Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Phân tích ý nghĩa của việc xác định đối tượng hạch toán chi phí và đối tượng tính giá thành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (320.86 KB, 31 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN
KHOA KINH TẾ & KẾ TOÁN

ĐỀ ÁN CHUYÊN NGÀNH

TÊN ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH Ý NGHĨA CỦA VIỆC XÁC ĐỊNH ĐỐI TƯỢNG
HẠCH TOÁN CHI PHÍ VÀ ĐỐI TƯỢNG TÍNH GIÁ THÀNH

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thanh Sơn
Giáo viên hướng dẫn: Phạm Thị Lai
Lớp: KT23

Buôn Ma Thuột, tháng 03 năm 2016


TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN
KHOA KINH TẾ & KẾ TOÁN

ĐỀ ÁN CHUYÊN NGÀNH

TÊN ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH Ý NGHĨA CỦA VIỆC XÁC ĐỊNH ĐỐI TƯỢNG
HẠCH TOÁN CHI PHÍ VÀ ĐỐI TƯỢNG TÍNH GIÁ THÀNH

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thanh Sơn
Lớp: KT23
Giáo viên hướng dẫn: ThS. Phạm Thị Lai

Buôn Ma Thuột, tháng 03 năm 2016


3



MỤC LỤC


4

STT
1
2
3
4

Chữ viết tắt
BHXH
BHYT
TSCĐ
KPCĐ

Diễn giải
Bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm y tế
Tài sản cố định
Kinh phí công đoàn


5

DANH MỤC SƠ ĐỒ BẢNG BIỂU



6

LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay, trong giai đoạn toàn cầu hóa và xu thế hội nhập quốc tế, chính là thời điểm
mà cả những thuận lợi và khó khăn thách thức đan xen. Vậy nên các doanh nghiệp muốn
đứng vững và phát triển trên thị trường phải chấp nhận cạnh tranh và tìm cho mình một
phương án kinh doanh đạt hiệu quả nhất. Đồng thời các doanh nghiệp cũng phải có chính
sách đúng đắn và quản lý chặt chẽ mọi hoạt động kinh tế. Để thực hiện được điều đó doanh
nghiệp phải tiến hành thực hiện một cách đồng bộ các yếu tố cũng như các khâu của quá
trình sản xuất kinh doanh.
Trong bối cảnh nước ta hiện nay, việc hiện đại hóa cơ sở hạ tầng trong thực tế đang là
một đòi hỏi hết sức cấp thiết ở khắp mọi nơi. Vấn đề đặt ra là làm sao để quản lý và sử
dụng vốn một cách hiệu quả, khắc phục được tình trạng lãng phí, thất thoát vốn trong điều
kiện sản xuất kinh doanh xây lắp phải trải qua nhiều giai đoạn và thời gian kéo dài.
Chính vì thế, việc xác định đối tượng hạch toán chi phí và tính giá thành là một trong
những công việc hết sức quan trọng trong vấn đề quản lý kinh tế.
Nhận thức được điều đó, em quyết định chọn đề tài: “Phân tích ý nghĩa của việc xác
định đối tượng hạch toán chi phí và đối tượng tính giá thành”
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, đề tài được trình bày thành 2 phần với kết cấu
như sau:
Phần I: Cơ sở lý luận về hạch toán chi phí và tính giá thành.
Phần II: Ý nghĩa của việc xác định đối tượng chi phí và giá thành


7

PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HẠCH TOÁN CHI PHÍ VÀ TÍNH GIÁ
THÀNH
1.1. Những vấn đề chung về hạch toán chi phí và tính giá thành
1.1.1. Khái niệm về chi phí và giá thành

1.1.1.1. Bản chất và nội dung kinh tế của chi phí
Chi phí trong các doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao
động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã chi ra để tiến hành các hoạt động sản
xuất trong một thời kỳ nhất định có thể là tháng, quý, năm.
Để tiến hành các hoạt động sản xuất, doanh nghiệp phải có ba yếu tố cơ bản:
- Tư liệu lao động như nhà xưởng, máy móc, thiết bị và những tài sản cố định khác.
- Đối tượng lao động như nguyên vật liệu, nhiên liệu..
- Lao động của con người.
Quá trình sử dụng các yếu tố cơ bản trong sản xuất cũng đồng thời là quá trình
doanh nghiệp phải chi ra những chi phí tương ứng. Tương ứng với việc sử dụng TSCĐ là
chi phí khấu hao TSCĐ, tương ứng với việc sử dụng nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu… là
những chi phí về nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu; tương ứng với việc sử dụng lao động là
chi phí về tiền công, tiền trích BHXH, BHYT,…
Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá và cơ chế hạch toán kinh doanh, mọi chi phí
đều được biểu hiện bằng tiền, trong đó chi phí về tiền công, tiền trích BHXH, BHYT là
biểu hiện bằng tiền của hao phí lao động sống, còn chi phí về khấu hao TSCĐ, chi phí về
nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu là biểu hiện bằng tiền của hao phí về lao động vật hoá.
Một doanh nghiệp sản xuất ngoài những hoạt động liên quan đến hoạt động sản xuất ra
sản phẩm hoặc lao vụ, còn có những hoạt động kinh doanh và các hoạt động khác không
có tính chất sản xuất như hoạt động bán hàng, hoạt động quản lý, những hoạt động mang
tính chất sự nghiệp… Chỉ những chi phí để tiến hành các hoạt động sản xuất mới được
coi là chi phí. Nó khác với chi tiêu - là sự chi ra, sự giảm đi thuần tuý của tài sản doanh
nghiệp, không kể các khoản đó dùng vào việc gì và dùng như thế nào. Chi phí được ghi
vào bên nợ của tài khoản chi phí. Chi tiêu là sự hao phí vật chất tại thời


8

điểm tiêu dùng cụ thể, được ghi vào bên có tài khoản tài sản. Ta chỉ tính vào chi phí của
kỳ hạch toán về tài sản và lao động có liên quan đến khối lượng sản xuất ra trong kỳ chứ

không phải mọi khoản chi ra trong kỳ hạch toán. Ngược lại chi tiêu có thể cho nhiều mục
đích khác ngoài sản xuất như chi tiêu cho quá trình tiêu thụ, chi cho quản lý doanh
nghiệp, dùng tiền nộp thuế lợi tức, trả nợ người bán, trả nợ ngân hàng..
Chi phí và chi tiêu có bản chất và phạm vi khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết
với nhau. Các khoản chi tiêu là cơ sở phát sinh của chi phí, không có chi tiêu thì không
có chi phí. Có những khoản chi tiêu thực tế đã phát sinh trong kỳ nhưng chưa được tính
vào chi phí (nguyên vật liệu mua về nhập kho chưa sử dụng, chi phí trả trước), và có
những khoản chi tiêu thực tế chưa phát sinh nhưng đã được ghi nhận vào chi phí của kỳ
hạch toán (chi phí phải trả).
Như vậy, thực chất của chi phí ở các doanh nghiệp là sự chuyển dịch vốn của
doanh nghiệp vào đối tượng tính giá nhất định (sản phẩm, lao vụ, dịch vụ), nó là vốn của
doanh nghiệp bỏ vào quá trình sản xuất.
Chi phí của doanh nghiệp phát sinh thường xuyên trong suốt quá trình tồn tại và
hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, nhưng để phục vụ cho quản lý và hạch toán kinh
doanh, chi phí phải được tính toán tập hợp theo từng thời kỳ: hàng tháng, hàng quý, hàng
năm phù hợp với kỳ báo cáo. Chỉ những chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra trong thời kỳ
mới tính vào chi phí trong kỳ.
1.1.1.2. Bản chất - chức năng của giá thành:
Giá thành là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí về lao động sống
và lao động vật hoá có liên quan đến khối lượng công việc, sản phẩm, lao vụ đã hoàn
thành.
Như vậy chỉ tiêu giá thành phải gắn với từng loại sản phẩm, cụ thể chỉ tiêu này chỉ
được tính xác định đối với một số lượng sản phẩm đã hoàn thành khi kết thúc toàn bộ quy
trình sản xuất hay một giai đoạn sản xuất (bán thành phẩm) chứ không tính cho thành
phẩm đang còn nằm trên dây chuyền sản xuất.
Giá thành có chức năng thông tin và kiểm tra thể hiện trên hai mặt sau:
- Giá thành là giới hạn để bù đắp chi phí : giá thành là mức tối thiểu để xác định
khả năng bù đắp chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra cho quá trình thực hiện sản xuất và
thực hiện giá trị sản phẩm.



9

- Giá thành là căn cứ để lập giá: để bù đắp chi phí bỏ ra và sản xuất kinh doanh có
lãi, khi xác định giá bán của sản phẩm phải căn cứ vào giá thành.
Giá thành sản phẩm luôn chứa đựng hai mặt khác nhau vốn có là chi phí đã chi ra
và lượng giá trị sử dụng thu được cấu thành trong khối lượng sản phẩm, công việc đã
hoàn thành. Như vậy bản chất của giá thành là sự chuyển dịch giá trị các yếu tố chi phí
vào những sản phẩm, công việc đã hoàn thành.
Giá thành là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất,
phản ánh kết quả sử dụng các loại tài sản, vật tư, lao động, tiền vốn trong quá trình sản
xuất, cũng như các giải pháp kinh tế kỹ thuật mà doanh nghiệp đã thực hiện, nhằm đạt
được mục đích sản xuất được khối lượng sản phẩm nhiều nhất với chi phí tiết kiệm và hạ
giá thành.
Giá thành còn là căn cứ để tính toán xác định hiệu quả kinh tế các hoạt động sản
xuất của doanh nghiệp. Việc tính đúng, tính đủ giá thành giúp cho việc phản ánh đúng
tình hình thực hiện và kết quả thực hiện giá thành của doanh nghiệp, xác định đúng đắn
kết quả của kỳ kinh doanh.
Thông qua việc phân tích tỷ lệ hạ giá thành có thể thấy trình độ sử dụng tiết kiệm,
hợp lý các yếu tố của quá trình sản xuất, khả năng tập trung công suất máy móc thiết bị
trong quá trình sản xuất kinh doanh. Từ đó giúp các nhà quản lý có những quyết định phù
hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1.1.3. Quan hệ giữa chi phí và giá thành
Chi phí và giá thành là hai mặt biểu hiện thống nhất của quá trình sản xuất, chúng
có quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình sản xuất sản phẩm. Chi phí thể hiện mặt
hao phí còn giá thành thể hiện kết quả của quá trình sản xuất do đó chúng giống nhau về
mặt chất tức là đều bao gồm những chi phí về lao động sống và lao động vật hoá trong
quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm. Nội dung cơ bản của chúng đều là biểu hiện bằng tiền
của những chi phí doanh nghiệp đã bỏ ra cho hoạt động sản xuất.
Trên giác độ kế toán hạch toán chi phí và tính giá thành là hai bước công việc kế

tiếp và gắn bó hữu cơ với nhau. Chi phí trong kỳ là căn cứ, là cơ sở để tính giá thành,
công việc, lao vụ hoàn thành. Sự tiết kiệm hoặc lãng phí của doanh nghiệp về chi phí có
thể ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành của sản phẩm hạ hoặc cao. Sự chính xác, đầy đủ
của công tác tập hợp chi phí quyết định tính chính xác của công tác tính giá thành. Do


10

vậy, để đảm bảo cho kế toán giá thành một cách kịp thời, nhanh chóng, chính xác phải
tổ chức hạch toán chi phí thật khoa học và hợp lý.
Mặc dù có liên quan chặt chẽ với nhau song giữa chi phí và giá thành có những
mặt khác nhau:
- Xét về thời gian: chi phí chỉ gắn với một thời kỳ nhất định còn giá thành liên
quan tới nhiều kỳ như chi phí kỳ trước chuyển sang, chi phí phát sinh kỳ
này.
- Về góc độ giá trị và sản phẩm:
+ Chi phí là bao gồm toàn bộ chi phí bỏ ra trong một thời kỳ sản xuất kinh
doanh, không cần tính đến chi phí đó liên quan đến khối lượng sản phẩm đã hoàn thành
hay chưa.
+ Giá thành bao gồm những chi phí tính cho khối lượng sản phẩm, lao vụ hoàn thành
trong kỳ mà không cần tính đến chi phí đó phát sinh ở kỳ nào. Trong giá thành bao gồm
các chi phí phát sinh ở các kỳ trước (chi phí dở dang đầu kỳ), một phần chi phí phát
sinh trong kỳ (chi phí trả trước) và một phần chi phí sẽ phát sinh trong các kỳ sau nhưng
được tính trước vào chi phí trong kỳ (chi phí phải trả).
Điểm khác nhau giữa chi phí và giá thành là về mặt lượng, thể
hiện:
Tổng giá
thành sản
phẩm


=

Chi phí dở
dang đầu
kỳ

+

Chi phí
phát sinh
trong kỳ

-

Chi phí dở
dang cuối
kỳ

Khi giá trị sản phẩm dở dang (chi phí dở dang) đầu kỳ và cuối kỳ bằng nhau hoặc
các ngành sản xuất không có sản phẩm dở dang thì tổng giá thành bằng tổng chi phí phát
sinh
Như vậy, sự lãng phí hay tiết kiệm chi phí của doanh nghiệp có ảnh hưởng trực
tiếp đến giá thành. Do đó quản lý giá thành phải gắn liền với quản lý chi phí .
1.2. Phân loại chi phí và giá thành
1.2.1. Phân loại chi phí
Chi phí của doanh nghiệp bao gồm nhiều loại có nội dung kinh tế khác nhau, mục
đích và công dụng của chúng trong quá trình sản xuất cũng không giống nhau. Để phục
vụ cho công tác quản lý chi phí và kế toán tập hợp chi phí cần thiết phải phân loại chi phí



11

theo các tiêu thức khác nhau. Việc phân loại này sẽ có tác dụng nâng cao tính chi tiết
của thông tin chi phí, phục vụ đắc lực cho công tác quản lý, lập kế hoạch, đồng thời tạo
cơ sở tin cậy cho việc phấn đấu giảm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh tế của chi phí. Dưới
đây là một số cách phân loại chủ yếu.
1.2.1.1. Phân loại theo lĩnh vực hoạt động kinh doanh
Căn cứ vào việc tham gia của chi phí vào hoạt động kinh doanh, toàn bộ chi phí
được chia làm ba loại:
- Chi phí kinh doanh: bao gồm các chi phí liên quan đến hoạt động sản xuất, tiêu
thụ, quản lý hành chính như chi phí về nguyên vật liệu, tiền lương, chi phí chung, chi phí
bán hàng, ...
- Chi phí hoạt động tài chính: gồm những chi phí liên quan đến hoạt động về vốn
và đầu tư tài chính như cho thuê tài sản, mua chứng khoán, cho vay, …
- Chi phí bất thường: gồm những chi phí ngoài dự kiến: như chi phí về thanh lý,
nhượng bán TSCĐ, chi tiền nộp phạt,…
Cách phân loại này giúp cho việc phân loại chi phí được chính xác, phục vụ cho
việc xác định chi phí, kết quả của từng loại hoạt động kinh doanh và lập báo cáo tài
chính.
1.2.1.2. Phân loại theo yếu tố chi phí
Phân loại theo yếu tố chi phí để phục vụ cho việc tập hợp, quản lý chi phí theo nội
dụng kinh tế ban đầu đồng nhất của nó mà không xét đến công dụng cụ thể, địa điểm
phát sinh chi phí. Theo quy định hiện hành ở Việt Nam (Thông tư 63/1999/TT-BTC,
ngày 7/6/1999), toàn bộ chi phí được chia thành 6 yếu tố sau:
- Chi phí nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu động lực bao gồm toàn bộ giá trị nguyên
vật liệu chính, vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, công cụ dụng cụ.. (loại trừ giá trị dùng
không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi).
- Chi phí khấu hao TSCĐ: phản ánh tổng số khấu hao TSCĐ phải trích trong kỳ
cho tất cả TSCĐ sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Chi phí tiền lương và các khoản phụ cấp có tính chất lương: phản ánh các khoản

tiền lương, tiền công và các khoản phụ cấp có tính chất lương phải trả cho người lao động
tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp .


12

- Chi phí bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và kinh phí công đoàn: phản ánh phần
BHXH, BHYT, KPCĐ trích theo tỷ lệ quy định trên tổng số tiền lương và phụ cấp lương
phải trả cho công nhân viên chức.
- Chi phí dịch vụ mua ngoài: phản ánh toàn bộ chi phí dịch vụ mua ngoài dùng
vào hoạt động sản xuất kinh doanh: chi phí sửa chữa TSCĐ thuê ngoài, chi phí điện,
nước, điện thoại, vận chuyển hàng hoá, thành phẩm, tiền trả hoa hồng đại lý, môi giới, uỷ
thác xuất khẩu, nhập khẩu, tiền mua bảo hiểm tài sản, tiền thuê kiểm toán, tư vấn, quảng
cáo và các dịch vụ mua ngoài khác.
- Chi phí bằng tiền khác: là các khoản chi phí khác bằng tiền chưa phản ánh vào
các yếu tố trên dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ: thuế môn bài, thuế sử
dụng đất, thuế tài nguyên, lệ phí cầu phà, chi phí tiếp tân, quảng cáo, tiếp thị , giao dịch
đối ngoại, bảo hành sản phẩm..
Việc phân loại theo yếu tố chi phí có tác dụng trong việc cung cấp thông tin chi
phí một cách cụ thể hơn nhằm phục vụ cho việc xây dựng và phân tích mức vốn lưu
động, lập, kiểm tra và phân tích dự toán chi phí .
1.2.1.3. Phân loại theo khoản mục chi phí trong giá thành
Căn cứ vào ý nghĩa của chi phí trong giá thành và để thuận tiện cho việc tính giá
thành toàn bộ, chi phí được phân chia theo khoản mục. Cách phân chia này dựa vào công
dụng của chi phí và cách phân bổ chi phí cho từng đối tượng.
Theo quy định hiện hành, giá thành sản xuất (giá thành công xưởng) ở Việt Nam
gồm các khoản mục chi phí trực tiếp:
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: phản ánh toàn bộ chi phí về nguyên vật liệu
chính, nguyên vật liệu phụ, nhiên liệu và động lực, ... sử dụng trực tiếp cho việc chế
tạo sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp, ...

- Chi phí nhân công trực tiếp : gồm các khoản chi trả cho người lao động trực tiếp
sản xuất như : tiền lương, tiền công và các khoản phụ cấp có tính chất lương, chi ăn ca,
chi BHXH, BHYT, KPCĐ của công nhân trực tiếp sản xuất.
- Chi phí chung: gồm các khoản chi phí chung phát sinh ở các phân xưởng,
bộ phận sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như: tiền lương, phụ cấp. ăn ca phải trả
cho nhân viên phân xưởng, chi phí vật liệu, công cụ, dụng cụ xuất dùng cho phân xưởng,
khấu hao TSCĐ, chi phí dịch vụ mua ngoài và các chi phí bằng tiền ngoài các chi phí kể


13

trên.
Ngoài ra khi tính chỉ tiêu giá thành toàn bộ (giá thành tiêu thụ) thì chỉ tiêu giá
thành còn bao gồm khoản mục chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp. Giá
thành tiêu thụ của sản phẩm chỉ được tính toán xác định khi sản phẩm hoặc công việc
được tiêu thụ. Giá thành tiêu thụ của sản phẩm là căn cứ để tính toán, xác định lãi trước
thuế lợi tức của doanh nghiệp.
1.2.1.4. Phân loại theo chức năng của chi phí trong sản xuất kinh doanh
Dựa vào chức năng hoạt động trong quá trình sản xuất kinh doanh và chi phí liên
quan đến việc thực hiện các chức năng mà chi phí kinh doanh được chia làm 3 loại sau:
- Chi phí thực hiện chức năng sản xuất: bao gồm những chi phí phát sinh liên quan
đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm, thực hiện lao vụ trong phạm vi phân xưởng, như chi
phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí chung.
- Chi phí thực hiện chức năng tiêu thụ: bao gồm những chi phí phát sinh liên quan
đến việc tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá… như chi phí cho nhân viên bán hàng, chi phí bảo
hành sản phẩm…
- Chi phí thực hiện chức năng quản lý: bao gồm các chi phí quản lý kinh doanh,
hành chính và những chi phí phát sinh liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp như chi
phí nhân viên quản lý doanh nghiệp, chi phí công cụ, vật liệu dùng cho quản lý....
Cách phân loại này thuận lợi cho công tác kiểm soát và quản lý chi phí, cũng là cơ

sở để xác định giá thành sản xuất, giá thành toàn bộ.
1.2.2. Phân loại giá thành
Để đáp ứng các yêu cầu của quản lý, hạch toán và kế toán giá thành, xác định giá
bán, giá thành được xem xét dưới nhiều góc độ, phạm vi tính toán khác nhau:
a. Căn cứ vào thời điểm tính và nguồn số liệu để tính giá thành, giá thành được chia
làm ba loại:
- Giá thành kế hoạch: được xác định trước khi bước vào kinh doanh trên cơ sở giá
thành thực tế kỳ trước và các định mức, các dự toán chi phí của kỳ kế hoạch.
- Giá thành định mức: được xác định trước khi bước vào sản xuất sản phẩm trên
cơ sở các định mức kinh tế kỹ thuật hiện hành cho từng giai đoạn của quá trình sản xuất
và của cả quá trình.


14

- Giá thành thực tế: được xác định sau khi kết thúc quá trình sản xuất sản phẩm
dựa trên cơ sở các chi phí thực tế phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm.
b. Căn cứ vào phạm vi phát sinh chi phí:
- Giá thành sản xuất: là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên
quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm trong phạm vi phân xưởng sản xuất.
- Giá thành toàn bộ: là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên
quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm.
Giá thành
toàn bộ
của sản
phẩm

=

Giá thành

sản xuất
của sản
phẩm

+

Chi phí
bán hàng

+

Chi phí
quản lý
doanh
nghiệp

1.3. Sự cần thiết và nhiệm vụ của tổ chức hạch toán chi phí và tính giá thành:
Trong công tác quản lý doanh nghiệp, chi phí và giá thành là những chỉ tiêu kinh
tế quan trọng luôn được các nhà quản lý doanh nghiệp quan tâm .Với những thông tin về
chi phí và giá thành do bộ phận kế toán cung cấp, những người quản lý doanh nghiệp
nắm được chi phí và giá thành thực tế của từng loại hoạt động, từng loại sản phẩm, lao
vụ cũng như kết quả của toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Từ
đó phân tích, đánh giá tình hình thực hiện các định mức chi phí và dự toán chi phí, tình
hình sử dụng tài sản, vật tư, lao động tiền vốn, tình hình thực hiện kế hoạch giá thành làm
cơ sở cho việc ra các quyết định quản lý thích hợp. Thông qua việc phân tích và đánh giá
những chỉ tiêu này, doanh nghiệp sẽ có những biện pháp nhằm tổ chức sản xuất hợp lý,
nâng cao hiệu quả sử dụng chi phí, hạ giá thành.
Để tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành áp ứng đầy đủ, trung
thực và kịp thời yêu cầu quản lý chi phí và giá thành của doanh nghiệp, kế toán cần thực
hiện các nhiệm vụ chủ yếu sau:

- Căn cứ vào đặc điểm quy trình công nghệ, đặc điểm tổ chức sản xuất sản phẩm
của doanh nghiệp để xác định đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí, đối tượng và
phương pháp tính giá thành phù hợp.
- Tổ chức tập hợp và phân bổ chính xác từng loại chi phí phát sinh cho từng đối
tượng.
- Lựa chọn phương pháp và xác định chính xác sản phẩm dở dang cuối kỳ.
- Vận dụng phương pháp tính giá thành thích hợp để tính giá thành và giá thành


15

đơn vị của các đối tượng tính giá thành theo đúng các khoản mục quy định và đúng kỳ
tính giá thành đã xác định.
- Giám sát tình hình thực hiện các định mức chi phí, phân tích tình hình thực hiện
kế hoạch giá thành, lập các báo cáo chi phí và giá thành theo đúng chế độ.
1.3. Tổ chức hạch toán chi phí
1.3.1. Đối tượng hạch toán chi phí
Hoạt động sản xuất của doanh nghiệp có thể tiến hành ở nhiều phân xưởng, bộ
phận khác nhau, ở từng địa điểm sản xuất lại có thể sản xuất, chế biến nhiều loại sản
phẩm, nhiều công việc lao vụ khác nhau theo các quy trình sản xuất khác nhau. Do đó
các chi phí cũng phát sinh ở nhiều địa điểm, nhiều bộ phận, liên quan đến nhiều sản
phẩm, công việc cần được tập hợp theo yếu tố, khoản mục chi phí cho những phạm vi,
giới hạn nhất định để phục vụ cho việc tính giá thành. Như vậy việc xác định đối
tượng hạch toán chi phí thực chất là việc xác định phạm vi, giới hạn mà chi phí cần
được tập hợp.
Xác định đúng đắn đối tượng hạch toán chi phí là điều kiện để thực hiện tốt công
tác hạch toán chi phí.
Việc xác định đối tượng hạch toán chi phí cần dựa vào các căn cứ sau:
- Căn cứ vào đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất:
Nếu doanh nghiệp có quy trình công nghệ sản xuất giản đơn: đối tượng hạch toán

chi phí có thể là sản phẩm hoặc toàn bộ quy trình công nghệ.
Nếu doanh nghiệp có quy trình công nghệ phức tạp: đối tượng hạch toán chi phí
có thể là bộ phận, chi tiết sản phẩm, các giai đoạn chế biến…
- Căn cứ vào loại hình sản xuất sản phẩm:
Với loại hình sản xuất đơn chiếc thì đối tượng hạch toán chi phí là từng loại sản
phẩm.
Với loại hình sản xuất hàng loạt thì đối tượng hạch toán chi phí có thể là từng đơn
đặt hàng hoặc từng loại sản phẩm, ...
- Căn cứ vào yêu cầu và trình độ quản lý, tổ chức sản xuất của doanh nghiệp:
Với trình độ cao có thể hạch toán chi tiết đối tượng hạch toán chi phí ở các góc
độ khác nhau nhằm cung cấp thông tin chi phí chi tiết.
Với trình độ thấp, đối tượng hạch toán chi phí thường không chi tiết cụ thể.


16

Như vậy đối tượng hạch toán chi phí trong doanh nghiệp có thể là:
- Từng phân xưởng, tổ đội sản xuất hoặc toàn doanh nghiệp.
- Từng giai đoạn công nghệ hoặc toàn bộ quy trình công nghệ.
- Từng thành phẩm, đơn đặt hàng, hạng mục công trình.
- Từng bộ phận, chi tiết sản phẩm.
Hạch toán chi phí theo từng đối tượng cụ thể là điều kiện quan trọng trong
việc tăng cường quản lý, giám sát hoạt động sản xuất, hạch toán nội bộ cũng như phục
vụ tốt cho việc tính giá thành nhanh chóng, chính xác. Trên cơ sở đối tượng hạch toán
chi phí, kế toán sẽ lựa chọn đối tượng tính giá thành thích hợp.
1.3.2. Phương pháp hạch toán chi phí:
Phương pháp hạch toán chi phí là một phương pháp hay hệ thống các phương
pháp được sử dụng để phân loại và tập hợp các chi phí trong phạm vi giới hạn của đối
tượng hạch toán chi phí. Trong mỗi doanh nghiệp có những đối tượng hạch toán chi phí
khác nhau vì vậy phải có những phương pháp hạch toán chi phí khác nhau cho mỗi loại

đối tượng. Hiện nay có rất nhiều phương pháp được áp dụng trong các doanh nghiệp.
Sau đây là một số phương pháp chủ yêú:
- Phương pháp hạch toán chi phí theo sản phẩm:
Theo phương pháp này, các chi phí phát sinh sẽ được tập hợp riêng cho từng sản
phẩm riêng biệt không phụ thuộc vào tính chất phức tạp của sản phẩm và dây chuyền
công nghệ sản xuất. Theo đó nếu doanh nghiệp có quy trình công nghệ sản xuất phức tạp
thì các chi phí trực tiếp sẽ được phân bổ cho từng sản phẩm riêng biệt, còn chi phí chung
sẽ được phân bổ cho sản phẩm theo các tiêu thức thích hợp.
Khi áp dụng phương pháp này thì giá thành sẽ được tính theo phương pháp trực
tiếp hoặc tổng cộng chi phí. Phương pháp này thường áp dụng ở các đơn vị sản xuất
mang tính đơn chiếc, ít sản phẩm.
- Phương pháp hạch toán chi phí theo bộ phận chi tiết sản phẩm: Theo phương
pháp này các chi phí sẽ được tập hợp và phân loại chi tiết theo từng chi tiết hoặc bộ
phận cấu thành sản phẩm. Cuối kỳ hạch toán giá thành sẽ được xác định bằng tổng
cộng số chi phí của các chi tiết, bộ phận cấu thành sản phẩm đó.
Phương pháp này khá phức tạp nên thường áp dụng ở các doanh nghiệp chuyên


17

môn hoá sản xuất cao, sản xuất ít sản phẩm hoặc mang tính chất đơn chiếc, có ít bộ phận
cấu thành sản phẩm.
- Phương pháp hạch toán chi phí theo nhóm sản phẩm:
Theo phương pháp này sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất ra sẽ được phân loại
thành từng nhóm theo một tiêu thức nào đó và chi phí sẽ được tập hợp riêng cho từng
nhóm.
Khi áp dụng phương pháp này thì giá thành sẽ được xác định theo phương pháp
liên hợp, nghĩa là sử dụng đồng thời một số biện pháp như phương pháp hệ số, phương
pháp tỷ lệ và thường áp dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp sản xuất nhiều chủng loại
sản phẩm có quy cách khác nhau.

- Phương pháp hạch toán chi phí theo đơn đặt hàng:
Theo phương pháp này chi phí sẽ được tập hợp riêng cho từng đơn đặt hàng riêng
biệt và giá thành sẽ là tổng chi phí phát sinh tính cho từng đơn đặt hàng đó. Đối với các
chi phí vật liệu và nhân công trực tiếp thì được tập hợp trực tiếp theo từng đơn hàng
riêng, còn chi phí chung sẽ được tập hợp và sau đó phân bổ cho từng đơn hàng.
- Phương pháp hạch toán chi phí theo phân xưởng:
Theo phương pháp này các chi phí phát sinh sẽ được tập hợp theo từng đơn vị sản
xuất như phân xưởng, tổ đội sản xuất. Trong mỗi đơn vị sản xuất này, chi phí lại được
phân bổ cho các đối tượng chịu chi phí như sản phẩm, chi tiết sản phẩm ...
Phương pháp này thường được áp dụng tại các doanh nghiệp có chia thành nhiều
bộ phận, phân xưởng sản xuất riêng lẻ.
- Phương pháp hạch toán chi phí theo giai đoạn công nghệ:
Theo phương pháp này các chi phí được tập hợp và phân loại theo từng giai đoạn
công nghệ, chi phí sẽ được tập hợp và phân loại theo từng loại bán thành phẩm, thành
phẩm và giá thành sẽ được xác định theo phương pháp tổng cộng chi phí của các giai
đoạn.
Phương pháp này thường được áp dụng ở các doanh nghiệp có dây chuyền công
nghệ sản xuất phức tạp, sản xuất liên tục.


18

1.3.3. Trình tự hạch toán chi phí:
Chi phí trước hết được biểu hiện bao gồm nhiều loại với tính chất và nội dung
khác nhau. Thông qua các phương pháp hạch toán, chi phí sẽ được tính vào các khoản
mục của giá thành. Chính vì vậy, việc tập hợp chi phí được tiến hành theo một trình tự
hợp lý, khoa học thì mới có thể tính giá thành một cách chính xác, kịp thời được. Trình tự
này phụ thuộc vào đặc điểm sản xuất của từng ngành nghề, từng doanh nghiệp và mối
quan hệ giữa các hoạt động sản xuất kinh doanh nghiệp, vào trình độ công tác quản lý và
hạch toán... Tuy nhiên có thể khái quát chung việc tập hợp chi phí qua các bước sau:

- Bước 1: Tập hợp các chi phí cơ bản có liên quan trực tiếp cho từng đối tượng
hạch toán chi phí, thường là các chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và các chi phí nhân công
trực tiếp.
- Bước 2: Tập hợp, tính toán và phân bổ chi phí của các bộ phận sản xuất kinh
doanh phụ cho từng đối tượng sử dụng - dựa trên cơ sở lao vụ phục vụ và giá thành đơn
vị lao vụ.
- Bước 3: Tập hợp và phân bổ chi phí chung cho các loại sản phẩm có liên quan.
-Bước 4: Xác định chi phí dở dang cuối kỳ, tính ra tổng giá thành và giá thành đơn vị.
1.3.4. Nội dung tổ chức hạch toán chi phí tại doanh nghiệp:
1.3.4.1. Nguyên tắc hạch toán chi phí
Để hạch toán chi phí một cách khoa học, chính xác thì việc hạch toán chi phí phải
tuân theo các nguyên tắc sau:
- Phải xác định chính xác, đầy đủ các chi phí đã bỏ ra để sản xuất sản phẩm hay thực
hiện lao vụ trong kỳ. Bao gồm:
+Tính đúng: là phản ánh một cách trung thực, đúng nội dung kinh tế, đúng đối
tượng chịu phí.
+Tính đủ: là hạch toán đầy đủ, chính xác các khoản chi phí phát sinh trong kỳ.
- Phản ánh đầy đủ, kịp thời các chi phí phát sinh trong kỳ lên hệ thống các sổ chi tiết và
tổng hợp, đáp ứng được các yêu cầu thông tin chi phí cho quản trị doanh nghiệp.
1.3.4.2. Tổ chức chứng từ ban đầu - cơ sở cho hạch toán chi phí
Cơ sở số liệu của việc hạch toán kế toán là các chứng từ kế toán. Muốn tổ chức


19

hạch toán chi phí một cách nhanh chóng, chính xác, cần thiết phải tổ chức chứng từ hạch
toán ban đầu (bao gồm lập và luân chuyển chứng từ) một cách đầy đủ, hợp lý đối với các
chi phí trực tiếp, xác định việc lập, luân chuyển các chứng từ kế toán khoản mục cần
thiết đối với các khoản chi phí chung.
Hệ thống các chứng từ gốc được hình thành tại nơi phát sinh chi phí gồm có:

- Hệ thống chứng từ về xuất dùng nguyên vật liệu, công cụ lao động (phiếu xuất
kho, biên bản kiểm kê, phiếu báo hỏng, bảng phân bổ nguyên vật liệu công cụ lao
động..).
- Hệ thống chứng từ về chi phí tiền lương, BHXH và các khoản chi trả cho việc sử
dụng lao động sống như: bảng phân bổ tiền lương và BHXH, được lập tại bộ phận kế
toán tiền lương..
- Các chứng từ về chi phí sử dụng TSCĐ (chứng từ về mức khấu hao, chứng từ về
chi thuê kho tàng, bến bãi và TSCĐ khác cho kinh doanh...)
- Các chứng từ về chi dùng yếu tố vốn bằng tiền trực tiếp chi cho kinh doanh
(phiếu chi, báo nợ, hoá đơn, bảng thanh toán.. ).
Các chứng từ trên được chuyển về bộ phận kế toán chi phí kinh doanh để kiểm tra,
phân loại và ghi sổ tài khoản. Tại đây chi phí được ghi nhận có hệ thống vào những loại
tài khoản khác nhau theo nội dung kinh tế và công dụng của chi phí.
1.3.4.3. Tổ chức hệ thống tài khoản kế toán sử dụng cho hạch toán chi phí
Để theo dõi tình hình phát sinh và tập hợp chi phí cho các đối tượng chịu phí, kế
toán sử dụng các tài khoản sau:
Tài khoản 621: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
Tài khoản 622: Chi phí nhân công trực tiếp.
Tài khoản 627: Chi phí chung.
Tài khoản 154: Chi phí kinh doanh dở dang.
Tài khoản 631: Giá thành sản xuất.
Tài khoản 242: Chi phí trả trước.
Tài khoản 335: Chi phí phải trả.
Ngoài ra doanh nghiệp còn sử dụng một số TK khác để hạch toán chi phí như TK
111, 152, 214, 334, 611... Tuỳ đặc điểm sản xuất và trình độ tổ chức hạch toán mà có thể
chi tiết một số tài khoản theo mức độ phù hợp.


20


1.3.4.4. Nội dung tổ chức hạch toán chi phí trong doanh nghiệp

 Hạch toán chi phí theo phương pháp kê khai thường xuyên:
Phương pháp kê khai thường xuyên là phương pháp theo dõi một cách thường
xuyên liên tục giá trị hiện có và tình hình biến động tăng, giảm vật tư, hàng hoá trên sổ kế
toán của từng loại.
Áp dụng phương pháp này có ưu điểm là cung cấp thông tin chính xác, thường
xuyên tại mọi thời điểm và tình hình nhập - xuất - tồn vật tư hàng hoá, về tình hình biến
động tăng, giảm chi phí ... mà không phải đợi đến cuối kỳ để kịp thời có các biện
pháp xử lý cần thiết.
Nội dung hạch toán chi phí theo phương pháp kê khai thường xuyên nhưsau:

 Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp:
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp là những chi phí về nguyên vật liệu chính, vật
liệu phụ, nhiên liệu ...sử dụng trực tiếp vào sản xuất, chế tạo sản phẩm.
Đối với những vật liệu khi xuất dùng có liên quan trực tiếp đến từng đối tượng tập
hợp chi phí riêng biệt (phân xưởng, bộ phận sản xuất sản phẩm, loại sản phẩm, lao vụ...)
thì hạch toán trực tiếp cho từng đối tượng đó. Trường hợp vật liệu xuất dùng có liên quan
đến nhiều đối tượng chi phí không thể tổ chức hạch toán riêng được thì lựa chọn tiêu thức
phân bổ hợp lý để tiến hành phân bổ. Tiêu thức phân bổ có thể định mức theo chi phí
nguyên vật liệu có, số giờ chạy máy hay chi phí kế hoạch....
Công thức phân bổ như sau:
Chi phí vật liệu
phân bổ cho từng
đối tượng

=

Tổng chi phí vật liệu cần phân bổ


Tiêu thức

Tổng tiêu thức phân bổ

phân bổ cho
x

từng đối tượng


Sơ đồ 1: Hạch toán tổng hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp

 Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp:
Chi phí nhân công trực tiếp là những khoản tiền phải trả cho công nhân trực tiếp
sản xuất sản phẩm, trực tiếp thực hiện các lao vụ, dịch vụ như lương chính, lương phụ và
các khoản phụ cấp có tính chất lương. Ngoài ra chi phí nhân công trực tiếp còn bao gồm
các khoản đóng góp cho quỹ BHXH, BHYT, KPCĐ do chủ sử dụng lao động chịu và
được tính vào chi phí theo một tỷ lệ nhất định với số tiền lương của công nhân trực tiếp
sản xuất.
Để tập hợp chi phí nhân công trực tiếp, kế toán sử dụng TK 622- Chi phí nhân
công trực tiếp .
S


Sơ đồ 2: Hạch toán tổng hợp chi phí nhân công trực tiếp

TK 334

TK 622


TK 154

Tiền lương và phụ cấp phải trả choKết
công
chuyển
nhân chi
trựcphí nhân công trực tiếp cuối kỳ

TK 338

Các khoản trích theo tỷ lệ quy định theo lương

Chi phí chung là những chi phí cần thiết còn lại để sản xuất sản phẩm, phát
sinh trong phạm vi các phân xưởng sản xuất của doanh nghiệp như chi phí nhân viên
phân xưởng, chi phí công cụ dụng cụ, chi phí khấu hao TSCĐ...
Chi phí chung được tập hợp theo từng địa điểm phát sinh chi phí. Một doanh
nghiệp nếu có nhiều phân xưởng có thể mở sổ chi tiết để tập hợp chi phí chung cho từng
phân xưởng.
Trường hợp một phân xưởng trong kỳ nếu có sản xuất nhiều loại sản phẩm thì
phải tiến hành phân bổ chi phí chung cho các sản phẩm có liên quan theo các tiêu thức
như chi phí nhân công trực tiếp, chi phí nguyên vật liệu trực tiếp ...
Công thức phân bổ như sau:
Mức chi phí
chung phân bổ
cho từng đối
tượng

Tổng chi phí chung phân bố
=


X
Tổng tiêu thức phân bổ

Tiêu thức phân bổ cho
từng đối tượng


Sơ đồ 3: Hạch toán tổng hợp chi phí chung

TK
334,338

TK
111,152

TK 627
Chi phí nhân
viên
quản lý phân
xưởng

15
2,
15
3

T
K
TK
154

Chi phí vật liệu,
dụng cụ dùng
trong

24
2,
33
5

T
K

Chi phí trả trước
TK 214
Khấu hao TSCĐ

1
1
1
,
3
3
1
.

Các khoản ghi
giảm
chi phí

T

K

.

Chi phí mua ngoài

Kết chuyển(
phân bổ ) chi
phí sản
xuất chung vào giá


v phù hợp giữa doanh thu và lợi nhuận. Chi phí trả trước thường gồm
à
các khoản: chi phí sửa chữa TSCĐ ngoài kế hoạch, tiền thuê TSCĐ,

c giá trị công cụ dụng cụ xuất dùng thuộc loại phân bổ nhiều lần....
h
Để hạch toán chi phí trả trước, kế toán sử dụng TK 242 - Chi phí
i trả trước.
p
h
í
b

n
g

Sơ đồ 4. Hạch toán tổng hợp chi phí trả trước.


 Hạch
toán chi
phí trả
trước:
Chi phí
trả trước là
những chi phí
thực tế đã
phát sinh với
quy mô lớn
và liên quan
đến nhiều kỳ
kinh doanh

 Hạch toán chi phí phải trả:

Việc
hạch toán chi
phí trả trước

Chi phí phải trả là những khoản chi phí thực tế chưa phát sinh
nhưng được tính trước vào chi phí kinh doanh trong kỳ. Mục đích của

tránh

hạch toán chi phí phải trả là tránh đột biến về chi phí tại kỳ mà nó

sự đột biến

phát sinh đảm bảo có nguồn bù đắp chi phí khi nó phát sinh. Chi phí


của chi phí

phải trả thường gồm: tiền lương nghỉ phép của công nhân sản xuất, chi

kinh

doanh

phí sửa chữa lớn TSCĐ theo kế hoạch, lãi vay sẽ trả.... Để theo dõi

cũng

như

đảm

bảo

Sản phẩm hỏng là những sản phẩm không thoả mãn các tiêu

nguyên

tắc

chuẩn về mặt chất lượng và yêu cầu về mặt kỹ thuật của sản xuất về

nhằm

chi phí phải trả, kế toán sử dụng TK 335 - Chi phí phải trả.



màu sắc, kích
cỡ,

trọng

lượng,

cách

thức lắp ráp...
Tuỳ theo mức
độ hư hỏng
mà sản phẩm
hỏng

được

chia làm hai
loại:
-

Đối

với sản phẩm
hỏng có thể
sửa

chữa


được: là các
sản

phẩm

hỏng về mặt
kỹ thuật có
thể sửa chữa
được và việc
sửa chữa có
lợi

về

kinh
Khoản

mặt
tế.
thiệt

hại được theo
dõi trên TK
242 - Chi phí
trả trước.


×