Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

BÀI dự THI EM yêu LỊCH sử xứ THANH VÒNG 3 đạt GIẢI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (537.81 KB, 21 trang )

SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO TP. THANH HÓA
TRƯỜNG THPT QUẢNG XƯƠNG III
----------

BÀI DỰ THI
EM YÊU LỊCH SỬ XỨ THANH

Họ và tên: Nguyễn Văn Châu
Lớp:
11A6
Trường: THPT Quảng Xương III
Địa chỉ: Quảng Phú, Tp Thanh Hóa

Thanh Hóa, năm 2016


Bài dự thi “Em yêu lịch sử xứ Thanh”

LỜI NÓI ĐẦU
Thanh Hoá là mảnh đất địa linh nhân kiệt, có truyền thống văn hoá lâu đời,
phong phú và đa dạng. Qua quá trình vật lộn với thiên nhiên để sinh tồn và phát
triển, người xứ Thanh đã tạo cho mình sắc thái văn hóa riêng biệt, thể hiện qua
một khối lượng di sản hết sức phong phú và đa dạng.
Thanh Hoá cũng là vùng đất truyền thống đấu tranh anh dũng kiên cường,
nơi phát tích của nhiều triều đại phong kiến Việt Nam. Vùng đất đã gắn liền với
quá trình tồn vong, hưng thịnh của quốc gia, dân tộc. Người xứ Thanh xưa và
nay đã viết nên nhiều trang sử hào hùng của dân tộc, được lưu danh bởi các tên
tuổi như: Triệu Thị Trinh, Lê Hoàn, Lê Lợi, Dương Đình Nghệ, Ngô Quyền... và
các vương triều trong lịch sử dân tộc như vương triều Lê (tiền Lê, hậu Lê), Hồ,
Nguyễn. Không những vậy vùng đất "địa linh" này còn sản sinh ra những dòng
Chúa nổi danh. Chúa Trịnh với 249 năm có mặt trên chính trường Đại Việt đã


song hành cùng vua Lê dựng đặt kỷ cương phép nước, chúa Nguyễn bắt đầu từ
Nguyễn Hoàng đã có công mở cõi về phía Nam, ổn định đồ bản và giữ vững chủ
quyền dân tộc suốt các thế kỷ XVII, XVIII, để rồi các vua Nguyễn tiếp nối,
thống nhất đất nước.
Không chỉ là quê cha đất tổ của "Tam vương nhị chúa", Xứ Thanh còn là
vùng đất hiếu học. Trong dòng chảy của lịch sử khoa bảng nước nhà, vùng đất
này đã có 1627 các nhà khoa bảng, trong đó có 240 tiến sĩ, với nhiều tên tuổi
được lưu danh muôn thuở trên các lĩnh vực văn hóa, sử học, quân sự, ngoại giao
nổi tiếng như: Khương Công Phụ, Lê Văn Hưu, Đào Duy Từ...
Để hiểu rõ hơn về lịch sử anh hùng của quê hương Thanh Hóa, em tham
gia dự thi “Em yêu lịch sử xứ Thanh” do Đoàn trường THPT Quảng Xương III
phát động.

Họ và tên: Nguyễn Văn Châu – Lớp 11A6


Bài dự thi “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
Câu 1: Người xưa có câu “Vua xứ Thanh, thần xứ Nghệ”. Vùng Ái Châu
(tức Thanh Hóa ngày nay) được xem là cái nôi sản sinh ra vua chúa Việt. Bằng
những kiến thức lịch sử đã học, em hãy trình bày hiểu biết của mình về một
trong các vị vua, chúa xứ Thanh mà em yêu thích nhất.
Trả lời
Đã từ rất xa xưa trong dân gian ta đã có câu “Vua xứ Thanh, Thần xứ
Nghệ” Xuất phát từ câu nói của sứ giả Nguyễn Thư Hiên chép ở sách Dư địa chí
do Nguyễn Trãi biên soạn có lời của Nguyễn Thiên Túng liên quan đến 4 xứ:
“Nguyễn Như Hiên nói” Thế xứ Thanh, thần xứ Nghệ, nước Hưng Thái, ma Cao
Lạng đều rất đáng sợ”. Câu nói có liên quan đến hai xứ Thanh và Nghệ, là mảnh
đất sản sinh ra những con người, vua chúa, quan thần của đất nước. Xứ Thanh
xưa mà nay là Thanh Hóa là nơi kinh đô của đất nước, nơi có nhiều vua, chúa
nhất nước.

Đất Thanh Hóa trải qua nhiều tên gọi khác nhau đến đời Lý được đổi tên
thành Thanh Hóa. Theo sách Dư địa chí, Thanh Hóa là vùng địa lý thuận lợi,
hình thể tốt có thể xem như yết hầu của đất nước. Chính vì vậy nơi đây trở thành
chỗ quân Tây Sơn lui về để ngăn bước tiến quân Thanh.

Năm 1428 Lê Lợi lập ra nhà Hậu Lê. Ông là người Thanh Hóa.

Họ và tên: Nguyễn Văn Châu – Lớp 11A6


Bài dự thi “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
Thiên thời, địa lợi, nhân hòa khiến Thanh Hóa thuận lợi trở thành nơi xưng
vương, dựng nước. Nhà Trần đã phải cho người đục núi, lấp sống để trấn yểm
các huyệt mạch đế vương.
Liên tiếp các triều vua, chúa xuất phát từ đất Thanh. Theo thống kê thì từ
thời Văn Lang cho đến khi kết thúc chế độ phong kiến cuối cùng là triều
Nguyễn với vua Bảo đại thì Thanh Hóa chính là khởi nguồn của nhiều dòng vua,
chúa nhất nước vì vậy nên mới có câu “Vua xứ Thanh”.
Thanh Hóa chính là nơi vua xuất hiện nhiều nhất khi năm Mậu thìn (248)
Triệu Thị Trinh đánh tan quân Ngô tại núi Nưa, Triệu Sơn, Thanh Hóa. Tuy
chưa xưng vua nhưng quân Ngô đã gọi bà là Vua. Nhà Tiền Lê do thập đạo
tướng quân Lê Hoàn lãnh đạo cũng xuất phát từ quê nhà Thọ Xuân, Thanh Hóa.
Sau khi Hồ Quý Ly soán ngôi nhà Trần, lập nên nhà Hồ đổi tên nước là Đại
Ngu cũng đặt kinh đô ở thành Tây Giai, tức Tây Đô, Thanh Hóa. Nơi đây cũng
trở thành mảnh đất sản sinh ra những vị vua thời Hậu Lê như Lê Thái Tổ, Lê
Thánh Tông, Lê Trang Tông....
Không chỉ có vậy, Thanh Hóa còn là nơi xuất phát của hai dòng chúa
Trịnh, Nguyễn. Chúa Trịnh Kiểm thời vua Lê vốn xuất thân từ Vĩnh Lộc, Thanh
Hóa sau đó mang tiếng giúp phò Lê nhưng thực ra lấn át cả quyền lực của vua.
Chúa Nguyễn lập sau thời chúa Trịnh cũng trấn trị ở đất Thuận Hóa sau

mới mở rộng khái phá tận Đàng Trong.
Thanh là nơi xưng vương, xưng chúa còn Nghệ lại là nơi sản sinh ra các
quan thần giỏi giang giúp vua trị vì đất nước. Từ quan văn như thái sư Nguyễn
Xí phò tá vua Lê Thánh Tông, bà chúa Lãnh – minh phi của Lê Thánh Tông đến
quan võ, tướng quân Nguyễn Cảnh Chân giúp nhà Trần dẹp quân Minh...Hơn
thế, mảnh đất “Địa linh nhân kiệt” là nơi xuất thân của vô số bậc nhân tài trong
tất cả các lĩnh vực như Nguyễn Du, Phan Bội Châu, Hồ Xuân Hương, Hồ Chí
Minh...

Họ và tên: Nguyễn Văn Châu – Lớp 11A6


Bài dự thi “Em yêu lịch sử xứ Thanh”

Đền thờ Cương Quốc công Nguyễn Xí.
Ngoài câu nói được lưu truyền là “Vua xứ Thanh, Thần xứ Nghệ” thì trong
dân gian còn xuất hiện dị bản “Thanh cậy thế, Nghệ cậy thần” hay “Thanh thế,
Nghệ thần” cũng nói về 2 xứ lắm vua nhiều chúa này.
Hai tác giả H.Le Breton và Đặng Thai Mai đã đưa ra giải thích cho câu nói
này có nghĩa là vùng đất Nghệ Tĩnh được thừa hưởng ân huệ của vua chúa. Nơi
đây cũng là vùng đất của các vị thần. Nghệ Tĩnh hãnh diện vì có một trong bốn
ngôi đền đẹp nhất An Nam “Nhất Cờn, nhì Quả, tam Bạch Mã, tứ Chiêu Trưng”.
Giáo sư Đặng Thai Mai còn giải thích rằng “Thanh Hóa là đất đế vương. Nghệ
Tĩnh là đất thần linh. Thần xứ Nghệ phần lớn là những nhân vật lịch sử. Lịch sử
Nghệ Tĩnh luôn gắn với nước nhà. Trong các thời kỳ khủng hoảng bi đát của
dân tộc người xứ Nghệ vẫn tự hào với những di tích anh hùng và những nhân
vật lẫy lừng của xứ sở”.
Hiện tại Thanh Hóa- Nghệ An là 2 tỉnh quan trọng của Việt Nam cả về
kinh tế và lịch sử. Nơi đây vẫn luôn sản sinh ra những người con ưu tố, nhân tài
giúp ích cho đất nước đúng như dân gian lưu truyền về mảnh đất “địa linh nhân

kiệt”.

Họ và tên: Nguyễn Văn Châu – Lớp 11A6


Bài dự thi “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
Câu 2: Học giả người Pháp L.Bơdatxie nhận xét: “Công trình này là một
trong những tác phẩm đẹp nhất của nền kiến trúc Việt Nam” (Phan Đại Doãn:
Những bàn tay tài hoa của cha ông – NXB Giáo dục 1988). Ngày 27 – 06 –
2011, Tổ chức UNESCO đã chính thức công nhận công trình này là Di sản văn
hóa thế giới. Đó là công trình Thành Nhà Hồ, vào hồi 13h (giờ địa phương) tức
18h (giờ Việt Nam) ngày 27/6/2011, Uỷ ban Di sản thế giới tại kỳ họp thứ 35
được tổ chức tại Paris (Cộng hoà Pháp) đã chính thức công nhận Thành Nhà Hồ
trở thành Di sản Văn hoá Thế giới. Đó là công trình nào? Em hãy đóng vai là
một hướng dẫn viên du lịch để giúp cộng đồng hiểu biết về công trình này.
Trả lời
Học giả người Pháp L.Bơdatxie nhận xét: “Công trình này là một trong
những tác phẩm đẹp nhất của nền kiến trúc Việt Nam” (Phan Đại Doãn: Những
bàn tay tài hoa của cha ông – NXB Giáo dục 1988). Ngày 27 – 06 – 2011, Tổ
chức UNESCO đã chính thức công nhận công trình này là Di sản văn hóa thế
giới. Đó là công trình Thành Nhà Hồ, vào hồi 13h (giờ địa phương) tức 18h (giờ
Việt Nam) ngày 27/6/2011, Uỷ ban Di sản thế giới tại kỳ họp thứ 35 được tổ
chức tại Paris (Cộng hoà Pháp) đã chính thức công nhận Thành Nhà Hồ trở
thành Di sản Văn hoá Thế giới.

Thành Nhà Hồ thuộc địa phận các xã Vĩnh Tiến, Vĩnh Long, Vĩnh Quang,
Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc, Vĩnh Ninh, Vĩnh Khang, Vĩnh Thành và thị trấn Vĩnh

Họ và tên: Nguyễn Văn Châu – Lớp 11A6



Bài dự thi “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
Lộc (huyện Vĩnh Lộc), tỉnh Thanh Hóa. Đây là kinh thành của nước Việt Nam
từ năm 1398 đến 1407.
Thành Nhà Hồ do Hồ Quý Ly - lúc bấy giờ là tể tướng dưới triều đại nhà
Trần - cho xây dựng vào năm 1397. Thành xây xong, Hồ Quý Ly ép Vua Trần
Thuận Tông rời đô từ kinh thành Thăng Long (Hà Nội) về Thanh Hóa. Tháng 2
năm Canh Thìn (1400), Hồ Quý Ly lên ngôi vua thay nhà Trần và đặt tên nước
là Đại Ngu (1400-1407), thành Nhà Hồ chính thức trở thành kinh đô. Thành Nhà
Hồ trong lịch sử còn có các tên gọi khác là thành An Tôn, Tây Đô, Tây Kinh,
Tây Nhai, Tây Giai.
Thành Nhà Hồ được coi là tòa thành đá duy nhất còn lại ở Đông Nam Á
và là một trong rất ít còn lại trên thế giới. Ngày 27/6/2011, tại Paris (Pháp),
trong kỳ họp lần thứ 35 của Ủy ban Di sản thế giới, UNESCO đã công nhận
thành Nhà Hồ là di sản văn hóa thế giới.
Thành Nhà Hồ đã đáp ứng hai tiêu chí được quy định trong Công ước Di
sản Thế giới năm 2008. Đó là tiêu chí 2 “bày tỏ sự trao đổi quan trọng của các
giá trị nhân văn, qua một thời kỳ hay bên trong một khu vực văn hóa của thế
giới, về những phát triển trong kiến trúc, công nghệ, nghệ thuật điêu khắc, quy
hoạch thành phố hay thiết kế phong cảnh” và tiêu chí 4 “là ví dụ nổi bật về một
loại hình công trình xây dựng, một quần thể kiến trúc hoặc kỹ thuật hoặc cảnh
quan minh họa một (hoặc nhiều) giai đoạn trong lịch sử nhân loại”.
Trong hồ sơ di sản thế giới, thành Nhà Hồ được mô tả là một công trình
kỳ vĩ bởi kỹ thuật và nghệ thuật xây dựng đá lớn và sự kết hợp các truyền thống
xây dựng độc đáo có một không hai ở Việt Nam, khu vực Đông Á và Đông Nam
Á trong thời kỳ cuối thế kỷ 14, đầu thế kỷ 15. Nhờ kỹ thuật xây dựng độc đáo,
sử dụng các vật liệu bền vững, đặc biệt là các khối đá lớn, thành Nhà Hồ được
bảo tồn rất tốt trong cảnh quan thiên nhiên hầu như còn nguyên vẹn. Đây là một
trong số ít các di tích kinh thành chưa chịu nhiều tác động của quá trình đô thị
hóa, cảnh quan và quy mô kiến trúc còn được bảo tồn gần như nguyên vẹn cả

trên mặt đất và trong lòng đất ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á.
Họ và tên: Nguyễn Văn Châu – Lớp 11A6


Bài dự thi “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
Theo các tài liệu và thư tịch cổ, cùng với việc khảo cổ, nghiên cứu hiện
trạng thì phức hợp di sản thành Nhà Hồ ngoài Thành nội, Hào thành, La thành
còn có Đàn tế Nam Giao.
Em đóng vai trò hướng dẫn viên du lịch để giúp cộng đồng hiểu biết về
Thành Nhà Hồ như sau:
- Di sản Văn hoá Thành Nhà Hồ bao gồm vùng đề cử 155,5ha nằm trong
một vùng đệm (5078,5ha) với giá trị cảnh quan tuyệt đẹp của một vùng kinh đô
cổ, được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới với những giá trị nổi bật
và tiêu chí sau

Khu di sản Thành Nhà Hồ là trung tâm kinh thành của Việt Nam vào cuối
thể kỷ 14 - đầu thế kỷ 15, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của khu vực Bắc
Trung Bộ Việt Nam từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18. Các thuộc tính chứng minh cho
nét đặc sắc mang tầm vóc giá trị nổi bật toàn cầu của nó bao gồm tòa thành đá
được xây dựng bằng kỹ thuật đá lớn, La thành, Nam Giao, các tầng văn hóa nối
tiếp nhau trong lòng đất lưu giữ các dấu tích Cung điện, đền đài, đường xá và
nghệ thuật trang trí, các làng cổ cùng toàn bộ cảnh quan đồi núi, sông hồ mang
đậm chất phong thủy điển hình còn lưu giữ được tương đối nguyên vẹn phản
ánh rõ nét về một thời kỳ lịch sử văn hóa, văn minh Việt Nam với các đặc trưng
mang tầm vóc khu vực và quốc tế.
Khu di sản Thành Nhà Hồ là biểu hiện rõ rệt những sự giao thoa trao đổi
quan trọng các giá trị nhân văn giữa Việt Nam và các nước trong khu vực Đông
Họ và tên: Nguyễn Văn Châu – Lớp 11A6



Bài dự thi “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
Á, Đông Nam Á liên quan đến sự phát triển của kiến trúc, quy hoạch…và cảnh
quan khu vực vào cuối thế kỷ 14 - đầu thế kỷ 15. Đó là việc tiếp thu các tư
tưởng hướng tích cực của Nho Giáo thực hành (Trung Quốc) kết hợp với các
đặc điểm của văn hóa Việt Nam và khu vực được vận dụng một cách sáng tạo
vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam nhằm đưa đất nước đạt tới các thành tựu
mới văn minh hơn, tích cực hơn, đem lại nhiều lợi ích hơn cho người dân, đáp
ứng các yêu cầu đổi mới cấp bách của Việt Nam và góp phần thúc đẩy các trào
lưu tư tưởng nhân văn tích cực ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á. Tất cả được
thể hiện nổi trội và duy nhất thấy ở Thành Nhà Hồ trên các phương tiện thiết kế
cảnh quan đô thị, kiến trúc Thành đá, kỹ thuật xây dựng đá lớn và các ảnh
hưởng tác động lẫn nhau nhiều chiều của khu di sản tới kỹ thuật xây dựng thành
quách sau đó ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á.

Khu di sản cũng là ví dụ nổi bật về một loại công trình kiến trúc được xây
dựng bằng đá lớn vừa là một kiểu kiến trúc Hoàng thành biểu tượng cho quyền
lực Hoàng gia tiêu biểu dưới tác động của giao thoa các giá trị nhân văn ở
phương Đông, vừa là một pháo đài quân sự bề thế, chắc chắn, uy nghiêm. Kỹ
thuật xây dựng đá lớn độc đáo, duy nhất của Việt Nam được thấy ở đây đã được
kết hợp một cách sáng tạo, tài tình với truyền thống kỹ thuật và nghệ thuật xây
dựng ở Việt Nam, Đông Á và Đông Nam Á với một hệ thống thao tác kỹ thuật
thủ công liên hoàn như khai thác đá, gia công đá, vận chuyển các khối đá nặng
từ 10 tấn đến 26 tấn, xử lý móng nền đá, nâng các khối đá lớn lên độ cao trên
Họ và tên: Nguyễn Văn Châu – Lớp 11A6


Bài dự thi “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
10m vừa đảm bảo được công năng kiến trúc vừa đáp ứng yêu cầu mỹ thuật cần
thiết của một đô thành. Kỹ thuật xây dựng thành công các bức tường thành bằng
đá lớn đã phát huy ảnh hưởng của nó tới kỹ thuật xây dựng nhiều tòa thành sau

đó ở khu vực, nhưng kỳ vĩ nhất, đặc sắc nhất chỉ có Thành Nhà Hồ vốn được
xem như một hiện tượng đột khởi “vô tiền khoáng hậu” trong lịch sử xây dựng
kiến trúc thành quách Việt Nam và khu vực.
Khu di sản đáp ứng các yêu cầu về tính toàn vẹn, tính xác thực được nêu
trong hướng dẫn hoạt động thực hiện Công ước Di sản Thế giới.
Khu di sản với vùng lõi và vùng đệm tổng cộng 5.234 hécta bao gồm toàn
bộ tòa Thành đá, La thành, hào thành, các di tích khảo cổ dưới lòng đất, các làng
cổ, các di tích chùa đền, hang động liên quan đến Thành Nhà Hồ, toàn bộ cảnh
quan núi non, sông nước liên quan đến địa hình phong thủy thể hiện sự giao lưu
văn hóa về nét đặc sắc của tòa thành được bảo tồn toàn vẹn một cách tốt nhất
theo Luật pháp của Nhà nước Việt Nam và các quy định của UBND tỉnh Thanh
Hóa. Đó cũng là những bằng chứng xác thực nhất minh chứng về sự tồn tại của
một thời kỳ văn minh Việt Nam dưới ảnh hưởng tác động của các tư tưởng nhân
văn tích cực phương Đông nhằm đổi mới đất nước Việt Nam cuối thế kỷ 14 đầu thế kỷ 15.

Họ và tên: Nguyễn Văn Châu – Lớp 11A6


Bài dự thi “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
Câu 3: Triệu Thị Trinh có một câu nói nổi tiếng : “Em muốn cưỡi cơn gió
mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi quân xâm lược
Ngô, cưỡi ách nô lệ, há chịu cúi đầu làm tì thiếp cho người ta”. Bằng kiến thức
lịch sử đã học, em hãy làm rõ truyền thống anh hùng bất khuất chống giặc ngoại
xâm của con người xứ Thanh?
Trả lời
Câu nói nổi tiếng của Bà Triệu : “Em muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng
sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi quân xâm lược Ngô, cưỡi ách nô
lệ, há chịu cúi đầu làm tì thiếp cho người ta” có ý nghĩa gì trong xã hội Việt
Nam lúc bấy giờ?


Bà Triệu là người giỏi võ nghệ, có chí lớn. năm 19 tuổi, đáp lời hỏi bà về
việc chồng con, bà nói: “Em muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém
cá kình ở biển Đông, đánh đuổi quân xâm lược Ngô, cưỡi ách nô lệ, há chịu cúi
đầu làm tì thiếp cho người ta”. Bà cùng anh trai chiêu tập nghĩa binh, quyết lòng
đánh đuổi quân Ngô cứu nước, cứu dân.
Có thể nói, Bà Triệu là tấm gương sáng chói về cuộc cách mạng nhân
quyền sớm trên thế giới, vì vào thời điểm mà Bà khởi nghĩa, chế độ nô lệ còn
đang bành trướng mạnh mẽ khắp nơi và thân phận của người phụ nữ vẫn bị coi
là rẻ mạt. trong hoàn cảnh đất nước đang bị ngoại bang thống trị, với những lễ
nghi tôn giáo khắt khe, người đàn ông thường được suy tôn là “đại trưởng phu”,
là “anh hùng nam tử” và được quyền “năm thê, bảy thiếp”; còn người phụ nữ chỉ

Họ và tên: Nguyễn Văn Châu – Lớp 11A6


Bài dự thi “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
là “thân phận nữ nhi”, “liễu yếu đào tơ”, cùng với những chính sách tàn bạo của
nhà Hán nhằm khống chế một bộ phận phản kháng ách áp bức bóc lột, gieo rắc
trong lòng xã hội tính “trọng nam, khinh nữ”.
Tuy nhiên, bà Triệu đã dám khẳng khái tuyên bố rằng “em muốn cỡi cơn
gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình biển Đông”, để phản kháng lại chế
độ và để khẳng định vai trò vị trí của người phụ nữ trong xã hội, thử hỏi đáng
nam nhi lức bấy giờ, trong cùng một hoàn cảnh đã mấy ai sánh bằng.
để phản đối và chống lại chế độ “trai năm thê, bảy thiếp”, phận làm tì thiếp, một
hình thức nô lệ” Bà Triệu đã dứt khoát “há chịu cúi đầu làm tỳ thiếp người ta”.
từ đó bà đã dấn thân vào cuộc nổi dậy thực sự. bà đã chiêu binh, phất cờ làm
cách mạng đòi sự bình đảng, bình quyền nam nữ. trong đó người phụ nữ không
còn phải “cúi đầu làm tỳ thiếp người ta”, và mục tiêu của Bà là “đánh đuổi quân
xâm lược Ngô” để nhân dân được hưởng độc lập, thoát khỏi kiếp sống nô lệ.
Lịch sử đã xác nhận Thanh Hóa là một địa phương có nhiều vua chúa lập

nên các triều đại phong kiến Việt Nam. Một số vua, chúa đã có công đánh thắng
các thế lực xâm lược, bảo vệ được nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ cho đất
nước. Vì thế tên hiệu họ qua mọi triều đại, kể cả thời đô hộ Pháp đều được đặt
cho các đường, phố, công viên, trường học. Hầu như ở bất cứ thành phố nào trên
đất nước ta đều có đường, phố mang tên Bà Triệu (Ấu Triệu, Triệu Thị Trinh),
Lê Lợi (Lê Thái Tổ), Lê Hoàn (Lê Đại Hành), Dương Đình Nghệ...
Một số vua chúa khác người xứ Thanh anh minh, tài giỏi, đã có công xây
dựng nước nhà hưng thịnh, mở rộng thêm bờ cõi như vua Lê Thánh Tông, chúa
Nguyễn Hoàng... cũng có nhiều tỉnh thành lấy tên các vị đặt cho đường, phố,
trường học. Hồng Đức là niên hiệu vua Lê Thánh Tông đã được đặt cho một số
trường phổ thông, đại học, cơ sở văn hóa, kinh doanh sản xuất nổi tiếng của các
tỉnh, thành.
Ngoài ra, Thanh Hóa còn có không ít nhân vật lịch sử đã có công chống
xâm lược, xây dựng đất nước. Trong đó có một nhân vật đặc biệt đó là người
phụ nữ Triệu Thị Trinh.
Họ và tên: Nguyễn Văn Châu – Lớp 11A6


Bài dự thi “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
Câu 4: Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa được thành lập như thế nào? Hãy nêu
những hiểu biết của em về một người Cộng sản Thanh Hóa mà em ấn tượng
nhất?
Trả lời
Ngày 29/7/1930, Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa được thành lập tại Làng Yên
Trường, xã Thọ Lập, huyện Thọ Xuân. Sự ra đời của Đảng bộ tỉnh là một bước
ngoặt lịch sử quan trọng, là nhân tố quyết định thắng lợi của phong trào đấu
tranh cách mạng đánh đổ chế độ thực dân và phong kiến, giành chính quyền ở
Thanh Hóa năm 1945, đồng thời giành nhiều thành tựu to lớn trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc cũng như trong công cuộc đổi mới, phát triển và
hội nhập hiện nay.

Năm 1858, Thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng, chính thức xâm
lược Việt Nam. Cùng với nhân dân cả nước, nhân dân Thanh Hóa, liên tục vùng
lên khởi nghĩa đánh đuổi giặc Pháp xâm lược. Các cuộc đấu tranh yêu nước do
các sỹ phu phong kiến lãnh đạo, tiêu biểu là phong trào Cần Vương, phong trào
Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục diễn ra rộng khắp, thế nhưng đều lần lượt bị
địch khủng bố đẫm máu và thất bại, do thiếu một đường lối lãnh đạo đúng đắn
của một chính Đảng. Trong bối cảnh đó, ngày 03 tháng 2 năm 1930, tại Cửu
Long (Hương Cảng), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì Hội nghị hợp nhất ba tổ
chức cộng sản, thành lập một Đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt
Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, tạo ra bước ngoặt quan trọng
đối với phong trào cách mạng trong cả nước và các địa phương. Cũng từ đây
phong trào đấu tranh cách mạng ở Thanh Hóa phát triển mạnh mẽ rộng khắp.
Các chi bộ Cộng Sản: Hàm Hạ - Đông Sơn ; Phúc Lộc - Thiệu Hóa, Yên
Trường, Thọ Xuân lần lượt ra đời. Trước tình hình phong trào đấu tranh cách
mạng ở Thanh Hóa ngày càng phát triển mạnh mẽ và đang rất cần sự lãnh đạo
của Đảng, xuất phát từ yêu cầu cấp bách, dưới sự chỉ đạo của Xứ ủy Bắc Kỳ,
ngày 29/7/1930, Hội nghị thành lập Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa đã được tổ chức tại
Làng Yên Trường, Xã Thọ Lập, huyện Thọ Xuân trên cơ sở hợp nhất 3 chi bộ
Họ và tên: Nguyễn Văn Châu – Lớp 11A6


Bài dự thi “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
Cộng sản gồm Chi bộ Hàm Hạ, Chi bộ Thiệu Hóa và Chi bộ Thọ Xuân. Đ/c Lê
Thế Long được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh ủy và là Bí thư Tỉnh ủy đầu tiên của
Đảng bộ Thanh Hóa.
Ngôi nhà lịch sử chính là của gia đình đ/c Lê Văn Sỹ - Bí thư Chi bộ Yên
Trường, huyện Thọ Xuân lúc bấy giờ, được chọn làm địa điểm để tổ chức hội
nghị thành lập Đảng bộ tỉnh vào ngày 29 tháng 7 năm 1930. Điều đặc biệt là
cũng tại ngôi nhà này trước đó một tuần đã diễn ra sự kiện thành lập chi bộ cộng
sản Yên Trường, tiền thân của Đảng bộ huyện Thọ Xuân. Có thể nói sự ra đời

của Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa là bước ngoặt quan trọng đối với Đảng bộ, nhân
dân trong phong trào đấu tranh cách mạng giành chính quyền ở tỉnh ta. Chấm
dứt giai đoạn khủng hoảng kéo dài của phong trào cách mạng do thiếu sự lãnh
đạo của một chính Đảng.
Ngay sau khi thành lập, Đảng bộ tỉnh đã đề ra một số nhiệm vụ quan
trọng trước mắt đó là: Xây dựng Đảng, xây dựng tổ chức Nông hội đỏ, Công hội
đỏ, cơ quan ấn loát, phát hành tờ báo “ Tiến lên” ......
Trong quá trình hoạt động, mặc dù bị thực dân Pháp khủng bố dã man, có
những thời điểm các Chi bộ Cộng sản và Đảng bộ tỉnh gần như bị cô lập thậm
chí là tan rã, nhưng trước yêu cầu bức thiết của lịch sử, bất chấp sự gian khổ, tù
đày và hy sinh, các Chi bộ Đảng và Đảng bộ tỉnh nhanh chóng được khôi phục
trở lại và tiếp tục lãnh đạo phong trào đấu tranh cách mạng và đánh đuổi thực
Pháp, lật đổ chế độ phong kiến. Từ cuối năm 1935 trở đi, phong trào cách mạng
đã phát triển rộng khắp ở nhiều phủ, huyện trong tỉnh, nhằm chuẩn bị cùng với
cả nước tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền. Mở đầu là cuộc khởi nghĩa giành
chính quyền ngày 24/7/1945 ở huyện Hoằng Hóa.
Đêm ngày 18, rạng sáng ngày 19/8/1945, sau khi Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh
phát lệnh tổng khởi nghĩa, nhân dân và tự vệ các huyện nhất tề vùng lên giành
chính quyền. Cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Thanh Hóa giành thắng
lợi nhanh chóng. Ngày 23/8/1945, từ đình làng Ngô Xá Hạ ở căn cứ Thiệu Hóa,
lực lượng cứu quốc gồm có hàng nghìn tự vệ của các huyện: Thiệu Hóa, Đông
Họ và tên: Nguyễn Văn Châu – Lớp 11A6


Bài dự thi “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
Sơn, Yên Định, Thọ Xuân.....đã tiến về thị xã Thanh Hóa ra mắt quốc dân đồng
bào. Đ/c Lê Tất Đắc, Chủ tịch Uỷ ban Hành chính Cách mạng lâm thời tuyên bố
thành lập chính quyền cách mạng và kêu gọi toàn dân đoàn kết xây dựng bảo bệ
chế độ mới./.
Những hiểu biết của em về một người Cộng sản Thanh Hóa mà em ấn

tượng nhất.
* Lê Hữu Lập - Người thanh niên cộng sản đầu tiên của tỉnh Thanh Hóa
Lê Hữu Lập lúc nhỏ tên là Độ (ngoài ra còn một số tên gọi khác như: “Cậu
Ấm”, Hoàng tức Thoại, tức Hoàng Lùn), sinh năm 1897 ở thôn Hữu Nghĩa, tổng
Xuân Trường, huyện Hậu Lộc (nay là xã Xuân Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh
Hóa), là con một gia đình nho học có khí tiết.
Đầu năm 1927, trên cơ sở Hội đọc sách báo cách mạng phát triển, đồng chí Lê
Hữu Lập kịp thời chỉ đạo việc thành lập Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí
Hội tỉnh Thanh Hóa.
Tháng 4 năm 1927, Ban chấp hành Tỉnh bộ lâm thời Việt Nam Thanh niên
cách mạng đồng chí Hội được thành lập gồm ba ủy viên: Lê Hữu Lập, Lê Văn
Thanh, Nguyễn Chí Hiền. Đồng chí Lê Hữu Lập được cử làm Bí thư Tỉnh bộ lâm
thời.
Một ngày đầu tháng 4 năm 1928, dưới sự chủ trì của đồng chí Lê Hữu Lập,
hội nghị đại biểu Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội tỉnh Thanh Hóa đã
làm việc trong ba buổi và bầu ra Ban chấp hành Tỉnh bộ chính thức gồm bảy ủy
viên. Đồng chí Lê Hữu Lập được cử làm Bí thư và sau đó được bầu vào Ban Chấp
hành Kỳ bộ Thanh niên Trung Kỳ.
Năm 1929, đồng chí được cử sang Thái Lan hoạt động.
Tháng 11 năm 1929, đồng chí Lê Hữu Lập bị tòa án Nam Triều Thanh Hóa
kết án tử hình vắng mặt.
Tháng 3 năm 1930, tại Hội nghị đại biểu Việt Nam Thanh niên cách mạng
đồng chí Hội ở U-Đôn (Thái Lan) do đồng chí Nguyễn Ái Quốc chủ trì đã quyết
định chuyển tổ chức Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội thành tổ chức
cộng sản. Do công lao đóng góp tích cực cho việc thành lập Đảng cộng sản, đồng
chí Lê Hữu Lập đã trở thành đảng viên cộng sản đầu tiên của tỉnh Thanh Hóa.

Họ và tên: Nguyễn Văn Châu – Lớp 11A6



Bài dự thi “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
Cuối tháng 8 năm 1930, đồng chí lê Hữu Lập bí mật về nước. Cuối tháng 9
năm 1930, đồng chí thành lập chi bộ cộng sản đầu tiên của huyện Hoằng Hóa tại
thôn Cự Đà (nay là xã Hoằng Minh huyện Hoằng Hóa).
Cuối năm 1930, đồng chí quay lại Thái Lan hoạt động.
Từ năm 1932 đến năm 1933, đồng chí công tác ban viện trợ cách mạng Đông
Dương ở vùng Đông Bắc Thái Lan.
Đầu năm 1934, đồng chí lại được ban viện trợ cách mạng Đông Dương cử về
hoạt động tại Nghệ An và được tổ chức bố trí hoạt động tại một cơ sở tại huyện
Nghi Lộc. Tại đây đồng chí lâm bệnh nặng.
Hoàn thành được hai lớp huấn luyện ở Nghi Lộc, tạo được cơ sở tư tưởng và
tổ chức cho việc khôi phục phong trào thì bệnh tình của đồng chí Lê Hữu Lập đã
quá trầm trọng. Các đồng chí ở Nghệ An và quần chúng nhân dân hết lòng chạy
chữa nhưng vì điều kiện hoạt động bí mật, thuốc thang khó khăn nên bệnh của anh
cứ ngày một nặng.
Vào một ngày cuối tháng 6 năm 1934, Lê Hữu Lập đã trút hơi thở cuối cùng
tại nhà thương Vinh. Vô vàn thương thương tiếc người đồng chí kiên cường, tận
tụy vì nghĩa lớn, các đồng chí ở Nghệ An đã đem mai táng anh ở nghĩa địa Tập
Phúc, làm mộ chí mang tên Nguyễn Thụ.
Lê Hữu Lập, người chiến sỹ cộng sản lớp trước, người con thân yêu của nhân
dân Thanh Hóa đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp của Đảng, của nhân dân.
Từ buổi mở đầu, tuổi trẻ Lê Hữu Lập đã chọn được con đường đi đúng đắn do Bác
Hồ vạch ra cho thanh niên nước ta. Bằng sự nỗ lực của bản thân, của tổ chức, Lê
Hữu Lập đã vận dụng một cách nghiêm túc, sáng tạo và hoạt động ngoan cường với
tinh thần xung kích cách mạng theo con đường cứu nước của Bác Hồ.
Ba mươi bảy tuổi đời, độ tuổi tràn đầy nghị lực, Lê Hữu Lập là một trong
những người chiến sỹ cộng sản lớp trước của tỉnh nhà đã cống hiến xuất sắc cuộc
đời của tuổi trẻ cho sự nghiệp vinh quang của Đảng và đã hoàn thành nhiệm vụ.
Hoạt động và sự cống hiến của đồng chí Lê Hữu Lập đã góp phần viết nên những
trang sử mở đầu rực rỡ trong lịch sử đấu tranh cách mạng vẻ vang của Đảng bộ và

nhân dân Thanh Hóa.

Họ và tên: Nguyễn Văn Châu – Lớp 11A6


Bài dự thi “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
Câu 5: Ngày 20/2/1947, Bác Hồ vào thăm Thanh Hóa đã căn dặn: “Thanh Hóa
phải trở nên một tỉnh kiểu mẫu... phải làm sao cho mọi mặt chính trị, kinh tế,
quân sự phải là là tỉnh kiểu mẫu, làm hậu phương vững chắc cho cuộc kháng
chiến”. Thực hiện lời căn dặn của Bác, sau 30 năm đổi mới (1986-2016) Đảng
bộ, quân và dân Thanh Hóa đã phấn đấu đạt được nhiều thành tựu quan trọng
trên các lĩnh vực kinh tế- xã hội. Em hãy nêu một thành tựu nổi bật nhất góp
phần đưa Thanh Hóa từng bước trở thành tỉnh kiểu mẫu. Liên hệ trách nhiệm
bản thân?
Trả lời
Lần đầu tiên Bác về thăm Thanh Hóa, Bác đến gặp gỡ và nói chuyện với
cán bộ tỉnh, với thân sĩ trí thức, các tầng lớp nhân dân, Bác bày tỏ mong ước
Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Thanh xây dựng tỉnh nhà thành một tỉnh
kiểu mẫu. Bác Hồ từng căn dặn:
“Tỉnh Thanh Hóa phải trở nên một tỉnh kiểu mẫu, thì phải làm sao cho
mọi mặt chính trị, kinh tế, quân sự phải là kiểu mẫu. Làm một người kiểu mẫu,
một nhà kiểu mẫu, một làng kiểu mẫu, một huyện kiểu mẫu, một tỉnh kiểu mẫu.
Quyết tâm làm thì sẽ thành kiểu mẫu”.

Hình ảnh Bác Hồ giản dị và gần gũi với người dân Thanh Hóa trong lần đầu
tiên về thăm Thanh Hóa (20/02/1947)

Họ và tên: Nguyễn Văn Châu – Lớp 11A6



Bài dự thi “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
- Người khẳng định: “Tỉnh Thanh Hóa có tiếng là văn vật”, “là một tỉnh
đất rộng, người đông, nhân dân có truyền thống đấu tranh anh dũng và cần cù
lao động; có miền núi, trung du, đồng bằng và miền biển”; đồng thời đánh giá
Thanh Hóa là một trong những tỉnh có vị trí địa – chính trị, địa - chiến lược cực
kỳ quan trọng của đất nước.
- Những quan điểm của Bác Hồ về xây dựng “Thanh Hóa kiểu mẫu”
mang tâm nhìn chiến lược gắn với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh mà Đảng và Nhà nước ta đã và đang lãnh đạo nhân dân ta trong
mấy thập kỷ qua tiến hành xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Người chỉ ra mục đích, cách làm cho Đảng bộ, chính quyền và nhân dân
Thanh Hóa để trở thành tỉnh “Kiểu mẫu”.
- “Thanh Hóa kiểu mẫu” đã trở thành mục tiêu, động lực, tài sản quý giá
đối với Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Thanh trong sự nghiệp đấu tranh,
bảo vệ Tổ quốc, xây dựng và phát triển quê hương Thanh Hóa.
- Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, việc thực hiện lời dạy của Bác có ý
nghĩa quan trọng và quyết định đối với sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH quê
hương, đất nước và hội nhập quốc tế, đưa tỉnh Thanh Hóa sớm trở thành tỉnh
tiên tiến như Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ thứ XVII đã đề ra.
Thực hiện lời căn dặn của Bác, sau 30 năm đổi mới (1986-2016) Đảng bộ,
quân và dân Thanh Hóa đã phấn đấu đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên
các lĩnh vực kinh tế- xã hội.
Những thành quả mà đảng bộ, quân và dân các dân tộc trong tỉnh đã đạt
được trong sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Bằng việc
vận dụng và ban hành những cơ chế, chính sách phù hợp, khơi dậy được tiềm
năng lao động sáng tạo trong nhân dân, sau 30 năm thực hiện đường lối đổi mới,
tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh đã có bước phát triển vượt bậc:
- Kinh tế duy trì tốc độ tăng trưởng khá; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo
hướng tích cực. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ngày càng được hoàn thiện. Từ
một địa phương thường xuyên thiếu lương thực, những năm gần đây, chúng ta

Họ và tên: Nguyễn Văn Châu – Lớp 11A6


Bài dự thi “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
không những đã bảo đảm vững chắc an ninh lương thực, mà còn có một phần
lương thực hàng hóa; các vùng sản xuất nguyên liệu tập trung cho công nghiệp
chế biến như: mía, cao su, sắn, luồng được hình thành vững chắc. Chương trình
xây dựng nông thôn mới trở thành phong trào sâu rộng và đạt kết quả tích cực,
bộ mặt nông thôn có nhiều đổi mới. Sản xuất công nghiệp tiếp tục tăng trưởng
cao, là tỉnh dẫn đầu cả nước về sản lượng xi - măng và mía đường. Các khu
công nghiệp, Khu Kinh tế Nghi Sơn được thành lập, một số ngành công nghiệp
then chốt của tỉnh, như: sản xuất vật liệu, nhiệt điện, lọc hóa dầu,... đã được hình
thành. Các ngành dịch vụ duy trì tốc độ tăng trưởng khá. Môi trường đầu tư kinh
doanh được cải thiện mạnh mẽ. Huy động vốn cho đầu tư phát triển vượt kế
hoạch đề ra. Nhiều dự án lớn, có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh được khởi công xây dựng, điển hình là Dự án Lọc
hóa dầu Nghi Sơn với tổng mức đầu tư 9,3 tỷ USD, lớn nhất ở nước ta từ trước
đến nay đang được xây dựng đúng tiến độ và sẽ đi vào vận hành thương mại
trong năm 2017. Thu ngân sách Nhà nước vượt dự toán và năm sau cao hơn năm
trước.
- Các hoạt động văn hóa - xã hội chuyển biến tích cực, theo hướng nâng
cao chất lượng và đẩy mạnh thực hiện xã hội hóa. Kết quả thi đại học, thi học
sinh giỏi quốc gia, quốc tế; thể thao thành tích cao đạt nhiều thành tích vượt bậc
và duy trì vị trí tốp đầu cả nước. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân
không ngừng được cải thiện.
- Quốc phòng - an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, tạo môi
trường ổn định cho phát triển kinh tế - xã hội.
- Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được tăng cường; công
tác tổ chức và cán bộ có chuyển biến khá toàn diện; công tác chính trị tư tưởng,
giáo dục truyền thống yêu nước và cách mạng có nhiều đổi mới; tình hình tư

tưởng của đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân đồng thuận, tin
tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng ta.

Họ và tên: Nguyễn Văn Châu – Lớp 11A6


Bài dự thi “Em yêu lịch sử xứ Thanh”
Sau 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đứng ở thời điểm này nhìn lại,
dẫu còn khó khăn, thách thức nhưng mỗi chúng ta có quyền tự hào về những
thành tựu mà đảng bộ, chính quyền, nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã nỗ lực
đạt được trong những năm qua. Những thành tựu đó đã và đang tạo ra thời cơ,
vận hội mới; mở ra tương lai tốt đẹp cho tỉnh ta trong những năm tới trên con
đường CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.
Trách nhiệm bản thân: Bản thân em đang là một học sinh Trung học phổ
thông, đang ngồi trên ghế nhà trường, bản thân em biết mình phải luôn cố gắng
nổ lực trong học tập, vươn lên học tập thật tốt, làm theo năm điều Bác Hồ dạy,
phấn đấu làm con ngoan trò giỏi cháu ngoan Bác Hồ. Trong cuộc sống em luôn
học hỏi cái hay, cái đẹp, rèn luyện đạo đức bản thân, nổ lực vươn lên, để sau này
góp một phần nhỏ vào công cuộc xây dựng quê hương đất nước ngày một giàu
mạnh và quê hương Thanh Hóa sớm trở thành một tỉnh “kiểu mẫu” như lời Bác
căn dặn.

Họ và tên: Nguyễn Văn Châu – Lớp 11A6


Bài dự thi “Em yêu lịch sử xứ Thanh”

LỜI KẾT
Em yêu quê em bằng niềm tự hào về truyền thống lịch sử hào hùng. Đó là
mảnh đất thiêng liêng, anh hùng, quê hương của vị anh hùng dân tộc Lê Lợi,

người đã cùng nghĩa quân Lam Sơn làm nên chiến thắng vẻ vang của dân tộc
trước quân Minh xâm lược. Đất nước bị xâm lăng, toàn thể dân tộc Việt Nam,
hàng triệu trái tim như một, cháy lên tình yêu mãnh liệt dành cho tổ quốc và
lòng căm thù giặc sâu sắc. Ở đó cũng có triệu triệu trái tim của những người con
mang tên Thanh Hóa.
Qua bài dự thi này, em được hiểu biết hơn về quê hương Thanh Hóa với
những trang lịch sử hào hùng, từ đó em thêm yêu, tự hào về quê hương, đất
nước của mình hơn. Từ tình yêu đó, bản thân em sẽ cố gắng nổ lực trong học tập
để xứng đáng với niềm mong ước của gia đình, quê hương, xứng với lời Bác Hồ
dạy“Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp được hay không, dân tộc Việt Nam
có bước tới đài vinh quang sánh vai với các cường quốc năm châu được hay
không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”.
Cũng qua bài dự thi này, ngoài bản thân em, em mong muốn truyền tải
thông tin về lịch sử xứ Thanh đến tất cả mọi người dân Thanh Hóa nói riêng và
cả nước nói chung biết rõ hơn về Thanh Hóa, tự hào vì mình là người con Thanh
Hóa.

Họ và tên: Nguyễn Văn Châu – Lớp 11A6



×