Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Vận dụng lý thuyết đa thông minh trong dạy học Lịch sử lớp 10 trường trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (425.54 KB, 13 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

TRẦN ANH PHƢƠNG

VẬN DỤNG LÝ THUYẾT ĐA THÔNG MINH
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ LỚP 10
TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM LỊCH SỬ

HÀ NỘI – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

TRẦN ANH PHƢƠNG

VẬN DỤNG LÝ THUYẾT ĐA THÔNG MINH
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ LỚP 10
TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM LỊCH SỬ
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC
(BỘ MÔN LỊCH SỬ)
Mã số: 60 14 01 11

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Hoàng Thanh Tú

HÀ NỘI – 2015




MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Albert Einstein, Leonardo da Vinci hay Christopher Hirata từ lâu đã
được mệnh danh là những thiên tài với chỉ số IQ cao nhất mọi thời đại.
Những thiên bẩm vốn có đã kết hợp một cách tự nhiên với sự nghiêm túc
trong nghiên cứu khoa học và đồng điệu trong môi trường giáo dục để tạo nên
những người khổng lồ trong LS. Vậy chuyện gì sẽ xảy ra nếu Albert Einstein
lựa chọn nghệ thuật còn Leonardo da Vinci quyết định trở thành một cây bút
có tiếng? Và biết đâu chúng ta sẽ có một Albert Einstein với tư cách một nhà
điêu khắc hay hội họa chăng?
Giáo dục với sứ mệnh và vị trí quan trọng của mình, trước hết cần phục
vụ giáo dục đại trà để tạo ra những công dân có tri thức, năng lực, trách nhiệm
và biết cách thích nghi với cuộc sống muôn hình vạn trạng. Đó là “Học để
biết, học để làm, học để chung sống và học để tự khẳng định mình” – Theo
mục đích học tập do UNESCO khởi xướng.
Tiếp cận trí tuệ con người ở một khía cạnh rất đặc biệt, Howard
Gardner đã nhanh chóng trở thành cái tên được nhắc tới nhiều trong những
thập niên gần đây khi công bố nghiên cứu mang tên “Thuyết đa thông minh”
– Theory of Multiple Intelligences. Theo đó, trong mỗi người chúng ta đều
tồn tại một vài kiểu thông minh trong số tám loại: Ngôn ngữ, logic/ toán học,
âm nhạc, không gian, vận động, giao tiếp, nội tâm và tự nhiên. Ông chỉ ra
rằng các nhà trường truyền thống chỉ quan tâm đánh giá HS thông qua hai loại
trí thông minh là trí thông minh ngôn ngữ và trí thông minh logic/ toán học
mà dường như xem nhẹ hoặc bỏ qua những HS có thiên hướng thông minh
khác.
Thuyết đa thông minh với những đóng góp khoa học của Howard
Gardner đã đem đến những nhận thức mới về trí tuệ con người. Trí thông
minh trở thành “khả năng giải quyết các vấn đề hoặc tạo ra sản phẩm mà các

giải pháp hay sản phẩm này có giá trị trong một hay nhiều môi trường văn


hóa và trí thông minh cũng không thể chỉ được đo lường duy nhất qua chỉ số
IQ” [5, tr.34].
Việc tồn tại cả tám trí thông minh với mức độ cao thấp khác nhau sẽ
ảnh hưởng đến thiên hướng tiếp thu năng lực trí tuệ nào hiệu quả hoặc kém
hiệu quả. Thêm nữa, trí thông minh không phải là cái bất biến. Thông qua đào
tạo có thể tạo điều kiện phát triển hoặc làm thui chột năng lực trí tuệ của HS.
Trong khi đó, giáo dục nhà trường hiện nay lại chưa thực sự chú trọng đến
DH tiếp cận trí thông minh của HS. GV cũng chưa thực sự đầu tư lựa chọn
các PPDH phù hợp với thiên hướng tiếp thu của HS. Đó thực sự là thực trạng
đáng lo ngại trong giáo dục Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung.
Sử dụng PPDH hiệu quả sẽ góp phần quyết định sự thành công của mục
tiêu dạy học. Vì thế, có thể xem việc kế thừa những thành tựu trong nghiên
cứu của Howard Gardner về trí thông minh đa dạng như một gợi ý để lựa
chọn PPDH phù hợp trong tất cả các môn học, trong đó có LS.
Đại hội Đảng lần thứ XI đã đề ra chủ trương đổi mới căn bản và toàn
diện nền giáo dục Việt Nam nhằm hướng đến chất lượng thực sự của nền giáo
dục. Đó vừa là thời cơ, vừa là thách thức đối với việc nâng cao chất lượng
giáo dục, trong đó có giáo dục PT.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và sự thay đổi trong nhận thức
xã hội, việc DH hướng đến phát triển năng lực và trí tuệ của từng cá nhân
đang được xem trọng thay vì DH đại trà. Chính bởi thế, việc DH phân hóa
cũng đang là chủ trương được các nhà giáo dục và dư luận quan tâm rất nhiều.
“Bản chất của DH phân hóa là tạo ra những khác biệt nhất định trong nội
dung và phương thức hoạt động dựa vào nhóm năng lực, hứng thú hoặc nhu
cầu của người học và mục tiêu giáo dục của xã hội” [7]. Tính phân hoá thể
hiện ở sự phân biệt dựa theo các đối tượng khác nhau, áp dụng cách thức tổ
chức, vận dụng nội dung, PP và hình thức, hoạt động khác nhau,... sao cho

phù hợp nhất với từng đối tượng, nhằm đạt hiệu quả cao.


Như vậy, trong ý tưởng thực hiện của DH phân hóa và DH dựa trên sự
vận dụng lý thuyết đa thông minh xuất hiện những điểm tương đồng. Đó là
việc DH hướng đến tính đặc thù, cá biệt của mỗi HS, từ đó GV đề xuất và
thực hiện các PPDH phù hợp.
Trong chương trình PT, LS là môn học có vai trò đặc biệt quan trọng
trong việc hình thành tri thức và nhân cách HS. Học LS để hiểu về cội nguồn
dân tộc, để trân trọng những gì mình đang có, biết ơn tổ tiên và sống có trách
nhiệm. Học LS là cách nhanh nhất để mỗi chúng ta được sống trong những
phút giây hào hùng mà bi tráng của dân tộc đã bao lần thử lửa trong chiến
tranh, để sống một cách nhân văn và ý nghĩa nhất.
Tuy nhiên, trên thực tế, LS đang bị HS “ít quan tâm”. Tình trạng HS
không thích học LS đang trở thành căn bệnh lan rộng khắp xã hội. Điều này
thật không phù hợp với vị trí và vai trò của môn LS trong việc hình thành kiến
thức, kĩ năng và phẩm chất công dân.
Như vậy, xuất phát từ khả năng vận dụng lý thuyết đa thông minh của
Howard Gardner trong DH phổ thông, chủ trương đổi mới và nâng cao chất
lượng giáo dục của Đảng và vị trí, vai trò của bộ môn LS, tôi lựa chọn đề tài
“Vận dụng lý thuyết đa thông minh trong dạy học Lịch sử lớp 10 trƣờng
trung học phổ thông” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp của
mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trên thế giới, nhiều nhà tâm lý học, nhà giáo dục đã thử ứng dụng lý
thuyết này vào quá trình nghiên cứu. Trong số đó, Thomas Armstrong đã ứng
dụng thành công một phần thuyết đa thông minh vào việc giảng dạy và giáo
dục. Ông đã công bố một số cuốn sách nổi tiếng như: 7 loại hình trí thông
minh, Bạn thông minh hơn bạn nghĩ, Đa trí tuệ trong lớp học,… Các cuốn
sách này chủ yếu viết về vấn đề giáo dục và hướng dẫn cha mẹ giáo dục con

cái, giúp GV DH theo các PP nhằm phát huy năng lực trí tuệ nổi trội của con
em mình.


Trên cơ sở tìm hiểu thuyết đa thông minh của Howard Gardner,
Thomas Armstrong đã có quá trình nghiên cứu nghiêm túc để đưa ra những
tác phẩm mang tính kế thừa, được các nhà giáo dục và dư luận xã hội quan
tâm. Một trong số đó là cuốn “7 loại hình thông minh”. Cuốn sách được được
Mạnh Hải, Thu Hiền dịch và do nhà xuất bản Lao động – xã hội phát hành.
Ngoài phần mở đầu, cuốn sách bố cục thành 15 nội dung nhỏ. Bên cạnh việc
chỉ ra 7 loại hình trí thông minh (trừ trí thông minh tự nhiên), Thomas
Armstrong có đưa thêm một số nội dung thú vị khác như: “Đánh thức những
tiềm năng nở muộn” hay “Củng cố mối liên kết lỏng lẻo”, “Liệu còn tồn tại
những loại hình thông minh khác”…
Ngay chương I với tên gọi “Thuyết trí thông minh đa dạng”, Thomas
Armstrong đã đưa ra những tình huống gần gũi trong cuộc sống hàng ngày để
dẫn dắt người đọc có được cảm nhận đầu tiên về trí thông minh. Tình huống
đặt ra khi bạn bị một đàn voi ma mút uy hiếp hay xe hơi của bạn bị hỏng trên
đường cao tốc. Trong cả hai trường hợp, bạn đều cần sự giúp đỡ. Với cuộc
sống muôn hình vạn trạng, trí thông minh giải quyết những nhu cầu khác
nhau thì cần có những năng lực khác nhau. Và như vậy, trí thông minh phụ
thuộc vào hoàn cảnh, nhiệm vụ và những yêu cầu mà cuộc sống đặt ra cho
chúng ta.
Thomas Armstrong cũng chỉ ra rằng: các bài kiểm tra IQ mới chỉ đánh
giá được một thứ có thể tạm gọi là “năng khiếu đi học”, trong khi trí thông
minh thật sự phải được hiểu trong phạm vi rất rộng lớn với nhiều loại kĩ năng
khác nhau [19]. Ông cũng đưa ra một cách hệ thống tên gọi, các khái niệm mà
Howard Gardner đã khái quát và những bằng chứng làm cơ sở cho thuyết trí
thông minh đa dạng. Một là, mỗi trí thông minh đều có khả năng biểu tượng
hóa. Hai là, mỗi trí thông minh đều có LS phát triển riêng của nó. Ba là, mỗi

loại trí thông minh đều sẽ bị tổn thương và biến mất khi có các tác động xâm
phạm và gây hại đến những vùng đặc trưng riêng biệt của nó trong bộ não
người. Và cuối cùng, mỗi loại trí thông minh có những nền tảng giá trị văn


hóa riêng của nó. Đương nhiên, Thomas Amstrong cũng không quên đưa ra
những biểu hiện để người đọc tự đánh giá các loại trí thông minh của bản
thân.
Bên cạnh các tác phẩm trên là một số bài báo, bài viết của các chuyên
gia có uy tín trong nước, bàn về việc vận dụng thuyết đa thông minh trong
DH. Bài nghiên cứu của PGS.TS Trần Khánh Đức với nhan đề “Lý thuyết đa
thông minh và đổi mới phương pháp dạy học ở bậc đại học” trình bày những
mối quan hệ trực tiếp giữa lý thuyết đa thông minh của của nhà tâm lý học
Mỹ Howard Gardner (1983) với yêu cầu đổi mới PPDH ở bậc đại học theo
hướng phát huy tính chủ động và sáng tạo ở người học, dạy PP, dạy cách
học. Để phát triển các năng lực (dạng thức thông minh) ở người học, PPDH ở
bậc đại học cần có đổi mới căn bản từ quan niệm, quy trình, kỹ thuật, cách
thức thực hiện… trên cơ sở kết hợp đa PP, đa thông tin, đa giác quan, đa
phương tiện, đa hoạt động.
Có đôi nét khác biệt với PGS.TS Trần Khánh Đức, bài viết của TS Trần
Đình Châu với nhan đề “Vận dụng thuyết đa trí tuệ trong dạy học ở trường
phổ thông”, đăng trên Tạp chí Giáo dục số 316 (kì 2-8/2013) tiếp cận thuyết
đa trí tuệ để vận dụng trong chương trình PT với nhiều thông tin khái quát
song ngắn gọn hơn. Bài viết đi từ mục tiêu của giáo dục PT đến tình trạng bất
cập trong DH hiện nay, giới thiệu về lý thuyết đa thông minh, về cách đánh
giá các dạng năng lực trí tuệ của HS và đề xuất việc vận dụng thuyết đa thông
minh trong DH bằng dẫn chứng sinh động thông quan bài dạy “Bảo vệ bầu
không khí trong sạch”.
Điểm giống nhau của cả hai bài viết này là đều chỉ ra chủ trương,
đường lối đổi mới giáo dục của Đảng rồi từ đó trình bày nội dung cơ bản của

thuyết đa thông minh và đề xuất việc vận dụng trong DH. PGS.TS Trần
Khánh Đức đề xuất việc vận dụng ở góc độ người học (SV) và người dạy
(giảng viên) còn TS Trần Đình Đức đề xuất việc đánh giá các dạng năng lực
trí tuệ ở HS và vận dụng bằng việc lựa chọn các PPDH phù hợp.


Trong cuốn “Phương pháp ôn tập Lịch sử ở trường trung học phổ
thông – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của TS. Thanh Tú có đề cập đến:
Cơ sở, vai trò, ý nghĩa, yêu cầu cơ bản, hình thức, biện pháp của việc tổ chức,
hướng dẫn ôn tập trong DHLS ở trường THPT. Một điều rất đáng ghi nhận là
mặc dù không đề cập cụ thể đến việc vận dụng lý thuyết đa thông minh vào
hoạt động ôn tập song TS. Hoàng Thanh Tú đã chỉ ra rằng: “Hiệu quả học tập
của mỗi người không chỉ phụ thuộc vào phương pháp dạy mà còn chịu ảnh
hưởng của chính phong cách học của họ” [16, tr.216].
Theo đó, “Phong cách học là cách thức mà người học thường sử dụng
để tiếp thu, ghi nhớ kiến thức theo thói quen tư duy và dưới tác động của môi
trường học tập” [16, tr. 217]. Mỗi cá nhân có một phong cách học riêng, quy
định cách họ tiếp nhận tri thức và nhận biết về thế giới xung quanh. Như vậy,
trong tác phẩm này, TS. Hoàng Thanh Tú đã đề cập đến đa kiểu học, hướng
đến DH phân hóa đối tượng nhằm đáp ứng yêu cầu cá thể hóa hoạt động theo
nhu cầu, sở thích và khả năng của mỗi HS nhằm nâng cao hiệu quả DH.
Là một học thuyết có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, nhiều trường
PT đã đề xuất việc ứng dụng lý thuyết đa thông minh vào xây dựng chương
trình đào tạo của mình. Trong đó, không thể không kể đến: Trường PT liên
cấp Olympia, Trường mầm non cao cấp Bibi Home, Trung tâm bé thông minh
hay trung tâm Gene Code (Phân tích vân tay). Bên cạnh đó, thuyết đa thông
minh còn được đăng tải trên một số trang web hay diễn đàn có uy tín như:
Trường THPT Chuyên Hà Nội Amsterdam hay webtretho.
Trên các diễn đàn đó, các bài viết tập trung vào nội dung chủ yếu là
giới thiệu về thuyết đa thông minh: Sự ra đời gắn liền với quá trình nghiên

cứu khoa học của Howard Gardner, cơ sở khoa học, những nội dung chủ yếu
và rất nhiều những gợi ý khác để ứng dụng trong việc phát triển tư duy, làm
đa dạng các loại hình trí thông minh của HS. Như vậy, sự phát triển nhanh
chóng của công nghệ thông tin đã trở thành nhân tố tích cực để thúc đẩy sự
hiểu biết của toàn xã hội đối với vô vàn tri thức của nhân loại. Trong đó có
thuyết đa thông minh của Howard Gardner.


Từ việc tổng quan trên, có thể nhận thấy, lý thuyết đa thông minh của
Howard Gardner đã được nghiên cứu và đề cập ít nhiều trong các cuốn sách,
bài nghiên cứu và hoạt động của một số cơ sở giáo dục. Tuy nhiên, các tài
liệu nói trên mới chủ yếu đề cập nhiều đến quan điểm mới của Howard
Gardner về trí thông minh, mô tả các dạng trí thông minh và đề xuất việc vận
dụng trong DHPT và đại học một cách sơ lược. Việc tiếp cận của nhà trường,
đội ngũ GV và các em HS về lý thuyết đa thông minh chưa thật rộng rãi nên
chưa thực sự phát huy được tính ứng dụng của lý thuyết này trong DH. Trên
thực tế, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống thuyết đa thông
minh để vận dụng vào DHPT, cụ thể là môn LS.
Những kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước chính là nguồn tài
liệu quý báu, là căn cứ và cũng là gợi ý có giá trị lý luận sâu sắc để tôi tiếp
cận, tìm hiểu và nghiên cứu việc vận dụng thuyết đa thông minh trong DHLS
ở trường PT.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Lý thuyết đa thông minh và việc vận dụng thuyết đa thông minh trong
DH LS ở trường PT.
3.2. Phạm vi nghiên cứu (Vận dụng vào trường PT liên cấp Olympia)
- Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu việc vận dụng lý thuyết đa
thông minh vào phần LS lớp 10 THPT, đặc biệt chú ý các chủ đề về LS văn hóa.
- Về hình thức tổ chức DH: Tập trung vào bài học nội khóa.

- Về địa bàn khảo sát, thực nghiệm: Trường PT liên cấp Olympia,
Trung Văn, Từ Liêm, Hà Nội.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích
- Trên cơ sở tìm hiểu và khẳng định vai trò, ý nghĩa của thuyết đa thông
minh của Howard Gardner, đề tài chỉ ra quy trình và cách thức vận dụng vào


DHLS ở trường PT, góp phần phát triển năng lực, trí thông minh của HS và
nâng cao chất lượng DHLS.
4.2. Nhiệm vụ
- Tìm hiểu cơ s ở lý luận và thực tiễn của việc vận dụng Lý thuyết đa
thông minh vào DH môn LS ở trường PT.
- Khảo sát, đánh giá năng lực trí thông minh của học sinh lớp 10 trường
PT liên cấp Olympia.
- Nghiên cứu nội dung phần LS lớp 10 (đặc biệt chú ý nội dung văn hóa)
và đề xuất quy trình xây dựng kế hoạch bài dạy trên cơ sở vận dụng Lý thuyết
đa thông minh.
- Thử nghiệm và đánh giá tính hiệu quả, khả thi của việc vận dụng Lý
thuyết đa thông minh trong DHLS.
5. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở phương pháp luận:
- Dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng và Nhà nước ta về LS, giáo dục.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu lý thuyết: Sưu tầm, đọc, nghiên cứu, phân tích và tổng hợp
sách báo, internet, tạp chí, luận án, luận văn đề cập các vấn đề liên quan đến
thuyết đa thông minh của Howard Gardner và việc vận dụng thuyết đa thông
minh vào DH nói chung (DHLS nói riêng).
- Nghiên cứu thực tiễn: Quan sát, dự giờ, trao đổi với GV, HS, điều tra

xã hội học, thử nghiệm sư phạm nhằm kiểm tra, đối chứng kết quả nghiên cứu
của luận văn.
- Toán học thống kê.
6. Giả thuyết khoa học
- Nếu GV vận dụng thuyết đa thông minh vào DHLS thì sẽ đạt được mục
tiêu DH, giúp HS hứng thú, phát huy được tối đa năng lực và các trí thông


minh của các em, góp phần nâng cao chất lượng DH môn LS ở trường THPT
hiện nay.
7. Đóng góp của đề tài
Thực hiện tốt những nhiệm vụ đề ra, luận văn góp phần:
- Khẳng định vai trò và tính khả thi của thuyết đa thông minh trong
việc vận dụng DH nói chung, DHLS nói riêng.
- Đánh giá được thực trạng DHLS nói chung, thực trạng vận dụng lý
thuyết đa thông minh trong DH nói riêng.
- Đề xuất quy trình vận dụng thuyết đa thông minh trong DHLS ở
trường PT.
8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa khoa học: Làm phong phú thêm lí luận PPDHLS nói chung và
vấn đề vận dụng Lý thuyết đa thông minh trong DHLS ở trường THPT nói
riêng.
- Ý nghĩa thực tiễn: Là nguồn tài liệu tham khảo cho sinh viên các
trường Cao đẳng, Đại học Sư phạm, Đại học Giáo dục; GV môn LS và tác giả
trong quá trình vận dụng DHLS ở trường THPT.
9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc vận dụng lý thuyết đa
thông minh trong dạy học Lịch sử ở trường trung học phổ thông.
Chương 2: Vận dụng lý thuyết đa thông minh trong dạy học Lịch sử lớp

10 ở trường trung học phổ thông liên cấp Olympia.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Th.s Hồ Sỹ Anh (2013), Đổi mới kiểm tra, đánh giá theo hướng tiếp
cận năng lực HS và mục tiêu dạy làm người, Tạp chí Dạy và học ngày
nay, số 4.
2. Nguyễn Tuấn Anh (2010), Sử dụng một số phương pháp dạy học tích
cực trong dạy môn Lịch sử ở trường phổ thông, Tạp chí Dạy và học
ngày nay.
3. Bộ giáo dục và đào tạo (2015), Chương trình giáo dục phổ thông tổng
thể (Trong chương trình giáo dục phổ thông mới .
4. Bộ giáo dục và đào tạo, Sách giáo viên lịch sử 10, NXB Giáo dục.
5. TS. Trần Đình Châu (2013), Vận dụng thuyết đa trí tuệ trong dạy học
ở trường phổ thông, Tạp chí Giáo dục số 316.
6. GS.TS Nguyễn Thị Côi, Các con đường, biện pháp nâng cao hiệu quả
dạy học lịch sử ở trường phổ thông, NXB Đại học Sư phạm.
7. Th.s Nguyễn Thị Hồng Chuyên (2014), Dạy học phân hóa dựa vào
phong cách học tập của học sinh, Tạp chí Dạy và học ngày nay, số 10.
8. PGS.TS Trần Khánh Đức, Lý thuyết đa thông minh và đổi mới
phương pháp dạy học ở bậc đại học, Tạp chí Lý luận – Dạy học.
9. Hoàng Thanh Hải (2012), “Ý nghĩa giáo dục qua việc sử dụng di tích
lịch sử trong dạy học Lịch sử ở trường phổ thông”, Tạp chí Giáo dục số
287, trang 55-57.
10.PGS.TS Vũ Quang Hiển – TS Hoàng Thanh Tú, Phương pháp dạy
học môn Lịch sử ở trường trung học phổ thông, NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội.
11.PGS. TS Đặng Thành Hƣng (2007), Quan niệm và giải pháp phân
hóa dạy học ở trung học phổ thông nhằm hội nhập quốc tế, Tạp chí
Giáo dục.

12. TS. Vũ Ngọc Hoàng (2013), Một số ý kiến về đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo, Tạp chí Dạy và học ngày nay.


13. Trƣơng Thành Luân, “Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học
Lịch sử: một số vấn đề cần trao đổi”, Tạp chí Dạy và học ngày nay, số
9-2010, trang 32-33.
14. Nguyễn Thành Nhân (2002), “Sử dụng tranh ảnh trong dạy học Lịch
sử ở trường phổ thông”, Tạp chí Giáo dục, số 5-2002, trang 25-26.
15. Phạm Thành Nghị, Tâm lý học giáo dục, NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội.
16. Hoàng Thanh Tú, Phương pháp ôn tập lịch sử ở trường trung học
phổ thông – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội.
17.Phạm Thành Nghị, Tâm lý học sáng tạo, NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội.
18. Bùi Thiết (2011), Những bất cập trong việc dạy và học môn Lịch sử ở
trường phổ thông, Tạp chí Dạy và học ngày nay.
19. Thomas Armstrong (2006), 7 loại hình thông minh, NXB Lao động
xã hội.
20. GS.VS Nguyễn Cảnh Toàn (2011), Hãy học lấy cái thông minh, Tạp
chí Dạy và học ngày nay số 12.
21. Bùi Thiết (2011), “Những bất cập trong việc dạy và học môn Lịch sử
ở trường phổ thông”, Tạp chí Dạy và học ngày nay, số 9-2011.
22. Hồ Sỹ Tuệ (2010),“Thiết kế và sử dụng bài tập nhận thức trong dạy
học môn Lịch sử”, Tạp chí Dạy và học ngày nay, số 12 - 2010, trang
43-45.




×