Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Bài tập giải quyết tình huống Luật sở hữu trí tuệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.64 KB, 14 trang )

MỤC LỤC

ĐẶT VẤN ĐỀ
Luật Sở hữu trí tuệ ngày càng giữ vai trò hết sức quan trọng giữa nền kinh
tế thị trường hội nhập quốc tế như hiện nay. Bằng việc điều chỉnh các quan hệ
xã hội phát sinh do có việc sáng tạo ra và sử dụng các sản phẩm trí tuệ nhằm
thỏa mãn nhu cầu tinh thần của con người và những sản phẩm trí tuệ được áp
dụng vào sản xuất, kinh doanh, lưu thông hàng hóa, lưu thông các sản phẩm trí
tuệ trên thương trường nội địa và quốc tế, luật đã và đang tạo ra vành đai pháp
lý vững chắc để tạo nên môi trường kinh doanh an toàn, lành mạnh. Nhãn hiệu
cũng là một trong những đối tượng được Luật Sở hữu trí tuệ bảo hộ vì đây là
dấu hiệu giúp người tiêu dùng phân biệt sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ.Trong các
quy phạm pháp luật liên quan đến nhãn hiệu thì quy định về việc đăng ký nhãn
hiệu dẫn đến nhiều trường hợp phải xem xét trên thực tế. Do vậy, em lựa chọn
đề 2.
Tình huống: Tháng 10 năm 2014, Công ty A muốn nộp đơn đăng ký nhãn
hiệu SANAN cho sản phẩm thức ăn cho động vật. Qua tra cứu, công ty này
được biết Cục Sở hữu trí tuệ đã cấp văn bằng bảo hộ nhãn hiệu SANAN dùng
cho các sản phẩm hạt giống, phân bón cho cây, thức ăn động vật cho Công ty B
tại tỉnh Phú Thọ ngày 15/04/2006. Công ty B đã tuyên bố phá sản và chấm dứt
hoạt động từ tháng 11/2008.
- Theo Anh (chị), Công ty A có khả năng đăng ký nhãn hiệu SANAN
không?

1


-Hãy đưa ra các phương án mà Công ty A có thể vận dụng để có thể đăng
ký nhãn hiệu SANAN ở tình huống trên?
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lý luận.


1. Khái niệm, điều kiện đăng ký bảo hộ nhãn hiệu.
a. Khái niệm: Khái niệm nhãn hiêu được quy định tại khoản16 điều 4 Luật
SHTT 2005 sửa đổi bổ sung 2009 “Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt
hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau.”
- Dấu hiệu dùng làm nhãn hiệu là dấu hiệu nhìn thấy được, thể hiện đưới
dạng từ ngữ, hình ảnh hoặc từ ngữ kết hợp với hình ảnh được thể hiện bằng một
hoặc nhiều màu sắc.
- Nhãn hiệu được pháp luật coi là tài sản trí tuệ của tổ chức, cá nhân.
b. Điều kiện bảo hộ:
Dựa trên khái niệm đó, điều kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu được đưa ra tại
điều 72 Luật SHTT 2005 sửa đổi bổ sung 2009: “Nhãn hiệu được bảo hộ nếu
đáp ứng cấc điều kiện sau đây:1. Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái
, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hộp cả ba yếu tố đó,
được thể hiện bằng một hay nhiều màu sắc; 2. Có khả năng phân biệt hàng hóa,
dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác.”
Theo đó, nhãn hiệu được cấp văn bằng bảo hộ phải đáp ứng được hai tiêu
chí:
- Thứ nhất, nhãn hiệu đó có thể nhìn thấy được, tức là bằng mắt thường thì
người dùng đã có thể nhận biết được. Người tiêu dùng qua quan sát, nhìn ngắm
để phát hiện ra loại hàng hóa dịch vụ có gắn với nhãn hiệu đó để lựa chọn. Hình
thức thể hiện của nhãn hiệu có thể bằng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả
hình ba chiều hoặc kết hợp của các yếu tố chữ cái, từ, ngữ và các dấu hiệu hình,
được thể hiện bằng một hay nhiều màu sắc. Trong đó, yếu tố màu sắc là không
thể thiếu đối với hàng hóa bởi ưu điểm gấy ấn tượng thị giác với con người.
Đồng thời nhãn hiệu không được rơi vào các trường hợp trong điều 73 Luật
SHTT 2005 sửa đổi bổ sung 2009.
- Thứ hai, điều 74 Luật SHTT 2005 sửa đổi bổ sung 2009 cũng có quy định
về khả năng nhận biết của nhãn hiệu: “Nhãn hiệu được coi là có khả năng phân
biệt nếu được tạo thành từ một hoặc một số yếu tố dễ nhận biết, dễ ghi nhớ
2



hoặc từ nhiều yếu tố kết hợp thành một tổng thể dễ nhận biết, dễ ghi nhớ”. Nhãn
hiệu dễ nhận biết là nhãn hiệu bao gồm các yếu tố đủ để tác động vào nhận thức,
tạo nên ấn tượng có khả năng lưu giữ trong trí nhớ hay tiềm thức con người. Tùy
thuộc vào từng quốc gia, vùng lãnh thổ mà nhãn hiệu có thể coi là có dễ nhận
biết hay không.
2. Phân loại nhãn hiệu.
* Căn cứ vào khái niệm về nhãn hiệu, người ta có thể chia nhãn hiệu ra làm
hai loại tương ứng với đối tượng phân biệt mà nhãn hiệu đó hướng đến bao
gồm:
- Nhãn hiệu dùng cho hàng hóa: là những dấu hiệu để phân biệt hàng hóa
của các tổ chức, cá nhân kinh doanh khác nhau. Nó chủ yếu trả lời cho câu hỏi
ai là người sản xuất ra những hàng hóa đó chứ không phải trả lời hàng hóa đó là
gì
- Nhãn hiệu dùng cho dịch vụ: Là những dấu hiệu để phân biệt dịch vụ của
các các nhân, tổ chức kinh doanh khác nhau. Dịch vụ được hiểu là các hoạt
động thực tế, được thực hiện theo yêu cầu hay vì lợi ích của bên thuê dịch vụ.
Hay nói cách khác, đây là một hoặc nhiều hành vi cụ thể nhằm đem lại lợi ích
cho chủ thể phía bên kia.
* Căn cứ theo quy định của Luật SHTT 2005 sửa đổi bổ sung 2009, một số
nhãn hiệu có các đặc điểm riêng biệt, cụ thể cần có quy định riêng (các nhãn
hiệu không xếp được vào trong 4 nhóm thì coi là nhãn hiệu thông thường) gồm
4 nhóm sau:
- Nhãn hiệu tập thể: Là nhãn hiệu dùng đề phân biệt hàng hóa, dịch vụ của
các thành viên của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hóa, dịch vụ của
các cá nhân, tổ chức kinh doanh khác không phải là thành viên của tổ chức đó
(Khoản 14 điều 4Luật SHTT 2005 sửa đổi bổ sung 2009). Đặc trưng của nhãn
hiệu tập thể là nhiều chủ thể đều có quyền cùng sử dụng nó nhưng cũng cần lưu
ý là khi một tập thể sử dụng nhãn hiệu nhân danh tập thể thì nhãn hiệu này

không được coi là nhãn hiệu tập thể mà sẽ chỉ là nhãn hiệu bình thường vì nhãn
hiệu chỉ do một chủ thể sử dụng.
- Nhãn hiệu chứng nhận: Là nhãn hiệu mà các chủ sở hữu nhãn hiệu cho
phéo tổ chức, cá nhân khác sử dụng trên hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân
đó để chứng nhận các đặc tính về xuất xứ, nguyên liệu, vật liệu, cách thức sản
xuất hàng hóa, cách thức cung cấp dịch vụ, chất lượng, độ chính xác, độ an toàn
3


hoặc các đặc tính khác của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu (khoản 18 điều 4
Luật SHTT 2005 sửa đổi bổ sung 2009).
- Nhãn hiệu liên kết: Là các nhãn hiệu do cùng một chủ thể đăng ký, trùng
hoặc tương tự nhau dùng cho sản phẩm , dịch vụ cùng loại hoặc tương tự nhau
hoặc có liên quan đến nhau (khoản 19 điều 4 Luật SHTT 2005 sửa đổi bổ sung
2009). Nhãn hiệu liên kết tạo nên sự yên tâm cho người tiêu dùng khi lựa chọn
sản phẩm hay dịch vụ mới bởi họ biết nguồn gốc hay mỗi liên kết với công ty
sản xuất, cung cấp dịch vụ mà họ đã từng dùng trước đây.
- Nhãn hiệu nổi tiếng: là nhãn hiệu được người tiêu dùng rộng rãi biết đến
trên toàn lãnh thổ Việt Nam (khoản 20 điều 4 Luật SHTT 2005 sửa đổi bổ sung
2009). Quy định nhẫn hiệu nổi tiếng được xác lập thông qua thủ tục công nhận
của cơ quan nhà nước thẩm quyền chứ không phải thông qua việc nộp đơn đăng
ký nhãn hiệu như các nhãn hiệu thông thường khác. Để được xem là nhãn hiệu
nổi tiếng cần thỏa mãn các tiêu chí quy định tại Điều 75 Luật SHTT 2005 sửa
đổi bổ sung 2009.
3. Chủ thể có quyền đăng ký nhãn hiệu.
Theo quy định của điều 87 Luật SHTT 2005 sửa đổi bổ sung 2009 “1. Tổ
chức, cá nhân có quyền đăng ký nhãn hiệu dùng cho hàng hóa do mình sản xuất
hoặc dịch vụ do mình cung cấp.2. Tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động thương
mại hợp pháp có quyền đăng ký nhãn hiệu cho sản phẩm mà mình đưa ra thị
trường nhưng do người khác sản xuất với điều kiện người sản xuất không sử

dụng nhãn hiệu đó cho sản phẩm và không phản đối việc đăng ký đó.” Do đó,
chỉ những chủ thể trên mới có quyền đăng ký nhãn hiệu của mình, nếu không
thuộc những trường hợp đã nêu thì văn bằng bảo hộ có thể sẽ bị hủy bỏ hiệu lực
theo quy định tại điểm a, khoản 1, điều 96 Luật SHTT 2005 sửa đổi bổ sung
2009 “Người nộp đơn đăng ký không có quyền đăng ký và không được chuyển
nhượng quyền đăng ký đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí,
nhãn hiệu”
4. Hiệu lực của văn bằng
Nhãn hiệu được bảo hộ từ ngày cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu
đến hết 10 năm tính từ ngày nộp đơn và có thể được gia hạn liên tiếp tại Cục sở
hữu trí tuệ (sẽ được ghi nhận vào Giáy chứng nhận đăng kỹ nhãn hiệu), mỗi lần
10 năm.
Nhãn hiệu được đăng ký tại quốc gia nào thì chỉ có hiệu lực bảo hộ tại
quốc gia đó, nếu muốn bảo hộ nhãn hiệu tại các quốc gia khác, người nộp đơn
4


phải tiến hành các thủ tục nộp đơn tới quốc gia đó hoặc nộp đơn đăng ký quốc tế
theo Thỏa ước Madrid hoặc Nghị định thư Madrid.
Riêng nhãn hiệu nổi tiếng được bảo hộ trên cơ sở thực tiễn sử dụng mà
không cần thủ tục đăng ký tại Cục Sở hữu Trí tuệ, và được bảo hộ vô thời hạn.
II. Giải quyết một tình huống.
1. Phân tích tình huống
a. Về chủ thể:
- Công ty A có nhu cầu nộp đơn đăng ký nhãn hiệu cho sản phẩm ở Việt
Nam.
Khoản 1 Điều 87 Luật SHTT năm 2005 sửa đổi bổ sung năm 2009 về
Quyền đăng ký nhãn hiệu: “Tổ chức, cá nhân có quyền đăng ký nhãn hiệu dùng
cho hàng hóa do mình sản xuất hoặc dịch vụ do mình cung cấp”. Theo tinh thần
của điều luật thì đăng ký nhãn hiệu là quyền của cá nhân, tổ chức. Như vậy, theo

tình huống mà đề bài đưa ra, công ty A là pháp nhân tiến hành hoạt động sản
xuất, dịch vụ hợp pháp có quyền nộp đơn yêu cầu cấp văn hộ nhãn hiệu
cho sản phẩm do công ty A sản xuất ở Việt Nam.
- Công ty B là chủ sở hữu nhãn hiệu SANAN dùng cho các sản phẩm hạt
giống (nhóm 31), phân bón cho cây (nhóm 1), thức ăn động vật (nhóm 31) được
Cục sở hữu trí tuệ cấp văn bằng bảo hộ trước công ty A tại tỉnh Phú Thọ, Việt
Nam.
+ Điều 6 Luật SHTT 2005 sửa đổi bổ sung 2009 về căn cứ phát sinh, xác
lập quyền sở hữu trí tuệ “3. Quyền sở hữu công nghiệp được xác lập như sau: a)
Quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố
trí, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng
bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại
Luật này hoặc công nhận đăng ký quốc tế theo quy định của điều ước quốc tế
mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; đối với nhãn hiệu nổi
tiếng, quyền sở hữu được xác lập trên cơ sở sử dụng, không phụ thuộc vào thủ
tục đăng ký”. Do đó, công ty B đã được xác lập quyền sở hữu trí tuệ đối với
nhãn hiệu SANAN từ ngày 15/04/2006 trước khi công ty A đi đăng ký. Mà theo
khoản 1 điều 93 Luật SHTT 2005 sửa đổi bổ sung 2009 về hiệu lực của văn
bằng bảo hộ “Văn bằng bảo hộ có hiệu lực trên toàn lãnh thổ Việt Nam” và
khoản 6 “Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu có hiệu lực từ ngày cấp đến hết
mười năm kể từ ngày nộp đơn, có thể gia hạn nhiều lần liên tiếp, mỗi lần mười
5


năm”, nên công ty B có quyền với nhãn hiệu SANAN trong mười năm đến ngày
15/04/2016, tức là công ty B vẫn được bảo hộ đến thời điểm công ty A muốn
đăng ký nhãn hiệu. Vì vẫn còn trong thời gian bảo hộ nên Cục sở hữu trí tuệ có
quyền từ chối đơn đăng ký của công ty A.
+ Tuy nhiên, công ty B đã tuyên bố phá sản và chấm dứt hoạt động từ
tháng 11/2008. Như vậy, công ty B đã không còn tồn tại vào thời điểm 10/2014

công ty A muốn đăng ký nhãn hiệu SANAN.
b. Về đối tượng: nhãn hiệu SANAN cho sản phẩm thức ăn động vật.
- Điều 72 Luật SHTT 2005 sửa đổi bổ sung 2009quy định điều kiện chung
đối với nhãn hiệu được bảo hộ
- Về điều kiện thứ nhất, nhãn hiệu SANAN là dấu hiệu nhìn thấy được
dưới dạng chữ cái, từ ngữ được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc. Đồng
thời, nhãn hiệu SANAN không thuộc phạm vi trong điều 73. Do đó, nhãn hiệu
SANAN thỏa mãn khoản 1 điều 72.
- Về điều kiện có khả năng phân biệt:
+ Trước hết, xét về hình thức bao gồm số ký tự, cách viết, thứ tự sắp xếp
chữ cái, nghĩa, phát âm thì nhãn hiệu mà công ty A định đăng ký hoàn toàn
trùng với nhãn hiệu đã đăng ký của công ty B. Xét về lĩnh vực kinh doanh, lĩnh
vực kinh doanh mà nhãn hiệu công ty B được bảo hộ thuộc nhóm 31 và 01 trong
bảng phân loại hàng hóa, dịch vụ Nice, trong khi đó công ty A là nhóm 31 nên
trên cơ bản thì sản phẩm cung cấp đều là thức ăn cho động vật nên sẽ gây nhầm
lẫn. Vì thế nên nhãn hiệu công ty A muốn đăng ký sẽ gây nhầm lẫn cho người
tiêu dùng với nhãn hiệu công ty B được bảo hộ nếu cả hai đều cùng đưa sản
phẩm ra thị trường.
+ Tuy nhiên, việc nhãn hiệu SANAN thỏa mãn hay không thỏa mãn điều
74 và khoản 2 điều 72 Luật SHTT 2005 sửa đổi bổ sung 2009 còn phụ thuộc
vào tùy trường hợp. Việc công ty B phá sản không đồng nghĩa với việc nhãn
hiệu SANAN không được bảo hộ. Đặc biệt, nhãn hiệu SANAN muốn đăng ký
phải không rơi vào trường hợp trong điểm h khoản 2 điều 74 Luật SHTT 2005
sửa đổi bổ sung 2009 “Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với
nhãn hiệu của người khác đã được đăng ký cho hàng hóa, dịch vụ trùng hoặc
tương tự mà đăng ký nhãn hiệu đó đã chấm dứt hiệu lực chưa quá 5 năm .”

6



+ Do công ty A đã tra trước nhãn hiệu chỉ có công ty B được bảo hộ trước
đó và đã phá sản nên không có tình trạng nhãn hiệu SANAN đã được công ty
khác đăng ký sau công ty B hoặc được công ty B chuyển nhượng quyền sử dụng
đối với nhãn hiệu (Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng nhãn hiệu phải
đăng ký mới có hiệu lực nên khi công ty A tra cứu cũng sẽ biết). Coi trên thị
trường Việt Nam ngoài sản phẩm thức ăn cho động vật của công ty A và B
không còn sản phẩm trùng hoặc tương tự nào khác cũng mang nhãn hiệu
SANAN. Đồng thời coi như không có nhãn hiệu nổi tiếng lấy tên SANAN cho
các sản phẩm hàng hóa dịch vụ kể cả hàng hóa dịch vụ khác hoàn toàn, không
gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng Việt Nam. (Công ty A đã tra cứu tìm hiểu đầy
đủ trên trang web và trong thực tế).
Như vậy vấn đề của nhãn hiệu đối với công ty A đặt ra là tùy trường hợp để
xác định hiệu lực của văn bằng bảo hộ với nhãn hiệu của công ty B còn tồn tại
hay không.
c. Các vấn đề cần giải quyết:
+Công ty A có khả năng đăng ký nhãn hiệu SANAN không?
+ Các phương án mà Công ty A có thể vận dụng để có thể đăng ký nhãn
hiệu SANAN.
2. Giải quyết tình huống:
a. Công ty A có khả năng đăng ký nhãn hiệu SANAN không?
Trên cơ sở đã phân tích trên, tuy công ty B đã không còn tồn tại vào thời
điểm 10/2014 nhưng hiệu lực của giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu SANAN
vẫn còn tồn tại đến 11/2016 (nếu không được gia hạn sẽ tự động chấm dứt). Do
văn bằng chỉ chấm dứt khi có yêu cầu chấm dứt theo khoản 4 điều 95 Luật
SHTT 2005 sửa đổi bổ sung 2009. Như vậy sẽ xảy ra hai trường hợp.
* Trường hợp 1: công ty B trước khi phá sản đã tuyên bố từ bỏ quyền sở
hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu SANAN.
Theo Điều 95 Luật SHTT 2005 sửa đổi bổ sung 2009 về chấm dứt hiệu lực
văn bằng bảo hộ “1. Văn bằng bảo hộ bị chấm dứt hiệu lực trong các trường hợp
sau đây: b) Chủ văn bằng bảo hộ tuyên bố từ bỏ quyền sở hữu công nghiệp”.

Trong trường hợp này, cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp
quyết định chấm dứt hiệu lực văn bằng bảo hộ kể từ ngày nhận được tuyên bố
của chủ văn bằng bảo hộ theo khoản 3 điều 95 Luật SHTT 2005 sửa đổi bổ sung
7


2009. Lúc này, giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu đã chấm dứt nên hết hiệu
lực. Từ thời điểm phá sản là 11/2008 đến lúc công ty A muốn đăng ký nhãn hiệu
10/2014 đã quá 5 năm nên sẽ thỏa mãn điểm h khoản 2 điều 74 Luật SHTT
2005 sửa đổi bổ sung 2009, tức là công ty A có thể đi đăng ký nhãn hiệu
SANAN.
* Trường hợp 2: đã có người thứ 3 khác yêu cầu chấm dứt hoặc hủy bỏ
hiệu lực văn bằng của công ty B và đã có quyết định chấm dứt hoặc hủy bỏ
trước thời điểm công ty A muốn đăng ký.
Nếu từ thời điểm có quyết định chấm dứt đến 10/2014 đã quá 5 năm hoặc
chưa quá 5 năm nhưng chấm dứt theo điểm d khoản 1 điều 95 Luật SHTT 2005
sửa đổi bổ sung 2009 thì công ty A vẫn đi đăng ký được.
Nếu từ thời điểm có quyết định chấm dứt đến 10/2014 chưa quá 5 năm trừ
trường hợp chấm dứt theo điểm d khoản 1 điều 95 Luật SHTT 2005 sửa đổi bổ
sung 2009 thì công ty A phải đợi đến ngày đầu tiên tính bắt đầu năm thứ 6 mới
có thể đi đăng ký.
Nếu đã có quyết định hủy bỏ trước khi công ty A muốn đăng ký thì công ty
A có thể đăng ký nhãn hiệu.
* Trường hợp 3: vào 10/2014 giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu SANAN
vẫn còn tồn tại.
Do giấy chứng nhận có hiệu lực đến ngày 15/04/2016 nên nhãn hiệu công
ty A muốn đi đăng ký sẽ trùng với nhãn hiệu đang được bảo hộ. Lúc này công ty
A đi đăng ký sẽ bị Cục SHTT từ chối đơn đăng ký. Công ty A không thể đăng
ký được nhãn hiệu SANAN.
b. Các phương án mà Công ty A có thể vận dụng để đăng ký nhãn hiệu

SANAN
* Phương án thứ 1: Công ty A phải nộp đơn yêu cầu Cục Sở hữu trí tuệ
chấm dứt hiệu lực văn bằng bảo hộ đối với nhãn hiệu SANAN của công ty B và
nộp phí, lệ phí rồi mới đăng ký được nếu giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu
vẫn còn tồn tại.
Để đăng ký được nhãn hiệu SANAN cho sản phẩm thức ăn cho động vật
do mình sản xuất ra thì trước tiên, công ty A phải nộp đơn yêu cầu Cục Sở hữu

8


trí tuệ chấm dứt hiệu lực văn bằng bảo hộ đối với nhãn hiệu SANAN của công
ty B.
- Nếu công ty A lấy lý do công ty B đã phá sản từ tháng 11/2008 theo điểm
c khoản 1 điều 95 Luật SHTT 2005 sửa đổi bổ sung 2009 thì sau khi Cục SHTT
có quyết định chấm dứt, văn bằng bảo hộ với nhãn hiệu SANAN của công ty B
chấm dứt, công ty A phải đợi quá 5 năm sau đó mới đi đăng ký được nhãn hiệu.
- Nếu công ty A lấy lý do nhãn hiệu SANAN của công ty B không còn
được sử dụng liên tục trong 5 năm trước ngày yêu cầu chấm dứt hiệu lực văn
bằng theo điểm d khoản 1 điều 95 Luật SHTT 2005 sửa đổi bổ sung 2009, tức là
từ trước 10/2009 đến 10/2014 đã không còn sử dụng nhãn hiệu, thì sau khi có
quyết định chấm dứt hiệu lực văn bằng, công ty không cần đợi 5 năm mà có thể
đăng ký nhãn hiệu luôn, do đã thỏa mãn điểm h khoản 2 điều 74 Luật SHTT
2005 sửa đổi bổ sung 2009. Đây là ưu điểm so với trường hợp trên.
Ở cả 2 trường hợp trên, công ty A cần nộp 1 bộ hồ sơ bao gồm Tờ khai (02
tờ theo mẫu); Chứng cứ (nếu có); Giấy uỷ quyền (nếu thông qua đại diện); Bản
giải trình lý do yêu cầu; Chứng từ nộp phí, lệ phí.
Công ty A phải nộp phí và lệ phí đầy đủ theo quy định của pháp luật cho
yêu cầu trên. Tổng số tiền phải nộp bao gồm lệ phí và phí đại diện yêu cầu
chấm dứt hiệu lực văn bằng bảo hộ: 5.000.000 đồng và lệ phí công bố Quyết

định chấm dứt hiệu lực văn bằng bảo hộ: 120.000 đồng theo Thông tư số
22/2009/TT-BTC.
Thời hạn Cục SHTT ký quyết định khoảng 5 tháng kể từ ngày ra thông
báo để chủ văn bằng bảo hộ (công ty B) có ý kiến. Thời hạn quyết định chấm
dứt hiệu lực văn bằng được công bố trên Công báo sở hữu công nghiệp và được
ghi nhận vào Sổ đăng ký quốc gia là 2 tháng kể từ ngày ký quyết định.
Đánh giá: đây là phương án đơn giản phù hợp nhất đối với trường hợp này
do đầy đủ điều kiện của trường hợp. Tuy nhiên chi phí, thời gian công sức phải
bỏ ra nhiều; hơn nữa còn phải tốn công sức lấy chứng cớ chứng minh.
* Phương án thứ 2: công ty A yêu cầu Cục sở hữu trí tuệ hủy bỏ hiệu lực
văn bằng bảo hộ của công ty B và nộp lệ phí theo điều 96 Luật SHTT 2005 sửa
đổi bổ sung 2009.
- Điều kiện chung: công ty A phải đã sản xuất sản phẩm có nhãn hiệu
SANAN trước công ty B nộp đơn đăng ký.
9


- Nếu công ty A yêu cầu Cục sở hữu trí tuệ hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo
hộ của công ty B căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 96 Luật SHTT 2005 sửa đổi
bổ sung 2009. Khoản 2 Điều 87 Luật SHTT 2005 sửa đổi bổ sung 2009 thì : “Tổ
chức, cá nhân tiến hành hoạt động thương mại hợp pháp có
quyền đăng ký nhãn hiệu cho sản phẩm mà mình đưa ra thị trường nhưng do
người khác sản xuất với điều kiện người sản xuất không sử dụng nhãn hiệu đó
cho sản phẩm và không phản đối việc đăng ký đó”. Như vậy, trong trường hợp
này công ty A phải đưa ra những tài liệu, giấy tờ chứng minh rằng công ty B chỉ
là đại lý hoặc nhà phân phối sản phẩm cho công ty A (hợp đồng đại lý mua bán
hàng hóa hoặc hợp đồng phân phối). Đồng thời công ty A đã sử
dụng nhãn hiệu cho sản phẩm đó và phản đối việc đăng ký của công ty B. Như
vậy, công ty B chỉ không có quyền đăng ký nhãn hiệu SANAN mà chỉ có quyền
đưa sản phẩm ra thị trường.

- Nếu công ty A yêu cầu Cục SHTT hủy bỏ hiêu lực văn bằng bảo hộ của
công ty B theo điểm b khoản 1 Điều 96 Luật SHTT 2005 sửa đổi bổ sung 2009.
Công ty A phải chứng minh nhãn hiệu của công ty B không đáp ứng được điều
kiện bảo hộ (không có khả năng phân biệt) theo quy định tại điểm g khoản 2
Điều 74 Luật SHTT 2005 sửa đổi bổ sung 2009 do trùng với nhãn hiệu của công
ty A đã được sử dụng và thừa nhận rộng rãi cho sản phẩm thức ăn cho động vật
từ trước ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên trong trường hợp đơn được hưởng
quyền ưu tiên. Trường hợp này yêu cầu thêm ngoài đã sử dụng còn cần được
người tiêu dùng Việt Nam trong lĩnh chăn nuôi động vật biết đến rộng rãi. Như
vậy, công ty A phải đưa ra những tài liệu, chứng cứ như: hóa đơn, chứng từ,
giấy phép đăng ký kinh doanh …để chứng mình thời gian sử dụng, doanh số
bán hàng, thị hiếu của người tiêu dùng và uy tín, danh tiếng của nhãn hiệu đối
với hàng hóa của mình trước ngày công ty B nộp đơn để chứng
minh nhãn hiệu của mình đã được sử dụng và thừa nhận rộng rãi.
Tuy nhiên theo khoản 3 điều 96 Luật SHTT 2005 sửa đổi bổ sung 2009
thời hiệu thực hiện quyền yêu cầu huỷ bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ đối với nhãn
hiệu là năm năm kể từ ngày cấp văn bằng bảo hộ, trừ trường hợp văn bằng bảo
hộ được cấp do sự không trung thực của người nộp đơn. Do từ 15/04/2006 đến
10/ 2014 đã quá 5 năm nên phải chứng mình thêm công ty B khi nộp đơn không
trung thực. Theo điểm 5.3 của Thông tư 01/2007/TT-BKHCN ngày 14/02/2007
thì không trung thực có thể là do việc khai báo, cung cấp thông tin không trung
thực trong khi đăng ký tại Cục Sở hữu trí tuệ. Hoặc là có động cơ không trung

10


thực như công ty B biết về sự tồn tại của nhãn hiệu SANAN của công ty A trên
thi trường trước khi nộp đơn muốn ngăn cản, lợi dụng khai thác uy tín…
Tiếp theo, công ty A phải nộp phí và lệ phí theo Thông tư số 22/2009/TTBTC. Hồ sơ công ty A nộp để hủy bỏ hiệu lực và thời hạn ký quyết định hủy bỏ
hiệu lực cũng giống như phương án đầu tiên.

Đánh giá: phương án hủy bỏ một văn bằng bảo hộ sẽ mất nhiều chi phí.
Hơn nữa tìm chứng cứ khó khăn và công ty A phải thỏa mãn đủ điều kiện đã
nêu. Công ty A không nên thực hiện phương án này vì công ty B đã phá sản và
đến 10/2014 đã đủ 5 năm không dùng nhãn hiệu SANAM để chấm dứt hiệu lực
văn bằng.
* Phương án thứ 3: Công ty A đợi cho hiệu lực của văn bằng tự động chấm
dứt do không được gia hạn thêm theo điểm a khoản 1 điều 95 Luật SHTT 2005
sửa đổi bổ sung 2009. Và thêm hơn 5 năm nữa để thỏa mãn điểm h khoản 2 điều
74 Luật SHTT 2005 sửa đổi bổ sung 2009, sau đó công ty A có thể đi đăng ký
nhãn hiệu SANAN tại Cục SHTT.
Đánh giá: phương án này khong tốn tiền của công sức nhưng phải đợi thời
gian quá dài.
* Phương án thứ 4: Công ty A đăng ký nhãn hiệu SANAN có thể chọn cho
sản phẩm, hàng hóa dịch vụ khác không trùng hoặc tương tự với thức ăn cho
động vật, sản phẩm hạt giống, phân bón cho cây. Công ty có thể chọn cho dịch
vụ du lịch, khách sạn hoặc sản phẩm hàng hóa như nước khoáng, nước hoa quả,
… sẽ không gây nhầm lẫn với nhãn hiệu cho sản phẩm của công ty B.
Đánh giá: phương án này sẽ gây ảnh hưởng lớn đến kế hoạch kinh doanh
của công ty do phải chọn lĩnh vực kinh doanh khác. Tuy nhiên phương án này sẽ
giúp công ty đăng ký nhanh chóng và tránh đi phức tạp khi đăng ký nhãn hiệu,
tránh hao tổn công sức và tiền bạc.
* Phương án thứ 5: Nếu công ty B đăng ký nhãn hiệu SANAN chỉ là phần
chữ thì công ty A có thể đăng ký nhãn hiệu theo biểu tượng hoặc cả phần chữ và
biểu tượng. Công ty A có thể dùng nhãn hiệu SANAN với phần chữ cách điệu
và sử dụng màu sắc khác hẳn hoàn toàn với nhãn hiệu SANAN công ty B đã
đăng ký. Ví dụ như làm phần chữ SANAN trùng vào hình ảnh xung quanh như
chữ S biểu hiện dây thừng hoặc sóng biển để làm lầm phần chữ thành như biểu
tượng, và màu sắc nếu công ty A dùng màu đỏ thì có thể dùng toàn màu xanh
làm chủ đạo hoặc màu sắc sặc sỡ (không có hoặc ít đỏ). Nhãn hiệu của công ty
11



A được sửa đổi phải thỏa mãn điều 73 và 74 Luật SHTT 2005 sửa đổi bổ sung
2009.
Việc thay đổi này giúp làm tăng khả năng tự nhận biết của nhãn hiệu công
ty A. Bên cạnh đó, việc thay đổi màu sắc, hình vẽ kèm theo với nhãn hiệu cũng
là cách để giảm thiểu sự nhầm lẫn với nhãn hiệu công ty B, nâng cao khả năng
có thể được cấp văn bằng bảo hộ nhãn hiệu cho công ty A. Thực tế, người tiêu
dùng không nhầm lẫn sản phẩm ô tô giữa công ty Honda với công ty Hyundai
Motor cho dù cùng có chữ H.
Đánh giá: phương án này giúp công ty không cần tốn nhiều thời gian và
tiền bạc như hai phương án đầu tiên. Tuy nhiên phương án này có hiệu quả còn
phụ thuộc vào cách trình bày, khả năng phân biệt của nhãn hiệu của công ty A.
Hồ sơ đăng ký nhãn hiệu gồm các giấy tờ quy định tại Thông tư
01/2007/TT- BKHCN Hướng dẫn thi hành Nghị định 103/2006/NĐ-CP quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật sở hữu trí tuệ về sở
hữu công nghiệp.
3. Đánh giá về quy định của Luật SHTT về nhãn hiệu
- Về phạm vi nhãn hiệu: Theo quy định của Luật SHTT 2005 sửa đổi bổ
sung 2009, nhãn hiệu bao gồm chứ cái và hình. Tuy nhiên, việc phân biệt giữa
tạo hình mỹ thuật và dấu hiệu là hình vẽ của nhãn hiệu khá khó khăn. Ở Mỹ, các
dấu hiệu về khứu giác, vị giác đã được đưa vào nhãn hiệu, tuy nhiên tại Việt
Nam thì chưa được thừa nhận. Cần có quy định cụ thể, phù hợp với quốc tế hơn
để tránh gây nhầm lẫn trong tình huống này.
- Về quy định khả năng phân biệt của nhãn hiệu: Khoản 1, điều 74 Luật
SHTT 2005 sửa đổi bổ sung 2009 quy định nhãn hiệu được xem là có khả năng
phân biệt nếu nó " được tạo thành từ một hoặc một số yếu tố dễ nhận biết, dễ ghi
nhớ hoặc từ nhiều yếu tố kết hợp thành một tổng thể dễ nhận biết, dễ ghi nhớ".
Luật không quy định cụ thể như thế nào là dễ nhớ, dễ nhận biết. Việc quy định
cụ thể sẽ giảm bớt số lượng đơn xin cấp văn bằng bảo hộ bị trả lại vì lý do yếu

tố khó nhớ hay khó nhận biết, cũng thuận tiện và tiết kiệm thời gian hơn cho chủ
thể đi đăng ký.
- Về nhãn hiệu nổi tiếng: Quy định công nhận cũng như các biện pháp xử
lý tạm thời khi xảy ra tranh chấp mà một bên là nhãn hiệu nổi tiếng đang là vấn
đề còn nhiều vướng mắc và khó khăn. Nhãn hiệu nổi tiếng không phải đăng ký
mà vẫn được bảo hộ theo công ước quốc tế. Tuy nhiên, chính điều đó khiến chủ
12


sở hữu của các nhãn hiệu nổi tiếng chứng minh nhãn hiệu của mình được bảo hộ
theo điều kiện của nhãn hiệu nổi tiếng khi xảy ra tranh chấp mất nhiều thời gian.
Do đó, gần như bất kỳ nhãn hiệu nổi tiếng trên thế giới nào cũng đăng ký làm
nhãn hiệu bình thường tại Việt Nam.Như vậy, pháp luật cần đưa ra những quy
định chi tiết để nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp, xử lý vi phạm, đi đúng
theo hướng các công ước quốc tế cũng như luật các nước trên thế giới.

KẾT LUẬN
Nhu cầu trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ đang ngày càng đặt ra thách thức đối
Luật SHTT Việt Nam. Trong giai đoạn kinh tế mở cửa, hội nhập như hiện nay
thì việc xây dựng Luật SHTT ngày càng vững chắc và phù hợp với xu hướng thế
giới cũng như thực trạng trong nước là một trong những yếu tố không chỉ để thu
hút nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam mà còn đảm bảo sự phát triển ổn định
của các doanh nghiệp nội địa. Do đó những hạn chế của Luật cần được khắc
phục sớm và hoàn thiện kịp thời.

13


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung 2009

Nghị định số 103/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của luật sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp;
Thông tư số 01/2007/TT-BKHCN ngày 14/02/2007 của Bộ Khoa học và
Công nghệ hướng dẫn thi hành Nghị định số 103/2006/NĐ -CP;
Thông tư số 22/2009/TT-BTC ngày 04/02/2009 của Bộ Tài chính quy định
mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí, lệ phí sở hữu công nghiệp.
/>
14



×