Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Bài thu hoạch chính trị lớp đảng viên mới 2023

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.9 KB, 39 trang )

TỔNG HỢP CÁC CÂU HỎI
BÀI THU HOẠCH LỚP ĐẢNG VIÊN MỚI
Họ và tên:
Năm tháng năm sinh:
Quê quán:
Hộ khẩu thường trú:
Ngày vào Đảng:
Nơi vào Đảng:
CÂU HỎI
Câu 1. Nhận thức về chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh
Câu 2. Về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Câu 3. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để xây dựng nền kinh tế độc
lập dân tự chủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Câu 4. Tổ chức cơ sở Đảng và công tác xây dựng Đảng ở cơ sở
Câu 5. Công tác xây dựng Đảng ở cơ sở và trách nhiệm của Đảng viên
Câu 6.Phương hướng và nhiệm vụ trong công tác xây dựng tổ chức cơ
sở Đảng trong thời gian tới
Câu 7. Không ngừng phấn đấu và rèn luyện để xứng đáng với danh
hiệu người Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam
Câu 8: Đồng chí hãy phân tích những truyền thống quý báu của Đảng
Cộng sản Việt Nam? Những truyền thống đó đang được Đảng ta giữ gìn và
phát huy ra sao ?.
Câu 9: Từ khi ra đời đến nay, Cương lĩnh 1991 đã được cụ thể hoá và
phát triển trong cuộc sống như thế nào ? (Đi sâu vào những vấn đề Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng nói rõ hơn về con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta).
Câu 10: Đồng chí cần làm gì và phấn đấu như thế nào để trở thành
đảng viên ? Vì sao vấn đề xây dựng động cơ vào Đảng đúng đắn được đặt

1




lên hàng đầu và có ý nghĩa quyết định đối với một đảng viên ? Điều lệ Đảng
quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ và quyền của đảng viên như thế nào ?.

BÀI LÀM
Sau quá trình tham gia lớp bồi dưỡng Đảng viên mới, bản thân tôi
rút ra những thu hoạch như sau:
I. Về chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh
Con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội được thông qua Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng năm
1991 đã chỉ rõ: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”
Đại hội IX khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất
nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu
sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của
nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta
giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dung và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ: Trong thời đại ngày nay có lắm chủ nghĩa nhưng chủ nghĩa
Mác – Lênin là chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất, là
cơ sở thế giới quan và phương pháp luận thực sự cách mạng và khoa học.

Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tổng kết kinh nghiệm cách mạng
thế giới và thực tiễn tình hình đất nước, Người đã chuẩn bị về chính trị, tư
2


tưởng và tổ chức, cán bộ cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, soạn
thảo Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, xác định đường lối đúng đắn
cho cách mạng Việt Nam. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt
Nam, Người đã vận dụng nhuần nhuyễn chủ nghĩa Mác – Lênin, giải quyết
thành công những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng
Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, qua đó, phát triển sáng tạo,
làm phong phú thêm kho tàng lý luận Mác – Lênin.
Thắng lợi của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập
dân tộc và đưa đất nước phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa theo tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng là một
minh chứng sống động về sự vận dụng thành công chủ nghĩa Mác – Lênin ở
nước ta.
Việc vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong
điều kiện thực tiễn nước ta hiện nay đang là vấn đề được Đảng ta hết sức
quan tâm, coi đó là một trong những nhiệm vụ hàng đầu. Vận dụng chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phải đi liền với bổ sung và phát
triển dựa trên những vấn đề mà thực tiễn đặt ra. Phải chăm chú phát hiện,
tổng kết thực tiễn để tìm ra cái mới của lý luận, bổ sung cho kho tàng lý luận
mác xít, dùng nó như một kim chỉ nam dẫn đường chứ không phải kinh
thánh để rơi vào giáo điều.
Kiên quyết đấu tranh chống những luận điệu và thủ đoạn đả kích, phủ
nhận, xuyên tạc chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
Để đấu tranh có hiệu quả, cần nắm có hệ thống từng luận điểm của
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, gắn với hoàn cảnh lịch sử và
yêu cầu cụ thể cần giải quyết. Đồng thời, phải tiếp tục phát triển chủ nghĩa

Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới; đưa những tư
tưởng, quan điểm đó vào thực tế cuộc sống, đem lại hiệu quả thiết thực
nhằm hiện thực hoá thắng lợi những đặc trưng cơ bản của cách mạng xã hội,
hiện thực hoá thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh”. Đó là cách tốt nhất để bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh.
3


Phải kiên quyết đấu tranh chống tư tưởng cơ hội, xét lại và bảo thủ,
giáo điều.
Kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề có
tính nguyên tắc số một đối với Đảng ta. Trung thành với chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí MInh có nghĩa là nắm vững bản chất cách mạng,
khoa học và nhân đạo, vận dụng một cách đúng đắn, thích hợp vào điều kiện
nước ta, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
một cách sáng tạo, kiên quyết đấu tranh chống những luận điệu và thủ đoạn
đả kích, phủ nhận, xuyên tạc chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
từ phía những thế lực thù địch và những kẻ cơ hội.
Trong tình hình hiện nay, việc nghiên cứu, học tập để nắm vững, vận
dụng sáng tạo, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của mọi cán bộ, đảng viên và
quần chúng nhân dân.
2. Thực tiễn cách mạng nước ta từ khi có Đảng Cộng sản lãnh đạo đã
khẳng định: độc lâp dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy
nhất đúng đắn
Hơn bảy mươi năm qua, Đảng ta luôn luôn kiên định, nắm vững ngọn
cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nhờ vậy Đảng đã lãnh đạo nhân dân
giành được những thắng lợi vĩ đại.
Bài học chủ yếu, quan trọng hàng đầu của 15 năm tiến hành công cuộc

đổi mới và Đại hội IX xác định cũng chính là phải kiên trì mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh.
Từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội những năm trước đó, Đại hội
VI rút ra những bài học quý giá có tầm chỉ đạo trong việc xác định hướng đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta:
Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư
tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của
nhân dân lao động.

4


Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành
động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy
luật khách quan là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng.
Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời
đại trong điều kiện mới.
Bốn là, phải xây dựng Đảng ngang tầm với nhiệm vụ chính trị của
một Đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa.
Từ đó, Đảng ta nhấn mạnh rằng, để xác định đúng đắn phương hướng
đi lên chủ nghĩa xã hội, phải vận dụng đúng quy luật khách quan. Tiêu chuẩn
đánh giá sự vận dụng đúng đắn các quy luật là đời sống vật chất và văn hoá
của nhân dân từng bước ổn định và nâng cao, con người mới xã hội chủ
nghĩa ngày càng hình thành rõ rệt, xã hội ngày càng lành mạnh, chế độ xã
hội chủ nghĩa được củng cố.
Đại hội VI đã đặt vấn đề chính sách xã hội một cách cơ bản. Lần đầu
tiên chính sách xã hội được xem xét một cách tổng thế và toàn diện gắn liền
với chính sách kinh tế, giải quyết phù hợp với từng chặng đường đi lên chủ

nghĩa xã hội, trên cơ sở những quan điểm cơ bản và lâu dài về chính sách xã
hội. Điều này thể hiện được bản chất của chủ nghĩa xã hội, là cơ sở để đi đến
mô hình chủ nghĩa xã hội của nước ta ngày càng toàn diện hơn.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (năm 1991) với chủ
trương: tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi
lên chủ nghĩa xã hội, đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời thông qua Chiến lược ổn định và
phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 (1991-2000).
Đại hội VIII với việc xác định rõ hơn mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở
nước ta.
Đại hội IX với việc bổ sung, phát triển quan niệm mục tiêu và phương
hướng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Tóm lại, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý
tưởng của Đảng ta, dân tộc ta. Con đường này phù hợp với chủ nghĩa Mác –
5


Lênin và đã được thực tiễn kiểm nghiệm hơn bảy mươi năm qua là hoàn
toàn đúng đắn. Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa là một nguyên tắc của
đổi mới mà thực chất là sự kiên định mục tiêu, lý tưởng của Đảng, kiên định
con đường “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” mà dân tộc Việt
Nam đã lựa chọn.
II. Về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
1. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp cách
mạng Việt Nam là một tất yếu lịch sử và là tất yếu khách quan. Đảng ta luôn
là lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo Nhà nước và là
nhân tố bảo đảm mọi thắng lợi của cách mạng nước ta trong mọi giai đoạn

lịch sử. Sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với Nhà nước và mọi mặt của
đời sống xã hội được nhìn nhận như một quy luật có tính tất yếu.
Vai trò lãnh đạo của các tổ chức Đảng từ Trung ương đến địa phương
luôn giữ tính chất quyết định và bao quát hầu hết các lĩnh vực của đời sống
xã hội.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền là một chủ trương lớn có tính chất
quyết định thắng lợi công cuộc đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước được thể hiện trên những nội
dung trọng yếu sau đây:
- Lãnh đạo các cơ quan nhà nước thể chế hoá đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng thành pháp luật, chủ trương, chính sách của Nhà nước
và tổ chức thực hiện thông qua bộ máy nhà nước, đảm bảo cho đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng trở thành hiện thực sinh động trong đời
sống toàn xã hội.
- Đảng lãnh đạo chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ công chức đáp ứng
yêu cầu ngày càng cao của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
-. Đảng phải lãnh đạo công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động
của các cơ quan nhà nước.
6


Nhìn tổng quát, nội dung Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là rất toàn diện và bao quát
toàn bộ những vấn đề then chốt về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước.
2. Một số giải pháp chủ yếu xây dựng Đảng
Chủ trương của Đảng ta là phải xây dựng một chiến lược bảo vệ Tổ
quốc đồng bộ, trên tất cả các mặt trân, có sự tham gia của tất cả các lực
lượng xã hội, mà một số giải pháp chủ yếu cụ thể là:

Một là, về xây dựng, chỉnh đốn Đảng:
- Tiếp tục đi sâu, thực hiện tốt cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn
Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII và Kết luận
Hội nghị Trung ương 10 khoá IX, nhất là đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống sự
suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống; chống tham nhũng, lãng
phí, quan liêu; củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.
- Đưa tự phê bình và phê bình vào nền nếp sinh hoạt Đảng.
- Tăng cường công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ
- Đẩy mạnh việc thực hiện chủ trương luân chuyển cán bộ gắn với quy
hoạch đào tạo để chuẩn bị tốt nhân sự cho Đại hội Đảng bộ các cấp và Đại
hội lần thứ X của Đảng.
- Tiếp tục củng cố, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức
trong Đảng và giữa tổ chức Đảng với tổ chức Nhà nước, Mặt trận và các
đoàn thể nhân dân, góp phần tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng.
Hai là, về tư tưởng - văn hoá:
- Thực hiện tốt chủ trương tổng kết hoạt động lý luận - thực tiễn của
Đảng trong thời kỳ đổi mới; đẩy mạnh tổng kết thực tiễn sự nghiệp bảo về
Tổ quốc trong tình hình mới.
- Đổi mới công tác chính trị - tư tưởng sát hợp với từng tầng lợp nhân
dân, hướng mạnh về cơ sở, đặc biệt quan tâm đến thanh niên, sinh viên, học
sinh; chú trọng giáo dục truyền thống yêu nước, niềm tự hào, tinh thần tự
cường dân tộc, truyền thống dựng nước, giữ nước.
7


- Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, chống sự
xâm nhập của văn hoá phẩm độc hại từ bên ngoài vào.
- Tăng cường tính chủ động, tinh thần đấu tranh chống các luận điệu
chống phá nước ta dưới chiêu bài dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, dân tộc.

- Tăng cường lãnh đạo, quản lý công tác thông tin, báo chí, xuất bản,
văn hoá, văn nghệ; kịp thời ngăn chăn những quan điểm lệch lạc, thương
mại hoá, xa rời tôn chỉ mục đích, lộ bí mật quốc gia, gây rối nội bộ, gây khó
khăn cho sản xuất kinh doanh và quan hệ đối ngoại...
Ba là, về kinh tế - xã hội:
- Gắn tăng trưởng kinh tế với xây dựng quan hệ sản xuất theo định
hướng xã hội chủ nghĩa; bảo đảm vai trò chủ đạo thực sự của kinh tế nhà
nước.
- Duy trì cho được sự ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh về tài
chính - tiền tệ, năng lượng, lương thực, thông tin; không để xảy ra những rối
loạn; xáo động lớn.
- Thực hiện tốt các chủ trương, giải pháp về hội nhập kinh tế quốc tế
trong Nghị quyết số 07, ngày 27-11-2001 của Bộ Chính trị (khoá IX), phấn
đấu sớm gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), bảo đảm quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế không gây xáo trộn kinh tế - xã hội.
- Xây dựng có chọn lọc một số công trình, một số ngành, lĩnh vực
kinh tế quan trọng, có hiệu quả bảo đảm cho nền kinh tế giữ được độc lập tự
chủ trong mọi tình huống.
- Giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội, nhất là việc làm, xoá đói giảm
nghèo; hạn chế bằng được các tệ nạn xã hội nghiêm trọng.
- Xây dựng cơ chế để thực hiện có hiệu quả việc kết hợp chặt chẽ giữa
kinh tế với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế; gắn việc
thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, kinh tế với hoạt động đối ngoại.
- Rà soát, bổ sung, hoàn thiện và chỉ đạo có hiệu quả việc thực hiện
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng trọng điểm.
- Chú trọng phát triển khoa học - công nghệ gắn với nhiệm vụ bảo vệ
Tổ quốc.
Bốn là, quản lý nhà nước về an ninh - quốc phòng - đối ngoại:
8



- Thể chế hoá kịp thời các chủ trương, chính sách về xây dựng nền
quốc phòng toàn dân; từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ Tổ
quốc, trước hết tập trung hoàn chỉnh pháp luật về quốc phòng, an ninh, đối
ngoại; xây dựng quy chế thống nhất quản lý đối ngoại và quy chế phối hợp
quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
- Tăng cường thanh tra, kiểm tra việc triển khai thực hiện nhiệm vụ
quốc phòng, an ninh của các cấp, các ngành, các điạ phương, các đơn vị lực
lượng vũ trang.
- Tăng cường công tác bảo vệ bí mật quốc gia, bảo đảm an ninh thông
tin.
- Mở rộng dân chủ trong Đảng và nhân dân trên cơ sở Cương lĩnh,
đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước; đồng thời chủ động đấu tranh
bằng nhiều hình thức chống các luận điểm sai trái của các thế lực thù địch về
dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo.
- Tăng cường mức đầu tư ngân sách hợp lý cho các nhiệm vụ bảo đảm
quốc phòng, an ninh, đối ngoại, kể cả cho các hoạt động an ninh trên lĩnh
vực tư tưởng, thông tin, đối ngoại nhân dân.
Năm là, về quốc phòng, an ninh:
- Tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp
quốc phòng, an ninh và lực lượng vũ trang nhân dân ở các cấp, các ngành.
+ Tăng cường chức năng tham mưu của Đảng uỷ Quân sự Trung ương
và Đảng uỷ Công an Trung ương trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh
+ Kiện toàn Ban Nghiên cứu của Bộ Chính trị về an ninh quốc gia
ngang tầm với nhiệm vụ. Chú trọng đào tạo, bố trí hợp lý đội ngũ cán bộ cấp
chiến lược.
+ Tập trung xây dựng các tổ chức đảng trong Quân đội nhân dân,
Công an nhân dân thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức.
- Củng cố và hoàn nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân và thế

trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân trên từng địa bàn
tỉnh, thành phố, đặc biệt là trên các địa bàn chiến lược; xây dựng các khu
vực phòng thủ vững chắc.
9


- Tập trung xậy dựng lực lược Quân đội và Công an có bản lĩnh chính
trị vững vàng, lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân,
với tổ chức, biên chế, mức tăng đầu tư ngân sách hợp lý, đủ sức hoàn thành
nhiệm vụ trực tiếp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Sáu là, về đối ngoại:
- Tiếp tục ưu tiên hàng đầu cho việc củng cố quan hệ với các nước
láng giềng.
- Thúc đẩy quan hệ với các nước và trung tâm lớn trên nguyên tắc
bình đẳng, cùng có lợi, không can thiệp công việc nội bộ của nhau, tạo thế
đan xen lợi ích giữa các nước với nước ta; tránh bị rơi vào thế đan xen lợi
ích giữa các nước với nước ta; tránh bị rơi vào thế đối đầu, cô lập hay lệ
thuộc.
- Mở rộng quan hệ với các nước độc lập dân tộc, các nước đang phát
triển, phong trào không liên kết, các tổ chức quốc tế và khu vực, các Đảng
Cộng sản, công nhân, cánh tả, các phong trào giải phóng và độc lập dân tộc,
các phong trào cạch mạng, tiến bộ....; tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh
của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
- Dành ưu tiên cao cho việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, mở
rộng và đa dạng hoá thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ cho sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo lập lợi ích đan xen với các đối tác.
- Gắn kết chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng với hoạt động ngoại
giao của Nhà nước và nhân dân. Tăng cường công tác vận động cộng đồng
người Việt Nam ở nước ngoài góp phần xây dựng và phát triển đất nước,
đồng thời bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ.

Củng cố và tăng cường quan hệ đoàn kết và hợp tác với các Đảng
Cộng sản và công nhân, với các đảng cánh tả, các phong trào giải phóng và
độc lập dân tộc, với các phong trào cách mạng và tiến bộ trên thế giới.
III. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để xây dựng nền kinh tế
độc lập dân tự chủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa

10


Để đảm bảo cho hội nhập kinh tế quốc tế thắng lợi, thực sự đáp ứng
yêu cầu xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, cần thấu suốt và quán triệt các nguyên tắc và phương châm sau:
- Nguyên tắc cơ bản và bao trùm là chủ động hội nhập trên cơ sở bảo
đảm giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
vững chắc an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Giữ vững độc
lập tự chủ trong quá trình hội nhập được thể hiện trước hết trong quyết sách
hội nhập nhằm khai thác tối đa các lợi thế, đồng thời đối phó thắng lợi với
các thách thức trong quá trình hội nhập. Sự chủ động cần được thể hiện
trong việc chọn lựa các tổ chức tham gia, các đối tác ta có quan hệ và thời
điểm tham gia. Tính chủ động còn được thể hiện qua việc chủ động xây
dựng lộ trình hội nhập hợp lý trong khuôn khổ quy định chung; chủ động
điều chỉnh pháp luật, chính sách cho phù hợp; chủ động tổ chức sản xuất và
điều hành kinh tế trong nước nhằm nâng cao không ngừng khả năng cạnh
tranh không chỉ trong thị trường nội địa và trên thị trường quốc tế, chủ động
phương thức thực hiện các cam kết.
- Phương châm cơ bản để thực hiện hội nhập là bảo đảm nguyên tắc
cùng có lợi trong quan hệ song phương và đa phương mà ta tham gia. Theo
nguyên tắc này một mặt không thể để thiệt hại đến lợi ích cần có và hợp lý
mà ta được hưởng; Mặt khác, phải chấp nhận một sự chia sẻ lợi ích cho các
đối tác thì theo mức đóng góp của các bên hợp tác. Trong hợp tác liên kết,

cần giữ vững nguyên tắc vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa kiên quyết, vừa
mềm dẻo, để đạt tới mục tiêu bảo vệ lợi ích chính đáng của ta.
IV. Tổ chức cơ sở Đảng và công tác xây dựng Đảng ở cơ sở
1. Tổ chức cơ sở Đảng
a) Quy định về Điều lệ Đảng về thành lập các tổ chức cơ sở đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của gia cấp công nhân,
đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt
Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao
động và của dân tộc. Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc
lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Để thực hiện mục tiêu
11


đó, Đảng phải được tổ chức theo một hệ thống chặt chẽ, thống nhất từ
Trung ương đến cơ sở. Tổ chức cơ sở Đảng bao gồm chi bộ cơ sở và đảng
bộ cơ sở là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở.
Điều 21, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam được thông qua Đại hội X quy
định:
- Tổ chức cơ sở đảng dưới ba mươi đảng viên, lập chi bộ cơ sở, có các
tổ
chức cơ sở đảng trực thuộc.
- Tổ chức cơ sở đảng có từ ba mươi đảng viên trở lên, lập đảng bộ cơ
sở, có các chi bộ trực thuộc đảng ủy.
b) Vị trí, vai trò của tổ chức cơ sở đảng
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định tổ chức cơ sở đảng (chi bộ
cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở.
Tổ chức cơ sở đảng vừa là nơi trực tiếp thực hiện đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; đồng thời cũng là
nơi góp phần phát triển và hoàn thiện đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước.

c) Chức năng và nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng
- Tổ chức cơ sở đảng có hai chức năng quan trọng:
Một là, lãnh đạo thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước ở cơ sở.
Hai là, lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị, phát triển sản
xuất, kinh doanh, nâng cao hiệu quả công tác của cơ sở; chăm lo cải thiện
đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; động viên quần chúng hoàn thành
đầy đủ nghĩa vụ của cơ sở, đơn vị đối với Nhà nước.
d) Chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở
Hoạt động của tổ chưc sơ sở đảng chủ yếu diễn ra ở chi bộ. Đảng viên
thực hiện các nhiệm vụ của mình cũng chủ yếu thể hiện ở chi bộ được đánh
giá từ chi bộ.
- Chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở được tổ chức theo nơi làm việc hoặc
nơi cư trú của đảng viên
12


Chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở có rất nhiều loại hình khác nhau va
có các nhiệm vụ như sau:
- Lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị.
- Giáo dục, quản lý và phân công công tác cho đảng viên
- Thường xuyên làm công tác vận động quần chúng thực hiện đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết
của chi bộ, nhiệm vụ chính trị của đơn vị
- Làm tốt công tác kiểm tra và thi hành kỷ luật đảng viên
- Thu, nộp đảng phí của đảng viên theo quy định.
- Thực hiện chế độ sinh hoạt chi bộ thường lệ mỗi tháng một lần.
V. Công tác xây dựng Đảng ở cơ sở và trách nhiệm của Đảng viên
1. Công tác xây dựng Đảng ở cơ sở


- Đảng ta luôn coi trọng vị trí, vai trò quan trọng của tổ chức cơ sở
đảng, thường xuyên chăm lo củng cố, kiện toàn, phát huy năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng tại các cơ sở. Quan điểm đó
được thể hiện cả trong nhận thức,lý luận vafcar trong hoạt động thực tiễn
của Đảng.
Hệ thống tổ chức cơ sở đảng không ngừng được củng cố, phát triển,
phát huy tốt vai trò hạt nhân lãnh đạo chính trị tại cơ sở, trực tiếp góp phần
biến các chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng thành thắng lợi.
- Tuy nhiên, trong thời kỳ phát triển mới, thực hiện nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hệ thống tổ chức cơ sở đãng đã
và đang bộc lộ những hạn thế, yếu kém ở mức độ khác nhau. Đại hội lần thứ
IX chỉ rõ “Tổ chức cơ sở đảng ở nhiều nơi quá yếu kém, kém sức chiến
đấu”. Hậu qủa của tình hình trên là nghiêm trọng. Bởi vì “nền móng” yếu thì
không thể vững , “gốc rễ” có phần bị “tê liệt” thì cây không thể khỏe mạnh,
phát triển tốt tươi. Vì vậy, Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định trong
những năm tới, một trong bốn công tác quan trọng cần tập trung làm tốt là
xây dựng, củng cố các tổ chức cơ sở đảng.
13


Việc xây dựng, củng cố các tổ chức cơ sở đảng cần phải thực hiện
các yêu cầu sau đây:
+ Tất cả các đảng bộ, chi bộ cơ sở đều phải nâng cao nhận thức và
thực hiện đúng chức năng là hạt nhân lãnh đạo chính trị đối với các tổ chức
trong hệ thống chính trị, các tổ chức kinh tế, sự nghiệp, các mặt công tác và
các tầng lớp nhân dân ở cơ sở. Tiếp tục đổi mới nội dung và phương pháp để
đánh giá đúng chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên.
+ Đổi mới phương thức lãnh đạo, từ việc ra nghị quyết, xây dựng và
thực hiện quy chế làm việc, xây dựng đội ngũ cán bộ… đến việc lãnh đạo

các cuộc bầu cử, bảo đảm phát huy dân chủ, thực hiện đúng nguyên tắc, tiêu
chuẩn.
+ Thực hiện tốt nguyên tắc dựa vào dân để xây dựng Đảng từ cơ sở.
Có cơ chế để nhân dân tham gia ý kiến vào việc xây dựng các nghị quyết,
quyết định của tổ chức đảng, chính quyền cơ sở trực tiếp liên quan đến
quyền lợi và nghĩa vụ của nhân dân; bố trí cán bộ chủ chốt của hệ thống
chính trị cơ sở, để nhân dân tham gia giám sát tổ chức đảng, chính quyền và
cán bộ, đảng viên.
+ Nâng cao tính chiến đấu, khắc phục tình trạng thụ động, ỷ lại, buông
lỏng vai trò lãnh đạo.
- Để xây dựng, củng cố các tổ chức cơ sở đảng cần thực hiện tốt các
chủ trương và biện pháp sau:
+ Cấp ủy cấp trên tập trung chỉ đạo củng cố các đảng bộ, chi bộ yếu
kém, kịp thời kiện toàn cấp ủy và tăng cường cán bộ ở những nơi có nhiều
khó khăn, nội bộ mất đoàn kết.
+ Đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy, sinh hoạt chi bộ.
+ Phân công, hướng dẫn, kiểm tra đảng viên chấp hành nhiệm vụ,
phát huy vai trò tiên phong gương mẫu; giữ mối liên hệ mật thiết với quần
chúng nơi công tác, với chi bộ và nhân dân nơi cư trú.
+ Phát triển đảng viên theo đúng tiêu chuẩn quy định, coi trọng chát
lượng, không chạy theo số lượng, không chạy theo số lượng. Chú ý những
người ưu tú trong công nhân, trí thức, lao động thuộc các thành phần kinh tế,
14


đoàn viên thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; những nơi còn ít hoặc chưa có
đảng viên, những địa bàn quan trọng…..
+ Đổi mới việc phân tích, đánh giá chất lượng các tổ chức cơ sở đảng
và đảng viên. Có những tiêu chí cụ thể để đánh giá đúng thực chất; khắc
phục tình trạng nể nang, dễ dãi, chạy theo thành tích.

2. Trách nhiệm của đảng viên đối với tổ chức cơ sở đảng và chi bộ
Mỗi đảng viên phải sinh hoạt trong một tổ chức cơ sở đảng nhất định.
a. Mỗi đảng viên phải đóng góp tích cực với đảng bộ, chi bộ trong
việc lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ sở, đơn vị.
b.Mỗi Đảng viên phải góp phần tích cực vào việc xây dựng tổ chức cơ
sở đảng có sự thống nhất cao về chính trị và tư tưởng của đảng bộ, chi
bộ;nâng cao bản lĩnh chính trị và phẩm chất đạo đức cách mạng của cán bộ,
đảng viên.
c. Đảng viên phải đóng góp tích cực xây dựng đảng bộ, chi bộ vững
mạnh về tổ chức, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ.
VI. Phương hướng và nhiệm vụ trong công tác xây dựng tổ chức
cơ sở Đảng trong thời gian tới
Toàn Đảng tập trung chỉ đạo xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng,
tạo sự chuyển biến rõ rệt, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở đảng, gắn xây dựng tổ chức đảng và xây dựng, củng cố hệ thống
chính trị ở cơ sở; nhất là đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ.
Thực hiện những giải pháp đồng bộ, nhất là xây dựng cơ chế đế phát
huy quyền làm chủ, quyền giám sát của quần chúng đối với tổ chức đảng,
đảng viên. Xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ trong Đảng.
- Sớm xây dựng và đưa vào thực hiện các quy định mới về vai trò,
chức năng, nhiệm vụ của các loại hình tổ chức cơ sở đảng đảm bảo vai trò
hạt nhân lãnh đạo chính trị ở cơ sở.
- Tổ chức thực hiện các chính sách và công tác đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ cơ sở, đặc biệt là ở những khu vực có vị trí quan trọng và nhạy cảm về
kinh tế, chính trị, vùng sâu, vùng xa. Cán bộ lãnh đạo chủ trì và cấp ủy cấp
trên trực tiếp phải chịu trách nhiệm liên đới nếu để tổ chức cơ sở đảng yếu
kém.
15



VII. Không ngừng phấn đấu và rèn luyện để xứng đáng với danh
hiệu người Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam
1. Vị trí, vai trò và nhiệm vụ của người Đảng viên

a) Đảng viên là chiến sỹ cách mạng trong đội quân tiên phong của
giai cấp công nhân Việt Nam, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt
Nam.
b) Đội ngũ đảng viên là những người có trách nhiệm góp phần xây
dựng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; đồng thời có trách nhiệm
tổ chức thực hiện mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng.
c) Đảng viên dù ở cương vị nào, cũng vừa là người lãnh đạo, vừa là
người phục vụ quần chúng.
Trong Điều lệ Đảng được các Đại hội của Đảng ban hành, qua nhiều
lần sửa đổi, bổ sung, nhưng chưa bao giờ Chương I luôn là chương Đảng
viên và là một trong những Chương quan trọng nhất. Điều lệ đã chỉ rõ những
tiêu chuẩ đảng viên, điều kiện những người vào Đảng, nhiệm vụ của đảng
viên.
d) Đảng viên là người kiên định bảo vệ Đảng, bảo vệ đường lối, chủ
trương của Đảng.
2. Rèn luyện để xứng đáng với danh hiệu Đảng viên

Để xứng đáng với danh hiệu đảng viên cần thực hiện tốt tiêu chuẩn đảng
viên quy định trong Điều lệ Đảng.
a) Tiêu chuẩn đảng viên
Tiêu chuẩn đảng viên là những chuẩn mực quy định chất lượng của
người đảng viên, là tiêu chí phân ra giữa đảng viên và quần chúng; là cơ sở
để đánh giá chất lượng đảng viên; là căn cứ để tiến hành mọi mặt công tác
đảng viên. Mọi đảng viên phải dựa vào tiêu chuẩn đảng viên để rèn luyện,
phấn đấu.
Đảng viên phải tuyệt đối trung thành với lý tưởng cộng sản, kiên định

lập trường cách mạng của giai cấp công nhân, suốt đời phấn đấu cho mục
tiêu, lý tưởng của Đảng là xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản;
vững vàng, không dao động trước bất kỳ khó khăn, thử thách nào.
16


Những chuẩn mực đạo đức mà người đảng viên cần có, đáp ứng
những đòi hỏi của công cuộc đổi mới lúc này bao gồm cả động cơ, tình cảm,
ý chí và những hành động đạo đức.
Có ý thức tổ chức kỷ luật, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất của Đảng
trên cơ sở thực hiện đúng các nguyên tắc của Đảng, nhất là nguyên tắc tập
trung dân chủ, thường xuyên tự phê bình và phê bình..
Có quan hệ mật thiết với quần chúng.
Kết hợp chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công
nhân.
b) Mỗi đảng viên tự phấn đấu, rèn luyện xứng đáng với danh hiệu
người cộng sản trong hoàn cảnh mới
Khái niệm “đảng viên” bao hàm hai mặt: cá nhân một con người
mang danh hiệu đảng viên và một thành viên của Đảng (của một tổ chức
đảng cụ thể và của toàn Đảng nói chung). Người đảng viên chỉ xứng đáng
với danh hiệu cao quý của mình khi làm tròn bổn phận trên cả hai tư cách
đó, nhờ sự phấn đấu của bản thân và sự giúp đỡ, tạo điều kiện của tổ chức
đảng.
Về mặt cá nhân, trước hết mỗi người đảng viên phải rèn luyện mình
theo những đức tính của con người Việt Nam mà Nghị quyết Trung ương 5
khóa VIII đã chỉ ra và Kết luận Trung ương 10 khóa IX một lần nữa khẳng
định, như sau:
+ Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo
nàn lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa

bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
+ Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.
+ Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực,
nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý
thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
+ Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng
tạo, năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
17


+ Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn,
trình độ thẩm mỹ và thể lực.
Được kết nạp vào Đảng, rồi trở thành đảng viên chính thức là khởi
đầu một quá trình phấn đấu, rèn luyện để giữ vững và nêu cao vai trò người
đảng viên. Là đảng viên của Đảng cộng sản Việt Nam, mỗi cán bộ đảng viên
phải:
- Tích cực học tập và nâng cao trình độ kiến thức về mọi mặt, nhất là
về lý luận chính trị, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước, về văn hóa, khoa học – kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ.
- Luôn phát huy tinh thần năng động, sáng tạo, đóng góp ý kiến có giá
trị tham gia vào sự lãnh đạo chung của tổ chức và hoàn thành xuất sắc mọi
nhiệm vụ được giao.
- Tự giác gương mẫu giữ gìn phẩm chất cộng sản, đạo đức của người
cách mạng, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư
- Giữ nghiêm kỷ luật đảng, thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức,
sinh hoạt đảng và chăm lo củng cố sự đoàn kết nhất trí của Đảng
- Liên hệ mật thiêt với quần chúng; tôn trọng tất cả mọi người; lắng
nghe tâm tư, nguyện vọng của quần chúng;
- Luôn trau dồi phẩm chất đạo đức của người đảng viên cộng sản,
phấn đấu cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân giao phó.


CÂU HỎI
Câu 1: Đồng chí hãy phân tích những truyền thống quý báu của Đảng
Cộng sản Việt Nam? Những truyền thống đó đang được Đảng ta giữ gìn và
phát huy ra sao ?.
Câu 2: Từ khi ra đời đến nay, Cương lĩnh 1991 đã được cụ thể hoá và
phát triển trong cuộc sống như thế nào ? (Đi sâu vào những vấn đề Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng nói rõ hơn về con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta).
18


Câu 3: Đồng chí cần làm gì và phấn đấu như thế nào để trở thành
đảng viên ? Vì sao vấn đề xây dựng động cơ vào Đảng đúng đắn được đặt
lên hàng đầu và có ý nghĩa quyết định đối với một đảng viên ? Điều lệ Đảng
quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ và quyền của đảng viên như thế nào ?.
ĐÁP ÁN
Câu hỏi: Đồng chí hãy phân tích những truyền thống quý báu của
Đảng Cộng sản Việt Nam? Những truyền thống đó đang được Đảng ta giữ
gìn và phát huy ra sao ?.
Trả lời: Để trả lời câu hỏi này tôi xin được phép đề cập đến một số
điểm cơ bản sau:
Trước hết phải khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đó là sản
phẩm sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai
cấp ở Việt Nam dưới ánh sáng của thời đại mới; Là sản phẩm của sự kết hợp
chủ nghĩa Mác-Lênin; Phong trào công nhân và Phong trào yêu nước ở nước
ta trong những năm 20 của thế kỷ XX. Đây là sự vận dụng và phát triển sáng
tạo học thuyết Mác-Lênin về sự ra đời của Đảng Cộng sản ở một nước thuộc
địa nửa phong kiến và có truyền thống yêu nước từ ngàn năm.
Ngay từ khi mới thành lập, Đảng đã thật sự là đội tiên phong lãnh đạo

của giai cấp công nhân và của cả dân tộc Việt Nam. Sự kiện Đảng cộng sản
Việt Nam được thành lập chứng tỏ giai cấp vô sản Việt Nam đã trưởng
thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng. Đảng cộng sản Việt Nam không những
là đội tiên phong lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam mà còn là đại
biểu chân chính cho lợi ích của toàn thể dân tộc Việt Nam. Đảng cộng sản
Việt Nam không chỉ mang bản chất giai cấp công nhân mà còn là lực lượng
dẫn dắt phong trào dân tộc chân chính, một Đảng cách mạng vì nước vì dân.
Chặng đường vẻ vang hơn bảy thập kỷ qua của cách mạng Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Đảng đã khẳng định: Sự lãnh đạo đúng đắn và sáng
suốt của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân dân ta đã đạt được những thành
tựu kỳ diệu. Tuy nhiên, Đảng cũng còn có những yếu kém, có lúc phạm sai
lầm, khuyết điểm của mình nhưng đã đề ra những biện pháp sửa chữa đúng
19


đắn, kịp thời. Đảng đã công khai tự phê bình, nhận khuyết điểm trước nhân
dân, quyết tâm sửa chữa và sửa chữa có kết quả. Vì vậy, Đảng vẫn được
nhân dân tin cậy, thừa nhận Đảng là đội tiên phong chính trị, người lãnh đạo
chân chính duy nhất của cả dân tộc. Ở nước ta, ngoài Đảng Cộng sản không
lực lượng nào có thể lãnh đạo cách mạng.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng không ngừng tôi luyện và
trưởng thành và đã xây dựng nên nhiều truyền thống quý báu, thể hiện bản
chất tốt đẹp của Đảng ta. Trong những truyền thống đó nổi bật nhất là 6
truyền thống cơ bản sau:
Thứ nhất là; Bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng
cách mạng.
Hai là; Nêu cao tinh thần độc lập tự chủ và sáng tạo.
Ba là; Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm
vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Bốn là; Trung thành với lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc, phải gắn bó
mật thiết với nhân dân.
Năm là; Kiên định nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt
động của Đảng.
Sáu là; Giữ gìn đoàn kết nội bộ, đoàn kết quốc tế…
Để thấy rõ những điểm nổi bật của sáu truyền thống trên ta thấy rằng:
Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh
vĩ đại sáng lập và rèn luyện đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi
này đến thắng lợi khác, thắng lợi mà nhân dân, dân tộc ta đánh đổi bằng cả
xương máu của các lớp thế hệ con Lạc cháu Hồng.
Đó là thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 và việc thành lập
Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà. Đây là kết quả tổng hợp của các
phong trào cách mạng liên tục diễn ra trong 15 năm sau ngày thành lập
Đảng, từ cao trào cách mạng 1930 – 1931. Đặc biệt là phong trào Xô viết
Nghệ Tĩnh, cuộc vận động dân chủ 1936 – 1939 đến phong trào giải phóng
dân tộc 1939 – 1945. Như ba cuộc tổng diễn tập, với khí thế cách mạng vĩ
đại của quần chúng, nắm chắc thời cơ lịch sử, với một nghệ thuật lãnh đạo
và tổ chức khởi nghĩa tài tình, Đảng ta đã lãnh đạo cuộc tổng khởi nghĩa
20


Cách mạng tháng Tám thành công trọn vẹn, đã xoá bỏ chế độ thuộc địa nửa
phong kiến ở nước ta, mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội.
Đó là thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân
tộc, bảo vệ Tổ quốc, đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa cả
nước đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của
nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đó là thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất nước quá

độ lên chủ nghĩa xã hội. Kế thừa những thành tựu và kinh nghiệm xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc khi còn chiến tranh và trong những năm đầu
sau khi nước nhà thống nhất, trải qua nhiều tìm tòi khảo nghiệm sáng kiến
của nhân dân, Đảng đã đề ra và lãnh đạo thực hiện đường lối đổi mới, xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc phù hợp với thực tiễn Việt Nam và
bối cảnh quốc tế mới.
Với sự cố gắng của các tổ chức Đảng ở trong nước và của các đồng
chí hoạt động ở nước ngoài Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ Nhất
(3/1935) đề ra chủ trương đường lối và tổ chức hoạt động của Đảng. Đại hội
đã đánh dấu sự khôi phục của tổ chức Đảng từ Trung ương đến đại phương,
thống nhất phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của Ban chấp hành Trung
ương mới, đem lại niềm tin cho đảng viên và quần chúng.
Những năm 1936 – 1939, tình hình trong nước và thế giới có nhiều
thay đổi, các Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng năm 1936, 1937 và
1939 đã có những quyết định kịp thời về chuyển hướng hình thức tổ chức và
sử dụng những hình thức đấu tranh phù hợp, dấy lên cuộc vận động dân chủ
rộng lớn – một hiện tượng hiếm có xảy ra ở một nước thuộc địa. Chiến tranh
thế giới thứ hai bùng nổ (1/9/1939), thực dân Pháp tăng cường đàn áp phong
trào cách mạng, phát xít Nhật đánh chiếm Việt Nam và Đông Dương, Nhật –
Pháp câu kết thống trị dân tộc ta, loàm cho mâu thuẫn giữa dân tộc Việt
Nam với thực dân Pháp và phát xít Nhật phát triển gay gắt. Hội nghị Ban
chấp hành Trung ương Đảng (11/1939) đã nêu cao ngọn cờ giải phóng dân
tộc. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương (11/1940) tiếp tục chủ trương đó.
21


Tháng 1/1941, sau gần 30 năm hoạt động ở nước ngoài lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc về nước cùng với Trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo phong trào giải
phóng dân tộc. Trong lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc, hoạt động bí
mật không có điều kiện họp Đại hội đại biểu toàn quốc định kỳ, các Hội nghị

Trung ương, Hội nghị Ban thường vụ Trung ương và Hội nghị cán bộ Đảng
có vai trò quan trọng. Cụ thể hoá Nghị quyết Trung ương 5/1941. Hội nghị
Ban Thường vụ Trung ương mở rộng 3/1945 và bản Chỉ thị “Nhật Pháp
bắn nhau và hành động của chúng ta”. Trên cương vị là Người đứng đầu
Đảng và Chính phủ, Hồ Chí Minh đã cùng Ban Thường vụ Trung ương
Đảng đã chèo lái con thuyền cách mạng chiến thắng giặc đói, giặc dốt và
giặc ngoại xâm. Sau tháng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 Đảng đã
nắm chính quyền toàn quốc nhưng do hoàn cảnh lịch sử khó khăn, phức tạp
Đảng phải rút vào bí mật để thực hiện sự lãnh đạo kín đáo và khôn khéo.
Các Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã trực tiếp quyết định
những vấn đề về chiến lược và sách lược của Đảng và Nhà nước cách mạng
về xây dựng chế độ mới và kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Hội
nghị Ban thường vụ Trung ương Đảng 11/1945 với bản chỉ thị “Kháng
chiến kiến quốc”; Hội nghị BCH TW Đảng mở rộng 3/1946 với chủ trương
“Hoà để tiến”; Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng mở rộng
12/1946 với bản chỉ thị “Toàn dân kháng chiến”.
Trong lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khoá III đã có nhiều Hội nghị với những Nghị quyết
quan trọng, cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc; Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ Năm (1961) bàn về phát triển nông
nghiệp. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ bảy (1962) bàn về
phương hướng, xây dựng và phát triển công nghiệp. Hội nghị lần thứ Tám
(1963) bàn về phát triển kinh tế quốc dân. Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng lần thứ Mười (1964) tập trung bàn về thương nghiệp và giá cả.
Các Hội nghị Trung ương lần thứ mười chín (1971), lần thứ Hai mươi
(1972) và lần thứ Hai mươi hai (1973) về phát triển kinh tế quốc dân ở miền
Bắc.
22



Đối với sự nghiệp cách mạng miền Nam và chống Mĩ cứu nước, Bộ
Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương đã giành nhiều Hội nghị với những
nghị quyết quan trọng để lãnh đạo và chỉ đạo kịp thời. Hội nghị Bộ Chính trị
(1/1961) ra Chỉ thị “Về phương hướng và nhiệm vụ công tác trước mắt
của cách mạng miền Nam”. Tháng 2/1962 Bộ Chính trị ra Nghị quyết “Về
công tác cách mạng miền Nam”. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng lần thứ chín (12/1963) bàn về “Phương hướng và nhiệm vụ cách
mạng miền Nam và đường lối quốc tế của Đảng trong tình hình mới”.
Các Hội nghị Trung ương lần thứ mười một (3/1965) và lần thứ mười hai
(12/1965); Hội nghị Trung ương lần thứ 13 (1967) về đẩy mạnh đấu tranh
công tác ngoại giao. Chủ trương mở cuộc tấn công và nổi dậy mùa Xuân
năm 1968 được đề ra tại Hội nghị Trung ương lần thứ 14; Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương lần thứ 18 (1970) với chủ trương “Đánh bại chiến
lược Việt Nam hoá chiến tranh của đế quốc Mỹ”. Nghị quyết Hội nghị
lần thứ 19 (1971) là “Kiên trì đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước”. Sau khi ký Hiệp định Pari, đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai vẫn
ngoan cố tiếp tục chiến tranh, vi phạm Hiệp định. Trước tình hình đó Hội
ghị Ban Chấp hành Trung ương đảng lần thứ 21 (1973) đã có Nghị quyết
quan trọng khẳng định “Con đường cách mạng miền Nam vẫn là con
đường bạo lực cách mạng”, phát triển lực lượng về mọi mặt để giành thắng
lợi hoàn toàn. Những quyết định về phương án giải phóng miền Nam đã
được Hội nghị Bộ Chính trị họp ngày 30/9 đến 8/10/1974 và từ 18/12/1974
đến 8/1/1975 thông qua trực tiếp đưa đến thắng lợi hoàn toàn của Đại thắng
mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước.
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đất nước
thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV
của Đảng đã họp tháng 12/1976 tại Hà Nội. Đại hội đã tổng kết thắng lợi của
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và của cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân Việt Nam. Đại hội đề ra đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa và
đường lối xây dựng phát triển kinh tế trên cả nước. Đại hội quyết định đổi

tên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhân dân cả
nước vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa phải tiến hành chiến tranh bảo vệ
23


Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc. Đó là khó khăn và cũng
là thách thức mới. Các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đề ra
những chủ trương, biện pháp để kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Về xây dựng chủ nghĩa xã hội, các Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương đã cụ thể hoá đường lối của Đại hội IV thực hiện công cuộc cải tạo xã
hội chủ nghĩa ở miền Nam, xác lập quan hệ sản xuất mới, đẩy mạnh xây
dựng chủ nghĩa xã hội theo những chỉ tiêu chủ yếu mà Đại hội đã đề ra. Tình
hình kinh tế, xã hội, đời sống của nhân dân có nhiều khó khăn do hậu quả
của chiến tranh và cũng do sự trì trệ, kém hiệu quả của cơ chế quản lý cũ…
Từ trong khó khăn đó Đảng và nhân dân ta đã bắt đầu có những khảo
nghiệm thực tế và tìm tòi cách thức, cơ chế quản lý mới. Hội nghị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng lần thứ sáu khoá IV (9/1979) đã mở đầu cho quá
trình tìm tòi, đổi mới chủ trương khuyến khích mọi lực lượng và năng lực
sản xuất làm cho sản xuất bung ra làm ra nhiều của cải vật chất cho xã hội.
Các Hội nghị Trung ương tiếp theo và những quyết dịnh của Bộ Chính trị,
Ban Bí thư đã hướng vào sự tìm tòi, đổi mới cơ chế quản lý… “Trong cuộc
trường chinh để giành lại độc lập, tự do cho dân tộc, ở đâu và lúc nào
cũng có Đảng. Đảng đi đầu trong chiến đấu. Đảng xông pha nơi khó
khăn. Đảng gắn bó với nhân dân bằng những gì Đảng đã làm cho sự
nghiệp giải phóng đất nước. Trong giai đoạn mới, Đảng quyết làm tất cả
vì phồn vinh của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân” (1)
Các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá V đã tập trung
giải quyết những vấn đề cấp bách về phương hướng, nhiệm vụ phát triển
kinh tế xã hội hàng năm và dài hạn, công tác tư tưởng và tổ chức bảo đảm

nhiệm vụ kinh tế, xã hội về phân cấp quản lý kinh tế, xây dựng và tăng
cường cấp huyện, những vấn đề về phân phối lưu thông…
Trải qua mười năm lãnh đạo thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng Cộng
sản Việt Nam họp đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (6/1996) đã nêu
bật những thành tựu của 10 năm đổi mới về nhịp độ phát triển kinh tế, những
chuyển biến tích cực về mặt xã hội; giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc
phòng an ninh; thực hiện có kết quả một số đổi mới quan trọng về hệ thống
24


chính trị và phát triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại. Đại hội đặc biệt nhấn
mạnh nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; đã cơ bản hoàn thành
nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề
cho công nghiệp hoá, đất nước chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá - hiện đại hoá; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng
được xác định rõ hơn.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ Năm (7/1998) đã
thông qua Nghị quyết về “Xây dựng và phát triển nên văn hoá Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, nêu rõ 5 quan điểm chỉ đạo. Hội nghị
Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ sáu (10/1998) thảo luận và quyết
định những vấn đề kinh tế – xã hội để khắc phục những khó khăn yếu kém,
vượt qua những thách thức do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính, tiền tệ
các nước trong khu vực. Hội nghị Trung ương sáu (lần 2) họp tháng 12/1999 đã thảo luận và ra Nghị quyết “Về một số vấn đề cơ bản và cấp
bách trong xây dựng Đảng hiện nay” mở cuộc vận động xây dựng, chỉnh
đốn Đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình nhân kỷ niệm 30 năm thực hiện
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và kỷ niệm 70 năm thành lập Đảng…
Có thể thấy rằng sự lãnh đạo của Đảng từ khi mới ra đời cho dù còn
non trẻ qua các kỳ Đại hội nhưng vẫn giữ vững được những truyền thống
quý báu của Đảng Cộng sản Việt Nam đó là giữ vững Cương lĩnh, đường lối
đúng đắn, bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng cách

mạng; Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh suyên suốt
cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, nhân dân ta. Tinh thần độc lập tự
chủ, vận dụng sáng tạo và vấn đề đoàn kết, tạo sự thống nhất trong toàn
Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức luôn được đặt lên hàng đầu điều đó
được thể hiện qua các cuộc Hội nghị Ban chấp hành Trung ương; Thể hiện
trên con đường phát triển của cách mạng Việt Nam, nhất là trong những
bước ngoặt lịch sử phải đương đầu với mọi thử thách dù hiểm nghèo tưởng
không thể vượt qua, Đảng đã kịp thời có những quyết sách sáng suốt đáp
ứng yêu cầu phát triển của thực tiễn nhưng dưới sự lãnh đạo tài tình sáng
suốt của Đảng đã đưa con thuyền cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác. Trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người viết:
25


×