Tải bản đầy đủ (.pdf) (42 trang)

Rèn luyện kỹ năng viết văn có tính hình tượng, tính biểu cảm qua một số biện pháp tu từ tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (649.13 KB, 42 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC

NGUYỄN THỊ VÂN

RÈN LUYỆN KĨ NĂNG VIẾT VĂN CÓ
TÍNH HÌNH TƯỢNG, TÍNH BIỂU CẢM
QUA MỘT SỐ BIỆN PHÁP TU TỪ
TIẾNG VIỆT
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phương pháp dạy học Tiếng Việt

Người hướng dẫn khoa học:
Th.S LÊ BÁ MIÊN

HÀ NỘI, 2016


LỜI CẢM ƠN!
Bằng những kiến thức được thầy cô trong nhà trường trang bị trong
suốt thời gian học, với sự nỗ lực của bản thân cùng với sự hướng dẫn chỉ bảo
tận tình của các thầy cô giáo khoa Giáo dục tiểu học chúng tôi đã hoàn thành
luận văn tốt nghiệp này.Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành và sâu sắc tới
các thầy cô, đặc biệt là thầy giáo Lê Bá Miên đã hết lòng giúp đỡ tôi hoàn
thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Xuân Hòa, 02 tháng 05 năm 2016
Sinh viên

Nguyễn Thị Vân



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp này là kết quả riêng của bản
thân, không trùng với bất cứ một kết quả nào khác.
Xuân Hòa, 02 tháng 05 năm 2016
Sinh viên
Nguyễn Thị Vân


KÍ HIỆU VIẾT TẮT

- Sách giáo khoa

: SGK

- Học sinh

: HS

- Nhà xuất bản

: Nxb

- Tiếng việt

: TV


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài .......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề .............................................................................................. 3
3. Mục đích ....................................................................................................... 3
4. Phương pháp nghiên cứu: .......................................................................... 3
4. 1. Phương pháp phân tích ngôn ngữ học .................................................. 3
4. 2. Phương pháp khảo sát thực tế và thống kê số liệu............................... 3
5. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................. 4
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 4
7. Kế hoạch nghiên cứu: ................................................................................. 4
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN.............................. 5
1. Cơ sở lí luận ................................................................................................. 5
1.1. Khái niệm kĩ năng làm văn ..................................................................... 5
1.2. Khái niệm tính hình tượng ...................................................................... 5
1.3. Khái niệm tính biểu cảm.......................................................................... 9
1.4 Các biện pháp nghệ thuật ....................................................................... 11
1.4.1. Biện pháp so sánh ................................................................................ 11
1.4.2. Biện pháp nhân hoá ............................................................................ 13
1.4.3. Biện pháp điệp ngữ ............................................................................. 14
1.4.4. Biện pháp đảo ngữ .............................................................................. 18
2. Cơ sở thực tiễn: ......................................................................................... 19
2.1. Đối với giáo viên: .................................................................................... 19
2.2. Đối với học sinh ...................................................................................... 19
Chương 2: RÈN LUYỆN KĨ NĂNG VIẾT VĂN HỌC CÓ TÍNH .......... 20


HÌNH TƯỢNG, TÍNH BIỂU CẢM CHO HỌC SINH TIỂU HỌC ........ 20
2.1. Biện pháp tu từ so sánh ......................................................................... 20
2.2. Biện pháp nhân hóa ............................................................................... 25
2.3. Biện pháp điệp ngữ ................................................................................ 29

2.4. Biện pháp đảo ngữ ................................................................................. 32
PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................ 35
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 36


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Bước vào thế kỷ XXI - thế kỷ mở đầu thiên nhiên kỷ mới, trên thế giới
có biết bao sự thay đổi lớn lao và mạnh mẽ. Những công trình khoa học, mạng
lưới công nghiệp và nền giáo dục cũng từng bước được phát triển mang lại
nhiều lợi ích phục vụ cho công cuộc phát triển đất nước. Với Việt Nam, bước
vào thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa là cơ hội cũng như chứa nhiều thử
thách đối với đất nước và con người thời đại mới. Đây là một quá trình đầy
gian khổ kéo dài nhiều năm dẫn đến những thay đổi quan trọng trong cơ cấu
kinh tế, trình độ phát triển sản xuất, khoa học kỹ thuật… Những thay đổi đó đã
tác động vào giáo dục, đòi hỏi phải có những đổi mới tư duy giáo dục, phải
thực hiện cải cách giáo dục, giáo dục phải đi trước một bước, “đi tắt đón đầu”
nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội, nhu cầu đào tạo ra những con
người có trình độ, năng động sáng tạo trong thời đại đổi mới.
Nước ta cũng đã tiếp tục đổi mới giáo dục và đổi mới giáo dục theo
tinh thần của đại hội VI, Nghị quyết Trung ương V (khóa 7), Nghị quyết Hội
nghị Trung ương II (khóa 8), cũng như Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 9
theo phương châm “giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Giáo dục là nhân tố
quan trọng nhất, là động lực, mục tiêu cho sự phát triển bền vững của xã hội.
Theo điều 28, Luật giáo dục 2005: “Phương pháp giáo dục phải phát huy
tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo cho học sinh, phù hợp với đặc điểm của
từng lớp, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo
nhóm, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình
cảm đem lại niềm vui, hứng thú cho học sinh”. Do đó, đổi mới giáo dục là vấn
đề có tính cấp bách và cần thiết trong sự nghiệp giảng dạy và học tập nhằm nâng

cao trình độ dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.

1


Trong hệ thống giáo dục quốc dân, bậc tiểu học đóng vai trò là tiền đề,
nền tảng. Vì vậy, phải chú trọng chăm lo hình thành cho các em những tri
thức ban đầu đúng đắn, vững chắc để làm cơ sở cho những bậc học cao hơn,
góp phần phát triển đạo đức, trí tuệ, hình thành nhân cách con người mới.
Trong chương trình tiểu học, môn Tiếng Việt là một trong hai môn
chính có vai trò rất quan trọng. Ngoài cung cấp các kiến thức cơ bản về tiếng
mẹ đẻ nhằm trang bị cho học sinh một hệ thống kĩ năng hoạt động giao tiếp
bằng tiếng Việt, đồng thời môn học này còn bồi dưỡng năng lực tư duy cũng
như lòng yêu tiếng Việt. Nhiều năm qua, việc bồi dưỡng kỹ năng làm bài Tập
làm văn cho học sinh Tiểu học trong các nhà trường đang là mối quan tâm
của nhiều giáo viên. Bởi phân môn Tập làm văn là phân môn thực hành tổng
hợp, được vận dụng các tri thức kỹ năng của nhiều phân môn khác. Phân môn
tập làm văn có vị trí hết sức quan trọng trong chương trình Tiểu học. Thông
qua phân môn Tập làm văn nhằm rèn luyện cho học sinh accs kỹ năng: nghe,
nói, đọc, viết để phục vụ cho việc học tập và giao tiếp. Cũng từ đó có thể trau
dồi thái độ ứng xử có văn hóa tinh thần trách nhiệm trong công việc bồi
dưỡng tình cảm lành mạnh, tình yêu tiếng Việt, tình yêu quê hương đất nước,
góp phần đặc biệt quan trọng trong việc và nâng cao các kỹ năng sử dụng
tiếng Việt cho học sinh Tiểu học.
Đổi mới phương pháp dạy học là việc làm thường xuyên của nhà
trường, của mỗi giáo viên. Trong môn Tiếng Việt mà nhất là phân môn Tập
làm văn được nhiều giáo viên cho rằng rất khó dạy. Đại đa số các em viết văn
còn khô khan, nhất là văn miêu tả việc sử dụng các từ ngữ còn vụng về, chưa
biết sử dụng các biện pháp tu từ để gợi tả nên câu văn chưa có “hồn” tức là
chất lượng học sinh giỏi về môn Tiếng Việt còn rất hạn chế, đặc biệt là phân

môn Tập làm văn, các em chưa được hướng dẫn quan sát cụ thể, tỉ mỉ nên các
em chỉ tưởng tượng để viết bài.

2


Chính vì phân môn Tập làm văn có vai trò quan trọng như vậy mà tôi
muốn đi sâu tìm hiểu một khía cạnh nhỏ nhằm bồi dưỡng kỹ năng cho học
sinh về phân môn Tập làm văn đó là việc giúp học sinh sử dụng các biện pháp
tu từ trong viết văn.
2. Lịch sử vấn đề
Qua nghiên cứu tài liệu, chúng tôi thấy rằng đã có rất nhiều tác giả nghiên
cứu về các biện pháp nâng cao chất lượng làm văn của học sinh nhưng chưa có
tác giả nào đi sâu vào nghiên cứu về việc rèn luyện kĩ năng viết văn thông qua
các biện pháp tu từ tiếng Việt. Vì vậy, đề tài giúp các em biết các dùng một số
biện pháp tu từ…. để viết văn chân thực hơn, giàu cảm xúc và hay hơn.
3. Mục đích
Đề tài này chúng tôi nhằm 2 mục đích:
Thứ nhất thông qua đề tài giúp học sinh phát triển khả năng cảm thụ
văn học, có cảm xúc chân thật, có tình yêu đối với thế giới xung quanh.
Thứ hai giúp học sinh biết sử dụng các biện pháp tu từ trong khi viết
văn bản, từ đó cung cấp cho giáo viên những phương pháp, cơ sở để giảng
dạy dạng bài tập này nhằm nâng cao hiệu quả chất lượng dạy phân môn Tập
làm văn ở Tiểu học.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Để giải quyết tốt mục đích cũng như những nhiệm vụ của đề tài, chúng
tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
4. 1. Phương pháp phân tích ngôn ngữ học
Phương pháp này được sử dụng để xem xét và phân tích cách cảm thụ
văn học và cơ chế của các biện pháp tu từ.

4. 2. Phương pháp khảo sát thực tế và thống kê số liệu
Chúng tôi sử dụng phương pháp này để khảo sát và thống kê bài làm
của học sinh. Từ đó để tìm hiểu xem khả năng cảm thụ và nhận biết các

3


tư liệu khảo sát qua bài làm của học sinh, tìm ra những lỗi viết văn. Cụ thể
các bước tiến hành như sau:
Bước 1: Đọc tài liệu lí luận liên quan đến đề tài
Bước 2: Tiến hành thống kê, thu thập tư liệu nghiên cứu.
Bước 3: Vận dụng lí luận để phân tích, xử lí các tư liệu thống kê.
Bước 4: Viết khoá luận.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này, chúng tôi xác định sẽ thực hiện các nhiệm vụ
nghiên cứu sau:
Hệ thống hóa những kiến thức có liên quan đến việc xử lí đề tài.
Sử dụng một số phương pháp đã xác định để đưa ra hệ thống bài tập
rèn luyện kĩ năng viết văn, làm văn có tính hình tượng, tính biểu cảm.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Do thời gian có hạn, cho nên khóa luận của chúng tôi chỉ tập trung
nghiên cứu một số biện pháp tu từ trong tiểu học.
7. Kế hoạch nghiên cứu:
Tháng 10/2015 đến tháng 11/2015: Nhận đề tài và hoàn thành đề cương
Tháng 12/2015 đến tháng 01/2016: Tìm hiểu cơ sở lí luận
Tháng 01/2016 đến tháng 03/2016: Thu thập số liệu và tài liệu
Tháng 03/2016 đến tháng 05/2016: Xử lí số liệu và tài liệu

4



Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lí luận
1.1. Khái niệm kĩ năng làm văn
Kỹ năng là một khái niệm phức tạp, xung quanh khái niệm này có
nhiều định nghĩa khác nhau. Tác giả Nguyễn Sinh Huy cho rằng: “Kỹ năng là
khả năng của con người thực hiện có kết quả một hành động nào đó bằng cách
lựa chọn, vận dụng tri thức, những kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo phù hợp với
mục tiêu, điều kiện thưc tế.” (Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm NXB sư phạm) . Kỹ năng làm văn là kỹ năng thông qua hệ thống kiến thức đã
có, HS cảm nhận bằng sự tinh tế của bản thân mà có được những bài văn hay.
Các kỹ năng làm văn bao gồm:
- Kỹ năng định hướng hoạt động giao tiếp
+ Nhận diện loại văn bản
+ Phân tích đề bài
- Kỹ năng lập chương trình hoạt động giao tiếp
+ Xác định dàn ý của bài văn miêu tả đã cho
+ Quan sát đối tượng tìm và xắp xếp ý thành dàn ý trong bài văn miêu tả
- Kỹ năng thực hiện hoá hoạt động giao tiếp
+ Xây dựng đoạn văn
+ Liên kết các đoạn văn thành bài văn
- Kỹ năng kiểm tra, đánh giá hoạt động giao tiếp
+ Đối chiếu văn bản nói, viết của bản thân với mục đích giao tiếp và
yêu cầu diễn đạt.
+ Sửa lỗi về nội dung và hình thức diễn đạt
1.2. Khái niệm tính hình tượng

5


Tính hình tượng là đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ nghệ thuật. Ngôn

ngữ nghệ thuật không chỉ đơn thuần có chức năng nhận thức mà điều quan
trọng là nó có chức năng thẩm mĩ ở người nghe, người đọc bằng những hình
tượng văn học giàu khả năng gợi tả và gợi cảm.
Hình tượng trong văn chương thường chứa đựng nhiều ý nghĩa.
* Tính hình tượng thể hiện trong so sánh: bản chất của so sánh là lấy một hình
ảnh cụ thể để miêu tả một hình ảnh chưa cụ thể.
Ví dụ: Cao như núi
Gầy như cò hương
Bờ biển Cửa Tùng như một chiếc lược đồi mồi cài vào mái tóc
bạch kim của sóng biển.
(TV3, t1, tr.109)
Nhờ hình ảnh “chiếc lược đồi mồi” mà người đọc có thể hình dung ra
vẻ đẹp của bờ biển Cửa Tùng và ao ước một lần ngắm nhìn vẻ đẹp của nó.
hoặc:
Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Cảnh khuya như vẽ người chua ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.
(Hồ Chí Minh)
Nhờ “tiếng hát xa” mà người đọc có thể hình dung ra âm thanh của
tiếng suối và có tình cảm với tiếng suối. Nhờ “vẽ” mà người đọc hình dung ra
rõ rệt độ sáng và đường nét ủa cảnh rừng với đêm trăng.
* Tính hình tượng thể hiện trong nhân hóa:
Ví dụ:
Bão bùng thân bọc lấy thân
Tay ôm tay níu tre gần nhau thêm

6



Thương nhau tre không ở riêng
Lũy thành từ đó mà nên hỡi người
Chẳng may thân gãy cành rơi
Vẫn nguyên cái gốc truyền đời cho măng
Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường
Lưng trần phơi nắng phơi sương
Có manh áo cộc tre nhường cho con
(Tre Việt Nam - Nguyễn Duy)
Ở đây cây tre được nhân hóa có tay có tình cảm của con người. Những
cây tre ôm lấy nhau níu lấy nhau vượt qua giông tố của cuộc đời. Nó thể hiện
sự đùm bọc yêu thường lẫn nhau của tre. Tre không đứng một mình, không ở
riêng mà sống thành lũy thành khóm. Và khi tre có gẫy cành rụng lá thì vẫn
để lại cái gốc cho măng mọc lên tiếp tục sinh trưởng phát triển lên.
“Rừng mơ ôm lấy núi
Sương trắng đọng thành hoa
Gió chiều đông gờn gợn
Hương bay gần bay xa”.
(Rừng mơ - Trần Lên Văn)
Rừng mơ bao quanh lấy núi được nhân hóa (ôm lấy núi) cho thấy sự
gắn bó gần gũi, thân mật và thắm đượm tình cảm của cảnh thiên nhiên. Hoa
mơ nở trắng như mây trên trời đọng (kết) lại. Gió chiều đông nhè nhẹ (gờn
gợn) đưa hương hoa mơ lan tỏa đi khắp nơi.
* Tính hình tượng thể hiện trong điệp ngữ:
Ví dụ:

7


Thoắt cái lá vàng rơi trong khoảng khắc mùa thu. Thoắt cái, trắng long

lanh một cơn mưa tuyết trên những cành đào, lê, mận. Thoắt cái, gió xuân
hây hẩy nồng nàn với những bông hoa lay ơn màu đen nhưng hiếm quý.
(Đường đi Sa Pa - Nguyễn Phan Hách)
Thoắt cái là từ chỉ thời gian, việc lặp lại từ này tới ba lần trong đoạn văn
có tác dụng gợi cảm xúc đột ngột, ngỡ ngàng và nhấn mạnh sự thay đổi rất
nhanh của thời gian. Du khách đến Sa Pa không những được tận hưởng cảnh
đẹp nên thơ mà còn được chứng kiến sự biến đổi huyền ảo của thời tiết ở đó.
(Đường đi Sa Pa - Nguyễn Phan Hách)
“Mai sau,
Mai sau,
Mai sau,
Đất xanh xanh mãi xanh màu tre xanh.”
(Tre Việt Nam - Nguyễn Duy)
Với sự thay đổi cách ngắt nhịp, ngắt dòng và hình thức điệp ngữ (Mai
sau,/Mai sau,/Mai sau,/) đã góp phần gợi cảm xúc về thời gian như mở rộng
ra vô tận, tạo cho ý thơ âm vang bay bổng và đem đến cho người đọc nwhngx
liên tưởng phong phú.
* Tính hình tượng thể hiện trong đảo ngữ:
Ví dụ:
Mới đầu xuân năm kia, những hạt thảo quả gieo trên đất rừng, qua một
năm bỏ mặc, đã lơn cao tới bụng người; một năm sau nữa, từ một thân lẻ, thảo
quả đâm thêm hai nhánh mới.
(Mùa thảo quả - Ma Văn Kháng)
Cách đảo vị trí của trạng ngữ góp phần nhấn mạnh sự phát triển rất
nhanh của thảo quả.

8


1.3. Khái niệm tính biểu cảm

- Tính truyền cảm trong ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện ở chỗ nó tự
chứa đựng những yếu tố tình cảm khiến người đọc, người nghe vui, buồn, yêu
thương hay căm giận cùng với người viết.

* Tính biểu cảm thể hiện trong so sánh:
Bên cạnh chức năng nhận thức, phép so sánh còn có chức năng biểu
cảm - cảm xúc. Trong lời nói này, chúng ta gặp rất nhiều cách ví von rất hay,
rất có hình ảnh, rất thấm thía. Mỗi một sự so sánh là một lời nhận xét mà ít có
cách nói nào diễn đạt hiệu quả hơn gầy như mắm, béo như lợn, hôi như cú,
gầy như quỷ…
Rõ ràng cũng nói về biển nhưng nói theo cách bình thường là “Biển rất
rộng và nước có màu xanh thẳm” thì sẽ không tác động nhiều đến người nghe
bằng cách nói ví von của Vũ Tú Nam “Mặt biển sáng trong như tấm thảm
khổng lồ bằng ngọc thạch” (TV3,tr.8). Bởi vì, ở cách nói thứ hai không chỉ
đơn thuần là thông tin, sự kiện mà nó còn thể hiện thái độ của người nói đối
với sự kiện đó. Đúng là cũng nói về biển nhưng qua xúc cảm của nhà văn ,
biển trở nên đẹp và có hồn hơn bởi vì nhà văn đã sử dụng phép so sánh trong
khi miêu tả.
Với chức năng biểu cảm, so sánh là “cách nói” dễ đi vào lòng người,
dễ chiếm được lòng người, làm cho người ta dễ nhớ, dễ thuộc và nhớ lâu.
So sánh tu từ chính là một phương thức tạo hình, gợi cảm, là đôi cánh giúp
cho chúng ta bay vào thế giới của cái đẹp, của trí tưởng tượng vô cùng
phong phú.
Tóm lại, so sánh tu từ có ý nghĩa rất quan trọng. Nó là một phương
pháp làm tăng hiệu quả trong việc sử dụng ngôn ngữ. Tất nhiên, mức độ hiệu

9


quả tuỳ thuộc vào khả năng cụ thể, vào vốn ngôn ngữ và sự rèn kĩ năng

thường xuyên ở mỗi người.
* Tính biểu cảm thể hiện trong nhân hóa:
Ví dụ:
Rừng cọ ơi! Rừng cọ!
Lá đẹp lá ngời ngời!
Tôi yêu thương vẫn gọi
Mặt trời xanh của tôi.
(Mặt trời xanh của tôi - Nguyễn Viết Bình - TV3, t2, Tr.126)
Ở khổ thơ trên nhà thơ gọi rừng cọ bằng từ ơi, đó vốn là từ dùng để gọi con
người. Ta thấy tác giả và rừng cọ như đôi bạn tâm tình rất yêu quý nhau, rừng cọ
đã được tác giả gọi như một người bạn, được gọi là mặt trời xanh của tôi.
* Tính biểu cảm thể hiện trong điệp ngữ:
Ví dụ:
Mình về với Bác đường xuôi
Thưa giùm Việt Bác không nguôi nhớ Người.
Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải, đẹp tươi lạ thường.
Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước lên đèo
Người đi, rừng núi trông theo bóng Người…
(Nhớ Việt Bắc - Tố Hữu)
Trong đoạn thơ đó, tác giả đã sử dụng điệp ngữ: Nhớ, Người. Những
điệp ngữ đó có tác dụng gây ấn tượng đẹp đẽ và sâu sắc về Bác Hồ kính yêu
đồng thời gợi cảm xúc nhớ thương gắn bó da diết với Việt Bắc - Nơi căn cứ

10


địa Cách mạng, nơi có những người dân sống rất chân tình và hết lòng chở

che cho Cách mạng.
* Tính biểu cảm thể hiện trong đảo ngữ:
Ví dụ:
Đẹp vô cùng//tổ quốc ta ơi!
Hình thức đảo trật tự thông thường của cụm chủ - vị trong câu nhằm
khẳng định vẻ đẹp của tổ quốc Việt Nam ta.
1.4 Các biện pháp nghệ thuật
Để hướng dẫn cho học sinh viết văn một cách có hiệu quả nhất
qua các biện pháp tu từ, giáo viên cần giúp học sinh hiểu rõ các biện pháp
nghệ thuật gắn với tính hình tượng, tính biểu cảm.
Cụ thể, trước hết, về biện pháp so sánh.
1.4.1. Biện pháp so sánh
a. Khái niệm:
Theo GS Đinh Trọng Lạc (trong giáo trình Phong cách học tiếng việt,
2002) so sánh (còn gọi là so sánh hình ảnh, so sánh tu từ) là một biện pháp tu
từ ngữ nghĩa, trong đó người ta đối chiếu hai đối tượng khác loại của thực tế
khách quan không đồng nhất với nhau hoàn toàn mà chỉ có một nét giống nhau
nào đó, nhằm diễn tả bằng hình ảnh một lối tri giác mới mẻ về đối tượng.
Mô hình cấu tạo so sánh hoàn chỉnh gồm bốn yếu tố:
Yếu tố 1: yếu tố được hoặc bị so sánh
Yếu tố 2: yếu tố chỉ tính chất của sự vật hay trạng thái của hành động.
Yếu tố 3: yếu tố thể hiện quan hệ so sánh
Yếu tố 4: yếu tố được đưa ra làm chuẩn để so sánh
Theo tác giả Cù ĐìnhTú (trong 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng
việt, 1983) so sánh tu từ là cách công khai đối chiếu hai đối tượng cùng c ó
một dấu hiệu chung nào đấy nhằm biểu hiện một cách hình tượng phẩm chất
bên trong của một đối tượng. So sánh tu từ bao giờ cũng gồm hai vế: vế được
11



so sánh (vế A) và vế so sánh (vế B). Mối quan hệ giữa vế A và vế B được gắn
với nhau theo công thức sau:
A như B (tựa, dường như)
B (hoặc A) bao nhiêu A (hoặc B) bấy nhiêu
A là B
Theo tác giả Nguyễn Thái Hoà (trong Từ điển tu từ - Phong cách thi
pháp học, 2006) so sánh là hình thức diễn đạt tu từ khi đem sự vật này đối
chiếu với sự vật khác miễn là giữa hai đối tượng cú nột tương đồng nào đó để
gợi ra hình ảnh cụ thể, những xúc cảm thẩm mĩ trong nhận thức của người
đọc, người nghe. So sánh gồm bốn yếu tố: cái so sánh, cơ sở so sánh, từ so
sánh và cái được so sánh.
Tương đồng nào đó để gợi ra hình ảnh cụ thể, những cảm xúc thẩm mỹ
trong nhận thức người đọc, người nghe.
Ví dụ:
Cao như núi
Hiền như bụt
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
b. Phân loại:
* So sánh cùng loại.
- So sánh người với người:
Ví dụ: - Lúc ở nhà, mẹ cũng là cô giáo.
Khi tới trường, cô giáo như mẹ hiền.
- Thầy thuốc như mẹ hiền.
- So sánh vật với vật, hình ảnh với hình ảnh, âm thanh với âm thanh .
Ví dụ: - Hoa lựu như lửa lập lòe
Nhớ khi em tưới, em che... ngày.

12



- Con chuồn chuồn đỏ chót trông như quả ớt chín.
Ví dụ:
- Tiếng mưa trong rừng cọ
Như ào ào trận gió.
Như tiếng thác dội về
* So sánh khác loại.
- So sánh vật với người.
Ví dụ: Cá bơi hàng đàn đen trũi nhô lên ngụp xuống như người bơi ếch
giữa những đầu sóng trắng.
- So sánh người với vật
Ví dụ: - Bà như quả đã chín rồi
Càng thêm tuổi tác, càng tươi lòng vàng.
- Mẹ già như chuối chín cây.
*So sánh cái cụ thể với cái trừu tượng.
Ví dụ: - Mưa phùn ướt áo tứ thân
Mưa bao nhiêu hạt thương bầm bấy nhiêu.
1.4.2. Biện pháp nhân hoá
a. Khái niệm
Theo GS Đinh Trọng Lạc (trong 99 phương tiện và biện pháp tu từ
tiếng Việt, 2001) nhân hóa (còn gọi nhân cách hóa) là một biến thể của ẩn dụ,
trong đó người ta lấy những từ ngữ biểu thị thuộc tính, dấu hiệu của con
người để biểu thị thuộc tính, dấu hiệu của đối tượng không phải là con người,
nhằm làm cho đối tượng được miêu tả trở nên gần gũi, dễ hiểu hơn, đồng thời
làm cho người nói có khả năng bày tỏ kín đáo tâm tư, thái độ của mình.
Tác giả Trần Mạnh Hưởng qua cuốn: “Luyện tập cảm thụ văn học ở
tiểu học” (Nxb Giáo dục, 2002) cho rằng: “nhân hóa là biến sự vật thành con

13



người bằng cách gán cho nó những đặc điểm mang tính cách người làm cho
nó trở nên sinh động, hấp dẫn.”
Ví dụ :
- Con gà trống biết tán tỉnh láo khoét, biết mời gà mái đến để đãi giun
- Bác xe biết ngửi thấy mùi đất mới
b. Phân loại :
* Nhân hóa để tả hình dáng
Ví dụ : Dòng sông uốn mình qua cánh đồng xanh ngắt lúa khoai
* Nhân hóa để tả hoạt động
Ví dụ:
Bão bùng thân bọc lấy thân
Tay ôm tây níu tre gần nhau thêm
Thương nhau tre chẳng ở riêng
Lũy thành từ đó mà nên hỡi người.
(Tre Việt Nam - Nguyễn Duy)
* Nhân hóa để tả tâm trạng
Ví dụ: Hết mùa hoa, chim chóc cũng vãn. Cây gạo chấm dứt những
ngày mùa hoa, chim chóc cũng vãn. Cây gạo chấm dứt những ngày tưng
bừng, ồn ã, lài trở về với dáng vẻ xanh mát, trầm tư.
* Nhân hóa để tả tính cách
Ví dụ:
Dòng sông mới điệu làm sao
Nắng lên mặc áo lụa đào thướt tha
(Dòng sông mặc áo - Nguyễn Trọng Tạo)
1.4.3. Biện pháp điệp ngữ
a. Khái niệm
Theo GS Đinh Trọng Lạc (trong 99 phương tiện và biện pháp tu từ
tiếng việt, 2001) điệp ngữ (còn gọi: lặp) là một phương tiện tu từ cú pháp. Đó
14



là sự lặp lại có ý thức những từ ngữ nhằm mục đích nhấn mạnh ý nghĩa, gây
ấn tượng mạnh hoặc gợi ra những cảm xúc trong lòng người đọc, người nghe.
b. Phân loại:
Căn cứ vào tính chất của tổ chức cấu trúc, điệp ngữ được chia ra thành
nhiều dạng:
* Điệp cách quãng
Là kiểu điệp từ, ngữ trong đó người viết đan xen giữa các từ, ngữ được
lặp lại bằng các từ ngữ khác.
“Tìm nơi thăm thẳm rừng sâu
Bập bùng hoa chuối, trắng màu hoa ban.
Tìm nơi bờ biển sóng tràn
Hàng cây chắn bão dịu dàng mùa hoa.
Tìm nơi quần đảo khơi xa
Có loài hoa nở như là không tên”
Nguyễn Đức Mậu
* Điệp liên tiếp
Là kiểu điệp từ, ngữ trong đó các từ, ngữ giống nhau được lặp lại liên
tiếp trong một ngữ đoạn để tạo ra nội dung bổ sung.
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới, mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.”
(Đây mùa thu tới- Xuân Diệu)
* Điệp đầu cuối
Là kiểu điệp từ, ngữ được vận dụng ở các cấp độ khác nhau: câu, đoạn,
văn bản. Đó là cách sắp xếp từ, ngữ lặp theo các vị trí mở đầu - kết thúc một
câu thơ, một đoạn thơ, một bài thơ.
Voi vận tải trên lưng quân bị


15


Vào trận sao cho khỏe như voi
(Sư tử xuất quân - Phỏng theo La Phông - Ten)
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
(Nhớ Việt Bắc - Tố Hữu)
* Điệp cuối - đầu
Là kiểu điệp mà những từ, ngữ được lặp lại, được sắp xế ở các vị trí kết
thúc dòng thơ trên và mở đầu dòng thơ liền dưới.
“Tay em đánh răng
Răng trắng hoa nhài
Tay em chải tóc
Tóc ngời ánh mai”
(Hai bàn tay em - Huy Cận)
* Điệp đầu
Là biện pháp tu từ cốt ở việc lặp lại một số yếu tố ở câu đầu trong một
số câu tiếp theo
“Trên đường hành quân xa
Dừng chân bên xóm nhỏ
Tiếng gà ai nhảy ổ:
“Cục…cục tác cục ta”
Nghe xao động nắng trưa
Nghe bàn chân đỡ mỏi
Nghe gọi về tuổi thơ”
(Tiếng gà trưa - Xuân Quỳnh)
* Điệp cuối
Là biện pháp tu từ cốt ở việc lặp lại một vài yếu tố ở cuối câu trong một

số câu tiếp theo.”
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi

16


Câu hát căng buồm cùng gió khơi
(Đoàn thuyền đánh cá - Huy Cận)
* Điệp vòng tròn
Là một dạng điệp ngữ có tác dụng tu từ lớn. Chữ cuối câu trước được
láy lại thành chữ đầu của câu sau và cứ thế làm cho câu văn, câu thơ liền nhau
tạo nên sự sinh động và hài hước.
“…Chim gi là dì sáo sậu
Sao sậu là cậu sáo đen
Sáo đen là em tu hú
Tu hú là chú bồ các
Bồ các là bác chim gi…”
(Đồng dao)
* Điệp hỗn hợp
Là kiểu điệp trong đó sử dụng nhiều cách điệp khác nhau trong cùng
một đoạn văn bản.
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”
(Bài thơ về tiểu đội xe không kính - Phạm Tiến Duật)

* Điệp theo kiểu diễn đạt
Là kiểu điệp nhằm diễn tả một dụng ý nào đó của tác giả.

17


Ngày đi trúc chưa mọc măng
Ngày về trúc đã cao bằng ngọn tre
Ngày đi lúa chửa chưa vè
Ngày về lúa đã vàng hoe cả đồng.
1.4.4. Biện pháp đảo ngữ
a. Khái niệm
Theo GS Đinh Trọng Lạc (trong 99 phương tiện và biện pháp tu từ
tiếng Việt, 2001), đảo ngữ là hiện tượng vi phạm có chủ định trật tự chuẩn
mực của các đơn vị lời nói nhằm mục đích tách ra một thành tố nghĩa - cảm
xúc nào đó.
Đảo ngữ thường được hiện thực hóa trong những kiểu sau đây: đảo vị
ngữ - động từ ra trước chủ ngữ, đảo vị ngữ - tính từ ra trước chủ ngữ, đảo bổ
ngữ - khách thể, đảo bổ ngữ phương thức của vị từ, đảo lên đầu câu bổ ngữ
phương thức của từ, đảo bổ ngữ câu chỉ phương thức hay bổ ngữ câu chỉ tình
huống - sự vật, đảo bổ ngữ của câu chỉ nguyên nhân, đảo bổ ngữ của câu chỉ
mục đích, đảo vị trí của vị từ là từ chuyên dụng, đảo vị trí của vị từ là động từ
chỉ hành động.
Khoá luận của chúng tôi dựa vào cơ sở lí thuyết của tác giả Đinh Trọng Lạc.
b. Phân loại:
* Đảo vị ngữ trước chủ ngữ:
Chất trong vị ngọt mùi hương
Lặng thầm thay những con đường ong bay…
(Hành trình của bầy ong - Nguyễn Đức Mậu)
* Đảo bổ ngữ của động từ ra trước câu:

Toán là (môn) anh Chương rất giỏi.
* Đảo bổ ngữ lên trước trạng ngữ:
Lạch cạch cái xe ngựa chuyển bánh.\

18


2. Cơ sở thực tiễn:
2.1. Đối với giáo viên:
- Một số giáo viên còn chưa nắm vững về các biện pháp hướng dẫn học
sinh viết văn nói chung và sử dụng các biện pháp nghệ thuật trong viết văn
nói riêng. Phương pháp, cách thức dạy Tập làm văn đối với một số giáo viên
còn lúng túng, đôi khi còn đơn điệu chưa phát huy được tính chủ động sáng
tạo của học sinh.
- Giáo viên chưa đào sâu suy nghĩ về các biện pháp để hướng dẫn cho
học sinh viết văn một cách có hiệu quả nhất. Các cách dạy của giáo viên
thường quá phụ thuộc vào sách hướng dẫn, ngại thay đổi phương pháp, hình
thức tổ chức dạy học, đi theo đường mòn, chưa mang tính sáng tạo, chưa
mạnh dạn đưa những sáng kiến, ý tưởng của mình vào quá trình giảng dạy.
2.2. Đối với học sinh
- Học sinh không hứng thú với phân môn Tập làm văn, các em ngại học
hoặc học một cách đối phó vì các em ít được quan sát thực tế khi miêu tả. Phần
lớn các đối tượng được miêu tả được đưa vào chương trình rất quen thuộc đối
với các em. Tuy nhiên vì các em thường không hay để tâm quan sát nên việc
tìm ý để miêu tả là rất khó. Bởi vậy, thực tế bài làm của học sinh nhiều câu văn
còn mang tính chất sao chép, cứng nhắc, chưa thực tế, không mang tính phát
hiện của bản thân. Chẳng hạn có học sinh tả: Cây nhãn này do ông em trồng từ
mười năm trước. Cây cao khoảng 40 cm, cành lá xum xuê che bóng mát cho cả
khu đất rộng”. Mặt khác, hầu như các bài văn của học sinh làm chỉ mang tính
chất liệt kê sự vật chứ chưa mang tính chất miêu tả, thậm chí các em còn dựa

nhiều vào những bài văn mẫu có trong sách tham khảo.
Đứng trước thực trạng trên tôi đặt ra nhiệm vụ là làm thế nào để học
sinh ứng dụng những điều đã học về các biện pháp nghệ thuật trong bài văn?
Chính vì thế tôi đã chọn đề tài: Rèn luyện kĩ năng viết văn có tính hình
tượng, tính biểu cảm qua một số biện pháp tu từ Tiếng Việt.

19


×