải cho xã hội. Hoạt động kinh tế gia đình có những mức độ và hình thức
thể hiện khác nhau, nhưng đều vì mục đích tăng thu nhập, làm giàu chính
đáng, tạo điều kiện để thực hiện các chức năng khác của gia đình, góp phần
phát triển gia đình và xã hội. Vì vậy, kinh tế gia đình là một bộ phận có
tiềm năng to lớn, có vị trí quan trọng lâu dài. Ở nước ta hiện nay, gia đình
vừa là một đơn vị sản xuất, vừa là một đơn vị dịch vụ, tiêu thụ. Đảng và
Nhà nước ta rất quan tâm tới kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại.
Ba là: Chức năng tiêu dùng
Trong hoạt động sống, gia đình luôn thực hiện việc tiêu dùng của
gia đình để đáp ứng các nhu cầu hàng ngày về ăn, uống, mặc, ở, đi lại, học
hành, giải trí... của các thành viên gia đình. Gia đình không chỉ là một đơn
vị sản xuất, mà còn là một đơn vị tiêu dùng. Gia đình trở thành nơi nghỉ
ngơi, vui chơi, giải trí, tổ chức việc tiêu dùng vật chất và hưởng thụ các sản
phẩm văn hóa sau giờ lao động.
Nếu trong xã hội nông nghiệp lạc hậu, chức năng này có thể mờ
nhạt, thì ngày nay, với xu hướng phát triển của xã hội công nghiệp, với
mức sống ngày càng cao, con người càng chú ý nhiều hơn đến nhu cầu tiêu
dùng, giải trí. Mặc dù xã hội hiện đại có những hệ thống dịch vụ, phúc lợi
xã hội ngày càng mở rộng và phát triển để đáp ứng nhu cầu của con người,
nhưng chức năng tiêu dùng của gia đình để đáp ứng nhu cầu vật chất và
18
nhu cầu tinh thần đa dạng, độc đáo của các thành viên vẫn không có hình
thức nào khác thay thế được. Chức năng tiêu dùng của gia đình có ưu thế là
đi vào chiều sâu, đáp ứng những nhu cầu tinh tế, phong phú và duy trì sắc thái
sở thích sinh hoạt riêng của từng gia đình và của các thành viên trong gia
đình, hướng các thành viên gia đình vào tiêu dùng hợp lý, văn minh.
Bốn là: Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục
Gia đình là nơi nuôi dưỡng và trường học đầu tiên tác động đến con
người về nhiều mặt (thể chất, văn hóa, trí tuệ, xã hội, lao động…).
Giáo dục xã hội và giáo dục nhà trường là những yếu tố quyết định
để định hướng sự phát triển nhân cách. Tuy nhiên, giáo dục gia đình lại có
vai trò quan trọng đầu tiên trong việc hình thành và phát triển nhân cách cá
nhân. Nội dung giáo dục gia đình bao gồm "các yếu tố của văn hóa gia đình,
văn hóa cộng đồng, nhằm tạo lập và phát triển nhân cách của con người như:
đạo đức, lối sống, ứng xử, tri thức, lao động và khoa học..." [34, tr. 81].
Giáo dục gia đình được thực hiện trong suốt quá trình sống của con người
với những hình thức và nội dung giáo dục cụ thể, phong phú.
Mác từng chỉ ra rằng: Con người là một động vật xã hội; sau khi lọt
lòng mẹ, nếu đứa trẻ không được sống trong môi trường gia đình, không
được sự giáo dục của gia đình, của xã hội, sẽ không trở thành một con
người thực thể. Quá trình chuyển biến đứa trẻ từ lúc lọt lòng đến lúc trưởng
thành, từ một thực thể - sinh học tự nhiên thành một thực thể xã hội mang
bản chất xã hội trước hết là nhờ sự nuôi dưỡng, giáo dục của gia đình. Đứa
trẻ sống được, lớn lên từng ngày trước hết nhờ sự nuôi dưỡng, chăm sóc
của cha mẹ chúng. Mặt mạnh đặc trưng của gia đình là mối quan hệ tình
cảm ruột thịt giữa cha mẹ và con cái, tạo nên một sự cảm hóa to lớn tác
động mạnh mẽ tới đứa trẻ.
Trong xã hội nông nghiệp Việt Nam, theo quan niệm giáo dục nho
19
giáo, giáo dục gia đình chủ yếu thiên vị giáo dục đạo đức, giáo dục phẩm
hạnh, giáo dục "đối nhân xử thế" trong quan hệ gia đình, họ hàng, làng xóm...
Những quan điểm "tam cương, ngũ thường", "danh phận"... trong xã hội
phong kiến được các gia đình chấp nhận và tuân thủ khá chặt chẽ. Mô hình
"người quân tử", "kẻ tiểu nhân" như có một công thức định sẵn và được các
gia đình đưa vào giáo dục gia đình một cách phổ biến.
Ngày nay, trong gia đình hiện đại, chức năng nuôi dưỡng, giáo dục
gia đình được phát triển ở một trình độ mới. Một bộ phận khá lớn trẻ em ăn
uống, được chăm sóc sức khỏe ban ngày ở nhà trẻ, lớp mẫu giáo... Giáo
dục gia đình luôn gắn liền với giáo dục nhà trường và giáo dục xã hội để hình
thành các nhân cách phát triển toàn diện. Trong chế độ XHCN, giáo dục gia
đình đã trở thành một bộ phận quan trọng của giáo dục xã hội. Việc kết hợp
chặt chẽ giữa giáo dục gia đình với giáo dục nhà trường và giáo dục xã hội
là điều kiện cơ bản, thường xuyên để thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
Năm là: Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm - sinh lý
Trong quá trình sống của con người, nhiều vấn đề tâm - sinh lý thuộc
giới tính, thế hệ... luôn diễn ra trong phạm vi gia đình mà trước hết là trong
quan hệ giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái. Bởi vậy, sự hiểu biết
tâm - sinh lý cá nhân, sở thích của nhau để ứng xử phù hợp, tế nhị, chân
thành, tạo nên không khí tinh thần lành mạnh, ổn định, hài hòa là vấn đề
quan trọng mà gia đình phải và có thể đảm nhận.
Trong xã hội phong kiến, với quan niệm "tam tòng, tứ đức", "trai
năm thê, bảy thiếp, gái chuyên chính một chồng"..., gia đình có khi chưa
phải là một "tổ ấm", mà chỉ là nơi sống chung của các "số phận" do hoàn
cảnh đưa đẩy tạo nên. Với chế độ phụ quyền và ảnh hưởng của tư tưởng
nho giáo, người phụ nữ luôn chịu thiệt thòi, có khi trở thành vật hy sinh,
20
vật nô lệ cho chồng và gia đình chồng. Những nhu cầu riêng, cần thiết của
cá nhân người phụ nữ, nhất là các nhu cầu tâm - sinh lý, ít được đáp ứng.
Ngày nay, trong xã hội XHCN, các thành viên trong gia đình có điều
kiện quan tâm đến nhau nhiều hơn. Gia đình ngày càng chú ý hơn đến cuộc
sống riêng của mỗi thành viên. Xu thế dân chủ hóa đời sống xã hội đã có ảnh
hưởng tích cực đến sự bình đẳng, dân chủ trong quan hệ gia đình, nhất là quan
hệ giữa vợ và chồng, quan hệ giữa cha mẹ và con cái... Với sự hiểu biết,
thỏa mãn nhu cầu tâm - sinh lý, đa số gia đình thật sự là tổ ấm của các
thành viên.
Như vậy, gia đình là thiết chế đa chức năng. Thông qua việc thực
hiện các chức năng trên đây mà gia đình tồn tại và phát triển, đồng thời tác
động đến tiến độ chung của cộng đồng (làng, xã, khu phố...) và xã hội. Các
chức năng thực hiện trong sự thúc đẩy, hỗ trợ lẫn nhau. Dĩ nhiên, việc phân
chia các chức năng của gia đình chỉ là tương đối. Ở các giai đoạn lịch sử
khác nhau, những nội dung của mỗi chức năng được biến đổi phù hợp với
những điều kiện cụ thể, với quá trình phát triển xã hội.
1.1.1.3. Các kiểu (hình thức) gia đình
Các kiểu (hình thức) gia đình tùy thuộc vào nền tảng cấu thành gia
đình, chức năng và trình độ phát triển kinh tế xã hội.
Trong thực tế lịch sửỷ, có nhiều kiểu (hình thức) gia đình khác nhau
trên cơ sở những tiêu chí (dấu hiệu) cụ thể nhất định. Kết hôn là mở đầu
cho một gia đình mới. Cho nên, đặc điểm kết hôn thường được quan tâm
nghiên cứu trước hết và được coi là tiêu chí hàng đầu để nhận dạng các
kiểu gia đình. Trong tác phẩm "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu
và của nhà nước", nhân những nghiên cứu có giá trị của L.M. Moóc-gan,
Ăngghen, đã chỉ ra những nét cơ bản của lịch sử gia đình trên cơ sở dấu hiệu
kết hôn. Theo đấy, có hai kiểu gia đình: tập thể và cá thể.
21
Gia đình tập thể tồn tại trong xã hội cộng sản nguyên thủy với những
đặc trưng chung là: kinh tế cộng đồng nguyên thủy, tính giao tập thể, không
có áp bức và bất bình đẳng giữa các thành viên, chế độ mẫu quyền, nhiều
thế hệ và đông đúc... Gia đình tập thể lần lượt có những hình thức cụ thể
hơn tương ứng với các giai đoạn phát triển của xã hội. Đó là: gia đình cùng
dòng máu (kết hôn nhiều vợ nhiều chồng, nam nữ trong cùng một thế hệ tất
thảy là vợ chồng của nhau), gia đình pu-na-lu-an (cấm chỉ anh chị em ruột
kết hôn), gia đình cặp đôi (trong nhiều người vợ của mình, người đàn ông
chọn lấy một người vợ chính; ngược lại, trong nhiều người chồng của mình,
người đàn bà chọn lấy một người chồng chính...).
Gia đình cá thể (hôn nhân một vợ, một chồng) là sản phẩm của xã
hội khi bước vào giai đoạn lịch sử có sở hữu tư nhân, phân hóa giai cấp và
tồn tại đến ngày nay. Đây là bước tiến mới của lịch sử gia đình, phù hợp
với sự phát triển nhiều mặt về kinh tế, văn hóa... của xã hội, về sức khỏe,
tâm lý... của con người, đồng thời phù hợp với tỷ lệ tương đương một cách
khách quan giữa dân số nam và dân số nữ. Đáng chú ý là, trong xã hội có
giai cấp đối kháng, gia đình cá thể cũng mang dấu ấn giai cấp, dựa trên sự
thống trị của người chồng (phụ quyền), người vợ nói riêng và phụ nữ nói
chung bị bất bình đẳng, tính chất cá thể của kết hôn chỉ mang tính tương
đối bởi luôn "bổ sung bằng tệ ngoại tình và mại dâm" [54, tr. 119].
Ngày nay, loài người tiến bộ coi kết hôn một vợ, một chồng là nội
dung quan trọng nhất của chế độ hôn nhân tiến bộ, là điều kiện để phát
triển bền vững gia đình và xã hội. Song, như Ăngghen dự báo, loài người
phải tiến tới xây dựng xã hội mới không còn áp bức bóc lột, không còn bất
bình đẳng... để có những gia đình một vợ, một chồng "được thực hiện trọn
vẹn", "theo nghĩa ngữ nguyên chứ tuyệt nhiên không phải theo nghĩa lịch
sử của danh từ đó!" [54, tr. 118; 114].
22
Nếu theo dấu hiệu thế hệ (kết cấu gia đình) thì có hai kiểu gia đình:
hạt nhân và mở rộng. Gia đình hạt nhân là gia đình gồm hai thế hệ (bố mẹ
và con cái chưa trưởng thành) và thường có quy mô nhỏ (ít người). Gia
đình mở rộng là gia đình gồm 3, 4... thế hệ và thường có quy mô lớn (đông
người). Gia đình hạt nhân và gia đình mở rộng đều có những ưu điểm và
nhược điểm nhất định đối với sự phát triển gia đình. Tuy vậy, hiện nay, gia
đình hạt nhân ngày càng phổ biến, do nó có khả năng đáp ứng được nhiều
hơn những nhu cầu của con người (nhất là giới trẻ) trong cuộc sống hiện
đại và điều kiện kinh tế, vật chất ngày càng cao. Phát huy những ưu điểm
và khắc phục những nhược điểm của hai hình thức gia đình này là đòi hỏi
của quản lý xã hội hiện nay.
Thông thường, gia đình có hai mối quan hệ cơ bản: hôn nhân và huyết
thống. Từ dấu hiệu của các quan hệ này mà chia ra hai kiểu gia đình: đầy đủ
và không đầy đủ. Gia đình đầy đủ là gia đình có cả bố mẹ và con cái cùng
các thành viên khác (nếu có) chung sống. Gia đình không đầy đủ (thiếu
thành phần) là gia đình khuyết chồng hoặc vợ hay không có con... Gia đình
đầy đủ có thuận lợi hơn về mặt tâm lý và thực hiện các chức năng khách
quan của mình. Gia đình không đầy đủ thường là do ly thân, ly hôn, góa
bụa, phụ nữ không chồng mà có con..., do vậy, có không ít khó khăn, rất
cần được thông cảm, động viên và giúp đỡ.
Các hình thức gia đình còn được phân theo nơi cư trú sinh sống và
khái quát nhất là hai kiểu: gia đình nông thôn và gia đình đô thị. Điều kiện
tự nhiên, sự khác biệt, chênh lệch giữa các vùng (miền) đã in dấu ấn vào
gia đình. Thường gia đình ở nông thôn mọi mặt hạn chế hơn, thấp hơn gia
đình ở đô thị. Khắc phục sự chênh lệch, tạo sự xích lại gần nhau giữa các
gia đình miền núi và miền xuôi, giữa nông thôn và đô thị, giữa các vùng
miền, là tinh thần của công bằng và bình đẳng xã hội.
23
Liên quan đến gia đình các vùng miền là các kiểu gia đình theo dấu
hiệu giai tầng. Gia đình nông dân sống ở nông thôn, tất cả hoặc hầu hết các
thành viên đến tuổi lao động đều làm nông nghiệp. Các gia đình công
nhân, trí thức, viên chức... chủ yếu sống ở đô thị. Các đặc trưng giai tầng nghề nghiệp chi phối đến các mối quan hệ trong mỗi loại gia đình, đến tác
phong và lối sống của các thành viên gia đình.
Xã hội hiện nay vận động theo hướng CNH, ĐTH, nên ngày càng
có nhiều gia đình đa giai tầng, gia đình đa thành phần kinh tế. Trong một
gia đình có thể có cả nông dân, công nhân, trí thức, thương nhân, doanh
nhân...; có cả người làm cho Nhà nước, người làm thuê, làm tư nhân... một
mặt, về đời sống tinh thần, mối quan hệ gia đình thật phong phú; mặt khác,
trong gia đình bao hàm sự khác nhau về thu nhập, lối sống, giờ giấc làm việc,
sinh hoạt... Do vậy, thông cảm, thích nghi, điều hòa... là điều quan trọng để
tạo sự hòa thuận, yên ấm trong mỗi gia đình. Sự vận động của xã hội nói
chung và của gia đình nói riêng đang đem lại cho gia đình những hình thức
và
sự chuyển đổi khác nhau và điều này lại càng rõ rệt và phong phú trong quá
trình ĐTH.
Trong các quốc gia đa dân tộc, có những gia đình các thành viên
đều thuộc một dân tộc, nhưng cũng có những gia đình đa dân tộc. Sự giao
lưu giữa các dân tộc ngày càng rộng rãi, từ đó nảy nở quan hệ nam nữ dẫn
đến kết hôn, tạo thành ngày càng nhiều gia đình đa dân tộc. Những đặc
trưng dân tộc (tâm lý, văn hóa, tiếng nói, chữ viết...) rất sâu đậm ở từng con
người, gia đình. ở những gia đình này, sự định hướng giá trị, sự lựa chọn
nội dung giáo dục, sự chủ động giữ gìn bản sắc dân tộc trong sự hòa đồng
nhất định có vai trò rất quan trọng.
Gia đình Việt Nam đã trải qua lịch sử biến đổi lâu dài. Trong hàng
24
nghìn năm dưới chế độ phong kiến, gia đình Việt Nam mang đặc trưng chung
của mô hình gia đình phong kiến phương Đông. Trong chế độ thực dân nửa
phong kiến từ khi thực dân Pháp xâm lược đến năm 1945, ở nông thôn vẫn chủ
yếu là các gia đình nông dân, ở đô thị đã hình thành loại gia đình đô thị: gia
đình tư sản, gia đình viên chức, gia đình thị dân chủ yếu sống bằng nghề buôn
bán nhỏ. Trong những năm 1945 - 1954, ở vùng giải phóng đã xuất hiện những
yếu tố của gia đình kiểu mới, còn ở vùng địch tạm chiếm về cơ bản vẫn là mô
hình gia đình kiểu cũ. Sau ngày miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, các gia
đình ở miền Bắc từng bước xây dựng, hình thành kiểu gia đình mới. Những
năm 1954 - 1975, các gia đình ở miền Nam nói chung, ở Sài Gòn - Gia Định
nói riêng, nhất là ở các đô thị, vừa sống dưới ách kìm kẹp của chế độ Mỹ Ngụy, vừa bị tác động mạnh mẽ của chế độ thực dân mới Mỹ. Sau ngày miền
Nam giải phóng, đất nước thống nhất, cả nước quá độ tiến lên CNXH, các
gia đình Việt Nam phát triển, từng bước định hình mô hình gia đình kiểu mới
- GĐVH.
1.1.2. Quan niệm về đô thị và đô thị hóa
1.1.2.1. Quan niệm về đô thị
Đô thị đã xuất hiện hàng nghìn năm trước Công nguyên. Những thành
phố đầu tiên trên thế giới được thiết lập ở Sumer (I-rắc) khoảng 5.000 năm
trước Công nguyên, khi nhiều nông dân định cư ở vùng đất phì nhiêu giữa sông
Tigris và Euphrates miền Nam Mesopotamia [5, tr. 302]. Ở châu Á, những
thành phố đầu tiên được hình thành tại các vùng Harrappa, Mohenjo-daro
thuộc thung lũng sông Indus (nay là Pa-ki-xtan) vào khoảng 2.500 năm trước
Công nguyên. Chế độ tư hữu ra đời đã làm cho sức sản xuất phát triển, phân
công lao động ngày càng chuyên môn hóa, dẫn đến sự phát triển của nông
nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, dần dần hình thành nên các đô thị. Những đô
thị đầu tiên ở vùng sông Nin (Ai Cập), vùng Lưỡng Hà, sông Ấn (Ấn Độ),
25
vùng sông Hoàng Hà (Trung Quốc), rồi đến sự xuất hiện của các đô thị Hy
Lạp, La Mã cổ đại... đánh dấu những bước tiến về quá trình phát triển đô thị
và xã hội.
Khi phân tích về quá trình hình thành các đô thị, trong tác phẩm
"Hệ tư tưởng Đức", Mác và Ăngghen cho rằng:
Sự phân công lao động trong nội bộ một dân tộc gây ra
trước hết sự tách rời giữa lao động công nghiệp và thương nghiệp
với lao động nông nghiệp, và do đó gây ra sự tách rời giữa thành
thị và nông thôn, sự đối lập giữa lợi ích của thành thị và nông
thôn [53, tr. 30-31].
Mác đã khái quát đặc trưng của đô thị cổ đại: Lịch sử cổ đại là lịch
sử của các đô thị, nhưng các đô thị này được xây dựng trên cơ sở chiếm
hữu ruộng đất và trên cơ sở nền kinh tế nông nghiệp, nghĩa là có sự xâm
nhập của các quan hệ nông thôn vào thành thị. Sau này, V.I. Lênin cho
rằng: "Thành thị là nơi tập trung của đời sống kinh tế, chính trị, tinh thần của
nhân dân và là động lực chủ yếu của sự tiến bộ xã hội" [47, tr. 270].
Cho đến nay, có nhiều quan niệm khác nhau về đô thị, nhưng tựu
trung lại là ba loại quan điểm:
Loại quan điểm thứ nhất cho rằng, đô thị là một khu vực địa lý mà
ở đó đại bộ phận dân cư sinh sống gắn liền với các hoạt động phi nông
nghiệp. Cách định nghĩa này nhấn mạnh khía cạnh phân công lao động xã
hội, chủ yếu là tỷ lệ lao động phi nông nghiệp gắn liền với một không gian
lãnh thổ nhất định.
Loại quan điểm thứ hai cho rằng, vùng đô thị (hay khu vực thành
phố) là nơi có mật độ dân số cao hơn so với những nơi khác, hoặc so với
mức trung bình của khu vực. Cách quan niệm này lại thiên về yếu tố dân