Tải bản đầy đủ (.doc) (151 trang)

Giáo trình điều tra và quy hoạch GTVt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (671.13 KB, 151 trang )

BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI
TRƯỜNG CAO ĐẲNG GTVT MIỀN TRUNG

GIÁO TRÌNH

ĐIỀU TRA VÀ QUY HOẠCH
GIAO THÔNG VẬN TẢI
DÙNG CHO HỆ CAO ĐẲNG
(Lưu hành nội bộ)

Nghệ An, năm 2014



BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI

TRƯỜNG CAO ĐẲNG GTVT MIỀN TRUNG

Giảng viên biên soạn:

ThS. HOÀNG THỊ HỒNG NHUNG

GIÁO TRÌNH

ĐIỀU TRA VÀ QUY HOẠCH
GIAO THÔNG VẬN TẢI
DÙNG CHO HỆ CAO ĐẲNG
(Lưu hành nội bộ)

Nghệ An, năm 2014




LỜI NÓI ĐẦU
Để phục vụ công tác giảng dạy cho sinh viên chuyên ngành Kinh tế xây dựng,
Trường Cao đẳng GTVT Miền Trung chủ trương biên soạn và in ấn giáo trình
ĐIỀU TRA VÀ QUY HOẠCH GIAO THÔNG VẬN TẢI.
Giáo trình được biên soạn gồm 2 phần chính:
Phần một gồm chương 1 đến chương 5: Cơ sở và phương pháp điều tra kinh
tế nhằm thu thập những thông tin kinh tế kỹ thuật cần thiết để phục vụ công tác
nghiên cứu lập quy hoạch GTVT, lập dự án đầu tư hoặc thiết kế một công trình cụ
thể.
Phần hai gồm chương 6 đến chương 10: Cơ sở và phương pháp về lập quy
hoạch phát triển GTVT một khu vực, một vùng hoặc quy hoạch GTVT toàn quốc;
Trình tự nội dung lập quy hoạch phát triển GTVT khu vực; Các phương pháp dự
báo nhu cầu vận chuyển; Phương pháp lựa chọn phương án quy hoạch.
Trong quá trình biên soạn, mặc dù tác giả đã có rất nhiều cố gắng, song
không tránh khỏi thiếu sót. Kính mong bạn đọc góp ý kiến để lần tái bản cuốn sách
sẽ hoàn thiện hơn.
Tác giả
Th.S Hoàng Thị Hồng Nhung

1


2


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGÀNH GIAO THÔNG VẬN TẢI


1.1. GIAO THÔNG VẬN TẢI TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN

Giao thông vận tải, một ngành quan trọng của quá trình phát triển kinh tế xã
hội của mỗi quốc gia. Theo quy luật, ngành sản xuất này phải sử dụng sản phẩm
của ngành kia và ngược lại. Mặt khác, mỗi người chúng ta, từ lúc sinh ra và lớn lên
đến khi chết đi đều phải di chuyển nên đã tạo ra sự lưu thông tất yếu giữa các cơ sở
sản xuất và các khu dân cư. Vì vậy, giao thông vận tải theo quy luật đã trở thành
mạch máu của mọi sự hoạt động và tồn tại của con người. Có thể nói rằng: “Giao
thông vận tải là mạch máu của nền kinh tế quốc dân”, nó luôn giữ vai trò quan
trọng trong việc tạo điều kiện và thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển, là một trong
những cơ sở hạ tầng quan trọng nhất, đảm bảo lưu thông hàng hóa và hành khách,
nối liền các khu kinh tế văn hóa, thành thị với nông thôn, quốc gia với khu vực,
liên kết quốc tế.
Nền kinh tế ngày càng phát triển, khối lượng hàng hóa do con người làm ra
ngày càng nhiều thì nhu cầu xây dựng giao thông và nhu cầu vận chuyển đòi hỏi
ngày càng cao. Chúng ta cũng không ngạc nhiên khi thấy rằng ở các nước có nền
kinh tế phát triển, xã hội văn minh đều có hệ thống giao thông hiện đại và hoàn
hảo.
- Giao thông vận tải là một trong những điều kiện quan trọng để xây dựng cơ
sở vật chất của một quốc gia
Giao thông vận tải có quan hệ hữu cơ với sự phát triển của các ngành kinh tế
khác. Giao thông vận tải phát triển sẽ tạo tiền đề cho sự tăng trưởng nhanh của nền
kinh tế.
Về mặt xã hội, giao thông vận tải đáp ứng nhu cầu đi lại của nhân dân, tăng
cường giao lưu văn hóa góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, tăng
cường hợp tác quốc tế.
Giao thông vận tải phát triển tương xứng để đáp ứng yêu cầu vận chuyển
hàng hóa và hành khách thúc đẩy việc phát triển lực lượng sản xuất của xã hội,
đồng thời góp phần phân công hợp lý sức lao động tạo sự cân đối hài hòa giữa
thành thị và nông thôn.

- Giao thông vận tải phát triển góp phần tiết kiệm chi phí xã hội và thời gian
vận chuyển
Quá trình phát triển sản xuất xã hội mang tính chuyên môn hóa ngày càng cao
đã làm hình thành lên những khu công nghiệp, những vùng kinh tế chuyên canh,
những khu chế xuất thì vai trò giao thông vận tải ngày càng được khẳng định bởi
nó có vai trò quan trọng trong việc phân phối lưu thông hàng hóa giữa các vùng,
các khu vực. Hầu hết các sản phẩm nông nghiệp và thủy hải sản đều có đặc tính
mau hỏng, cần được chế biến và bảo quản theo đúng quy trình công nghệ nhất
3


định. Bên cạnh đó, nhu cầu người tiêu dùng luôn có nhu cầu sử dụng sản phẩm
tươi sống. Vì vậy vào mùa thu hoạch, nếu như không có hệ thống giao thông phát
triển đủ để phân phối nhanh các sản phẩm này đến tay người tiêu dùng dẫn đến
hàng hóa bị ứ đọng, một số hàng hóa bị hư hỏng gây thiệt hại cho người sản xuất,
còn nơi có nhu cầu sử dụng thì rơi vào tình trạng khan hiếm giá cả tăng lên. Như
vậy cả người sản xuất và người tiêu dùng đều bị thiệt hại không nhỏ về mặt kinh
tế, và là thiệt hại chung cho xã hội.
Giao thông vận tải phát triển với những tuyến đường và những phương tiện
vận tải có chất lượng tốt, tổ chức vận tải hợp lý sẽ rút ngắn thời gian vận chuyển.
Tiết kiệm thời gian vận chuyển sẽ tiết kiệm nhiên liệu và giảm thời gian vận hành
phương tiện vận tải, mang lại lợi ích cho doanh nghiệp vận tải. Rút ngắn thời gian
vận chuyển có ý nghĩa lớn đối với hành khách và các chủ hàng. Đối với người lao
động thì tiết kiệm thời gian đi lại được tính bằng thu nhập theo tiền lương thời
gian của họ, đối với những người buôn bán thì giá trị thời gian của họ được tính
bằng thu nhập do kinh doanh.
- Giao thông vận tải phát triển góp phần kích thích nền kinh tế xã hội phát
triển
Giao thông vận tải đối với xã hội như huyết mạch đối với con người, nó có
vai trò quan trọng trong việc kích thích xã hội phát triển vì nó trực tiếp tham gia

vào quá trình phân phối tất cả các sản phẩm của nền kinh tế quốc dân từ nơi sản
xuất đến nơi tiêu thụ.
Giao thông vận tải là điều kiện không thể thiếu được để đảm bảo sản xuất
bình thường của các nhà máy, xí nghiệp.
Muốn đảm bảo sản xuất bình thường của các nhà máy xí nghiệp thì việc vận
chuyển nguyên nhiên vật liệu cho các cơ sở sản xuất cũng như vận chuyển sản
phẩm đi tiêu thụ phải đảm bảo kịp thời đầy đủ. Ngược lại nếu không vận chuyển
kịp thời đầy đủ sẽ gây trì trệ hoặc có thể bị ngừng sản xuất.
Giao thông vận tải góp phần quan trọng trong việc phát triển nông nghiệp.
Hiện nay ở nước ta lực lượng lao động nông nghiệp còn chiếm phần lớn lực
lượng lao động xã hội. Giao thông vận tải không chỉ phục vụ cho công tác sản xuất
bình thường của nông nghiệp mà còn góp phần mở ra những khu kinh tế mới, thúc
đẩy mạnh mẽ sự phát triển của ngành nông nghiệp.
Giao thông vận tải còn là một trong những điều kiện quyết định phát triển
ngành thương nghiệp, nâng cao đời sống văn hóa của nhân dân góp phần đoàn kết
của dân tộc, đoàn kết quốc tế.
Giao thông vận tải còn có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ an
ninh quốc phòng, trong xây dựng và phát triển kinh tế của một đất nước.
- Ngành giao thông vận tải sử dụng lượng vốn là lực lượng lao động lớn của
xã hội
Hàng năm ở nước ta, Nhà nước giành khoảng 15 - 20% tổng số vốn đầu tư
XDCB để đầu tư cho giao thông vận tải (chiếm 3 - 3,5% GDP, hay 12 - 13% tổng
thu ngân sách). Lực lượng lao động của ngành vận tải chiếm khoảng 10 - 15% lao
động xã hội.
4


1.2. NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ NGÀNH VẬN TẢI

1.2.1. Vận tải là một ngành sản xuất vật chất đặc biệt

Theo quan điểm này thì bất kỳ một ngành sản xuất vật chất nào muốn tiến
hành sản xuất được bao giờ cũng cần có ba yếu tố: Sức lao động, tư liệu lao động
và đối tượng lao động.
Sức lao động là sự hoạt động có ích của con người. Trong quá trình lao động
con người làm thay đổi tự nhiên để phục vụ đời sống của con người.
Đối tượng lao động bao gồm hết thảy những cái gì mà sức lao động con người
kết hợp với tư liệu lao động tác động vào nó, làm nó thay đổi các tính chất cơ, lý
hóa và kích thước, hình dáng ban đầu của nó theo nhu cầu đời sống con người.
Vận tải cũng là một ngành sản xuất vật chất vì quá trình sản xuất của nó cũng
bao gồm 3 yếu tố như các ngành sản xuất vật chất khác:
Lao động ở đây là công nhân làm công tác vận chuyển: Lái tàu, lái xe, công
nhân bốc xếp, cán bộ công nhân viên quản lý, nhân viên phục vụ...
Công cụ lao động là tất cả các phương tiện vận chuyển, máy móc trang thiết
bị khác phục vụ cho công tác vận chuyển, xếp dỡ...
Đối tượng lao động ở đây lại là hành khách, hàng hóa của khách hàng thuê
vận chuyển.
Quá trình phát triển của vận tải cũng trải qua ba giai đoạn như quá trình phát
triển của ngành công nghiệp là từ thủ công, bước sang công trường thủ công và
tiến tới cơ khí hóa. Như vậy, sản xuất của ngành vận tải mang những tính chất
chung của mọi ngành sản xuất vật chất khác.
Song vận tải là ngành sản xuất chỉ làm chức năng cung cấp tư liệu sản xuất
cho các ngành sản xuất khác. Sự phát triển của vận tải là điều kiện để phát triển sản
xuất và phát triển xã hội, mặt khác sản xuất xã hội phát triển làm cho ngành vận tải
ngày càng phát triển cao hơn.
Vận tải đảm bảo vận chuyển nguyên nhiên liệu và sản phẩm của công nghiệp,
nông nghiệp... thỏa mãn nhu cầu đi lại của con người. Sản phẩm của vận tải là sự
di chuyển hàng hóa và hành khách trong thời gian và không gian nào đó, có nghĩa
là vận tải không sản xuất ra hàng hóa mà chỉ vận chuyển hàng hóa, không tạo ra
sản phẩm vật chất mới, mà chỉ tăng thêm giá trị của sản phẩm vật chất đã có. Vì
vậy theo quan điểm này, người ta coi ngành vận tải là ngành sản xuất vật chất đặc

biệt.
1.2.2. Vận tải là một ngành sản xuất dịch vụ
Theo quan điểm mới hiện nay thì người ta xếp ngành vận tải là ngành sản
xuất dịch vụ. Theo quan niệm này thì ngoài những yếu tố của ngành sản xuất đã
nêu ở trên, thì ngành sản xuất vật chất phải là ngành sản xuất tạo ra sản phẩm phục
vụ cho nhu cầu của con người, sản phẩm của nó phải có đầy đủ ba điều kiện: có
hình thái vật chất cụ thể (có hình dạng, kích thước, sờ thấy được và đo, đếm được),
có giá trị và có giá trị sử dụng.
Chúng ta đã biết trong bất cứ một ngành sản xuất vật chất nào, công nghiệp
hay nông nghiệp đều làm thay đổi những thuộc tính cơ, lý, hóa, hình dáng, kích
5


thước khác đối tượng lao động ban đầu. Sản phẩm này tồn tại không phụ thuộc vào
quá trình sản xuất sản sinh ra nó.
Trong vận tải thì khác hẳn, quá trình vận chuyển trong điều kiện bình thường
không làm biến đổi hình dạng, kích thước của hàng hóa, mà chỉ thay đổi vị trí của
hàng hóa trong thời gian và không gian chứ không tạo ra sản phẩm mới cho xã hội.
Sau quá trình sản xuất vận tải người ta không thấy hình dáng cụ thể của một sản
phẩm mà chỉ thấy giá trị hàng hóa tăng lên. Vì vậy người ta xếp ngành vận tải là
ngành sản xuất dịch vụ.
Tuy bản thân ngành vận tải không tạo ra sản phẩm mới cho xã hội, song nó lại
góp phần cho việc hoàn tất một chu trình sản xuất của cải cho xã hội, là sự tiếp tục
của phát triển sản xuất trong lĩnh vực lưu thông. Không có vận tải nếu không có
các công trình xây dựng giao thông, song nếu như nhu cầu vận tải hàng hóa và
hành khách phát sinh từ đời sống kinh tế - xã hội thì nhu cầu xây dựng giao thông
nảy sinh từ nhu cầu vận tải.
Những quan niệm nêu trên tuy cách gọi khác nhau song nó cũng thể hiện đặc
điểm của hoạt động sản xuất của ngành vận tải. Ngoài ra, còn phải kể đến một số
đặc điểm đặc trưng hoạt động của ngành vận tải, đó là:

- Quá trình sản xuất của vận tải đồng thời là quá trình tiêu thụ
Sản phẩm của vận tải là sự di chuyển hàng hóa và hành khách trong không
gian và thời gian. Quá trình sản xuất của ngành vận tải được kết thúc khi hàng hóa
đã được đưa tới nơi nhận, khi đó sản phẩm của vận tải cũng được tiêu thụ. Giá trị
mới của hàng hóa là kết quả của một quá trình sản xuất của ngành vận tải.
Như vậy là trong vận tải không thể có dự trữ sản phẩm, cũng do đó không có
bảo quản sản phẩm trong quá trình sản xuất và không có tích lũy sản phẩm. Song
trong quá trình vận tải lại phải dự trữ sức sản xuất, cụ thể là dự trữ khả năng thông
qua và khả năng chuyên chở của mình, nhằm thỏa mãn nhu cầu vận chuyển ngày
càng tăng.
- Quá trình sản xuất của ngành vận tải có thể sử dụng nhiều phương thức
khác nhau:
Quá trình sản xuất của ngành vận tải có thể dùng những phương thức vận tải
khác nhau: Vận tải đường sắt, vận tải đường sông, vận tải đường ô tô, vận tải hàng
không nhưng đều tạo ra một sản phẩm giống nhau. Đó là sự di chuyển hàng hóa và
hành khách trong không gian và thời gian, sản phẩm đó đều biểu thị bằng tấn kilômet hoặc bằng hành khách - kilômet.
Đặc điểm này đòi hỏi mỗi người làm công tác tổ chức vận tải phải có quy
hoạch, kế hoạch tổng hợp để sử dụng hợp lý nhất tất cả các phương thức vận tải,
nhằm đáp ứng nhu cầu vận chuyển của các ngành kinh tế và nhu cầu đi lại của
nhân dân với chi phí xã hội cho công tác vận chuyển là nhỏ nhất hoặc mang lại lợi
ích cao nhất.
- Sản phẩm của vận tải có quan hệ rộng khắp trên toàn quốc và trên thế giới
Hoạt động của vận tải phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, song do tính
chất sản xuất của mình, ngành vận tải hoạt động rộng khắp mọi miền của tổ quốc
từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng, ở các điểm kinh tế, hành chính và các khu dân
6


cư. Ngoài ra nó còn có quan hệ quốc tế rộng khắp bằng đủ các phương thức vận
tải: sắt, thủy, bộ, hàng không...

1.3. PHÂN LOẠI VẬN TẢI VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Có nhiều cách phân loại khác nhau, tùy vào mục đích nghiên cứu thí dụ:
Phân loại theo ngành: bao gồm ngành vận tải đường sắt, vận tải đường sông,
vận tải đường bộ, vận tải đường biển, vận tải hàng không, vận tải đường ống, vận
tải đặc biệt.
Phân loại theo phạm vi phục vụ bao gồm vận tải địa phương (nội vùng), vận
tải ngoại vi, vận tải liên vùng.
Phân loại theo đối tượng vận tải bao gồm vận tải hàng hóa, vận tải hành
khách.
Phân loại theo tính chất bao gồm:
- Vận tải trong nội bộ doanh nghiệp, công ty, công trường, nông trường
- Vận tải công cộng
Ở đây, chúng ta chỉ quan tâm đến cách phân loại này.
1.3.1. Vận tải trong nội bộ doanh nghiệp
Vận tải trong nội bộ doanh nghiệp, công ty hoặc công trường, nông trường là
loại vận tải phục vụ trực tiếp cho quá trình sản xuất của doanh nghiệp, công
trường, nông trường đó. Nó có thể coi là một dây chuyền sản xuất độc lập hoặc là
một bộ phận của dây chuyền sản xuất nào đó để tạo ra sản phẩm nào đó của doanh
nghiệp.
Vận tải trong nội bộ doanh nghiệp, công trường nó không tạo ra sản phẩm
riêng cho mình. Chẳng hạn nhà máy sản xuất gang thép, việc vận chuyển than,
quặng từ bãi lên lò cao, vận chuyển gang từ lò cao sang lò luyện thép, vận chuyển
thép hình sau khi luyện sang kho bãi. Trên các công trường xây dựng việc vận
chuyển đất từ chỗ đào đến chỗ đắp, vận chuyển hỗn hợp nhựa đến chỗ rải mặt
đường... đều thuộc loại vận chuyển nội bộ. Một đặc điểm quan trọng là chi phí vận
chuyển này không được tính riêng mà nó được tính vào giá thành sản phẩm của
doanh nghiệp.
1.3.2. Vận tải công cộng
Vận tải công cộng là loại vận tải không nằm trực tiếp trong quá trình sản xuất

vật chất của bất cứ một doanh nghiệp nào cả.
Vận tải công cộng làm chức năng giao lưu hàng hóa và hành khách giữa các
khu vực kinh tế, hành chính, văn hóa trong cả nước và quốc tế.
Vận tải công cộng chuyên chở hàng hóa từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ, đây
chính là sự tiếp tục quá trình sản xuất của các ngành kinh tế. Hay nói cách khác,
quá trình sản xuất của vận tải là sự tiếp thu của quá trình sản xuất xã hội trong lĩnh
vực lưu thông.
Trong 2 loại vận tải nói trên, trong phạm vi giáo trình này, chúng ta chỉ đề cập
đến vận tải công cộng và giao thông phục vụ vận tải công cộng.
7


1.4. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ - KỸ THUẬT CỦA CÁC NGÀNH VẬN TẢI

1.4.1. Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành vận tải đường sắt
Những đặc điểm nổi bật của ngành vận tải đường sắt là:
- Có năng lực vận chuyển lớn. Đối tượng phục vụ của đường sắt rất rộng rãi,
có khả năng chuyên chở bất cứ hàng hóa gì, với bất cứ số lượng nào.
- Đường sắt bảo đảm vận chuyển hàng hóa thường xuyên liên tục, không
phụ thuộc vào thời tiết (trừ bão lụt lớn) bảo đảm hành trình đúng hạn và an
toàn.
- Đường sắt có tốc độ đưa hàng nhanh, sau vận tải ô tô và hàng không, hơn
hẳn vận tải sông, biển.
- Đường sắt có thể xây dựng ở bất cứ nơi nào, có thể nối liền các khu vực
bằng con đường ngắn nhất. Trong điều kiện khoa học kỹ thuật hiện đại.
- Giá thành vận tải đường sắt hạ so với vận tải ô tô, hàng không. Chi phí xếp
dỡ cho một đơn vị khối lượng vận chuyển lớn hơn so với vận tải ô tô
nhưng lại nhỏ hơn nhiều chi phí xếp dỡ của vận tải đường sông, đường
biển.
- Vận tải đường sắt có năng suất lao động cao, ít gây ô nhiễm môi trường.

Tuy nhiên vận tải đường sắt còn có những hạn chế của nó.
- Chi phí đầu tư xây dựng lớn, gấp từ 6 - 13 lần đường sông, gấp 3 - 5 lần
đường ô tô.
- Xây dựng đường sắt sử dụng rất nhiều vật tư quý hiếm (ray và các phụ
kiện trên đường sắt).
- Vận chuyển của đường sắt không triệt để, cần có sự phối hợp với phương
thức vận tải khác.
Vận tải đường sắt sử dụng thích hợp khi khối lượng vận chuyển lớn, cự ly vận
chuyển dài.
Toàn bộ những đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành đường sắt cho ta thấy
rằng ngành đường sắt là ngành có khả năng mang lại cho nền kinh tế quốc dân hiệu
quả kinh tế cao nhất so với toàn bộ hệ thống vận tải trong nước. Vì vậy ở các nước
trên thế giới có nền kinh tế phát triển đều có hệ thống đường sắt phát triển, hiện
đại.
1.4.2. Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành vận tải ô tô
Vận tải ô tô có tính cơ động, linh hoạt rất cao so với đường sắt và đường
sông.
Tính linh hoạt của nó cho phép có thể hoạt động trong bất cứ lúc nào cũng có
thể huy động được một số lớn phương tiện vận tải cần thiết. Đây là một trong
những đặc điểm rất quan trọng của ngành vận tải ô tô. Tính chất linh hoạt của vận
tải ô tô cho phép phân phối hàng hóa ngay từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ. Điều đó
cho phép rút ngắn thời gian vận chuyển, đưa nhanh vốn vào sản xuất.
- Vận tải ô tô không phụ thuộc vào đường sá như vận tải đường sắt và vận tải
đường sông. Đặc tính này làm cho ô tô có thể chạy trên những đường xấu nhất đến
tốt nhất, thậm chí có thể đi trên những nền đất, trên cát...
8


- Tốc độ đưa hàng hóa của ô tô tương đối nhanh, thực hiện quá trình vận
chuyển triệt để.

Sau ngành hàng không thì ngành vận tải ô tô có tốc độ đưa hàng cao nhất,
thường gấp 2 - 3 lần tốc độ đưa hàng hóa của đường sắt và gấp 5 - 6 lần đường
sông.
- Tổ chức vận chuyển đường ô tô rất phổ cập, có thể phục vụ trực tiếp các xí
nghiệp, trường học, các công trường. Quản lý ô tô, bảo dưỡng ô tô đơn giản hơn
đường sắt.
Vận tải ô tô còn có một số hạn chế sau:
- Giá thành vận chuyển cao, chi phí xây dựng lớn, tốn đất xây dựng, quá trình
vận tải phụ thuộc nhiều vào điều kiện thời tiết.
Khi cự ly vận chuyển lớn thì giá thành vận chuyển bằng đường ô tô cao hơn
đường sắt và đường sông.
- Khối lượng vận chuyển của mỗi xe ít nhưng lại tiêu hao nhiều nhiên liệu,
gây ô nhiễm môi trường, dễ gây tai nạn giao thông.
- Công tác quản lý của ngành vận tải ô tô khó tập trung, khó chỉ đạo chặt chẽ.
- Năng suất lao động vận tải ô tô thấp, chỉ bằng 1/9 đường sắt và bằng 1/6
đường thủy.
- Chi phí nhiên liệu đắt hơn so với đường sông và đường thủy.
Nếu xét tỷ lệ chi phí nhiên liệu tính trong giá thành vận tải thì chi phí nhiên
liệu của ngành vận tải ô tô chiếm 33,8%, đường sắt 19,3%, đường sông 14,4%,
đường biển 20,7%.
- Trọng tải của xe nhỏ, trung bình từ 5 -10 tấn, đặc biệt có xe trọng tải 10 - 15
tấn. Trong khi đó đoàn tàu hàng đường sắt nước ta hiện nay từ 700 - 1000 tấn, tàu
thủy đường sông từ 100 - 1000 tấn, tàu biển hàng chục ngàn tấn. Hiện nay người ta
đã chế tạo được loại xe nặng đến 200 tấn, song những loại xe này chỉ hoạt động
trong phạm vi của đơn vị khai thác mỏ.
Vì những đặc điểm trên, vận tải ô tô được sử dụng thích hợp với cự ly vận
chuyển ngắn, hoặc để vận chuyển ở khu vực mà các phương thức vận tải khác
không thể đảm nhiệm được.
1.4.3. Đặc điểm kinh tế kỹ thuật ngành vận tải đường thủy
Vận tải thủy bao gồm vận tải đường sông và vận tải đường biển.

a. Vận tải đường sông
- Vận tải đường sông có năng lực thông qua và năng lực vận chuyển lớn.
- Có thể vận chuyển được hàng hóa cồng kềnh do trọng tải và thể tích nơi
chứa hàng lớn.
- Năng suất lao động cao, giá thành vận chuyển thấp.
Chi phí đầu tư xây dựng tuyến nhỏ, phụ thuộc vào điều kiện sông ngòi, luồng
lạch. Vốn đầu tư cho ngành vận tải đường sông ít.
Khả năng tàu chạy được cả 2 chiều, không hạn chế việc tránh nhau vượt nhau,
tuy nhiên còn hạn chế ở một số ít chỗ có lòng sông hẹp, kênh đào...
9


- Lực kéo cần thiết cho vận tải đường sông nhỏ so với đường sắt và ô tô.
Một mã lực/giờ nếu vận tải bằng đường sắt thì sản sinh được khoảng 30 - 35
T.km, đường biển khoảng 40 - 50 T.km, đường sông (xà lan đẩy) khoảng 90 - 100
T.km, ô tô có rơ mooc 4 -5 T.km, ô tô không có rơ mooc 1 -2 T.km.
- Giá thành vận tải hạ, chi phí kim loại cho một đơn vị trọng tải ít hơn so với
ngành vận tải khác.
Tuy nhiên, ngành vận tải đường sông còn có một số mặt hạn chế nhất định.
- Quá trình vận chuyển không triệt để, phụ thuộc chủ yếu vào thiên nhiên và
phụ thuộc vào thời tiết, có khi trên một số con sông chỉ tiến hành vận tải được theo
mùa.
Sông Hồng của nước ta chỉ vận chuyển thuận lợi nhất là từ tháng 6 đến tháng
9. Chiều sâu nước cũng thay đổi luôn, ở đoạn Lào Cai - Yên Bái: tháng có mực
nước sâu nhất đạt 8,8m, nhưng có tháng chỉ đạt 2,4 m. Lưu tốc chênh nhau quá
lớn: từ 0,2 - 0,5 m/giây mùa mưa lũ lên tới 2 -3 m/giây.
- Tốc độ vận chuyển trong ngành vận tải đường sông quá chậm so với các
ngành vận tải khác.
- Tốc độ khai thác của vận tải đường sông thường tư 10 - 15 km/giờ. Trong
khi đó ô tô là 25 - 40 km/giờ, đường sắt nước ta hiện nay khoảng 40 - 60 km/giờ.

Ở các nước phát triển hiện nay tốc độ bình quân của đường sắt đối với tàu hàng
khoảng 80 - 120 km/giờ, tàu khách từ 150 - 180 km/giờ. Ở nước Nga hiện nay,
người ta đã tiến hành thiết kế đường sắt chạy trên ray với tốc độ thiết kế là 350
km/giờ đối với tàu khách, 300 km/giờ đối với tàu hàng.
- Cự ly vận chuyển dài, tốc độ đưa hàng thấp, chi phí xếp dỡ cao.
Do đặc điểm trên nên vận tải đường sông được sử dụng thích hợp khi cự ly
vận chuyển dài, với hàng hóa cồng kềnh, không có nhu cầu vận chuyển nhanh.
b. Vận tải đường biển
Vận tải biển bao gồm vận tải biển dọc bờ và vận tải biển quốc tế. Tuy tính
chất vận chuyển khác với vận tải đường sông nhưng đặc điểm của vận tải biển vẫn
mang tính chất chung của ngành vận tải thủy, đó là:
- Đảm đương được khối lượng vận tải lớn, có thể vận chuyển hàng cồng kềnh
- Tốc độ đưa hàng chậm, giá thành vận chuyển thấp.
- Năng lực thông qua không hạn chế, giá thành vận chuyển hạ
- Chi phí đầu tư xây dựng tuyến nhỏ, chủ yếu chi phí xây dựng cảng và chi
phí đầu tư mua sắm phương tiện vận tải.
- Quá trình tổ chức khai thác phụ thuộc nhiều vào điều kiện thiên nhiên, thời
tiết, khí hậu
- Quá trình vận chuyển không triệt để, cần có sự phối hợp với các phương
thức vận tải khác.
Thường được sử dụng để vận chuyển hàng hóa có khối lượng lớn, không có
yêu cầu nhanh về thời gian.

10


Hiện nay ở nước ta, vận tải đường biển nói chung còn phát triển chậm so với
các nước trong khu vực và các nước trên thế giới. Tuy nhiên, ngành vận tải đường
biển ở nước ta đã có nhiều đóng góp đáng kể trong thời kỳ chiến tranh thống nhất
đất nước, cũng như trong sự nghiệp phát triển kinh tế hiện nay.

1.4.4. Vận tải đường ống
Ở các nước công nghiệp phát triển, vận tải đường ống được sử dụng để vận
chuyển chất lỏng (xăng, dầu, nước), chất rắn như hàng hóa có kích thước nhỏ.
Người ta còn đang thử nghiệm sử dụng đường ống để vận chuyển hành khách.
- Vận tải đường ống thích hợp với cự ly ngắn
- Giá thành vận chuyển thấp, hàng hóa ít bị hao hụt trong quá trình vận
chuyển
- Đường ống có thể lắp đặt được ở nhiều nơi, không bị hạn chế bởi không
gian
- Có thể tiến hành tự động hóa quá trình vận chuyển
Ở nước ta hiện nay vận tải đường ống còn chưa phát triển, đường ống mới chỉ
được sử dụng để vận chuyển chất lỏng như xăng, dầu, khí đốt.
1.4.5. Vận tải hàng không
Vận tải hàng không có ưu điểm tốc độ đưa hàng nhanh, chủ yếu dùng để vận
chuyển hành khách nội địa và hành khách quốc tế. Chỉ sử dụng để vận chuyển
hàng hóa có khối lượng nhỏ, hàng hóa quý hiếm, hàng hóa đặc biệt có yêu cầu vận
chuyển nhanh.
Vận tải hàng không có giá thành vận chuyển cao, do chi phí đầu tư xây dựng
và chi phí mua sắm phương tiện ban đầu lớn. Thường sử dụng vận chuyển hành
khách là chủ yếu, chỉ vận chuyển hàng hóa quý có nhu cầu vận chuyển nhanh, khi
cự ly vận chuyển lớn.
Trên đây, chúng ta điểm qua một số đặc điểm cơ bản của các ngành vận tải.
Mỗi ngành vận tải đều có những ưu điểm và những mặt hạn chế nhất định và phạm
vi phục vụ của nó. Chúng ta cần phải sử dụng và phát huy tối đa những mặt mạnh
của từng ngành vận tải và tìm cách khắc phục những mặt còn hạn chế để ngành
vận tải đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng đất nước ta giầu mạnh, ngành
GTVT của nước ta phát triển ngang tầm với GTVT trên thế giới.
1.5. MỘT SỐ CHỈ TIÊU KINH TẾ KỸ THUẬT ĐẶC TRƯNG CỦA NGÀNH VẬN
TẢI


Mỗi một ngành vận tải có những đặc tính ưu việt của nó đồng thời cũng có
những mặt hạn chế nhất định. Để so sánh lựa chọn các phương thức vận tải, người
ta thường sử dụng một số chỉ tiêu chủ yếu sau;
- Khả năng thông qua của đường, của các công trình
- Khả năng chuyên chở của phương tiện vận tải
- Vốn đầu tư vào công trình, vào phương tiện vận tải
- Giá thành vận tải
- Năng suất lao động của ngành vận tải
11


- Tốc độ vận chuyển hàng hóa, hành khách
Ngoài ra, để lựa chọn hình thức vận tải nào, đôi khi người ta còn xét đến:
Tính chất liên tục và linh hoạt của phương tiện, khả năng bảo quản hàng hóa, tiện
nghi cho hành khách và mức độ an toàn của nó.
Chúng ta sẽ lần lượt nghiên cứu các chỉ tiêu này cho các ngành vận tải sắt,
sông và ô tô.
1.5.1. Khả năng thông qua của công trình giao thông
Khi nói đến khả năng thông qua của công trình bao hàm khả năng thông qua
của tuyến đường, của một nhà ga, của một cảng hay của một thiết bị kỹ thuật.
Ở đây ta xét khả năng thông qua của một tuyến đường: là số lượng phương
tiện nhiều nhất (có thể là đoàn tàu, toa xe, đoàn xe lửa, ô tô, đội tàu sông) đi qua
một đoạn đường khó khăn nhất (đường sắt khu gian hạn chế, đường ô tô và đường
sông là đoạn đường ô tô và đường sông khó khăn nhất), trong một đơn vị thời gian
(giờ, ngày đêm) với điều kiện, trình độ tổ chức và kỹ thuật nhất định.
Tùy theo từng điều kiện và phương tiện vận tải mà sử dụng đơn vị tính toán
khác nhau.
- Đối với một đoạn đường: Năng lực thông qua biểu hiện là số lượng đội tàu
thủy hay đội tàu hỏa hay số lượng ô tô đi qua trong một đơn vị thời gian. Cũng có
thể tính bằng số tấn hàng hóa hay số hành khách vận chuyển trong một đơn vị thời

gian ở chiều có khối lượng nhiều nhất.
- Đối với cảng, bến sông, sân bay, ga xe lửa, bến ô tô: Năng lực thông qua đo
bằng số tấn hàng hóa xếp dỡ khỏi phương tiện vận tải, số lượng hành khách lên,
xuống xe trong một đơn vị thời gian.
- Đối với các thiết bị kỹ thuật khác: Năng lực thông qua được đo bằng số
lượng phương tiện đi qua hoặc hoạt động trên đó trong một đơn vị thời gian.
Công thức tổng quát tính khả năng thông qua.
NTQ =

24 x k
Tck

Trong đó:
NTQ: Khả năng thông qua tính toán của một công trình hay thiết bị kỹ thuật
(đoàn xe, đoàn tàu, đôi tàu) trong một đơn vị thời gian (ngày đêm)
Tck: Chi phí thời gian cho một chu kỳ hoạt động, đối với đường sắt là đường
đơn thì thời gian cho một đôi tàu đi qua khu gian khó khăn nhất (bao gồm thời gian
đỗ ở ga để tác nghiệp kỹ thuật, thời gian rời tau khỏi ga, thời gian chạy trên đường,
thời gian vào ga...) hoặc thời gian xếp dỡ hàng, hoặc thời gian kiểm tra kỹ thuật
của một phương tiện vận tải (tính bằng giờ hoặc phút) qua công trình hoặc thiết bị
kỹ thuật;
24 là thời gian trong một ngày đêm tính bằng giờ;
k: hệ số sử dụng thời gian của thiết bị kỹ thuật.
Ví dụ: Thời gian chu kỳ để cho một đôi tàu đi qua khu gian hạn chế (đường
sắt đơn) là 2 giờ (120 phút), k =1
12


NTQ =


24

= 12 đôi tàu

2
Thông thường đối với đường sắt TCk tính bằng phút, khi đó:
NTQ =

1440

= 12 đôi tàu

120
1440 là số phút trong một ngày đêm.
Nếu tính bằng tấn thì dùng công thức:
NTTQ = NTQ. PBQ. n (tấn)
Trong đó:
NTTQ : Khả năng thông qua biểu hiện bằng tấn hàng của thiết kế kỹ thuật trong
một đơn vị thời gian.
PBQ: Tải trọng bình quân của một đơn vị phương tiện (toa xe, ô tô, đoàn tàu)
n: số đơn vị phương tiện trong một đoàn tàu, đoàn xe ô tô, đoàn tàu hỏa.
Đối với đường sắt, nếu tính bằng số tấn hàng hóa thì khả năng thông qua
người ta chỉ tính cho chiều có hàng nhiều nhất.
Ví dụ: Tải trọng bình quân của một toa tàu hàng, ở chiều có nhiều hàng là
40T, số toa của một đoàn tàu là 10 toa, số lượng đôi tàu thông qua khu gian tính
toán trong ngày đêm là 12 đôi.
Khi đó năng lực thông qua khu gian tính bằng (NTTQ) là:
NTTQ = 40 x 10 x 12 = 4800 (tấn)
Thông thường thì ít khi năng lực thông qua lại sử dụng hết, song nếu hiệu suất
sử dụng càng cao càng tốt. Hiệu suất sử dụng năng lực thông qua biểu thị bằng:

H=

NTTTQ

. 100%

NTQ
Trong đó:
NTTTQ : là năng lực thông qua thực tế
NTQ: năng lực thông qua tính toán
Việc nâng cao hiệu suất sử dụng năng lực thông qua của tuyến đường hoặc
công trình có ý nghĩa rất lớn trong việc tiết kiệm chi phí đầu tư xây dựng.
Nếu tính bằng năng lực thông qua bình quân của một tuyến đường thì có thể
dùng công thức:
G=

∑Qi. Li
∑Li

Trong đó:
Qi: Số tấn hàng thông qua từng đoạn đường (tấn)
Li: Chiều dài từng đoạn đường (km)
13


Ví dụ: Số tấn hàng thông qua và chiều dài từng đoạn đượ biểu hiện ở biểu đồ
sau:
UGOOgkhlg
hg;
G=


(7000 .40) + (5000 .30) + (9000 .60) + (3000. 20)

= 6886 T

40 + 30 + 20 + 60
Trong đó
Khả năng thông qua tuyến đường sắt phụ thuộc vào khu gian hạn chế.
Đường ô tô: Khả năng thông qua của tuyến đường phụ thuộc vào số làn xe,
chất lượng mặt đường, độ dốc tối đa, khả năng thông qua của các công trình trên
đường.
Đối với đường sông ngoài việc hạn chế bởi địa điểm bốc dỡ, số thiết bị sửa
chữa... bề rộng và chiều sâu luồng lạch...
Ngành hàng không và đường biển trái lại, nó chỉ phụ thuộc vào nơi bốc dỡ
hàng nơi kiểm tra kỹ thuật... nhưng đối với đường ống thì lại phụ thuộc vào đường
kính của ống và công suất của trạm bơm, dung tích nơi nhận.
1.5.2. Khả năng chuyên chở của phương tiện vận tải
Khả năng chuyên chở của phương tiện vận tải là số lượng Tấn.km lớn nhất
mà phương tiện vận tải hoàn thành được trong một đơn vị thời gian, với hình thức
và phương pháp tổ chức hợp lý, với điều kiện trang bị kỹ thuật thích hợp.
Khả năng chuyên chở của phương tiện vận tải được tính theo công thức:
M = S . N . Tsd
Trong đó:
M: khả năng chuyên chở của phương tiện vận tải (T.km)
N: Công suất của phương tiện vận tải (mã lực hay là tải trọng)
S: Năng suất bình quân của một đơn vị công suất (hay của một đơn vị tải
trọng) trong một đơn vị thời gian (T.km / mã lực.giờ)
Tsd: Thời gian sử dụng của phương tiện vận tải trong một ngày đêm tính bằng
giờ.
Năng suất bình quân của một đơn vị công suất trong một đơn vị thời gian

được xác định là:
S = P . Vkt
(T.km/ mã lực.giờ)
P: Sức tải trên một đơn vị công suất (tấn/mã lực)
Vkt: Tốc độ khai thác bình quân (km/giờ)
Như vậy là khả năng chuyên chở của phương tiện vận tải phụ thuộc vào trọng
tải và dung tích của phương tiện, công suất của sức kéo, thời gian sử dụng. Trên

14


đây là công thức chung nhất. Tùy theo từng ngành vận tải khác nhau, với tính chất
riêng biệt của mình mà có những phương pháp tính toán chi tiết, phù hợp hơn.
1.5.3. Vốn đầu tư, suất vốn đầu tư
Vốn đầu tư cho ngành vận tải bao gồm: Chi phí xây dựng, chi phí duy tu, sửa
chữa đường sá, cầu cống, cho xây dựng điểm dừng, điểm xếp dỡ, những thiết bị
cần thiết trên đường, chi cho mua sắm và sản xuất các phương tiện vận tải, bao
gồm đầu máy toa xe, tàu, xà lan, ô tô, chi cho đầu tư xây dựng các xí nghiệp và
xưởng sửa chữa, đủ để đảm bảo cho quá trình sản xuất của ngành vận tải được tiến
hành một cách bình thường. Đối với ngành vận tải, đôi khi người ta còn sử dụng
chỉ tiêu suất vốn đầu tư.
Chỉ tiêu suất vốn đầu tư được xác định cho một đơn vị sản phẩm vận tải
(tấn.km) hoặc cho một đơn vị khối lượng hàng vận chuyển tính bằng tấn.
Công thức tổng quát:
K=

ƩV

(đ/T.km)


ƩQL
Hay
G=

ƩV

(đ/T)

ƩQ
Trong đó:
ƩV: Tổng số tiền đầu tư cần thiết để thực hiện toàn bộ quá trình vận tải trong
một kỳ tính toán (năm), có thể tính theo số kế hoạch hoặc theo thực tế.
ƩQL: Tổng số sản phẩm vận tải sản xuất ra trong kỳ (một năm), theo kế hoạch
hoặc theo thực tế.
ƩQ: Khối lượng hàng hóa vận chuyển trong kỳ (một năm).
1.5.4. Giá thành sản phẩm vận tải
Giá thành sản phẩm vận tải là một chỉ tiêu chất lượng chủ yếu nhất đặc trưng
cho công tác của mỗi ngành vận tải. Nó phản ánh toàn bộ hoạt động của ngành, nó
đánh giá chất lượng công tác của từng khâu trong quá trình vận chuyển, nhất là
khâu vận hành và khâu bốc dỡ.
Giá thành được xác định bằng tỷ số giữa chi phí liên quan đến quá trình sản
xuất sản phẩm vận tải tương ứng với khối lượng sản phẩm sản xuất ra.
Z=

ƩC

(đ/T.km)

ƩQL
Hoặc

Z=

ƩC

(đ/T)

ƩQ
Trong đó:
15


ƩC: Tổng chi phí cần thiết có liên quan đến quá trình sản xuất vận tải (chi phí
trực tiếp và chi phí gián tiếp), tương ứng với khối lượng sản phẩm sản xuất ra. Chi
phí này được xác định cụ thể trong việc tính giá thành của từng ngành vận tải
(đồng).
ƩQL: Tổng số T.km vận chuyển trong kỳ.
ƩQ: Tổng số tấn hàng hóa vận chuyển trong kỳ.
Nếu giá thành càng hạ, chứng tỏ hiệu suất công tác của ngành cao, năng suất
lao động của công nhân vận tải cao, hệ số sử dụng công cụ vận tải lớn.
1.5.5. Năng suất lao động
Năng suất lao động được đo bằng số lượng sản phẩm do công nhân vận tải
sản xuất ra trong một đơn vị thời gian.
Công thức tổng quát:
W=

ƩQL

T.km/ngày (năm).người

T

Trong đó:
ƩQL: Tổng sản phẩm vận tải sản xuất ra trong một ngày hoặc một năm.
T: Số công nhân sản xuất trong một ngày hoặc số công nhân bình quân một
năm (người).
Chỉ tiêu năng suất lao động là chỉ tiêu chất lượng nói lên trình độ tổ chức lao
động, trình độ cơ giới hóa và sử dụng công cụ lao động của công nhân vận tải.
Nâng cao năng suất lao động nghĩa là giảm chi phí về lao động để sản xuất ra
một đơn vị sản phẩm trong một đơn vị thời gian. Nó là tiền đề để nâng cao đời
sống của công nhân và phúc lợi của doanh nghiệp và của ngành. Nâng cao năng
suất lao động của công nhân là những điều kiện chủ yếu hạ giá thành vận tải, làm
tăng thu nhập quốc dân.
1.5.6. Tốc độ vận chuyển hàng (hoặc tốc độ đưa hàng)
Tốc độ vận chuyển hàng là chỉ tiêu phản ánh mức độ phát triển kỹ thuật trong
ngành, đồng thời biều hiện tính năng của phương tiện và trình độ thao tác của công
nhân với các phương tiện đó.
Tốc độ vận chuyển hàng được xác định bằng công thức:
V=

L

(km/ngày đêm)

t
Trong đó:
L: Cự ly vận chuyển tính từ nơi gửi đến nơi nhận hàng (km).
t: Thời gian vận chuyển hàng hóa (kể từ khi nhận hàng của người gửi hàng
đến khi giao hàng cho người nhận).
Để phản ánh rõ tốc độ của từng khâu công tác trong từng ngành, tùy theo yêu
cầu người ta còn có thể phân ra:
Vkỹ : Tốc độ kỹ thuật

16


Vkt : Tốc độ khai thác
Trong vận tải hành khách, người ta còn dùng tốc độ lữ hành Vlữ.
Khi nói đến tốc độ kỹ thuật, thì cự ly vận chuyển là chiều dài của một đoạn
đường tính toán, còn thời gian (t) ở công thức rên chỉ kể thời gian xe chạy đơn
thuần trên đoạn đường đang xét.
Khi nói đến tốc độ khai thác thì cự ly vận chuyển là chiều dài của tuyến khai
thác, thời gian (t) bao gồm thời gian xe chạy trên đường, thời gian đỗ, đợi dọc
đường, thời gian chờ đợi để xếp, dỡ hàng hóa...
Tốc độ vận chuyển hàng hóa tăng hay giảm có ý nghĩa rất lớn. Nếu tốc độ vận
chuyển chậm thì hàng hóa nằm trong các khâu vận tải sẽ dài ra, thời gian đến tay
người tiêu thụ càng chậm, cũng có nghĩa là vốn sản xuất bị ứ đọng.
Nâng cao tốc độ vận chuyển có ý nghĩa lớn: rút ngắn thời gian hoàn thành sản
phẩm vận tải, nhanh chóng đưa hàng hóa đến tay người dùng, giải phóng nhanh
chóng được vốn lưu thông và tạo điều kiện đưa nhanh vốn vào hoạt động của các
ngành kinh tế quốc dân.

CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG 1

1. Trình bày các khái niệm cơ bản của ngành vận tải?
2. Trình bày các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật đặc trưng của ngành vận tải?
3. Trình bày đặc điểm kinh tế kỹ thuật của các ngành vận tải.

BÀI TẬP CHƯƠNG 1

Bài số 1
Tải trọng bình quân của một toa tàu hàng, ở chiều có nhiều hàng là 80T, số
toa của một đoàn tàu là 12 toa, số lượng đôi tàu thông qua khu gian tính toán trong

ngày đêm là 16 đôi.
Tính năng lực thông qua khu gian?

17


Chương 2. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐIỀU TRA KINH TẾ
2.1. ĐIỀU TRA KINH TẾ VÀ ĐIỀU TRA TRONG QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN
GIAO THÔNG VẬN TẢI

2.1.1. Khái niệm điều tra kinh tế và điều tra quy hoạch phát triển giao thông
vận tải
Bất kỳ đơn vị sản xuất nào, ngành nào, muốn phát triển một cách cân đối, lâu
dài và phát triển bền vững thì luôn luôn phải xây dựng cho mình một định hướng
phát triển và quy hoạch phát triển dài hạn. Song muốn xây dựng được một phương
án định hướng hoặc một phương án quy hoạch phát triển của mình thì điều đầu tiên
phải tiến hành thu thập những số liệu, những thông tin kinh tế kỹ thuật cần thiết có
liên quan. Thí dụ như: những số liệu về tính hình hoạt động sản xuất kinh doanh
hiện tại của ngành (hoặc doanh nghiệp), vị thế của ngành (hoặc doanh nghiệp) so
với các ngành (hoặc doanh nghiệp) khác, khả năng phát triển của ngành trong
tương lai, xu hướng phát triển của thị trường và toàn bộ nền kinh tế quốc dân và
các nước trên thế giới, và các số liệu khác liên quan đến việc xây dựng và lựa chọn
phương án định hướng phát triển của doanh nghiệp hoặc của ngành.
Như vậy, tương ứng với các giai đoạn xây dựng chiến lược phát triển kinh tế
xã hội, xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của một khu vực,
hoặc quy hoạch phát triển của ngành đều phải có công tác điều tra kinh tế. Điều tra
kinh tế đóng vai trò quan trọng, nó ảnh hưởng đến kết quả và độ tin cậy của quy
hoạch.
Đối với công tác lập kế hoạch hoặc điều chỉnh kế hoạch cũng vậy, muốn lập
được kế hoạch hoạt động của doanh nghiệp hoặc của một ngành nào đó thì trước

tiên người làm công tác kế hoạch phải tiến hành thu thập các thông tin cần thiết để
phân tích tình hình thực hiện kế hoạch của kỳ trước, từ đó rút ra những kết luận
cần thiết phục vụ cho việc lập và triển khai thực hiện kế hoạch đề ra. Mặt khác,
người làm công tác kế hoạch cũng cần thu thập những thông tin kinh tế cần thiết để
dự báo: nhu cầu thị trường sản xuất và tiêu thụ đối với sản phẩm mà doanh nghiệp
dự kiến sản xuất ra, tình hình cung cấp các yếu tố đầu vào, tình hình cạnh tranh và
các số liệu khác liên quan để lựa chọn phương án kế hoạch.
Trong việc lập dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho ngành hoặc
cho doanh nghiệp hoặc trong việc thiết kế một công trình xây dựng cũng vậy, đầu
tiên, người lập dự án đầu tư hoặc thiết kế là phải có số liệu về kinh tế kỹ thuật có
liên quan thì mới có thể tiến hành xây dựng các phương án và so sánh lựa chọn
phương án.
Tùy thuộc vào quy mô và tính chất phức tạp của dự án hoặc công trình thiết
kế mà công việc điều tra thu thập các số liệu diễn ra phức tạp hay đơn giản, thực
hiện thu thập trong thời gian dài hay ngắn.
Ở đây, chúng ta đi sâu nghiên cứu về điều tra kinh tế trong phạm vi ngành
giao thông vận tải.

18


Giao thông vận tải là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ nền kinh tế quốc
dân. Mọi hoạt động và sự phát triển của nó đều phải tuân thủ theo quy luật kinh tế
khách quan.
Nhiệm vụ cơ bản của ngành giao thông vận tải ở nước ta là không ngừng thỏa
mãn nhu cầu ngày càng tăng về vận chuyển hàng hóa và hành khách với điều kiện
giảm chi phí xã hội, giảm giá thành vận chuyển.
Để thực hiện nhiệm vụ đó, yêu cầu ngành giao thông vận tải phải nắm được
nhu cầu vận chuyển trong những năm trước mắt và tương lai của toàn bộ nền kinh
tế quốc dân. Tức là phải tiến hành điều tra kinh tế nhằm xác định được nhu cầu vận

chuyển hàng hóa và hành khách, đáp ứng nhu cầu phát triển của các ngành kinh tế
và nhu cầu đi lại của nhân dân. Từ đó, ngành đề ra quy hoạch phát triển, các kế
hoạch vận chuyển, kế hoạch bổ sung phương tiện vận tải, kế hoạch cải tạo, xây
dựng mới công trình giao thông, đồng thời đề ra các biện pháp nâng cao hiệu quả
sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật sẵn có của ngành. Mặt khác, cũng thông qua kết
quả điều tra mà có thể đánh giá đúng mức về hiện trạng của ngành và đề ra quy
hoạch phát triển, các kế hoạch thực hiện phù hợp với sự phát triển của đất nước
trong từng giai đoạn.
Đối với các ngành kinh tế khác cũng vậy, để giải quyết các vấn đề như: xây
dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển của ngành mình một cách khách quan, có căn
cứ khoa học, người ta đều phải nghiên cứu sâu sắc các hiện tượng, các yếu tố nảy
sinh trong quá trình vận động, quá trình sản xuất, họ cũng cần phải tiến hành điều
tra kinh tế, kỹ thuật.
Như vậy điều tra kinh tế là việc thu thập những thông tin về kinh tế, kỹ thuật
cần thiết đủ để giải quyết nhiệm vụ đề ra.
Điều tra kinh tế được tiến hành thường xuyên đối với tất cả các ngành kinh tế.
Điều tra kinh tế phục vụ cho việc lập quy hoạch phát triển giao thông vận tải
trên phạm vi cả nước hay trong phạm vi một khu vực nào đó gọi tắt là điều tra quy
hoạch GTVT.
Công tác điều tra quy hoạch giao thông vận tải bao gồm điều tra kinh tế xã
hội và điều tra kỹ thuật, trong đó nội dung điều tra kinh tế là chủ yếu, điều tra kỹ
thuật chiếm vị trí thứ yếu.
2.1.2. Mục đích điều tra kinh tế trong quy hoạch giao thông vận tải
Vì mục đích điều tra kinh tế nói chung là thu thập các số liệu, thông tin cần
thiết đủ để giải quyết nhiệm vụ đề ra nên mục đích điều tra quy hoạch cũng phải
thu thập đầy đủ các số liệu theo yêu cầu của công tác lập quy hoạch phát triển
GTVT của một vùng hay một khu vực. Việc xác định mục đích của điều tra ảnh
hưởng rất nhiều đến nội dung công tác điều tra, song mục đích của công tác điều
tra lại phụ thuộc vào mục đích của quy hoạch đề ra, vì vậy muốn làm tốt công tác
điều tra, người làm công tác điều tra cần hiểu rõ mục đích chính hay mục tiêu của

quy hoạch nhằm giải quyết vấn đề gì? thí dụ như: mục tiêu quy hoạch phát triển cơ
sở hạ tầng GTVT, hay quy hoạch lại mạng lưới vận tải nhằm giải quyết vấn đề ách
tắc giao thông hoặc giải quyết vấn đề môi trường...
19


Như vậy, mục đích điều tra phụ thuộc vào mục tiêu và nội dung của quy
hoạch. Tuy nhiên trong trường hợp chung, mục đích của công tác điều tra quy
hoạch bao gồm hai mục đích cơ bản:
- Thu nhập các số liệu phản ánh tình hình hiện trạng của ngành và tình hình
phát triển kinh tế xã hội trong khu vực.
Thu thập các số liệu phản ánh về tình trạng của ngành về cơ sở vật chất kỹ
thuật của ngành, tình hình phương tiện vận tải và tổ chức vận tải, kết quả hoạt
động của ngành. Những số liệu này phục vụ cho việc đánh giá tiềm năng và chất
lượng phục vụ của ngành, mối quan hệ GTVT với tình hình phát triển kinh tế của
khu vực, sự tác động tốt, xấu của giao thông vận tải đến sự phát triển kinh tế và
nhu cầu sinh hoạt của nhân dân trong khu vực. Từ đó đánh giá được điểm mạnh,
điểm yếu, khu vực ách tắc, của ngành làm cơ sở cho việc đề ra mục tiêu và nhiệm
vụ của quy hoạch.
Thu thập các số liệu hiện trạng về tình hình phát triển kinh tế xã hội trong khu
vực quy hoạch là nhằm xác định nhu cầu thị trường đối với ngành GTVT về vận
chuyển hàng hóa và hành khách nhằm phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và
nhu cầu đi lại của nhân dân trong thời kỳ hiện tại. Những số liệu này còn phục vụ
cho việc đánh giá sự hoạt động của ngành so với nhu cầu thị trường về vận tải từ
đó thấy được kết quả hoạt động của ngành so với nhu cầu, đồng thời cũng thấy
được vai trò của ngành và sự tác động tốt, xấu của ngành đối với sự phát triển kinh
tế xã hội của khu vực.
Những số liệu về hiện trạng phát triển kinh tế xã hội trong khu vực còn làm
cơ sở cho việc dự báo nhu cầu thị trường về vận chuyển hàng hóa và hành khách
trong khu vực quy hoạch trong những năm tương lai. Cần lưu ý rằng các số liệu

phản ánh hiện trạng có thể bao gồm những số liệu của một năm hoặc một vài năm
quá khứ.
Thu thập các số liệu phản ánh về khả năng phát triển kinh tế xã hội trong khu
vực và khả năng phát triển hoặc định hướng phát triển của ngành GTVT trong
những năm tương lai.
Những số liệu này dựa vào: Những tài liệu về quy hoạch, kế hoạch, định
hướng phát triển của các ngành sản xuất, dự báo dân số, kế hoạch lao động...
Những số liệu về quy hoạch kế hoạch phát triển kinh tế xã hội trong khu vực
ở thời kỳ tương lai làm cơ sở cho việc dự báo nhu cầu thị trường về vận chuyển
hàng hóa và hành khách đối với ngành giao thông vận tải, đồng thời những số liệu
này còn làm cơ sở cho việc dự báo khả năng về nguồn lực (chủ yếu là nguồn vốn
đầu tư) của xã hội giành cho ngành, làm căn cứ cho việc xây dựng các phương án
quy hoạch phát triển giao thông, quy hoạch vận tải và quy hoạch phát triển cơ sở
vật chất kỹ thuật của ngành trong khu vực và trên toàn quốc.
Trong công tác quy hoạch, kế hoạch, công tác điều tra chiếm nhiều thời gian
và công sức. Vì vậy phải áp dụng các biện pháp và kỹ thuật điều tra phù hợp nhằm
thu được những số liệu có độ tin cậy cao nhưng lại tiết kiệm chi phí cho công tác
điều tra.

20


2.1.3. Ý nghĩa điều tra kinh tế trong quy hoạch giao thông vận tải
- Trong quy hoạch phát triển giao thông vận tải, thông qua kết quả điều tra về
hiện trạng tình hình phát triển kinh tế xã hội và điều tra hiện trạng giao thông vận
tải trong khu vực mà ngành thấy được hiện trạng mạng lưới giao thông trong khu
vực, đánh giá được mặt mạnh, mặt yếu của ngành, mối quan hệ và sự phát triển
cân đối giữa giao thông vận tải với sự phát triển các ngành kinh tế. Đồng thời đánh
giá được khả năng đáp ứng của ngành so với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội,
trong thời kỳ quy hoạch, từ đó hình thành lên các chương trình, dự án phát triển, có

biện pháp định hướng cho việc đầu tư và tổ chức quản lý ngành vận tải trong khu
vực.
- Dựa vào kết quả điều tra về tình hình phát triển kinh tế xã hội trong khu vực
nghiên cứu trong thời kỳ tương lai, chúng ta mới có thể dự báo được khối lượng
vận chuyển hàng hóa và hành khách phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế và nhu cầu
đi lại của dân cư trong khu vực ở thời kỳ hiện tại và tương lai. Từ đó, ngành mới
có thể xây dựng cho mình định hướng quy hoạch đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
giao thông vận tải (đầu tư xây dựng cầu, đường, bến bãi...) để phục vụ công tác
vận tải, nhằm thỏa mãn nhu cầu vận chuyển trong tương lai, tạo ra sự phát triển
cân đối, nhịp nhàng giữa các ngành. Mặt khác ngành cũng kịp thời đề ra những
biện pháp tổ chức vận chuyển, hoặc biện pháp định hướng cho việc đầu tư cho các
cơ sở sửa chữa hoặc đóng mới phương tiện vận tải.
- Thông qua số liệu điều tra về tự nhiên, xã hội, địa hình, khí hậu, thủy văn,
tình hình tài nguyên... người ta mới có thể đưa ra được phương án về quy mô, vị trí
kết cấu công trình và các giải pháp xây dựng.
- Thông qua kết quả điều tra về tình hình phát triển kinh tế, khả năng cung cấp
các nguồn lực, các số liệu về định mức chi phí, tình hình giá cả và các số liệu khác
người ta mới có thể tiến hành tính toán và so sánh lựa chọn phương án quy hoạch
để chọn phương án hợp lý.
2.1.4. Nhiệm vụ điều tra kinh tế trong quy hoạch phát triển giao thông vận tải
Căn cứ vào ý nghĩa và tính chất của điều tra kinh tế trong ngành GTVT mà
người ta phân ra những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Thu thập các số liệu về kinh tế, kỹ thuật và điều tra giao thông vận tải phục
vụ cho việc lập quy hoạch phát triển mạng lưới giao thông vận tải trong khu vực.
- Thu thập các số liệu về điều kiện tự nhiên và tình hình phát triển kinh tế - xã
hội trong khu vực ở thời kỳ quá khứ, hiện tại và trong tương lai để phục vụ cho việ
lập các dự án đầu tư, hoặc thiết kế cải tạo, xây dựng mới các công trình xây dựng
cơ bản trong khu vực.
- Thu thập các số liệu về nhu cầu vận chuyển hàng hóa và hành khách ở thời
kỳ quá khứ và hiện tại phục vụ cho việc lập hoặc điều chỉnh kế hoạch vận chuyển

hàng hóa và hành khách trong khu vực, hoặc bổ sung kế hoạch xây dựng cơ bản
trong quá trình thực hiện kế hoạch.
Trong phạm vi này, chúng ta chỉ đề cập đến điều tra kinh tế phục vụ quy
hoạch phát triển giao thông vận tải.
Nhiệm vụ điều tra quy hoạch GTVT
21


×