Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Bài dự thi Em yêu lịch sử xứ Thanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (344.36 KB, 22 trang )

Bài dự thi: “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
LỜI NÓI ĐẦU:
Sinh thời Bác Hồ đã dạy:
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”
Lịch sử là một môn học trong chương trình phổ thông, ở đó ngoài những kiến
thức chung về lịch sử dân tộc, chúng em còn được học phần lịch sử địa phương. Đó
là nguồn mạch nuôi dưỡng cho chúng em tinh thần tự hào về quê hương đất nước,
từ đó thêm yêu quê hương Thanh Hóa anh hùng. Để tạo điều kiện cho học sinh
trung cơ sở tìm hiểu lịch sử dựng nước và giữ nước của nhân dân Thanh Hóa, từ đó
nâng cao lòng yêu quê hương đất nước, lòng tự hào dân tộc, trên cơ sở đó xác định
ý thức trách nhiệm của người công dân tương lai tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc nói chung và quê hương Thanh Hóa nói riêng ngày càng phồn vinh, giàu đẹp,
đồng thời giúp học sinh các trường THCS hứng thú và say mê học tập môn Lịch sử,
tìm hiểu quá trình hình thành, phát triển của quê hương Thanh Hóa anh hùng , Sở
GD&ĐT Thanh Hóa Hướng dẫn tổ chức và phát động Cuộc thi “Em yêu Lịch sử xứ
Thanh” lần thứ nhất năm học 2016-2017. Cuộc thi là mọt sân chơi để chúng em có dịp tìm
hiểu kĩ hơn lịch sử của Thanh Hóa qua các thời kì, để hiểu biết sâu rộng về lịch sử dân tộc,
để học tốt hơn môn Lịch sử trong trường THCS.
Vì những lí do trên đây em đã tích cực tham dự cuộc thi. Em đã cố gắng sưu tầm tài
liệu, tìm hiểu các thông tin trên các phương tiện thông tin để hoàn thành bài thi của mình.

1
HS dự thi: Trịnh Huyền Trang-Lớp 8A-TrườngTHCS Định Hưng-Yên Định


Bài dự thi: “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
NỘI DUNG
CÂU HỎI:
Câu 1: Người xưa có câu: “Vua xứ Thanh, thần xứ Nghệ”. Vùng Ái Châu (tức
Thanh Hóa ngày nay) được xem là cái nôi sản sinh ra vua chúa Việt. Bằng những


kiến thức lịch sử đã học, em hãy trình bày hiểu biết của mình về một trong các vị
vua, chúa xứ Thanh mà em yêu thích nhất.
Câu 2: Học giả người Pháp L.Bơdatxie nhận xét: “Công trình này là một trong
những tác phẩm đẹp nhất của nền kiến trúc Việt Nam” (Phan Đại Doãn: Những bàn
tay tài hoa của cha ông - NXB Giáo dục 1988). Ngày 27 - 06 - 2011, Tổ chức
UNESCO đã chính thức công nhận công trình này là Di sản văn hóa thế giới. Đó là
công trình nào? Em hãy đóng vai một hướng dẫn viên du lịch để giúp cộng đồng
hiểu biết về công trình này.
Câu 3: Triệu Thị Trinh có một câu nói nổi tiếng: “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh,
đạp luồng sóng dữ, chém cá Kình ở Biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, giành lại
giang sơn, cởi ách nô lệ chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp người ta”. Bằng
kiến thức lịch sử đã học, em hãy làm rõ truyền thống anh hùng bất khuất chống giặc
ngoại xâm của con người xứ Thanh.
Câu 4: Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa được thành lập như thế nào? Hãy nêu những
hiểu biết của em về một người Cộng sản Thanh Hóa mà em ấn tượng nhất?
Câu 5: Ngày 20/2/1947, Bác Hồ vào thăm Thanh Hóa đã căn dặn: “Thanh
Hóa phải trở nên một tỉnh kiểu mẫu... phải làm sao cho mọi mặt chính trị, kinh tế,
quân sự phải là tỉnh kiểu mẫu, làm hậu phương vững chắc cho cuộc kháng chiến”.
Thực hiện lời căn dặn của Bác, sau 30 năm đổi mới (1986-2016) Đảng bộ, quân và
dân Thanh Hóa đã phấn đấu đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực
kinh tế - xã hội. Em hãy nêu một thành tựu nổi bật nhất góp phần đưa Thanh Hóa
từng bước trở thành tỉnh kiểu mẫu. Liên hệ trách nhiệm bản thân.

2
HS dự thi: Trịnh Huyền Trang-Lớp 8A-TrườngTHCS Định Hưng-Yên Định


Bài dự thi: “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
TRẢ LỜI:
Câu 1: Người xưa có câu: “Vua xứ Thanh, thần xứ Nghệ”. Vùng Ái Châu (tức

Thanh Hóa ngày nay) được xem là cái nôi sản sinh ra vua chúa Việt. Bằng
những kiến thức lịch sử đã học, em hãy trình bày hiểu biết của mình về một
trong các vị vua, chúa xứ Thanh mà em yêu thích nhất.
Xứ Thanh đúng là cái nôi của vua chúa Việt. Vùng đất này là quê hương của
những ông vua nổi tiếng trong lịch sủ dân tộc như Lê Hoàn, Lê Lợi, …. Trong đó
Lê Lợi là một trong những vị vua có công lao to lớn đối với lịch sử dân tôc, là niềm
tự hào của mỗi người con Thanh Hóa.
Lê Lợi sinh ngày 10 tháng 9 năm 1385 mất ngày 22 tháng 8 năm 1433. Quê
quán ở Xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá. Ông xuất thân là hào
trưởng, có uy tín và ảnh hưởng lớn trong vùng , là người khởi xướng cuộc khởi
nghĩa Lam Sơn, chiến thắng quân Minh, giành lại độc lập cho nước Đại Việt và trở
thành vị hoàng đế sáng lập nhà Hậu Lê.
Cuối thế kỷ XIV, nhà Trần suy vong. Năm 1400, nhà Hồ được thành lập,
công cuộc cải cách của nhà Hồ chưa đạt được kết quả như mong muốn thì giặc
Minh ồ ạt tiến đánh nước ta. Năm 1407, cuộc khởi nghĩa của nhà Hồ thất bại, nước
ta rơi vào ách đô hộ của nhà Minh. Trước những hành động bạo tàn của kẻ thù,
ngày mồng 02 Tết Mậu Tuất (năm 1418), từ núi rừng Lam Sơn (Thanh Hóa), Lê
Lợi cùng với 18 người bạn thân thiết, đồng tâm cứu nước đã làm lễ thề đánh giặc
giữ yên quê hương. Đó là hội Thề Lũng Nhai đã đi vào sử sách.Tin Lê Lợi dựng cờ
nghĩa, chiêu mộ hiền tài bay xa, thu hút các anh hùng hào kiệt từ bốn phương kéo
về. Đất Lam Sơn trở thành nơi tụ nghĩa. ở đó có đủ các tầng lớp xã hội và thành
phần dân tộc khác nhau, với những đại biểu ưu tú như: Nguyễn Trãi, Trần Nguyên
Hãn, Nguyễn Chích, Nguyễn Xí, Lê Lai, Cầm Quý, Xa Khả Tham... Sau một thời
gian chuẩn bị chín muồi, đầu năm 1418, Lê Lợi xưng là Bình Định Vương, truyền
hịch đi khắp nơi, kêu gọi nhân dân đứng lên đánh giặc cứu nước. Lê Lợi là linh hồn,
là lãnh tụ tối cao của cuộc khởi nghĩa ấy.
Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa đánh đuổi quân Minh xâm lược. Lúc ấy Lê Lợi xưng
là Bình Định vương. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn ngày càng lan rộng ra khắp cả
nước. Sau gần 10 năm chiến đấu ngoan cường, đến đầu năm 1426, quân Minh bị
3

HS dự thi: Trịnh Huyền Trang-Lớp 8A-TrườngTHCS Định Hưng-Yên Định


Bài dự thi: “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
quân khởi nghĩa bao vây ở Đông Quan (Thăng Long). Vương Thông - tướng chỉ
huy quân Minh hoảng sợ, một mặt xin hàng nghĩa quân, mặt khác bí mật sai người
về nước xin quân cứu viện.Cuối năm 1427, Liễu Thăng chỉ huy10 vạn quân cứu
viện ồ ạt kéo vào nước ta theo đường Lạng Sơn. Nghĩa quân đánh tan tành ở trận
Chi Lăng - Xương Giang lừng lẫy.
Ngày 14 tháng 04 năm Mậu Thân (1428), Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế tại kinh
thành Thăng Long.đặt lại tên nước là Đại Việt, niên hiệu là Thuận Thiên, Trong sự
nghiệp xây dựng đất nước buổi đầu của vương triều Lê, Lê Lợi đã có những cố
gắng không nhỏ về nội trị, ngoại giao, nhằm phục hồi, củng cố, phát triển đất nước
trên mọi mặt, như tổ chức lại bộ máy chính quyền từ trung ương xuống địa phương;
ban hành một số chính sách kèm theo những biện pháp có hiệu quả để khôi phục
sản xuất nông nghiệp, ổn định đời sống xã hội. Lê Lợi cũng chú ý tới việc phát triển
văn hóa, giáo dục, đào tạo nhân tài. Lê Lợi đã cho mở khoa thi Minh Kinh. Năm
1431, thi khoa Hoành từ. Năm 1433, Lê Lợi đích thân ra thi văn sách
Nhưng, nhiệm vụ chính trị lớn nhất phải quan tâm giải quyết hàng đầu sau khi
đất nước được giải phóng là việc tăng cường củng cố, giữ vững nền độc lập, thống
nhất của Tổ quốc. Về phương diện này, Lê Lợi đã làm được hai việc có ý nghĩa lịch
sử. Thứ nhất, ông đã thành công trong cuộc đấu tranh ngoại giao, thiết lập quan hệ
bình thường giữa triều Lê và triều Minh. Thứ hai, Lê Lợi đã kiên quyết đập tan
những âm mưu và hành động bạo loạn muốn cát cứ của một số ngụy quân trước,
điển hình là vụ Đèo Cát Hãn ở Mường Lễ, Lai Châu. Trong bài thơ làm khắc vào
vách đá núi Pú Huổi Chò (bên sông Đà, thuộc Lai Châu) năm 1431 khi đánh Đèo
Cát Hãn, Lê Lợi đã nói rõ ý chí bảo vệ sự thống nhất giang sơn:
Lê Thái Tổ cũng là nhân vật trong truyền thuyết Hồ Gươm, một sự tích nổi
tiếng trong dân gian Việt Nam, kể lại quá trình ông có được thanh kiếm thần, tương
truyền được thần nhân ban xuống để giúp ông chống lại quân đội nhà Minh.

Vua ở ngôi gần 6 năm, mất ngày 22 tháng 08 năm Quý Sửu (1433), hưởng thọ 48
tuổi. Đền thờ tại khu di tích lịch sử Lam Kinh (Thọ Xuân- Thanh Hóa )

4
HS dự thi: Trịnh Huyền Trang-Lớp 8A-TrườngTHCS Định Hưng-Yên Định


Bài dự thi: “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
Câu 2: Học giả người Pháp L.Bơdatxie nhận xét: “Công trình này là một
trong những tác phẩm đẹp nhất của nền kiến trúc Việt Nam” (Phan Đại Doãn:
Những bàn tay tài hoa của cha ông - NXB Giáo dục 1988). Ngày 27 - 06 - 2011,
Tổ chức UNESCO đã chính thức công nhận công trình này là Di sản văn hóa
thế giới. Đó là công trình nào? Em hãy đóng vai một hướng dẫn viên du lịch để
giúp cộng đồng hiểu biết về công trình này.
Lời nhận xét của học giả người Pháp đã nhắc đến Thành Nhà Hồ.Thành nhà
Hồ hiện nay nằm trên hai xã Vĩnh Tiến và Vĩnh Long (Vĩnh Lộc, Thanh Hoá). Đây
là công trình kiến trúc bằng đá độc đáo có một không hai tại Việt Nam. Được Hồ
Quý Ly cho xây dựng vào năm 1397, thành này còn được gọi là Tây Đô (hay Tây
Giai) để phân biệt với Đông Đô (Thăng Long - Hà Nội). Xây xong thành, Hồ Quý
Ly đã dời đô từ Thăng Long về Tây Đô.
Theo sử liệu, vào năm 1397, trước nguy cơ đất nước bị giặc Minh từ phương
Bắc xâm lăng, Hồ Quý Ly đã chọn đất An Tôn (nay là Vĩnh Lộc, Thanh Hóa) để
xây dựng kinh thành nhằm chuẩn bị cho một cuộc kháng chiến lâu dài, đồng thời
cũng là cách để hướng lòng dân đoạn tuyệt với nhà Trần. Theo chính sử, thành được
xây dựng rất khẩn trương, chỉ trong 3 tháng. Thế đất được chọn nằm ở khu vực giữa
sông Mã và sông Bưởi, phía bắc có núi Thổ Tượng, phía tây có núi Ngưu Ngọa,
phía đông có núi Hắc Khuyển, phía nam là nơi hội tụ của sông Mã và sông Bưởi.
Thành nhà Hồ gồm 3 bộ phận, La thành, Hào thành và Hoàng thành. La thành là
vòng ngoài cùng, chu vi khoảng 4 km. Hào thành được đào bao quanh bốn phía
ngoài nội thành, cách chân thành theo các hướng khoảng 50 m. Công trình này có

nhiệm vụ bảo vệ nội thành.
Hoàng thành được xây dựng trên bình đồ có hình
gần vuông. Chiều Bắc - Nam dài 870,5 m, chiều Đông - Tây dài 883,5 m. Bốn cổng
thành theo chính hướng Nam - Bắc - Tây - Đông gọi là các cổng Tiền - Hậu - Tả Hữu. Mỗi cửa đều được mở ở chính giữa. Các cổng này được xây dựng theo kiến
trúc hình mái vòm. Những phiến đá trên vòm cửa đục đẽo hình múi bưởi, xếp khít
lên nhau. Cổng tiền (cổng phía Nam) là cổng chính, có ba cửa. Cửa giữa rộng 5,82
m, cao 5,75 m, hai cửa bên rộng 5,45 m, cao 5,35 m. Ba cổng còn lại chỉ có một
cửa. Tường thành cao trung bình 5-6 m, chỗ cao nhất là cổng tiền cao 10 m.
5
HS dự thi: Trịnh Huyền Trang-Lớp 8A-TrườngTHCS Định Hưng-Yên Định


Bài dự thi: “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
Nối liền với cửa Nam là con đường Hoa Nhai (đường Hoàng Gia) lát đá dài
khoảng 2,5 km hướng về đàn tế Nam Giao (nơi nhà vua tế lễ) được xây dựng vào
tháng 8/1402. Toàn bộ tường thành và bốn cổng chính được xây dựng bằng những
phiến đá vôi màu xanh, được đục đẽo tinh xảo, vuông vức, xếp chồng khít lên nhau.
Các phiến đá dài trung bình 1,5 m, có tấm dài tới 6 m, trọng lượng ước nặng 24 tấn.
Tổng khối lượng đá được sử dụng xây thành khoảng 20.000 m3 và gần 100.000 m3
đất được đào đắp công phu. Những phiến đá nặng hàng tấn chỉ xếp lên mà không
cần chất kết dính vẫn đảm bảo độ bền vững. Qua hơn 600 năm cùng những biến cố
thăng trầm của lịch sử và tác động của thời tiết, hệ thống tường thành còn khá
nguyên vẹn, dù thời gian xây dựng rất gấp gáp, chỉ trong khoảng 3 tháng. Theo sử
sách trong thành còn rất nhiều công trình được xây dựng, như điện Hoàng Nguyên,
cung Diên Thọ (chỗ ở của Hồ Quý Ly), Đông cung, tây Thái Miếu, đông Thái miếu,
núi Thọ Kỳ, Dục Tượng... rất nguy nga, chẳng khác gì kinh đô Thăng Long.
Tuy nhiên, trải qua hơn 600 năm tồn tại, hầu hết công trình kiến trúc bên trong
Hoàng thành đã bị phá hủy. Những dấu tích nền móng của cung điện xưa giờ vẫn
đang nằm ẩn mình phía dưới những ruộng lúa của người dân quanh vùng.
Thành Tây Đô thể hiện một trình độ rất cao về kĩ thuật xây vòm đá thời bấy

giờ. Những phiến đá nặng từ 10 đến 20 tấn được nâng lên cao, ghép với nhau một
cách tự nhiên, hoàn toàn không có bất cứ một chất kết dính nào. Trải qua hơn 600
năm, những bức tường thành vẫn đứng vững. Được xây dựng và gắn chặt với một
giai đoạn đầy biến động của xã hội Việt Nam, với những cải cách của vương triều
Hồ và tư tưởng chủ động bảo vệ nền độc lập dân tộc, Thành Nhà Hồ còn là dấu ấn
văn hóa nổi bật của một nền văn minh tồn tại tuy không dài, nhưng luôn được sử
sách đánh giá cao.…
Ngày 27/6, tại phiên họp lần thứ 35 của Ủy ban di sản thế giới thuộc Tổ chức
Văn hóa, Khoa học và Giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO) diễn ra tại thủ đô Paris
(Pháp), thành nhà Hồ đã được công nhận là di sản văn hóa thế giới.
6
HS dự thi: Trịnh Huyền Trang-Lớp 8A-TrườngTHCS Định Hưng-Yên Định


Bài dự thi: “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
Câu 3: Triệu Thị Trinh có một câu nói nổi tiếng: “Tôi muốn cưỡi cơn gió
mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá Kình ở Biển Đông, đánh đuổi quân Ngô,
giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp người
ta”. Bằng kiến thức lịch sử đã học, em hãy làm rõ truyền thống anh hùng bất
khuất chống giặc ngoại xâm của con người xứ Thanh.

Lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm là một bộ phận rất quan trọng trong lịch sử cấu
thành nước ta. Chống ngoại xâm để xây dựng một quốc gia độc lập, dân tộc độc lập.
Qua hàng trăm cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ và 20 cuộc kháng chiến lớn, ta thấy, lịch sử
đấu tranh chống ngoại xâm đã để lại một truyền thống quý báu anh hùng của dân
tộc. Nghiên cứu vấn đề này một cách toàn diện sẽ góp phần làm sáng tỏ nguồn gốc
sâu xa của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, sức mạnh Việt Nam, phát huy
truyền thống anh hùng và phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam trong thời đại
ngày nay. Truyền thống chống ngoại xâm là một vốn quý vô giá của dân tộc, là
nguồn động viên tinh thần lớn lao, có tác dụng duy trì tư tưởng chiến đấu và sẵn

sàng chiến đấu đối với nhân dân ta. Việc đánh giặc cứu nước là rất quan trọng
nhưng cũng rất bình thường đối với mọi người dân. Nhân dân ta nhận thức sâu sắc
rằng: nước mất thì nhà tan, do đó, muốn bảo vệ quyền lợi cá nhân thì không có cách
nào khác là phải đấu tranh bảo vệ quyền lợi của dân tộc. Đấu tranh vì quyền lợi cá
nhân nhưng không chỉ vì quyền lợi cá nhân mà còn vì nghĩa cả của dân tộc. Từ xưa,
truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm đã trở thành truyền thống tốt đẹp của
dân tộc Việt Nam nói chung và của tỉnh Thanh Hóa nói riêng. Tiêu biểu cho phong
trào đấu tranh chóng giặc ngoại xâm trong lịch sử Thanh Hóa là cuộc khởi nghĩa Bà
Triệu, là phong trào Cần Vương và 2 cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc: chống
pháp và chống Mĩ xâm lược.
1. Khởi nghĩa bà Triệu (248)
7
HS dự thi: Trịnh Huyền Trang-Lớp 8A-TrườngTHCS Định Hưng-Yên Định


Bài dự thi: “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
Triệu Thị Trinh sinh ra trong một gia đình yêu nước, có thế lực ở quận Cửu Chân.
Bà là người giỏi võ nghệ, giàu mưu trí và có chí lớn. Nhân dân còn truyền tụng các
câu nói đầy khí phách của bà: “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ,
chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ,
chứ không chịu khom lưng làm tỳ thiếp người!”
Năm 248, Bà Triệu phất cờ khởi nghĩa ở vùng núi Nưa (Triệu Sơn, Thanh Hóa).
Đông đảo nhân dân khắp hai quận Cửu Chân, Giao Chỉ (Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ)
nổi dậy hưởng ứng.
Bà Triệu đã chỉ huy nghĩa quân đánh thắng nhiều trận, quân Ngô tan rã.Bọn quan
lại thống trị từ Thứ sử Giao Châu trở xuống đến các huyện lệnh đều bị giết hoặc
chạy trốn. Cả Giao Châu chấn động.
Nhà Ngô phải cử danh tướng Lục Dận đem quân sang đàn áp cuộc khởi nghĩa.
Nghĩa quân đã chiến đấu anh dũng, kiên cường nhưng vì lực lượng quân sự còn yếu
nên đã thất bại. Bà Triệu Thị Trinh hy sinh trên núi Tùng (Hậu Lộc, Thanh Hóa).

Trên núi Tùng hiện có mộ Bà Triệu và dưới chân núi Tùng là Đền thờ chính của Bà
Triệu, cạnh quốc lộ số 1, thuộc Phú Điền, Hậu Lộc, Thanh Hóa. Hội đền hằng năm
vào ngày 21 tháng hai âm lịch. .Cuộc khởi nghĩa Bà Triệu là một cuộc khởi nghĩa
lớn, có thanh thế vang dội, là đỉnh cao của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc
thế kỷ II, III.
Cho đến nay, nhân dân cả nước còn lưu truyền hình ảnh Bà Triệu và hoạt động của
quân khởi nghĩa.
Khởi nghĩa Bà Triệu thất bại, nhưng hình ảnh người con gái kiên trinh bất khuất,
người nữ anh hùng dân tộc siêu việt quyết nối chí Bà Trưng "giành lại giang san,
cởi ách nô lệ" muôn thuở không mờ trong tâm trí phụ nữ và dân tộc Việt Nam.

8
HS dự thi: Trịnh Huyền Trang-Lớp 8A-TrườngTHCS Định Hưng-Yên Định


Bài dự thi: “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
2. Khởi nghĩa Ba Đình và Phong trào Cân Vương:
Vào những thập kỷ cuối của thế kỷ XIX thời kỳ thực dân Pháp xâm lược nước ta,
triều đình nhà Nguyễn đã phân hóa sâu sắc, những người chủ chiến đã nổi dậy ngay
tại kinh thành Huế. Cuộc nổi dậy không thành, Tôn Thất Thuyết cùng vua Hàm
Nghi rời kinh thành ra đi, kêu gọi nhân dân phò vua, cứu nước. Vua Hàm Nghi ban
chiếu Cần Vương. Hưởng ứng chiếu Cần Vương, phong trào Cần Vương đánh Pháp
do các văn thân, sỹ phu yêu nước lãnh đạo phát triển mạnh mẽ, được nhân dân trên
khắp cả nước hưởng ứng.
Trong cao trào yêu nước chống xâm lược Pháp của nhân dân ta cuối thế kỷ XIX,
nhân dân Thanh Hóa đã có sự đóng góp to lớn, tô thắm thêm truyền thống yêu
nước, chống giặc ngoại xâm anh dũng, quật cường của nhân dân ta. Những cuộc
nổi dậy chống Pháp hưởng ứng chiếu Cần Vương nhất tề đứng lên đánh đuổi giặc
Tây, thể hiện lòng yêu nước, khí thế đánh giặc sục sôi, bừng bừng nghĩa khí,
Cuộc khởi nghĩa Ba Đình năm 1886-1887 là đỉnh cao của phong trào Cần Vương

chống thực dân Pháp xâm lược ở Thanh Hóa.
Khởi nghĩa Ba Đình là sự liên kết, phối hợp của nhiều vùng, nhiều địa bàn dưới sự
lãnh đạo của các sĩ phu yêu nước. Gần với Ba Đình có Nguyễn Kiên đóng ở Bồ
Giông, Mậu Yên, Trường Phi Lai; Tống Duy Tân đóng ở Bồng Trung; Cao Điển
đóng ở Sơn Thôn; Bang Hiền và Nghĩa quân đóng ở núi Gây.. Từ Ba Đình nghĩa
quân tỏa đi các nơi, chặn đánh các đoàn xe vận tải của địch và tập kích các toán lính
hành quân.
Không chỉ có người Kinh đứng lên chống Pháp, đồng bào các dân tộc miền núi
cũng hăng hái hưởng ứng phong trào Cần Vương, theo Cầm Bá Thước, Hà Văn
Mao và đoàn quân nghĩa đánh Tây: .
Dưới sự chỉ huy của các lãnh tụ Ba Đình, nghĩa quân chiến đấu anh dũng, lập nhiều
chiến công: Thanh thế của phong trào Cần Vương chống Pháp dâng cao, khiến cho
giặc chịu thất bại nặng nề và hoang mang lo sợ. Để cứu nguy, giặc Pháp huy động
9
HS dự thi: Trịnh Huyền Trang-Lớp 8A-TrườngTHCS Định Hưng-Yên Định


Bài dự thi: “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
mọi binh lực hòng tiêu diệt căn cứ chiến đấu Ba Đình. Trước tình hình trên, để
tránh khỏi bị tiêu diệt hoàn toàn, dành sức cho cuộc chiến đấu lâu dài, Phạm Bành
và Đinh Công Tráng quyết định rút quân khỏi căn cứ Ba Đình
Đầu năm 1887, giặc Pháp đàn áp dữ dội phong trào Cần Vương. Căn cứ Ba Đình
và căn cứ Mã Cao nối tiếp nhau thất thủ... lãnh tụ và các nghĩa binh chiến đấu và
tuẫn tiết hy sinh. Cuộc khởi nghĩa Ba Đình năm 1886-1887 và phong trào Cần
Vương chống thực dân Pháp xâm lược cuối thế kỷ XIX ở Thanh Hóa đã tô đẹp
thêm truyền thống vẻ vang của dân tộc ta trong chiến tranh chống xâm lược, phản
ánh tinh thần yêu nước nồng nàn, sức mạnh đoàn kết hùng hậu của các tầng lớp
nhân dân, tinh thần chiến đấu kiên cường, bất khuất trong cuộc chiến tranh vô cùng
gian khổ, đầy hy sinh để bảo vệ độc lập dân tộc còn mãi với non sông , đất nước.
Khởi nghĩa Ba Đình và phong trào Cần Vương ở Thanh Hóa không chỉ để lại trang

sử vàng trong lịch sử mà còn để lại một di sản văn hóa có giá trị, trong đó vè về
khởi nghĩa Ba Đình và phong trào kháng Pháp là một minh chứng. Loại hình văn
hóa dân gian đó cần phải được tiếp tục sưu tầm, gìn giữ và phát huy nhằm giáo dục
truyền thống lịch sử, yêu nước và cách mạng, bồi đắp và phát huy tinh thần chiến
đấu vì độc lập, tự do cho các thế hệ người xứ Thanh hôm nay và mai sau, chung
sức xây dựng và bảo vệ đất nước, quê hương ngày càng tươi đẹp, mạnh giàu.
3. Thanh Hóa trong kháng chiến chống Pháp (1946- 1954)
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Thanh Hóa là tỉnh đất
rộng, người đông, cùng với 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh hợp thành hậu phương
Thanh – Nghệ - Tĩnh, trong đó Thanh Hóa là tỉnh địa đầu của miền Trung, là hậu
phương trực tiếp của chiến trường Liên khu III, Bắc Bộ và Tây Bắc.
Mùa hè năm 1953, cuộc kháng chiến của nhân dân ta bước sang năm thứ 8. Cục
diện chiến trường Việt Nam đã có những biến đổi quan trọng. Tại chiến trường Bắc
Bộ, Tây Bắc, quân và dân ta mở nhiều chiến dịch lớn. Mọi nhu cầu bảo đảm cho
cuộc kháng chiến đòi hỏi rất lớn ở hậu phương.
10
HS dự thi: Trịnh Huyền Trang-Lớp 8A-TrườngTHCS Định Hưng-Yên Định


Bài dự thi: “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
Những tháng cuối năm 1953, hậu phương Thanh Hóa vừa phải ra sức đẩy mạnh mọi
mặt công tác xây dựng và bảo vệ hậu phương, vừa tích cực động viên sức người,
sức của cho tiền tuyến đánh thắng. Chiến dịch nối tiếp chiến dịch, từ năm 19511953, quân và dân Thanh Hóa liên tiếp bổ sung lực lượng, phục vụ 5 chiến dịch lớn:
Trung Du, Quang Trung, Hòa Bình, Tây Bắc và Thượng Lào. Đặc biệt chiến dịch
Thượng Lào tháng 5-1953, Thanh Hóa bảo đảm tới 76% nhu cầu của cả chiến dịch.
Chiến thắng Điện Biên Phủ là nguồn cổ vũ, động viên quân và dân Thanh Hóa
chiến đấu bảo vệ địa phương, dồn sức chi viện cho chiến trường. Trong chiến dịch,
Thanh Hóa đã thể hiện rõ vai trò hậu phương chiến lược quan trọng của Điện Biên
Phủ. Lực lượng vũ trang Thanh Hóa đã bổ sung 1 tiểu đoàn, 2 đại đội, 2 trung đội
và hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ trực tiếp tham gia chiến đấu. Tinh thần xả thân chiến

đấu ngoan cường của cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Thanh Hóa trên mặt trận là
biểu tượng tốt đẹp rực sáng chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Kết thúc cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Thanh Hóa có 5 đồng chí được Đảng và Nhà
nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân đó là: Anh
hùng liệt sĩ Trần Đức, xã Hải Yến, huyện Tĩnh Gia; anh hùng liệt sĩ Lê Công Khai,
xã Hoằng Phú, huyện Hoằng Hóa; anh hùng liệt sĩ Trương Công Man, xã Cẩm
Phong, huyện Cẩm Thủy; anh hùng Lò Văn Bường, xã Xuân Lẹ, huyện Thường
Xuân; tiêu biểu là anh hùng liệt sĩ Tô Vĩnh Diện, Tiểu đội trưởng Đại đội 827, Tiểu
đoàn 394, Trung đoàn pháo cao xạ 367, quê xã Nông Trường, huyện Nông Cống đã
lấy thân mình cứu pháo không để rơi xuống vực thẳm. Âm vang Điện Biên Phủ đã
lan tỏa trên các mạch sống của nhân dân Thanh Hóa nói chung và lực lượng vũ
trang Thanh Hóa nói riêng. Chiến thắng Điện Biên Phủ tạo nên nguồn lực tiếp sức
cho lực lượng vũ trang Thanh Hóa cùng quân và dân cả nước tiếp tục chiến thắng
đế quốc Mỹ xâm lược, vững bước đi lên trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc ngày nay.

11
HS dự thi: Trịnh Huyền Trang-Lớp 8A-TrườngTHCS Định Hưng-Yên Định


Bài dự thi: “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
Quân và dân Thanh Hóa mãi mãi xứng đáng với lời biểu dương khen ngợi của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, khi Người về thăm năm 1957: “Bây giờ tiếng Việt Nam đến đâu,
tiếng Điện Biên Phủ đến đó. Tiếng Điện Biên Phủ đến đâu, đồng bào Thanh Hóa
cũng có một phần vinh dự đến đó”.
4. Thanh Hóa trong cuộc kháng chiến chống Mĩ xâm lược
Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cùng với sự lớn mạnh của lực
lượng vũ trang cả nước, lực lượng vũ trang Thanh Hóa ngày một trưởng thành.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, các lực lượng bộ đội địa phương, dân quân, tự
vệ, khẩn trương được thành lập để phối hợp chặt chẽ với bộ đội chủ lực; tích cực

làm nhiệm vụ chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến lớn.
Trong báo cáo Thủ tướng Chính phủ ngày 22-7-1969 của UBND tỉnh Thanh
Hóa: Trong 4 năm ngành giao thông vận tải tỉnh Thanh Hóa vận chuyển vào B phục
vụ chiến trường miền Nam 182.383 tấn hàng hóa, đi tuyến C giúp bạn 20.369 tấn
trong tổng số đã hoàn thành 1.373.300 tấn hàng hóa. Bộ Giao thông giao cho tỉnh
Thanh Hóa vận tải vào các tỉnh khu 4 và chiến trường B-C. Sự hy sinh lớn lao
và chiến công oanh liệt. Trong cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên miền
Bắc trong bốn năm 1965 - 1968 Thanh Hóa đã hứng chịu 13 vạn tấn bom đạn do
máy bay thả và 20.490 quả đại bác của tàu chiến Mỹ. Trong cuộc đọ sức này 7.752
người của Thanh Hóa đã hy sinh, 7.896 người bị thương. Trong số đó ngành giao
thông vận tải 1.296 người ngã xuống, 1.061 người bị thương. Nằm ở vị trí chiến
lược của hậu phương lớn miền Bắc và là cửa ngõ yết hầu vào chiến trường, đánh
Thanh Hóa là Mỹ muốn hủy diệt huyết mạch giao thông, chặn lại sức chi viện tiền
tuyến lớn miền Nam. Trên địa bàn tỉnh này có 89 cầu lớn nhỏ, có tuyến quốc lộ 1A,
tuyến đường sắt Bắc - Nam và hệ thống sông, biển đường thủy lợi hại. Chúng đã
đánh sập 37 cầu, phá hủy 42.000 đường nhựa trục lớn, chặt đứt nhiều km đường sắt,
đánh nát các bến phà. Phương tiện vận tải trong đó có 4.026 thuyền ván, thuyền nan
12
HS dự thi: Trịnh Huyền Trang-Lớp 8A-TrườngTHCS Định Hưng-Yên Định


Bài dự thi: “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
bị đánh chìm trên sông biển. 277ô tô vận tải bị đánh cháy cùng với 6.647 tấn hàng
hóa. Nhiều kho tàng, bến bãi bị san bằng. Trong các mục tiêu bị đánh phá ác liệt thì
ngành giao thông vận tải chiếm tỷ trọng 50,6%. Hơn 1.500 ngày đêm chiến đấu
dũng cảm quân và dân tỉnh Thanh Hóa chiến thắng oanh liệt bắn rơi 276 máy bay
giặc Mỹ, bắt sống nhiều giặc lái bảo vệ huyết mạch giao thông miền Bắc hậu
phương. Riêng đợt chiến dịch vận tải chiến trường B. Thanh Hóa đã chuyển vượt kế
hoạch Bộ Giao thông giao. Tiếp đó, từ 1969 cho đến ngày toàn thắng Thanh Hóa đã
chuyển hàng triệu tấn hàng vào chiến trường miền Nam và các tỉnh khu 4 cũ.

Truyền thống yêu nước của nhân dân Thanh Hóa là từ cội nguồn dân tộc.
Qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ do Đảng lãnh đạo
càng chứng minh trí thông minh sáng tạo và dũng cảm của quân dân Thanh Hóa. Từ
chiếc xe đạp thồ hàng, cho đến cây mía, cây tre, luồng, sông nước, đất đai được áp
dụng lợi hại để đọ sức với vũ khí tối tân hiện đại của đế quốc giàu có, góp phần vào
tiềm năng quốc phòng cho đất nước anh hung. Trong cuộc chiến tranh phá hoại
miền Bắc nhiều tập thể, cá nhân đã được tuyên dương Anh hùng LLVTND, đó là
nhân dân các huyện: Tĩnh Gia, Như Xuân, thị xã Thanh Hóa, huyện Hà Trung, Đội
cầu phà Ghép. Anh hùng liệt sĩ Mai Xuân Điểm, Anh hùng Vũ Hùng Út. và rất
nhiều các địa phương, các cá nhân anh hùng khác đã viết nên những trang sử chói
lọi của quê hương Thanh Hóa anh hùng.

13
HS dự thi: Trịnh Huyền Trang-Lớp 8A-TrườngTHCS Định Hưng-Yên Định


Bài dự thi: “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
Câu 4: Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa được thành lập như thế nào? Hãy nêu
những hiểu biết của em về một người Cộng sản Thanh Hóa mà em ấn tượng
nhất?
1.Sự thành lập Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa:
Ngày 29/7/1930, Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa được thành lập tại Làng Yên Trường, xã
Thọ Lập, huyện Thọ Xuân. Sự ra đời của Đảng bộ tỉnh là một bước ngoặt lịch sử
quan trọng, là nhân tố quyết định thắng lợi của phong trào đấu tranh cách mạng
đánh đổ chế độ thực dân và phong kiến, giành chính quyền ở Thanh Hóa năm 1945,
đồng thời giành nhiều thành tựu to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc
cũng như trong công cuộc đổi mới, phát triển và hội nhập hiện nay.
Năm 1858, Thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng, chính thức xâm lược
Việt Nam. Cùng với nhân dân cả nước, nhân dân Thanh Hóa, liên tục vùng lên khởi
nghĩa đánh đuổi giặc Pháp xâm lược. Các cuộc đấu tranh yêu nước do các sỹ phu

phong kiến lãnh đạo, tiêu biểu là phong trào Cần Vương, phong trào Đông Du,
Đông Kinh Nghĩa Thục diễn ra rộng khắp, thế nhưng đều lần lượt bị địch khủng bố
đẫm máu và thất bại, do thiếu một đường lối lãnh đạo đúng đắn của một chính
Đảng. Trong bối cảnh đó, ngày 03 tháng 2 năm 1930, tại Cửu Long (Hương
Cảng), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản,
thành lập một Đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng
sản Việt Nam được thành lập, tạo ra bước ngoặt quan trọng đối với phong trào cách
mạng trong cả nước và các địa phương. Cũng từ đây phong trào đấu tranh cách
mạng ở Thanh Hóa phát triển mạnh mẽ rộng khắp. Các chi bộ Cộng Sản: Hàm Hạ Đông Sơn ; Phúc Lộc - Thiệu Hóa, Yên Trường, Thọ Xuân lần lượt ra đời. Trước
tình hình phong trào đấu tranh cách mạng ở Thanh Hóa ngày càng phát triển mạnh
mẽ và đang rất cần sự lãnh đạo của Đảng, xuất phát từ yêu cầu cấp bách, dưới sự
chỉ đạo của Xứ ủy Bắc Kỳ, ngày 29/7/1930, Hội nghị thành lập Đảng bộ tỉnh Thanh
Hóa đã được tổ chức tại Làng Yên Trường, Xã Thọ Lập, huyện Thọ Xuân trên cơ
14
HS dự thi: Trịnh Huyền Trang-Lớp 8A-TrườngTHCS Định Hưng-Yên Định


Bài dự thi: “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
sở hợp nhất 3 chi bộ Cộng sản gồm Chi bộ Hàm Hạ, Chi bộ Thiệu Hóa và Chi bộ
Thọ Xuân. Đ/c Lê Thế Long được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh ủy và là Bí thư Tỉnh ủy
đầu tiên của Đảng bộ Thanh Hóa.
Ngôi nhà lịch sử chính là của gia đình đ/c Lê Văn Sỹ - Bí thư Chi bộ Yên
Trường, huyện Thọ Xuân lúc bấy giờ, được chọn làm địa điểm để tổ chức hội nghị
thành lập Đảng bộ tỉnh vào ngày 29 tháng 7 năm 1930. Điều đặc biệt là cũng tại
ngôi nhà này trước đó một tuần đã diễn ra sự kiện thành lập chi bộ cộng sản Yên
Trường, tiền thân của Đảng bộ huyện Thọ Xuân. Có thể nói sự ra đời của Đảng bộ
tỉnh Thanh Hóa là bước ngoặt quan trọng đối với Đảng bộ, nhân dân trong phong
trào đấu tranh cách mạng giành chính quyền ở tỉnh ta. Chấm dứt giai đoạn khủng
hoảng kéo dài của phong trào cách mạng do thiếu sự lãnh đạo của một chính Đảng.
Ngay sau khi thành lập, Đảng bộ tỉnh đã đề ra một số nhiệm vụ quan trọng trước

mắt đó là: Xây dựng Đảng, xây dựng tổ chức Nông hội đỏ, Công hội đỏ, cơ quan ấn
loát, phát hành tờ báo “ Tiến lên” ......
Trong quá trình hoạt động, mặc dù bị thực dân Pháp khủng bố dã man, có những
thời điểm các Chi bộ Cộng sản và Đảng bộ tỉnh gần như bị cô lập thậm chí là tan rã,
nhưng trước yêu cầu bức thiết của lịch sử, bất chấp sự gian khổ, tù đày và hy sinh,
các Chi bộ Đảng và Đảng bộ tỉnh nhanh chóng được khôi phục trở lại và tiếp tục
lãnh đạo phong trào đấu tranh cách mạng và đánh đuổi thực Pháp, lật đổ chế độ
phong kiến. Từ cuối năm 1935 trở đi, phong trào cách mạng đã phát triển rộng khắp
ở nhiều phủ, huyện trong tỉnh, nhằm chuẩn bị cùng với cả nước tiến tới khởi nghĩa
giành chính quyền. Mở đầu là cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ngày 24/7/1945 ở
huyện Hoằng Hóa.
Đêm ngày 18, rạng sáng ngày 19/8/1945, sau khi Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh phát lệnh
tổng khởi nghĩa, nhân dân và tự vệ các huyện nhất tề vùng lên giành chính quyền.
Cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Thanh Hóa giành thắng lợi nhanh chóng.
15
HS dự thi: Trịnh Huyền Trang-Lớp 8A-TrườngTHCS Định Hưng-Yên Định


Bài dự thi: “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
Ngày 23/8/1945, từ đình làng Ngô Xá Hạ ở căn cứ Thiệu Hóa, lực lượng cứu quốc
gồm có hàng nghìn tự vệ của các huyện: Thiệu Hóa, Đông Sơn, Yên Định, Thọ
Xuân.....đã tiến về thị xã Thanh Hóa ra mắt quốc dân đồng bào. Đ/c Lê Tất Đắc,
Chủ tịch Uỷ ban Hành chính Cách mạng lâm thời tuyên bố thành lập chính quyền
cách mạng và kêu gọi toàn dân đoàn kết xây dựng bảo bệ chế độ mới.
2. Lê Hữu Lập- người cộng sản đầu tiên của Thanh Hóa
Đồng chí Lê Hữu Lập sinh năm 1897, trong một gia đình ở thôn Hữu Nghĩa,
tổng Nam Trường (nay là xã Xuân Lộc, huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa). Ngay từ nhỏ,
đ/c đã sẵn có lòng yêu nước thương dân, cảm nhận được nỗi khổ của những người
dân mất nước và sự bất công do thực dân Pháp và bọn phong kiến gây ra. Năm
1918, sau khi tốt nghiệp trường Pháp Việt, đ/c tham gia hoạt động cách mạng, sang

Trung Quốc tham gia vào tổ chức Tâm Tâm Xã – một tổ chức cách mạng của người
Việt Nam yêu nước ở Trung Quốc. Năm 28 tuổi, đ/c được gặp đ/c Nguyễn Ái Quốc
và được Người giác ngộ cách mạng rồi được kết nạp vào tổ chức Việt Nam Thanh
niên CM đồng chí hội (TNCMĐCH) – tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt
Nam do đ/c Nguyễn Ái Quốc sáng lập. Sau đó, đ/c được cử về nước cùng với các
đ/c khác để tuyên truyền giác ngộ cách mạng cho những thanh niên yêu nước ở
Thanh Hóa, Thái Bình, Nam Định, Nghệ An, Quảng Trị… đưa sang Quảng Châu
huấn luyện.
Năm 31 tuổi, đ/c được bầu vào BCH kỳ bộ thanh niên Trung Kỳ, được cử sang Thái
Lan hoạt động và bị tòa án Nam Triều Thanh Hóa kết án tử hình vắng mặt.
Tháng 3/1930, khi tổ chức VN Thanh niên CM đồng chí hội chuyển thành tổ chức
cộng sản, do công lao đóng góp tích cực, đ/c Lê Hữu Lập trở thành đảng viên cộng
sản. Đ/c thành lập Chi bộ Cộng sản đầu tiên của huyện Hoằng Hóa tại thôn Cự Đà
(nay là xã Hoằng Minh, huyện Hoằng Hóa).
Đầu năm 1934 đ/c đã tham gia được Ban Viện trợ cách mạng Đông Dương cử về
hoạt động ở tỉnh Nghệ An và được tổ chức bố trí hoạt động tại một cơ sở ở huyện
16
HS dự thi: Trịnh Huyền Trang-Lớp 8A-TrườngTHCS Định Hưng-Yên Định


Bài dự thi: “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
Nghi Lộc. Tại đây, đ/c lâm bệnh nặng và được đưa về điều trị ở nhà thương Vinh,
do bệnh quá nặng, lại bị sự kiểm soát gắt gao của thực dân Pháp, vào một ngày cuối
tháng 6/1934, đ/c đã trút hơi thở cuối cùng, thọ 37 tuổi.
Đ/c Lê Hữu Lập là người thanh niên cộng sản lứa đầu tiên của đất Thanh, người
chiến sĩ cộng sản kiên cường, người học trò nhiệt thành của Chủ tịch Hồ Chí Minh
kính yêu, đ/c đã chiến đấu không mệt mỏi và hiến dâng cả cuộc đời mình cho sự
nghiệp của dân, của nước, góp phần viết nên những trang sử hào hùng trong lịch sử
đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân Thanh Hóa.


Câu 5: Ngày 20/2/1947, Bác Hồ vào thăm Thanh Hóa đã căn dặn:
“Thanh Hóa phải trở nên một tỉnh kiểu mẫu... phải làm sao cho mọi mặt chính
trị, kinh tế, quân sự phải là tỉnh kiểu mẫu, làm hậu phương vững chắc cho cuộc
kháng chiến”. Thực hiện lời căn dặn của Bác, sau 30 năm đổi mới (1986-2016)
Đảng bộ, quân và dân Thanh Hóa đã phấn đấu đạt được nhiều thành tựu
quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Em hãy nêu một thành tựu nổi
bật nhất góp phần đưa Thanh Hóa từng bước trở thành tỉnh kiểu mẫu. Liên hệ
trách nhiệm bản thân.
70 năm kể từ ngày lần đầu tiên Bác Hồ về thăm, khắc sâu những lời khen ngợi, dặn
dò, phê bình cũng như sự chỉ bảo ân cần của Bác qua mỗi lần Người về thăm; học
và làm theo tấm gương đạo đức của Người, Thanh Hoá đã tiến những bước dài chưa
từng thấy trong bối cảnh khó khăn chung của đất nước, đạt được nhiều thành tựu to
lớn trên tất cả các lĩnh vực...
Với tiềm năng, lợi thế vốn có của vùng đất “địa linh nhân kiệt”, Thanh Hóa
đã đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn diện từ 7,8% (năm 2005) tăng lên
17
HS dự thi: Trịnh Huyền Trang-Lớp 8A-TrườngTHCS Định Hưng-Yên Định


Bài dự thi: “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
13,5% (năm 2011), trong đó thu nhập bình quân đầu người đến năm 2011 đạt 4,9
triệu đồng/người/năm. Số hộ đói nghèo từ 46,77% (năm 2001) giảm xuống còn
30% (năm 2011). Các ngành kinh tế lâm, nông nghiệp, xây dựng và dịch vụ là
những ngành đang được tỉnh đầu tư cả chiều rộng và chiều sâu. Nhiều khu công
nghiệp mới được quy hoạch với quy mô lớn để mở rộng các ngành nghề công
nghiệp: Chế biến sản phẩm từ rừng, sản xuất đá gra-nit, thủy điện... Nhiều năm nay,
du lịch vẫn là một trong những ngành đem lại lợi nhuận phát triển kinh tế chủ yếu,
nâng cao đời sống của người dân Thanh Hoá. Trong tương lai, ngoài tiềm năng khai
thác du lịch biển, Thanh Hóa đã và đang triển khai nhiều dự án khai thác và xây
dựng nhiều khu du lịch sinh thái, du lịch gắn liền với những địa danh, tên tuổi của

các vị anh hùng dân tộc sinh ra trên mảnh đất này.
Cùng với phát triển kinh tế, công tác giáo dục, y tế cũng được tỉnh quan tâm và
phát triển đồng bộ, trong những năm qua, Đảng bộ và chính quyền tỉnh, đội ngũ làm
công tác giáo dục Thanh Hóa đã kiên trì, bền bỉ thực thi xóa mù chữ, dạy bình dân
học vụ, bổ túc văn hóa cho đông đảo các tầng lớp nhân dân các dân tộc trong tỉnh.
Vì vậy, trình độ dân trí, trình độ văn hóa của người dân và cán bộ địa phương được
nâng lên rõ rệt. Từ năm 2004, 11/11 xã, thị trấn có số trường được công nhận đạt
chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập trung học cơ sở. Cả tỉnh
đã xây dựng được 15 trường đạt chuẩn Quốc gia. Hằng năm, khánh thành trên dưới
18 làng, bản, cơ quan văn hoá, trong đó có trên 60% số hộ đạt gia đình văn hóa...
Hiện có gần 30 bệnh viện đa khoa và 37 trung tâm y tế huyện, thị xã, thành phố, đáp
ứng được đầy đủ nhu cầu của người dân tỉnh Thanh với thái độ phục vụ tận tình,
chu đáo.
Thanh Hóa đã và đang dần trở thành một trong những trung tâm kinh tế, văn
hóa - xã hội, giáo dục, quốc phòng mạnh của cả nước. Mỗi bước đi lên của tỉnh,
Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thanh Hoá luôn khắc sâu lời dạy của Bác qua
mỗi lần Người về thăm. Đó là niềm tin, động lực tinh thần vô giá để nhân dân
Thanh Hoá vượt qua mọi khó khăn, thử thách, từng bước xây dựng tỉnh Thanh ngày
18
HS dự thi: Trịnh Huyền Trang-Lớp 8A-TrườngTHCS Định Hưng-Yên Định


Bài dự thi: “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
càng vững mạnh, góp phần vào sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và hội
nhập quốc tế, đưa tỉnh trở thành tỉnh “kiểu mẫu” như sinh thời Bác Hồ hằng mong.
Thực hiện lời dạy của Bác Hồ “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác
cháu ta phải cùng nhau giữ nước”, ý thức được trách nhiệm của một học sinh trước
quê hươcg, đát nước, tự hào trước những thành tựu lớn lao mà Đảng bộ và nhân dân
Thanh Hóa đã đạt được. Là một học sinh- một công dân tương lai của đất nước, em
xin nguyện:

-Ra sức học tập, nghiên cứu để nhận thức rõ con đường đi lên CNXH ở nước ta,
kiên định lí tưởng “độc lập dân tộc và CNXH”. Xây dựng ý chí tự lực, tự cường,
không chịu đói nghèo lạc hậu.
- Thường xuyên học tập để không ngừng nâng cao trình độ học vấn, nhanh chóng
tiếp cận và làm chủ được khoa học và công nghệ mới.
- Nâng cao ý thức cảnh giác, kiên quyết đập tan âm mưu chống phá của các thế lực
thù địch, bảo vệ Đảng, bảo vệ đất nước, phòng chống các tệ nạn xã hội, góp phần
tích cực trong giữ gìn trật tự an toàn giao thông và an ninh xã hội, quốc gia. - Tiếp
thu và phát huy truyền thống cách mạng của Đảng, của dân tộc, xây dựng lòng yêu
nước nồng nàn, ý thức trách nhiệm công dân, phát huy tinh thần sáng tạo, vượt khó
khăn, ý chí tự lực, tự cường dân tộc, phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng , văn minh.
-Giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa Việt nam, tiếp thu tinh hoa-văn hóa nhân loại.
- Phát huy tinh thần sẵn sàng, thực hiện tốt 5 điều Bác Hồ dạy:

19
HS dự thi: Trịnh Huyền Trang-Lớp 8A-TrườngTHCS Định Hưng-Yên Định


Bài dự thi: “Em yêu lịch sử xứ Thanh”

Chúng em chăm chỉ học tập “vì ngày mai lập nghiệp”

20
HS dự thi: Trịnh Huyền Trang-Lớp 8A-TrườngTHCS Định Hưng-Yên Định


Bài dự thi: “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
Tự hào Việt Nam


KẾT LUẬN:
Cuộc thi “Em yêu lịch sử xú Thanh ” qảu thật là một sân chơi bổ ích đối với
em. Cuộc thi đã bồi đắp cho em niềm tự hào về truyền thống lịch sử hào hùng của
quê hương Thanh Hóa anh hùng. . Đó là mảnh đất thiêng liêng, anh hùng, quê
hương của vị anh hùng dân tộc Lê Lợi, người đã cùng nghĩa quân Lam Sơn làm nên
chiến thắng vẻ vang của dân tộc trước quân Minh xâm lược. Đất nước bị xâm lăng,
toàn thể dân tộc Việt Nam, hàng triệu trái tim như một, cháy lên tình yêu mãnh liệt
dành cho tổ quốc và lòng căm thù giặc sâu sắc. Ở đó cũng có triệu triệu trái tim của
những người con mang tên Thanh Hóa. Ở đó còn có thành nhà Hồ (hay còn được
gọi là thành An Tôn, Tây Giai, Tây Đô hay Tây Kinh), đã được UNESCO công
nhận là di sản văn hóa thế giới, là minh chứng của một triều đại lịch sử của đất
nước trên mảnh đất xứ Thanh, đã trở thành niềm tự hào của mỗi người dân Việt
Nam với bạn bè quốc tế. Có những con người kiên trung anh dũng như đồng chí Lê
Hữu Lập… Biết được những thành tựu to lớn mà toàn Đảng, toàn dân và toàn quân
ta đã nổ lực không ngừng để xây dựng quê hương Thanh Hóa ngày càng giàu mạnh,
xứng đáng với niềm tin của Bác Hồ kính yêu: “Thanh Hóa phải trở nên một tỉnh
kiểu mẫu... phải làm sao cho mọi mặt chính trị, kinh tế, quân sự phải là tỉnh kiểu
mẫu, làm hậu phương vững chắc cho cuộc kháng chiến”.
Đó là tất cả những gì mà em nhận thức được sau khi tham dự cuộc thi “Em
yêu lịch sử xứ Thanh”. Trong quá trình làm bài dự thi em đã cố gắng tìm hiểu, học
hỏi rất nhiều. Tuy nhiên, do còn nhiều hạn chế, bài thi chắc chắn còn nhiều khiếm
khuyết. Rất mong được BTC và bạn đọc góp ý.
21
HS dự thi: Trịnh Huyền Trang-Lớp 8A-TrườngTHCS Định Hưng-Yên Định


Bài dự thi: “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
Người dự thi:

Trịnh Huyền Trang

MỤC LỤC
TT

Nộidung

Trang

1

Lời nói đầu

1

2

Nội dung

2

3

Câu hỏi

2

4

Trả lời

3


5

Câu 1

3

6

Câu 2

5

7

Câu 3

7

8

Câu 4

13

9

Câu 5

16


11

Két luận

19

12

Mục lục

20

22
HS dự thi: Trịnh Huyền Trang-Lớp 8A-TrườngTHCS Định Hưng-Yên Định



×