Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ bồi DƯỠNG KIẾN THỨC QUỐC PHÒNG AN NINH CHO đội NGŨ cán bộ CHỦ CHỐT xã PHƯỜNG THỊ TRẤN ở TỈNH bắc NINH HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (465.62 KB, 103 trang )

3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ BVTQ XHCN, đập tan mọi âm mưu
và hành động chống phá cách mạng nước ta của các thế lực thù địch trong
mọi tình huống, đòi hỏi phải thường xuyên xây dựng, củng cố nền QPTD và
an ninh nhân dân vững mạnh, trong đó, giáo dục QP, AN cho các tầng lớp
dân cư trong xã hội nói chung và bồi dưỡng kiến thức QP, AN cho CBCC
các cấp trong hệ thống chính trị nói riêng là một nội dung rất quan trọng.
Đảng ta chỉ rõ: “Phải tăng cường công tác giáo dục quốc phòng cho toàn
dân, trước hết là đối với cán bộ các cấp, các ngành của Đảng và Nhà nước”
[3]. “Bồi dưỡng kiến thức QP, AN là tiêu chuẩn bắt buộc đối với cán bộ,
đảng viên, là một trong những tiêu chí để xem xét, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ”
[4].
Bắc Ninh là địa bàn chiến lược quan trọng, là cửa ngõ phía đông bắc Thủ
đô Hà Nội; là địa phương giầu truyền thống lịch sử, văn hoá, có KT - XH phát
triển nhanh, QP, AN thường xuyên được củng cố và tăng cường góp phần quan
trọng vào việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường
hoà bình để địa phương ổn định và phát triển. Đội ngũ CBCC xã, phường, thị
trấn tỉnh Bắc Ninh là một bộ phận trong đội ngũ cán bộ của Đảng, Nhà nước ta;
là lực lượng nòng cốt, giữ vai trò quyết định trong việc nghiên cứu, quán triệt
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chỉ
thị, nghị quyết của cấp trên, vận dụng đúng đắn, sáng tạo vào điều kiện cụ thể
của địa phương để đề ra chủ trương, kế hoạch phát triển KT - XH, củng cố QP,
AN; đồng thời, có vai trò lãnh đạo, quản lý, điều hành, tổ chức thực hiện công
tác QS, QP địa phương. Để hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ của mình, đòi
hỏi đội ngũ CBCC xã, phường, thị trấn phải có phẩm chất, trình độ, kiến thức
toàn diện, trong đó phải có kiến thức QP, AN tương ứng.


4


Công tác bồi dưỡng kiến thức QP, AN cho đội ngũ CBCC xã, phường,
thị trấn tỉnh Bắc Ninh là một bộ phận trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ của Đảng, Nhà nước ta, nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm, trang bị,
bổ sung tri thức, kỹ năng, kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện
nhiệm vụ QP, AN ở địa phương, bảo đảm cho đội ngũ này có đủ khả năng
đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ của từng chức danh cán bộ. Hiện nay, nhiệm
vụ BVTQ XHCN và công tác QS, QP ở tỉnh Bắc Ninh đã có sự phát triển
với nhiều nội dung, yêu cầu mới, đòi hỏi đội ngũ CBCC xã, phường, thị trấn
phải thường xuyên được bồi dưỡng kiến thức QP, AN.
Những năm qua, công tác bồi dưỡng kiến thức QP, AN cho đội ngũ
CBCC xã, phường, thị trấn tỉnh Bắc Ninh đã được các cấp uỷ, chính quyền và
các cơ quan chức năng của địa phương quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức
thực hiện chặt chẽ, nghiêm túc và đạt được những kết quả quan trọng, nhờ đó
trình độ, kiến thức QP, AN của đội ngũ này được nâng lên đáng kể, góp phần
thúc đẩy công tác QS, QP, an ninh ở địa phương phát triển. Tuy nhiên, trước
yêu cầu mới của nhiệm vụ cách mạng, trước sự phát triển mới của tình hình,
nhiệm vụ chính trị của địa phương, nhất là công tác QS, QP địa phương, việc
bồi dưỡng kiến thức QP, AN cho đội ngũ CBCC xã, phường, thị trấn của tỉnh
Bắc Ninh còn bộc lộ những hạn chế, bất cập cần phải được xem xét nghiêm túc
và khắc phục kịp thời. Vì vậy, nghiên cứu đề tài “Bồi dưỡng kiến thức quốc
phòng, an ninh cho đội ngũ cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn tỉnh Bắc
Ninh hiện nay” là vấn đề cấp thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Giáo dục QP, AN nói chung và bồi dưỡng kiến thức QP, AN cho đội
ngũ cán bộ nói riêng là vấn đề luôn được Đảng, Nhà nước ta quan tâm và đã
ban hành nhiều chỉ thị, quy định để chỉ đạo thực hiện thống nhất và có hiệu


5
quả. Trong những năm gần đây, đã có nhiều công trình khoa học của các tập

thể, cá nhân nghiên cứu vấn đề này đã được công bố, tiêu biểu như:
Lê Minh Vụ (chủ nhiệm đề tài), Đổi mới giáo dục quốc phòng trong hệ
thống giáo dục quốc gia, Đề tài khoa học cấp Nhà nước, 2006. Trên cơ sở trình
bày, làm rõ các khái niệm: quốc phòng, giáo dục quốc phòng trong hệ thống giáo
dục quốc gia, đề tài đi sâu phân tích quá trình phát triển tư duy lý luận của Đảng
về quốc phòng và giáo dục quốc phòng qua từng giai đoạn cách mạng, nhất là
trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Đề tài khẳng định, đổi mới giáo dục quốc
phòng là đổi mới toàn diện tất cả các nội dung, biện pháp cấu thành giáo dục
quốc phòng, từ nhận thức đến hành động; từ nội dung, chương trình, phương
pháp giáo dục đến đánh giá kết quả; từ cơ chế tổ chức quản lý đến người dạy,
người học, điều kiện đảm bảo và chế độ chính sách. Yêu cầu đổi mới giáo dục
quốc phòng phải hợp lý, đồng bộ, thống nhất và phù hợp với đối tượng người
học.
Đề tài xác định những căn cứ, đánh giá thực trạng và rút ra những kinh
nghiệm đổi mới giáo dục quốc phòng trong hệ thống giáo dục quốc gia. Trên
cơ sở dự báo những nhân tố tác động, xu hướng vận động của công tác giáo
dục quốc phòng trong hệ thống giáo dục quốc gia đến năm 2020, đề tài đã
xác định 3 quan điểm, 6 giải pháp cơ bản nhằm đổi mới giáo dục quốc
phòng trong hệ thống giáo dục quốc gia ở nước ta từ nay đến năm 2020.
Cục Nhà trường, Bộ Tổng tham mưu, Giáo dục quốc phòng đối với cán
bộ công chức của Đảng, Nhà nước và đoàn thể, Đề tài khoa học cấp Bộ Quốc
phòng, 1996; Hồ Sỹ Luyến (chủ biên), Tổ chức, phương pháp bồi dưỡng kiến
thức quốc phòng cho cán bộ các cấp của Đảng, Nhà nước và đoàn thể, Nxb
CTQG, Hà Nội, 2001.
Trên cơ sở quán triệt sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về giáo dục, giáo dục quốc


6
phòng, các công trình này đã đi sâu phân tích làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn

của vấn đề nghiên cứu. Đặc biệt, các công trình đã làm rõ một số khái niệm
liên quan như: giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, giáo dục quốc phòng
đối với cán bộ công chức của Đảng, Nhà nước và đoàn thể; chỉ rõ vai trò, đặc
điểm và những vấn đề có tính nguyên tắc đối với công tác giáo dục quốc phòng
và tổ chức, phương pháp bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho cán bộ, công
chức của Đảng, Nhà nước, đoàn thể; đánh giá thực trạng và rút ra một số kinh
nghiệm giáo dục quốc phòng, tổ chức, phương pháp bồi dưỡng kiến thức quốc
phòng cho đội ngũ cán bộ này. Từ dự báo những nhân tố tác động, các công
trình đã xác định phương hướng, yêu cầu và những giải pháp chủ yếu nâng cao
chất lượng giáo dục quốc phòng, tổ chức, phương pháp bồi dưỡng kiến thức
quốc phòng cho đội ngũ cán bộ công chức của Đảng, Nhà nước và đoàn thể.
Viện Khoa học xã hội và nhân văn quân sự, Công tác giáo dục quốc
phòng ở các trường trung học phổ thông thuộc tỉnh Hà Tây hiện nay , Đề tài
khoa học cấp Viện, 2001; Phạm Xuân Hảo, Giáo dục quốc phòng cho sinh
viên đại học hiện nay, Chuyên đề khoa học cấp Viện Khoa học xã hội và
nhân văn quân sự, 2002; Nguyễn Quốc Danh, Công tác đảng, công tác
chính trị trong giáo dục quốc phòng của Học viện Lục quân cho sinh viên
trên địa bàn Thành phố Đà Lạt hiện nay, Luận văn thạc sĩ Khoa học Chính
trị, Học viện Chính trị quân sự, 2004.
Ở các góc độ tiếp cận khác nhau, các công trình khoa học nêu trên đã
phân tích làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn của vấn đề nghiên cứu, trong đó,
đặc biệt đi sâu làm rõ một số quan niệm, vị trí, vai trò, đặc điểm và những
vấn đề có tính nguyên tắc trong giáo dục quốc phòng và công tác đảng, công
tác chính trị trong giáo dục quốc phòng cho học sinh, sinh viên ở các nhà
trường, địa bàn mà từng đề tài tập trung nghiên cứu; trên cơ sở đó xác định
phương hướng, yêu cầu và những giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng


7
giáo dục quốc phòng và công tác đảng, công tác chính trị trong giáo dục

quốc phòng cho học sinh, sinh viên trong giai đoạn hiện nay.
Những công trình khoa học trên là những tài liệu quan trọng và cần thiết cho
tác giả tham khảo, nghiên cứu để thực hiện đề tài luận văn tốt nghiệp.
Một số luận văn thạc sĩ liên quan trực tiếp đến đề tài luận văn của tác giả
như: Phạm Viết Vần, Bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho cán bộ đầu ngành
cấp tỉnh, thành phố và CBCC cấp huyện, quận ở Trường Quân sự Quân khu 3
trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ Khoa học Chính trị, Học viện Chính
trị quân sự, 2004; Đàm Quốc Việt, Bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho CBCC
cấp quận, huyện của Quân khu Thủ đô hiện nay, Luận văn thạc sĩ Khoa học
Chính trị, Học viện Chính trị quân sự, 2006; Hà Công Chờ, Phát triển ý thức
quốc phòng của học viên bồi dưỡng kiến thức quốc phòng ở Trường Quân sự
Quân khu 7 hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quân sự,
2007.
Các luận văn thạc sĩ của các tác giả nêu trên đã nghiên cứu khá toàn diện,
sâu sắc về bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho CBCC cấp huyện và cán bộ đầu
ngành cấp tỉnh ở các địa bàn chiến lược trọng điểm như: Thủ đô Hà Nội, Quân
khu 3, Quân khu 7. Các công trình khoa học này đã nêu bật quan niệm, vị trí, vai
trò, đặc điểm, tiêu chí và những vấn đề có tính nguyên tắc bồi dưỡng kiến thức
quốc phòng cho đội ngũ CBCC cấp huyện và cán bộ đầu ngành cấp tỉnh; đánh
giá thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra một số kinh nghiệm bồi dưỡng kiến
thức quốc phòng cho đội ngũ cán bộ này. Trên cơ sở dự báo những nhân tố tác
động, các tác giả đã đề xuất những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng bồi
dưỡng kiến thức quốc phòng cho đội ngũ CBCC cấp huyện và cán bộ đầu ngành
cấp tỉnh hiện nay ở các địa bàn nêu trên, bảo đảm cho đội ngũ cán bộ này có đủ
phẩm chất, kiến thức và năng lực quản lý nhà nước về QP, AN ở địa phương.
Đây là những tài liệu quan trọng, có giá trị cả về lý luận và thực tiễn để tác giả


8
có thể nghiên cứu, tham khảo, kế thừa, vận dụng vào quá trình thực hiện đề tài

luận văn.
Trong những năm gần đây có nhiều bài báo khoa học đã được công bố
đề cập đến vấn đề giáo dục quốc phòng và bồi dưỡng kiến thức QP, AN cho
các đối tượng, trong đó có CBCC trong hệ thống chính trị, liên quan đến đề
tài luận văn của tác giả như: Nguyễn Hậu Nhất, Bồi dưỡng kiến thức quốc
phòng toàn dân cho CBCC cấp huyện - những vấn đề cần tiếp tục nghiên
cứu, Tạp chí QPTD, 10/2000; Phạm Huy An, Một số kinh nghiệm về tổ chức
giáo dục quốc phòng ở Quân khu Thủ đô, Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị
quân sự, 5/2004; Hồ Sỹ Cung, Mấy kinh nghiệm rút ra từ công tác bồi dưỡng
kiến thức quốc phòng cho CBCC của Thành phố Hà Nội, Thông tin khoa học
quân sự, Quân khu Thủ đô 6/2004; Nguyễn Mạnh Dũng, Một số giải pháp cơ
bản nâng cao chất lượng giáo dục quốc phòng trong các bộ, ngành hiện nay,
Tạp chí QPTD, 9/2006; Trần Đình Đích, Một số vấn đề về đổi mới chương
trình, nội dung giáo dục quốc phòng hiện nay, Tạp chí QPTD, 10/2006;
Nguyễn Thế Trị, “Nâng cao kiến thức và tư duy quốc phòng cho cán bộ chiến
dịch, chiến lược trong tình hình mới”, Cẩm nang công tác QP, AN dành cho
cán bộ lãnh đạo các cấp, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội, 2007; Hồ Quốc
Toản, Bước phát triển trong công tác giáo dục quốc phòng của Đảng và Nhà
nước ta, Tạp chí QPTD, 8/2007; Ngô Xuân Thứ, Bồi dưỡng kiến thức QP,
AN cho chức sắc, chức việc tôn giáo ở Bắc Ninh - kết quả và kinh nghiệm,
Tạp chí QPTD, 9/2008; Hoàng Văn Thuận, Nâng cao chất lượng bồi dưỡng
kiến thức QP, AN ở Trường Quân sự Thành phố Hồ Chí Minh, Tạp chí
QPTD, 3/2009…
Từ nhiều góc độ tiếp cận khác nhau, các bài báo khoa học đã tập trung
làm rõ những vấn đề cơ bản về lý luận, thực tiễn của vấn đề nghiên cứu, nhất
là phân tích làm rõ vị trí, vai trò, yêu cầu và đề xuất những giải pháp cơ bản
đẩy mạnh giáo dục quốc phòng toàn dân nói chung và bồi dưỡng kiến thức


9

QP, AN cho đội ngũ cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị nói riêng.
Những nội dung đó là những tài liệu quan trọng mà tác giả có thể nghiên
cứu, kế thừa, vận dụng trong quá trình xây dựng luận văn tốt nghiệp.
Như vậy, từ những góc độ khác nhau, các công trình khoa học trên đây đã
bàn khá kỹ, toàn diện về công tác giáo dục quốc phòng và bồi dưỡng kiến thức
QP, AN cho các đối tượng, trong đó có đội ngũ CBCC trong hệ thống chính trị
ở nước ta... Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện, sâu sắc,
có hệ thống vấn đề bồi dưỡng kiến thức QP, AN cho đội ngũ CBCC xã,
phường, thị trấn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn hiện nay dưới góc độ chuyên ngành
xây dựng Đảng. Vì vậy, vấn đề “Bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh
cho đội ngũ cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn tỉnh Bắc Ninh hiện nay”
là vấn đề độc lập, không trùng lắp với các công trình khoa học đã công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Mục đích
Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về bồi dưỡng
kiến thức QP, AN cho đội ngũ CBCC xã, phường, thị trấn tỉnh Bắc Ninh.
Trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp cơ bản bồi dưỡng kiến thức QP, AN
cho đội ngũ CBCC xã, phường, thị trấn tỉnh Bắc Ninh hiện nay.
* Nhiệm vụ
Làm rõ những vấn đề cơ bản về bồi dưỡng kiến thức QP, AN cho đội
ngũ CBCC xã, phường, thị trấn tỉnh Bắc Ninh.
Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra một số kinh
nghiệm bồi dưỡng kiến thức QP, AN cho đội ngũ CBCC xã, phường, thị trấn
tỉnh Bắc Ninh.
Xác định yêu cầu và đề xuất những giải pháp cơ bản bồi dưỡng kiến thức QP,
AN cho đội ngũ CBCC xã, phường, thị trấn tỉnh Bắc Ninh hiện nay.
* Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động bồi dưỡng kiến thức QP,
AN cho đội ngũ CBCC xã, phường, thị trấn tỉnh Bắc Ninh hiện nay.



10
* Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu hoạt động bồi dưỡng kiến thức QP, AN cho đội ngũ
CBCC các xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
Số liệu điều tra khảo sát thực tế chủ yếu từ năm 2004 trở lại đây.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của đề tài là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nền QPTD, BVTQ
XHCN; các chỉ thị, nghị quyết, quy định, hướng dẫn của Đảng, Nhà nước,
của Đảng uỷ Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu,
Tổng cục Chính trị, của các bộ, ban, ngành... về giáo dục QP, AN, về bồi
dưỡng kiến thức QP, AN cho đội ngũ CBCC các cấp trong hệ thống chính trị,
trong đó có đội ngũ CBCC xã, phường, thị trấn.
* Cơ sở thực tiễn
Cơ sở thực tiễn của đề tài là hiện thực hoạt động bồi dưỡng kiến thức QP, AN
cho đội ngũ CBCC xã, phường, thị trấn những năm vừa qua ở tỉnh Bắc Ninh; các
tài liệu báo cáo sơ kết, tổng kết về công tác QS, QP địa phương, về công tác giáo
dục QP, AN, bồi dưỡng kiến thức QP, AN cho đội ngũ CBCC các cấp, trong đó có
CBCC xã, phường, thị trấn; các tư liệu, số liệu và kết quả điều tra khảo sát thực tế
của tác giả ở các cơ quan chức năng và các xã, phường, thị trấn tỉnh Bắc Ninh.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đề tài sử dụng
tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên ngành và liên
ngành, trong đó, chú trọng các phương pháp: lôgíc, lịch sử, phân tích, tổng
hợp, điều tra xã hội học và tổng kết thực tiễn.
5. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần cung cấp thêm cơ sở khoa học,
giúp cấp uỷ, chính quyền các cấp của tỉnh Bắc Ninh, đảng uỷ, chỉ huy cơ quan



11
quân sự tỉnh, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, lãnh đạo, chỉ huy Trường
Quân sự tỉnh và các tổ chức, các lực lượng có liên quan lãnh đạo, chỉ đạo và
tổ chức thực hiện có hiệu quả hơn đối với công tác bồi dưỡng kiến thức QP,
AN cho đội ngũ CBCC xã, phường, thị trấn.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác
nghiên cứu, giảng dạy, học tập môn công tác đảng, công tác chính trị và các
môn liên quan đến giáo dục QP, AN ở các trung tâm giáo dục QP, AN và các
học viện, nhà trường trong và ngoài quân đội.
6. Kết cấu đề tài
Luận văn gồm: mở đầu; 2 chương (4 tiết); kết luận; danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.

Chương 1
BỒI DƯỠNG KIẾN THỨC QUỐC PHÒNG, AN NINH
CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN TỈNH
BẮC NINH – MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. Đội ngũ cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn và một số vấn đề
cơ bản về bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho đội ngũ cán bộ
chủ chốt xã phường, thị trấn tỉnh Bắc Ninh
1.1.1. Xã, phường, thị trấn tỉnh Bắc Ninh và đội ngũ cán bộ chủ chốt
xã, phường, thị trấn tỉnh Bắc Ninh
* Khái quát một số nét cơ bản về tỉnh Bắc Ninh
Bắc Ninh là một tỉnh đồng bằng thuộc châu thổ sông Hồng, tiếp giáp
tỉnh Bắc Giang ở phía bắc và đông bắc, giáp tỉnh Hải Dương và Hưng Yên ở
phía đông nam và nam, giáp Thủ đô Hà Nội ở phía tây và tây bắc; có diện
tích tự nhiên là 822,71km 2, với 1 thành phố trực thuộc tỉnh, 1 thị xã và 6

huyện, chia thành 126 xã, phường, thị trấn; dân số 1.028.844 người.


12
Bắc Ninh là vùng đất ngàn năm văn hiến, là mảnh đất “địa linh, nhân
kiệt”, một trong những cái nôi của nền văn minh sông Hồng; là tỉnh có
truyền thống yêu nước và cách mạng, quê hương của các đồng chí Ngô
Gia Tự, Nguyễn Văn Cừ, Hoàng Quốc Việt… Bắc Ninh có vị trí chiến
lược quan trọng, một địa bàn quân sự trọng yếu của miền Bắc và đất
nước, là cửa ngõ phía đông bắc Thủ đô Hà Nội, nằm trong vùng kinh tế
trọng điểm Bắc bộ, trong vành đai tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng Quảng Ninh, gần sân bay quốc tế Nội Bài, gần các nguồn năng lượng lớn
như: Nhiệt điện Phả Lại, than Quảng Ninh…
Suốt mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, nhân dân Bắc Ninh từ đời
này đến đời khác đã đổ nhiều xương máu đánh đuổi kẻ thù xâm lược để giữ
vững độc lập, chủ quyền của Tổ quốc, quê hương và lao động quên mình
phát triển KT - XH, xây dựng cuộc sống ngày càng phồn vinh và hạnh phúc.
Ngày nay, Bắc Ninh có chính trị ổn định, kinh tế phát triển nhanh,
kết cấu hạ tầng và năng lực sản xuất ngày càng được tăng cường, từ năm
2004 đến nay, tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) tăng bình quân 14%/năm;
có hệ thống đường bộ, đường sắt, đường sông thuận lợi, 100% số xã có
đường ô tô đến trung tâm xã và đến hầu hết các thôn; tất cả các xã,
phường, thị trấn đều có điện lưới quốc gia và mạng bưu chính viễn thông;
hệ thống trường học, trạm y tế được xây dựng kiên cố, cao tầng. Văn hoá,
xã hội của tỉnh phát triển khá, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
được cải thiện rõ rệt, bộ mặt đô thị, nông thôn từng bước đổi mới. QP, AN
ngày càng được củng cố và tăng cường, góp phần giữ vững an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh.
Tuy nhiên, tình hình KT - XH của tỉnh Bắc Ninh đang đứng trước
nhiều khó khăn, thách thức. Nhịp độ phát triển kinh tế chưa vững chắc, cơ
cấu kinh tế còn thiếu hợp lý, kết cấu hạ tầng KT - XH chưa đồng bộ. Đời

sống của một bộ phận nhân dân, nhất là vùng thuần nông còn nhiều khó


13
khăn. Mức sống giữa thành thị và nông thôn có sự chênh lệch lớn. Tệ nạn xã
hội như ma tuý, mại dâm, cờ bạc và hủ tục mê tín dị đoan có chiều hướng
gia tăng…
Bước vào thời kỳ mới, nhiệm vụ của tỉnh là: “Đoàn kết toàn dân, tiếp
tục đổi mới, phát huy dân chủ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo
định hướng XHCN, phát triển KT - XH với nhịp độ cao, hiệu quả bền
vững; từng bước cải thiện đời sống nhân dân; củng cố QP, AN, giữ vững an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội… xây dựng Bắc Ninh giàu mạnh, văn
minh” [16, tr.41]. Nhiệm vụ QS, QP, an ninh của tỉnh rất nặng nề, phải
sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi, đập tan mọi âm mưu thủ đoạn
chống phá của kẻ thù; chủ động xây dựng và thực hiện các phương án
phòng ngừa, ngăn chặn, đối phó với tình huống phức tạp, nhất là các hoạt
động lợi dụng tôn giáo để thực hiện mục đích chính trị phản động; đấu
tranh ngăn ngừa, xoá bỏ các hoạt động mê tín dị đoan và các tụ điểm phức
tạp về tệ nạn xã hội. Làm tốt công tác bảo vệ nội bộ, bảo vệ Đảng, chính
quyền và nhân dân địa phương, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam XHCN. Điều đó đang đặt ra những yêu cầu rất cao về phẩm chất,
năng lực, trình độ, kiến thức QP, AN của đội ngũ cán bộ đảng, chính
quyền, đoàn thể ở địa phương, trong đó có đội ngũ CBCC xã, phường, thị
trấn.
* Xã, phường, trị trấn tỉnh Bắc Ninh
Quan niệm về xã, phường, thị trấn tỉnh Bắc Ninh
Theo Từ điển tiếng Việt, “xã, đơn vị hành chính cơ sở ở nông thôn, bao
gồm một số thôn” [41, tr.1404]; “phường, đơn vị hành chính cơ sở ở nội thành,
nội thị, tổ chức theo khu vực dân cư ở đường phố, dưới quận” [41, tr. 984].
Như vậy, xã, phường, thị trấn là đơn vị hành chính cơ sở ở nông thôn,

nội thành, nội thị, tổ chức theo khu vực dân cư, bao gồm các thôn, ấp, bản,
khu phố, dưới huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.


14
Từ những vấn đề trên, có thể quan niệm: Xã, phường, thị trấn tỉnh Bắc
Ninh là đơn vị hành chính nhà nước thấp nhất trong hệ thống tổ chức hành
chính của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam; là một thành phần cơ bản của khu
vực phòng thủ huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; được tổ chức theo khu vực
dân cư ở nông thôn và thành thị, hợp thành bởi các thôn, xóm, khu phố trên
địa bàn, có ranh giới, lãnh thổ, tổ chức bộ máy và dân số theo quy định của
cấp có thẩm quyền; là nơi nhân dân địa phương trực tiếp sinh sống, lao động
sản xuất và chiến đấu để xây dựng, bảo vệ quê hương, đất nước; có vai trò
quan trọng trong phát triển KT- XH, củng cố QP, AN ở địa phương.
Đặc điểm của xã, phường, thị trấn tỉnh Bắc Ninh
Xã, phường, thị trấn tỉnh Bắc Ninh có đầy đủ những đặc điểm chung
của xã, phường, thị trấn Việt Nam, song do điều kiện địa lý, KT - XH và
phong tục tập quán… mà nó có những đặc điểm riêng, đó là:
Các xã, phường, thị trấn tỉnh Bắc Ninh đều là đồng bằng, đô thị, không
có miền núi, trung du, ven biển, hải đảo. Toàn bộ địa phận tỉnh Bắc Ninh thuộc
vùng đồng bằng, được hình thành trên trầm tích sa bồi, đồng đất và khí hậu nơi
đây đã tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân Bắc Ninh sản xuất nông nghiệp,
nhất là trồng lúa nước, hoa mầu đạt năng suất, chất lượng cao. Do không có
núi, rừng, biển, đảo, nên ngoài sản xuất nông nghiệp, từ xa xưa, nhân dân Bắc
Ninh đã sớm chú ý đến sản xuất vật phẩm tiêu dùng, tiểu thủ công nghiệp. Vì
thế, hoạt động thương mại, buôn bán, trao đổi hàng hoá diễn ra từ khá sớm và
tương đối nhộn nhịp. Hiện nay, ở hầu hết các thôn, làng của tất cả các xã đều tự
phát hình thành các chợ tạm, chợ cóc phục vụ nhu cầu buôn bán, sinh hoạt của
người dân, nhờ đó đời sống của nhân dân từng bước được cải thiện và nâng
cao. Tuy nhiên, cũng từ đó mà phát sinh nhiều hệ luỵ không mong muốn như

các tệ nạn xã hội, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội phức tạp.
Các xã, phường, thị trấn của tỉnh có địa giới hẹp, diện tích trung bình là
6,53km2, (do Bắc Ninh là tỉnh có diện tích nhỏ nhất nước), mật độ dân số cao,


15
trung bình là 1250,55 người/km2, đứng thứ 6 trong cả nước. Do dân cư sống
tập trung, nên công tác quản lý, điều hành mọi hoạt động trên địa bàn của đội
ngũ CBCC xã, phường, thị trấn khá thuận lợi, nhưng cũng gây nên những khó
khăn cho việc mở rộng sản xuất, phát triển KT - XH của địa phương. Nhân
dân của tất cả các xã, phường, thị trấn trong tỉnh đều là người kinh, không có
đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống trên địa bàn, nên nhìn chung mặt bằng
trình độ dân trí khá cao. Hiện nay, 100% xã, phường, thị trấn trong tỉnh đã
hoàn thành phổ cập trung học cơ sở, riêng thành phố Bắc Ninh, thị xã Từ Sơn,
huyện Thuận Thành đã hoàn thành phổ cập trung học phổ thông.
Kinh tế - xã hội ở các xã, phường, thị trấn tỉnh Bắc Ninh khá phát triển,
tương đối đồng đều, do được thiên nhiên ưu đãi và người dân lao động cần cù,
sáng tạo. Vì đất chật, người đông, nên người dân nơi đây không chỉ sống dựa
vào nông nghiệp, mà đã sớm chú ý phát triển sản xuất tiểu thủ công nghiệp,
nhờ đó hệ thống làng nghề xuất hiện sớm. Hiện nay, toàn tỉnh có 62 làng nghề
truyền thống đã được Hiệp hội Làng nghề Việt Nam công nhận. Nhiều làng nghề
truyền thống sản xuất các mặt hàng có giá trị kinh tế cao như: sắt (Đa Hội Từ Sơn), giấy dó (Phong Khê - Yên Phong), đúc đồng (Đại Bái - Gia Bình),
đồ gỗ (Đồng Kỵ - Từ Sơn) và hàng chục làng nghề khác như: Đình Bảng, Tân
Hồng, Phù Khê (Từ Sơn), Tam Giang (Yên Phong), Hoài Thượng, Song Hồ
(Thuận Thành), Lãng Ngâm, Đại Lai, Cao Đức (Gia Bình), Phù Lãng (Quế
Võ)…
Xã, phường, thị trấn tỉnh Bắc Ninh là nơi mang đậm dấu ấn văn hoá dân tộc
với nhiều lễ hội dân gian và các sản phẩm văn hoá vật thể, phi vật thể, tạo nên
đời sống tinh thần đa dạng, phong phú, lành mạnh cho nhân dân địa phương.
Đặc điểm về kinh tế, văn hoá, xã hội ở các xã, phường, thị trấn tỉnh Bắc

Ninh, bên cạnh những thuận lợi, đã và đang nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp
về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn địa phương.


16
Trong những năm gần đây, tốc độ đô thị hoá ở các xã, phường, thị trấn
tỉnh Bắc Ninh diễn ra khá nhanh, nhất là ở các xã, phường, thị trấn có đường
giao thông thuận tiện. Đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp để nhường chỗ
cho các khu công nghiệp, các công ty, xí nghiệp. Cơ sở vật chất, kỹ thuật
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ được đầu tư phát triển. Trên địa
bàn các địa phương đã xây dựng và thành lập thêm nhiều doanh nghiệp mới,
trong đó có một số cơ sở có quy mô lớn như: Công ty kính nổi Việt - Nhật,
Công ty Canon, Nhà máy khí công nghiệp Bắc Việt Nam, Công ty liên doanh
JONHSON - VIGLACERA, Công ty Nông sản, Xí nghiệp Gạch kiềm tính…,
hình thành nên các khu công nghiệp tập trung ở Quế Võ, Từ Sơn, Thuận
Thành, Yên Phong, một số cụm công nghiệp làng nghề, cụm thương nghiệp,
dịch vụ ở thị trấn, thị tứ. Do tốc độ đô thị hoá diễn ra nhanh, nên nảy sinh
nhiều vấn đề xã hội phức tạp phải giải quyết như các tệ nạn xã hội, tình trạng
tranh chấp đất đai, khiếu kiện kéo dài, mất an ninh trật tự xã hội…
Những đặc điểm trên đặt ra yêu cầu đối với đội ngũ CBCC xã, phường,
thị trấn tỉnh Bắc Ninh phải có phẩm chất, năng lực toàn diện, trong đó phải
có kiến thức về QP, AN tương ứng để lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành
mọi hoạt động của địa phương có hiệu quả.
Vai trò của xã, phường, thị trấn tỉnh Bắc Ninh
Xã, phường, thị trấn tỉnh Bắc Ninh là nền tảng của hệ thống hành chính
trong tỉnh; là cầu nối trực tiếp giữa Đảng, Nhà nước và cấp uỷ, chính quyền
cấp trên với nhân dân địa phương, nơi nắm bắt và giải quyết mọi tâm tư,
nguyện vọng chính đáng của quần chúng theo thẩm quyền và phản ánh, đề đạt
lên cấp trên, giúp cấp trên đề ra những chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo
đúng đắn; là nơi trực tiếp cụ thể hoá đường lối, chủ trương, chính sách của

Đảng, Nhà nước và nghị quyết, chỉ thị của cấp trên, khai thác mọi tiềm năng
của địa phương vào thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ địa phương, đất
nước. Đây là nơi nhân dân địa phương thực hiện mọi nhiệm vụ chính trị, kinh


17
tế, văn hoá, xã hội để tạo ra của cải vật chất, nâng cao đời sống, góp phần thực
hiện thắng lợi mục tiêu “dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”.
Xã, phường, thị trấn tỉnh Bắc Ninh là một trong những thành phần quan
trọng của thế trận khu vực phòng thủ huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; là
nơi tích luỹ tiềm lực QP, AN, động viên, tổ chức toàn dân tham gia xây dựng
thế trận QPTD và an ninh nhân dân; nơi tổ chức toàn dân đấu tranh chống
“diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của địch, góp phần giữ vững an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương; là nơi trực tiếp xây dựng lực
lượng dân quân và quản lý, xây dựng lực lượng dự bị động viên, góp phần
quan trọng xây dựng quân đội và chuẩn bị lực lượng, thế trận cho chống chiến
tranh xâm lược, bảo vệ vững chắc địa phương và Tổ quốc Việt Nam XHCN.
* Đội ngũ cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn tỉnh Bắc Ninh
Quan niệm đội ngũ CBCC xã, phường, thị trấn tỉnh Bắc Ninh
Cán bộ là một hiện tượng lịch sử gắn liền với sự xuất hiện và phát triển
của xã hội loài người. Đó là những người có chức vụ lãnh đạo, chỉ huy, quản
lý hoặc làm công tác chuyên môn nghiệp vụ trong một tổ chức chính trị, xã
hội nhất định, có chức năng tổ chức phối hợp hành động của các thành viên
trong tổ chức, nhằm đạt tới những mục tiêu đã đề ra; là những người giữ vai
trò nòng cốt trong tổ chức, có tác động ảnh hưởng đến mọi hoạt động của tổ
chức, góp phần định hướng sự phát triển của tổ chức.
Cán bộ là vấn đề liên quan tới vận mệnh của Đảng, của đất nước, của chế
độ, là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. V.I.Lênin đã khẳng định:
“Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu

nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị,
những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”
[28, tr.473]. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:
“cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích


18
cho dân chúng hiểu rõ và thi hành; đồng thời đem tình hình của dân chúng báo
cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng” [32, tr.269].
Đội ngũ cán bộ là tập hợp những người cán bộ thành một lực lượng có
số lượng, chất lượng, cơ cấu đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ chính trị, chức
năng, hoạt động của một tổ chức chính trị, xã hội nhất định.
Đội ngũ cán bộ của xã, phường, thị trấn là tập hợp những cán bộ trong hệ
thống tổ chức hành chính ở cơ sở, là những cán bộ, đảng viên phụ trách một
lĩnh vực công tác cụ thể của tổ chức đảng, chính quyền hay đoàn thể ở xã,
phường, thị trấn, có số lượng, cơ cấu, tiêu chuẩn theo quy định của Nhà nước.
Chủ chốt, theo Từ điển tiếng Việt là “quan trọng nhất, có tác dụng làm
nòng cốt” [41, tr.227].
Cán bộ chủ chốt của Đảng và Nhà nước là những người nắm giữ những
chức vụ lãnh đạo, quản lý trong tổ chức đảng, chính quyền, ban, ngành, đoàn
thể từ Trung ương đến địa phương, là lực lượng nòng cốt, nhân tố quyết định
thành bại của cách mạng.
Từ những luận giải trên, có thể quan niệm: Đội ngũ CBCC xã, phường, thị
trấn tỉnh Bắc Ninh là những cán bộ, đảng viên của Đảng, Nhà nước; đảm nhiệm
cương vị lãnh đạo, quản lý, điều hành trong tổ chức đảng, chính quyền ở xã,
phường, thị trấn; là lực lượng nòng cốt quán triệt, triển khai và tổ chức thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chỉ thị,
nghị quyết của cấp trên ở địa phương; trực tiếp đề xuất cho cấp uỷ, chính quyền
quyết định những chủ trương, chương trình, kế hoạch phát triển KT - XH, củng
cố QP, AN ở địa phương; lãnh đạo, quản lý, điều hành các tổ chức, các lực

lượng của xã, phường, thị trấn thực hiện nhiệm vụ xây dựng và BVTQ ở địa
phương.


19
Cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn tỉnh Bắc Ninh, bao gồm: Bí thư,
Phó bí thư, Uỷ viên Thường vụ đảng uỷ, Chủ tịch, Phó chủ tịch Hội đồng
nhân dân và UBND xã, phường, thị trấn. Theo quy định của Chính phủ, trong
công tác giáo dục QP, AN, đội ngũ cán bộ này thuộc đối tượng 3.
Đặc điểm của đội ngũ CBCC xã, phường, thị trấn tỉnh Bắc Ninh
Đội ngũ CBCC xã, phường, thị trấn của tỉnh Bắc Ninh hiện nay cơ bản
được biên chế đủ theo quy định của Chính phủ, vì vậy, không có hiện tượng
thiếu cán bộ kéo dài, hoặc một cán bộ phải kiêm nhiệm quá nhiều công việc.
Mỗi CBCC xã, phường, thị trấn đều được giao trọng trách giữ các chức vụ lãnh
đạo, quản lý, điều hành trong tổ chức đảng, chính quyền ở địa phương, nên họ có
trách nhiệm rất cao trong công việc, có ảnh hưởng lớn đến mọi hoạt động của
địa phương trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và QP, AN.
Đội ngũ cán bộ này cơ bản là những người tiêu biểu về phẩm chất và năng lực ở
địa phương, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của nhiệm vụ theo từng chức danh cán bộ.
Cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn tỉnh Bắc Ninh có tuổi đời, trình
độ học vấn và năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành không đồng đều nhau .
Sự không đồng đều đó không chỉ diễn ra giữa địa phương này với địa
phương khác, mà còn diễn ra ngay trong từng địa phương cụ thể, giữa từng
chức danh CBCC [50], [51]. Kết quả khảo sát thực tiễn cho thấy, CBCC xã,
phường, thị trấn tỉnh Bắc Ninh có tuổi đời trên 50 chiếm 12,70%, từ 40 đến
50 tuổi chiếm 55,18%, từ 30 đến 39 tuổi chiếm 28,32%, dưới 30 tuổi chiếm
3,80%. Về trình độ văn hoá, hiện nay, đại bộ phận CBCC xã, phường, thị
trấn tỉnh Bắc Ninh có trình độ trung học phổ thông (chiếm 92,85%) [51].
Về trình độ chuyên môn, số cán bộ có trình độ sơ cấp chiếm 6,42%, trung
cấp 34,31%, cao đẳng 4,09%, đại học 15,04%. Đa số CBCC xã, phường,

thị trấn có trình độ trung cấp lý luận chính trị (chiếm 81,17%) và trình độ
sơ cấp quản lý nhà nước (chiếm 55,18%) [51]. Họ là những cán bộ, đảng


20
viên được rèn luyện, trưởng thành và phát triển từ các cương vị lãnh đạo,
quản lý ở các thôn, xóm, khu phố, nên đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm
trong lãnh đạo, quản lý, điều hành các hoạt động của địa phương.
Phần lớn CBCC xã, phường, thị trấn tỉnh Bắc Ninh là bộ đội đã nghỉ
hưu, phục viên, xuất ngũ hoặc chuyển ngành (chiếm 66,13%). Do từng được
rèn luyện, thử thách trong môi trường quân đội, nên cơ bản đội ngũ cán bộ
này thường có bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng, tuyệt đối trung thành
với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, tin tưởng và chấp hành tốt
mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
cũng như các quy định của địa phương; có phẩm chất đạo đức tốt, lối sống
lành mạnh, đa số miễn dịch được với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và
các tệ nạn, tiêu cực xã hội; có trình độ, năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành
mọi hoạt động của địa phương, đặc biệt là có trình độ, kiến thức, năng lực và
kinh nghiệm lãnh đạo, quản lý, điều hành, tổ chức thực hiện nhiệm vụ QS,
QP, an ninh ở địa phương; có phương pháp, tác phong công tác khoa học, phù
hợp, sâu sát quần chúng, nói đi đôi với làm…
Trong quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ, CBCC xã, phường, thị
trấn tỉnh Bắc Ninh phải giải quyết nhiều công việc và mối quan hệ đa dạng,
phức tạp. Những công việc đó bao gồm: công việc chuyên môn theo chức
trách, nhiệm vụ; các công việc liên quan đến mọi hoạt động của tổ chức đảng,
chính quyền, ban, ngành, đoàn thể và nhân dân trên địa bàn địa phương; phải
chỉ đạo xử lý các tình huống phức tạp, các mâu thuẫn, tranh chấp, khiếu kiện
trong nhân dân… Đội ngũ CBCC xã, phường, thị trấn phải giải quyết nhiều
mối quan hệ phức tạp, bao gồm: các mối quan hệ trong nội bộ các tổ chức
đảng, chính quyền, ban, ngành, đoàn thể thuộc quyền; mối quan hệ với cấp uỷ,

chính quyền, cơ quan chức năng và các tổ chức chính trị, kinh tế, văn hoá, xã
hội, quân sự, an ninh của cấp trên đứng chân trên địa bàn; quan hệ với các thôn,


21
xóm, khu phố và với nhân dân địa phương. Trong quá trình giải quyết các mối
quan hệ đó, nhiều khi đội ngũ này bị chi phối bởi quan hệ dòng tộc, làng xã,
xóm giềng.
Điều kiện và môi trường hoạt động của đội ngũ CBCC xã, phường, thị
trấn tỉnh Bắc Ninh nhìn chung tương đối thuận lợi. Cơ sở vật chất phục vụ
cho công tác của đội ngũ CBCC xã, phường, thị trấn tỉnh Bắc Ninh ngày càng
đầy đủ hơn. Hầu hết các xã, phường, thị trấn đều có trụ sở làm việc tương đối
khang trang, có 114/126 trụ sở được xây dựng kiên cố, đạt 90,47%; trang thiết
bị văn phòng và thông tin liên lạc khá hiện đại, có 59 máy photocopy, 446 máy
vi tính, 343 máy điện thoại… [52]. Tuy nhiên, điều kiện và môi trường hoạt
động của đội ngũ cán bộ này ở tỉnh Bắc Ninh không đồng đều nhau. Qua khảo
sát thực tiễn, cho thấy, ở các phường, xã thuộc thành phố Bắc Ninh, thị xã Từ
Sơn và các xã có KT - XH phát triển thì điều kiện công tác của CBCC thuận lợi
hơn so với các địa phương thuần nông, KT - XH kém phát triển [52].
Những đặc điểm trên chi phối không nhỏ đến hoạt động xây dựng, bồi
dưỡng, nâng cao phẩm chất, năng lực cho đội ngũ CBCC xã, phường, thị trấn
tỉnh Bắc Ninh, trong đó có hoạt động bồi dưỡng kiến thức QP, AN. Cấp uỷ,
chính quyền và cơ quan chức năng các cấp, các ngành ở Bắc Ninh cần nắm vững
những đặc điểm trên để xác định nội dung, hình thức, phương pháp bồi dưỡng
kiến thức QP, AN cho đội ngũ cán bộ này phù hợp, có hiệu quả thiết thực.
Vai trò của đội ngũ CBCC xã, phường, thị trấn tỉnh Bắc Ninh
Đội ngũ CBCC xã, phường, thị trấn là lực lượng nòng cốt trong quán
triệt, triển khai và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ QP, AN ở địa
phương.

Mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước muốn đi vào
cuộc sống và trở thành hiện thực thì phải có đội ngũ cán bộ vững mạnh. Bởi


22
lẽ, “khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công hoặc thất bại của chính sách
đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ” [33, tr.520]. Là
những người giữ vai trò lãnh đạo, quản lý, điều hành trong các tổ chức đảng,
chính quyền ở xã, phường, thị trấn, đội ngũ CBCC là những người “tổ chức
công việc”, là những “đầu tầu” của bộ máy hành chính ở địa phương. Họ có
trách nhiệm nghiên cứu, quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết, chỉ thị của cấp trên, vận dụng vào
tình hình cụ thể của địa phương để hoạch định chủ trương, kế hoạch phát
triển KT - XH, củng cố QP, AN của địa phương. CBCC xã, phường, thị trấn
trực tiếp tổ chức quán triệt, giáo dục cho cán bộ, nhân viên thuộc quyền và
nhân dân địa phương nắm vững mọi đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước, nhiệm vụ chính trị của địa phương, trong đó có nhiệm vụ QS, QP, an
ninh; đồng thời, trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện biến đường
lối, chủ trương, chính sách, nhiệm vụ đó thành kết quả thực tế ở địa phương
mình. Trong quá trình đó, CBCC xã, phường, thị trấn thường xuyên tổng kết
thực tiễn, rút ra những kinh nghiệm đúng đắn, sát thực, kịp thời đề xuất và
đóng góp với Đảng, Nhà nước và cấp trên để hoàn thiện đường lối, chính
sách nói chung, đường lối nhiệm vụ QS, QP, an ninh nói riêng.
Đội ngũ CBCC xã, phường, thị trấn trực tiếp đề xuất giúp cấp uỷ,
chính quyền địa phương quyết định những chủ trương, biện pháp xây dựng,
phát triển KT - XH, thực hiện nhiệm vụ QS, QP địa phương; đồng thời, trực
tiếp quản lý, điều hành các tổ chức, các lực lượng ở địa phương thực hiện
mọi nhiệm vụ, trong đó có công tác QS, QP địa phương.
Được giao giữ những chức vụ chủ chốt trong tổ chức đảng, chính quyền ở
địa phương, CBCC xã, phường, thị trấn tỉnh Bắc Ninh là những người hơn ai hết

nắm chắc sự chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên và hiểu rất rõ đặc điểm, tình hình


23
mọi mặt của địa phương. Vì vậy, những ý kiến tham mưu, đề xuất của CBCC
thường có cơ sở chắc chắn, có giá trị cao và được mọi người trân trọng, thừa
nhận. Những ý kiến đó là cơ sở quan trọng giúp cấp uỷ và chính quyền quyết
định những chủ trương, biện pháp lãnh đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ xây
dựng, phát triển KT - XH, củng cố QP, AN ở địa phương. Tính đúng đắn của
những chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền xã,
phường, thị trấn phụ thuộc trực tiếp vào phẩm chất, năng lực của đội ngũ CBCC.
Sau khi có nghị quyết của cấp uỷ, chỉ thị, kế hoạch của chính quyền,
CBCC xã, phường, thị trấn trực tiếp lãnh đạo, quản lý, điều hành mọi tổ chức,
mọi lực lượng ở địa phương thực hiện mọi nhiệm vụ, trên tất cả các lĩnh vực:
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và QP, AN; bảo đảm cho các hoạt động của
các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể và của nhân dân địa phương diễn ra thống
nhất, nhịp nhàng, đúng chủ trương, kế hoạch và đạt hiệu quả thiết thực.
Đội ngũ CBCC xã, phường, thị trấn có vai trò quan trọng trong xây
dựng và phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, LLVT và nhân dân
địa phương thực hiện nhiệm vụ QS, QP địa phương.
Công tác QS, QP ở xã, phường, thị trấn là một bộ phận quan trọng trong
toàn bộ công tác QS, QP của Đảng, Nhà nước, được tiến hành ở cơ sở trong cả
thời bình và thời chiến, nhằm tổ chức và động viên quần chúng tham gia xây
dựng nền QPTD, chuẩn bị và tiến hành chiến tranh nhân dân, thực hiện bảo vệ
địa phương, góp phần giữ vững chủ quyền, an ninh quốc gia trong thế trận
phòng thủ BVTQ của cả nước. Công tác QS, QP ở xã, phường, thị trấn do toàn
thể đảng bộ, LLVT và nhân dân trên địa bàn địa phương tiến hành, dưới sự
lãnh đạo của cấp uỷ đảng, sự quản lý, điều hành, tổ chức thực hiện của chính
quyền xã, phường, thị trấn và sự chỉ đạo, chỉ huy của cơ quan quân sự cấp trên.
Như vậy, tiến hành công tác QS, QP địa phương là trách nhiệm, nhiệm

vụ chính trị của cả hệ thống chính trị, LLVT và nhân dân địa phương. Sự lãnh


24
đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành của CBCC xã, phường, thị trấn nhằm nâng
cao nhận thức, trách nhiệm, phối kết hợp hoạt động của các tổ chức, các lực
lượng trong thực hiện công tác QS, QP địa phương một cách đúng hướng,
nhịp nhàng, có hiệu quả; bảo đảm phát huy sức mạnh tổng hợp của xã,
phường, thị trấn vào thực hiện nhiệm vụ QS, QP, an ninh trên địa bàn địa
phương.
Cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn là những người trực tiếp chỉ đạo,
giải quyết những vấn đề nảy sinh về QP, AN ở địa phương.
Xã, phường, thị trấn là nơi nhân dân trực tiếp sinh sống, lao động sản
xuất, nơi trực tiếp diễn ra các hoạt động về chính trị, xã hội và QP, AN, vì thế
cũng là nơi thường nảy sinh các vấn đề QP, AN phức tạp phải giải quyết kịp
thời. Do đặc điểm về địa lý, KT - XH và phong tục tập quán… nên các vấn đề
nảy sinh về QP, AN ở các xã, phường, thị trấn tỉnh Bắc Ninh càng trở nên
phức tạp, bức xúc như: các vụ khiếu kiện, tranh chấp đất đai, các tệ nạn
nghiện hút, cờ bạc, rượu chè, mại dâm, hủ tục mê tín, dị đoan… Việc xử lý,
giải quyết những vấn đề đó là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã
hội, trong đó, CBCC xã, phường, thị trấn là lực lượng quan trọng, giữ vai trò
trực tiếp chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Tính đúng đắn và hiệu quả giải quyết
những vấn đề đó phụ thuộc một cách trực tiếp vào phẩm chất, năng lực,
phương pháp, tác phong công tác và uy tín của mỗi CBCC xã, phường, thị
trấn.
1.1.2. Một số vấn đề cơ bản về bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an
ninh cho đội ngũ cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn tỉnh Bắc Ninh
* Kiến thức QP, AN và quan niệm về bồi dưỡng kiến thức QP, AN cho
đội ngũ CBCC xã, phường, thị trấn tỉnh Bắc Ninh
Kiến thức QP, AN

Quốc phòng, an ninh là một lĩnh vực rộng lớn, đa dạng, có liên quan
đến mọi cấp, mọi ngành, mọi tổ chức, mọi lực lượng, có quan hệ đến sức


25
mạnh phòng thủ của quốc gia, quyết định sự sinh tồn, trạng thái ổn định, an
toàn và phát triển của đất nước.
Kiến thức QP, AN là sự hiểu biết lý luận, thực tiễn về QP, AN thông
qua tìm hiểu, học tập. Đó là sự hiểu biết cơ bản quan điểm, đường lối, chính
sách của Đảng, Nhà nước về xây dựng nền QPTD, xây dựng LLVT nhân
dân, tiến hành chiến tranh nhân dân, xây dựng tiềm lực QP, AN; hiểu biết
những kiến thức cơ bản về QS, QP, an ninh cần thiết… phù hợp với cương
vị, chức trách, nhiệm vụ của mỗi người.
Kiến thức QP, AN của đội ngũ CBCC xã, phường, thị trấn là hệ thống
những tri thức, hiểu biết về QS, QP, an ninh, về những vấn đề chính trị,
kinh tế, văn hoá, khoa học, kỹ thuật, công nghệ và chính sách đối nội, đối
ngoại của Đảng, Nhà nước liên quan đến QP, AN, giúp cho đội ngũ CBCC
xã, phường, thị trấn phát huy sức mạnh tổng hợp của địa phương vào thực
hiện công tác QS, QP địa phương, góp phần trực tiếp vào việc giữ vững
hoà bình, ổn định chính trị, ngăn chặn, đẩy lùi các hoạt động chống phá của
các thế lực thù địch trên địa bàn địa phương.
Quan niệm về bồi dưỡng kiến thức QP, AN cho đội ngũ CBCC xã,
phường, thị trấn tỉnh Bắc Ninh
Bồi dưỡng là khái niệm được sử dụng phổ biến, rộng rãi trong các lĩnh
vực, các hoạt động của đời sống xã hội. Theo Từ điển tiếng Việt, bồi dưỡng
là “làm tăng thêm trình độ, năng lực hoặc phẩm chất” [41, tr.107]. Trong
công tác cán bộ, bồi dưỡng, được hiểu là hoạt động trang bị, bổ túc thêm
những tri thức, kinh nghiệm, nhằm bổ sung, phát triển, hoàn thiện những
phẩm chất, năng lực đã có của người cán bộ, để họ có đủ khả năng hoàn
thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao trong mọi hoàn cảnh.

Bồi dưỡng kiến thức QP, AN là hoạt động làm cho đối tượng được bồi
dưỡng nâng cao nhận thức, trách nhiệm và khả năng thực hiện nhiệm vụ về QS,


26
QP, an ninh, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và BVTQ Việt Nam XHCN.
Đây là hoạt động có tổ chức, có mục đích, có kế hoạch, “phải được chỉ đạo, tổ
chức thực hiện chặt chẽ, thống nhất từ Trung ương đến địa phương bằng các
hình thức phù hợp với từng đối tượng, kết hợp giáo dục thường xuyên với giáo
dục tập trung có trọng tâm, trọng điểm” [4]. “Mọi cán bộ, đảng viên, trước hết
là cán bộ lãnh đạo chủ chốt từ Trung ương đến cơ sở, phải tham gia các lớp bồi
dưỡng kiến thức QP, AN theo triệu tập của cơ quan có thẩm quyền” [1]. Theo
Nghị định 116 của Chính phủ, mọi CBCC xã, phường, thị trấn phải được bồi
dưỡng kiến thức QP, AN tại trường quân sự cấp tỉnh. Đó là các lớp học tập
trung được tổ chức trong thời gian ngắn để bồi dưỡng cho cán bộ những kiến
thức cơ bản nhất về QP, AN, làm cơ sở để cán bộ tự nghiên cứu, tự học tập sau
này, nhằm không ngừng nâng cao nhận thức và năng lực hoạt động QS, QP, an
ninh đáp ứng với sự phát triển của tình hình, nhiệm vụ. Vì vậy, quan niệm về
bồi dưỡng kiến thức QP, AN cho CBCC xã, phường, thị trấn phải bao gồm cả
hoạt động bồi dưỡng tập trung tại nhà trường và hoạt động bồi dưỡng tại chức
tại địa phương, cũng như hoạt động tự bồi dưỡng, tự học tập của mỗi cán bộ.
Từ cách tiếp cận trên, có thể quan niệm: Bồi dưỡng kiến thức QP, AN cho đội
ngũ CBCC xã, phường, thị trấn tỉnh Bắc Ninh là tổng thể những hình thức, biện
pháp của cấp uỷ, chính quyền, cơ quan chức năng và các lực lượng của tỉnh Bắc
Ninh nhằm trang bị, bổ sung, phát triển, hoàn thiện ý thức, tri thức, kỹ năng, kinh
nghiệm về QP, AN cho đội ngũ CBCC xã, phường, thị trấn của tỉnh, đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ địa phương, đất nước trong mọi tình huống.
Quan niệm trên chỉ ra:
Mục đích bồi dưỡng là nhằm trang bị, bổ sung, phát triển, hoàn thiện ý
thức, tri thức, kỹ năng, kinh nghiệm về QP, AN cho đội ngũ CBCC xã,

phường, thị trấn tỉnh Bắc Ninh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo
vệ địa phương, đất nước trong mọi tình huống.


27
Chủ thể bồi dưỡng kiến thức QP, AN cho đội ngũ CBCC xã, phường, thị
trấn tỉnh Bắc Ninh là cấp uỷ, chính quyền, các cơ quan chức năng của tỉnh
Bắc Ninh. Bao gồm: cấp uỷ, chính quyền địa phương các cấp của tỉnh; đảng
uỷ, chỉ huy và các cơ quan chức năng của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, ban chỉ
huy quân sự các huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; lãnh đạo các cơ quan,
ban, ngành, đoàn thể ở địa phương; Đảng uỷ, Ban Giám hiệu, các cơ quan và
đội ngũ giáo viên, báo cáo viên của Trường Quân sự tỉnh và bản thân mỗi
CBCC trong quá trình tự bồi dưỡng, tự học tập.
Lực lượng tham gia bồi dưỡng là các tổ chức trong hệ thống chính trị,
đội ngũ cán bộ, đảng viên của địa phương. Trong đó, lực lượng tham gia trực
tiếp là những báo cáo viên của các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể ở địa
phương (nhất là cơ quan quân sự và công an) và những cán bộ, giáo viên của
các học viện, nhà trường quân đội, công an được địa phương mời tham gia
giảng dạy.
Đối tượng bồi dưỡng là đội ngũ CBCC xã, phường, thị trấn của tỉnh Bắc
Ninh.
Nội dung bồi dưỡng, bao gồm: những tri thức, kiến thức, kỹ năng, kinh
nghiệm về QP, AN. Trong đó tập trung vào: học thuyết Mác- Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về chiến tranh quân đội, về BVTQ XHCN; đường lối xây dựng nền
QPTD, xây dựng LLVT nhân dân và tiến hành chiến tranh nhân dân của Đảng;
nghệ thuật quân sự Việt Nam; về âm mưu thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc và các
thế lực thù địch chống phá cách mạng nước ta; những nội dung cơ bản về công
tác QS, QP, an ninh ở địa phương; kiến thức cơ bản về kỹ, chiến thuật cần thiết
và tình hình kinh tế, chính trị, xã hội liên quan đến QP, AN ở địa phương...
Hình thức, phương pháp bồi dưỡng, bao gồm: bồi dưỡng tập trung tại

Trường Quân sự tỉnh; thông qua các hoạt động bồi dưỡng tại chức ở địa
phương, cơ sở; thông qua việc tự học tập, tự nghiên cứu, tự bồi dưỡng của đội


×