Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Hệ thống quan điểm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.08 KB, 17 trang )

Hệ thống quan điểm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Qua 20 năm đổi mới, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày
càng sáng tỏ hơn, những nét cơ bản của hệ thống quan điểm lý luận về con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cũng bước đầu được hình thành.
1- Về mục tiêu và bản chất của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Trong quá trình cách mạng, dù trong hoàn cảnh nào, Ðảng ta luôn kiên định
con đường xã hội chủ nghĩa, vì đó là mục tiêu, lý tưởng của Ðảng và nhân dân ta;
đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu khách quan, hợp quy luật của cách
mạng Việt Nam.
Tuy nhiên, Ðảng ta cũng nhận thức rằng đây là một sự nghiệp lâu dài, vô
cùng khó khăn, gian khổ bởi điểm xuất phát của nước ta rất thấp, lại bị chiến tranh
tàn phá nặng nề, luôn bị các thế lực thù địch phá hoại. Ðặc biệt sự nghiệp đổi mới
theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một sự nghiệp mới mẻ, chưa có tiền lệ trong
lịch sử, lại diễn ra trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội trên thế giới lâm vào khủng
hoảng và thoái trào nên lại càng khó khăn.
Ðây là quá trình vừa làm vừa học, vừa làm vừa tổng kết, vừa rút kinh
nghiệm, khái quát thành lý luận trên cơ sở lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn của chân lý.
Chính trong quá trình đó, Ðảng ta từng bước hình thành những nhận thức mới về
chủ nghĩa xã hội ngày càng phù hợp hơn, từng bước khắc phục những quan niệm
giáo điều, đơn giản, ấu trĩ về chủ nghĩa xã hội.
Chẳng hạn như trong nhận thức trước đây về chủ nghĩa xã hội, vì không


hiểu đúng mối quan hệ biện chứng giữa chủ nghĩa tư bản với chủ nghĩa xã hội nên
đã đối lập chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản theo tinh thần phủ định hoàn toàn
chủ nghĩa tư bản, hoặc hiểu không đúng khái niệm "bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa" nên từ đó không thấy được yêu cầu phải kế thừa những giá trị, những thành
tựu mà nhân loại đạt được trong xã hội tư bản chủ nghĩa để xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
Trong lĩnh vực kinh tế, do coi kinh tế tập trung bao cấp là đặc trưng của


kinh tế xã hội chủ nghĩa nên đã coi nhẹ hoặc phủ nhận sản xuất hàng hóa, quy luật
giá trị, có thành kiến với kinh tế thị trường do đồng nhất kinh tế thị trường với chủ
nghĩa tư bản.
Ðặc biệt trong nhận thức mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất đã có nhiều vi phạm quy luật khách quan như cường điệu vai trò của chế
độ công hữu ("nhất đại nhì công"), đối lập sở hữu tư nhân với chủ nghĩa xã hội,
muốn nhanh chóng xóa bỏ bóc lột, nhấn mạnh một chiều nhiệm vụ cải tạo quan hệ
sản xuất mà coi nhẹ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất - nhân tố quyết định sự
phát triển xã hội.
Trong lĩnh vực chính trị, do đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư
sản nên đã không thừa nhận tính chất pháp quyền của nhà nước xã hội chủ nghĩa,
không thấy đầy đủ yêu cầu, phát huy dân chủ trong xây dựng xã hội mới...
Trong những năm đổi mới, thể hiện tập trung nhận thức của Ðảng ta về chủ
nghĩa xã hội là trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội được Ðại hội VII của Ðảng (năm 1991) thông qua. Cương lĩnh đó đã
khái quát những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Những đặc trưng đó


vừa thể hiện tính phổ biến theo học thuyết Mác - Lê-nin về chủ nghĩa xã hội, vừa
thể hiện tính đặc thù dân tộc, có tính đến những đặc điểm của thời đại.
Từ đó đến nay, Ðảng ta đã có sự bổ sung, phát triển một số điểm trong nhận
thức về mục tiêu, bản chất, đặc trưng của chủ nghĩa xã hội nước ta và chắc chắn
chúng ta sẽ phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để bổ sung,
phát triển hơn nữa nhận thức đó.
Ðiều đó cũng là đương nhiên, phản ánh quá trình phát triển của thực tiễn và
nhận thức. Tuy nhiên cho đến nay, kế thừa Cương lĩnh năm 1991, qua tổng kết 20
năm đổi mới, có thể khẳng định rằng: "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang
xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Ðó là
xã hội do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, bền vững với một hệ
thống quan hệ sản xuất phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;

con người có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc, được phát triển toàn diện; các dân
tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ,
có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
do Ðảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các
nước trên thế giới"(1).
2- Về nền tảng tư tưởng của Ðảng
Từ khi Ðảng ta ra đời đến nay, chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã được Ðảng ta và
Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp thu, vận dụng và phát triển sáng tạo trong điều kiện
thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Thấm
nhuần chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Ðảng đã đề ra đường lối cách mạng đúng đắn"(2).


Qua nghiên cứu lý luận và trải nghiệm thực tiễn ở nhiều nước trên thế giới,
Người rút ra kết luận rằng ngày nay học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ
nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Từ chỗ coi chủ nghĩa Mác - Lê-nin là "cái cốt của Ðảng", "cái gốc của Ðảng", đến
Ðại hội II (năm 1951), Ðảng ta xác định chủ nghĩa Mác - Lê-nin là nền tảng tư
tưởng của Ðảng.
Ðến Ðại hội III (năm 1960), Ðảng khẳng định chủ nghĩa Mác - Lê-nin là
nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Ðảng. Ðặc biệt đến Ðại
hội VII (năm 1991) Ðảng ta khẳng định chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ
Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Ðảng và kim chỉ nam cho hành động cách
mạng.
Việc chính thức đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào nền tảng tư tưởng của Ðảng
đánh dấu một bước tiến mới, một bước phát triển quan trọng trong tư duy lý luận
của Ðảng là nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn vai trò, vị trí của tư tưởng Hồ Chí
Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn cụ thể của nước ta, kế thừa và phát
triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân

loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá của Ðảng và dân tộc ta.
Việc xác định chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng
tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng đòi hỏi phải nắm vững bản
chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, dùng lập trường (lập trường cách mạng triệt để), quan điểm (hệ quan điểm
khoa học), và phương pháp (phương pháp biện chứng duy vật), của chủ nghĩa Mác


- Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh để giải quyết đúng đắn những vấn đề của cách
mạng nước ta và thời đại đặt ra.
Ngày nay trong bối cảnh phức tạp của tình hình thế giới và trong nước,
chúng ta phải kiên định và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng, kiên quyết đấu
tranh chống lại những luận điểm sai trái, phản động của các thế lực cơ hội chính trị
và thù địch muốn phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin với "lý do" cho rằng chủ nghĩa
Mác - Lê-nin là "ngoại lai", "ngoại nhập" đã lỗi thời vì nó chỉ thích hợp với nền
văn minh cơ khí ở thế kỷ 19 chứ không thích hợp với nền văn minh tin học, với
kinh tế tri thức ở thế kỷ 21, v.v... Ðồng thời chúng còn xuyên tạc, phủ nhận tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Ðồng thời phải kiên quyết khắc phục bệnh giáo điều (cả giáo điều cũ và giáo
điều mới), đẩy mạnh việc nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, thường xuyên đổi
mới nội dung và phương pháp nghiên cứu, cách dạy và cách học chủ nghĩa Mác Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh một cách thiết thực, có hiệu quả, gắn với thực
tiễn, khắc phục tình trạng chạy theo bằng cấp.
Sự nghiệp đổi mới đòi hỏi Ðảng ta phải kiên trì và vận dụng, phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giải đáp được những vấn đề
mới do thực tiễn đặt ra, tiếp tục làm sáng tỏ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta trong bối cảnh mới của thời đại.
3- Về động lực của sự phát triển
Những thành tựu to lớn đạt được trong những năm đổi mới là nhờ Ðảng ta
đã biết tạo lập và phát huy một hệ thống động lực phát triển xã hội. Nhờ đó lực



lượng sản xuất và con người được giải phóng, các nguồn nội lực được huy động
nhiều hơn, kinh tế tăng trưởng tương đối nhanh, xã hội trở nên năng động, linh
hoạt hơn, đời sống xã hội trở nên sống động hơn. Trong hệ thống các động lực của
đổi mới, trước hết phải kể đến ba động lực quan trọng sau.
- Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai
cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Ðảng.
Khi sinh thời, khái quát và tổng kết bài học trong lịch sử dân tộc và lịch sử
cách mạng nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:
"Ðoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
Thành công, thành công, đại thành công"
Ý thức sâu sắc bài học trên đây, trong những năm đổi mới, Ðảng ta luôn
quan tâm xây dựng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên
minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Ðảng lãnh đạo,
xem đây là nguồn sức mạnh và động lực chủ yếu bảo đảm thắng lợi bền vững của
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong thời kỳ quá độ, còn nhiều thành phần kinh tế nên còn nhiều giai cấp
và tầng lớp xã hội khác nhau. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp
xã hội cũng như mối quan hệ giữa các dân tộc là quan hệ đoàn kết và hợp tác lâu
dài trong nội bộ nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Cơ sở khách quan của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là sự thống nhất về lợi
ích. Lợi ích của giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục


tiêu chung là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Trong thời kỳ quá độ tất yếu còn đấu tranh giai cấp, song cuộc đấu tranh này
diễn ra trong điều kiện mới với nội dung và hình thức mới mà "nội dung chủ yếu
của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình

trạng nước nghèo, kém phát triển; thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất
công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai
trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực
thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ
nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc"(3).
Với nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp được Ðảng ta quan niệm như
vậy thì không những không mâu thuẫn mà trái lại, hoàn toàn thống nhất với yêu
cầu xây dựng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Yêu cầu này đòi hỏi các
nhân tố cấu thành cộng đồng dân tộc (các giai cấp, tầng lớp, tộc người, các tập thể
và cá nhân) ý thức rõ lợi ích chung của đất nước và hướng nỗ lực của mình vào
thực hiện lợi ích chung; lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc vì
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng
để gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong nước
và người Việt Nam định cư ở nước ngoài; xóa bỏ mọi mặc cảm, định kiến, phân
biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn
nhau, cùng hướng tới tương lai; chấp nhận những ý kiến khác nhau không trái với
lợi ích chung.
- Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa.


Phát huy dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta, của sự nghiệp đổi mới, bởi vì dân chủ thuộc bản chất
của chủ nghĩa xã hội, không có dân chủ thì không có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
xã hội phải là chế độ dân chủ gấp triệu lần dân chủ tư sản như V.I.Lê-nin đã chỉ ra.
Thấm nhuần tư tưởng mác-xít về dân chủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan
tâm sâu sắc đến vấn đề dân chủ, vấn đề phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Theo Người, dân chủ tức là "dân là chủ", "dân làm chủ". Người chỉ rõ "nước ta là
nước dân chủ", nghĩa là "quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân"(4).
Trong 20 năm đổi mới, bên cạnh những thành tựu to lớn trong đổi mới kinh
tế - xã hội, chúng ta cũng đạt được những thành tựu quan trọng về phát huy dân

chủ của nhân dân. Công cuộc dân chủ hóa xã hội đã phát huy tiềm năng sáng tạo
của con người, phát huy các nguồn lực cho phát triển đất nước, tính tích cực, chủ
động của nhân dân được tăng lên, sự tham gia của nhân dân vào các quá trình kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội... ngày càng được mở rộng và tự giác; quyền dân chủ
của nhân dân từng bước được thể chế hóa trong chính sách và pháp luật của Nhà
nước. Quy chế dân chủ ở cơ sở được triển khai tương đối rộng khắp. Dân chủ
trong Ðảng được phát huy.
Hoạt động của Nhà nước từng bước được đổi mới theo hướng ngày càng
phản ánh được tiếng nói, nguyện vọng của nhân dân. Báo chí ngày càng phát triển
đa dạng, phản ánh được công luận về các vấn đề xã hội bức xúc. Những thành tựu
về phát huy dân chủ cho thấy Ðảng ta có khả năng tổ chức, lãnh đạo được việc
phát huy quyền làm chủ của nhân dân để tạo thành động lực mạnh mẽ xây dựng xã
hội mới.


Tuy nhiên trong điều kiện một đảng cầm quyền, nguy cơ quan liêu, xa dân,
mất dân chủ, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân là rất lớn. Vì vậy Ðảng và Nhà
nước cần có những chính sách, biện pháp cụ thể, mạnh mẽ để khắc phục nguy cơ
trên, đẩy mạnh dân chủ hóa xã hội. Có như vậy mới huy động được nguồn lực vật
chất và tinh thần trong nhân dân, phát huy hết tiềm lực vào sự nghiệp đổi mới. Cần
phát huy vai trò động lực mạnh mẽ của dân chủ, coi trọng cả dân chủ ở cấp trung
ương và dân chủ ở cơ sở, cả dân chủ trực tiếp, dân chủ gián tiếp và các hình thức
tự quản trong các cộng đồng dân cư ở cơ sở, cả dân chủ trong Ðảng và dân chủ
trong xã hội. Không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng,
thường xuyên đổi mới và chỉnh đốn Ðảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa vững mạnh thể hiện thực sự quyền làm chủ của nhân dân, phát huy vai
trò tư vấn, giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị - xã hội, đồng thời coi trọng vai trò của báo chí cách mạng phản ánh tiếng
nói của nhân dân, cải tiến sự lãnh đạo và quản lý đối với báo chí. Bằng quyết tâm
lớn với những giải pháp toàn diện, cụ thể chúng ta sẽ chứng minh đầy đủ cả trong

lý luận và trong thực tiễn rằng một đảng cầm quyền vẫn hoàn toàn có thể bảo đảm
được dân chủ cho nhân dân, để bác bỏ quan điểm sai trái cho rằng "một Ðảng cầm
quyền là mất dân chủ", rằng "muốn dân chủ phải đa nguyên, đa đảng".
- Kết hợp hài hòa lợi ích xã hội, tập thể và cá nhân, quan tâm lợi ích thiết
thân của con người.
C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã sớm nhận rõ vai trò động lực của lợi ích trong
hoạt động của con người. Theo các ông, hoạt động của con người chẳng qua là quá
trình theo đuổi lợi ích của mình, hoặc lý tưởng sẽ tự làm nhục mình nếu tách rời
lợi ích. Một bài học của xây dựng chủ nghĩa xã hội mà đã được Lê-nin rút ra từ


thời kỳ chính sách kinh tế mới (NEP) ở nước Nga là phải quan tâm đến lợi ích
thiết thân của con người, làm cho mỗi người quan tâm đến lợi ích chính đáng của
mình, lấy đó làm động lực trực tiếp và mạnh mẽ nhất thúc đẩy họ hành động, qua
đó góp phần thúc đẩy quá trình xây dựng xã hội mới.
Có thể nói thành công của đổi mới là do chúng ta đã quan tâm hơn đến vấn
đề lợi ích thiết thân, cụ thể của người lao động, đã tìm ra được những hình thức tổ
chức sản xuất và những hình thức phân phối tác động vào lợi ích - khâu nhạy cảm
trong hoạt động con người, qua đó kích thích tính sáng tạo năng động, khuyến
khích lòng nhiệt tình, hăng hái trong lao động sản xuất và công tác.
Tuy nhiên trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, mặt trái của nó dễ
dẫn con người đến chủ nghĩa cá nhân, vụ lợi, ích kỷ, làm thiệt hại cho lợi ích
chung của sự phát triển xã hội. Vì vậy phải kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân với
lợi ích chung, giữa lợi ích xã hội, tập thể và cá nhân. Cần kiên quyết đấu tranh
chống chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, vị kỷ, coi trọng việc giáo dục đạo đức, giáo
dục lý tưởng sống nhất là đối với thế hệ trẻ, bồi dưỡng chủ nghĩa yêu nước, lòng tự
hào dân tộc, không cam chịu đói nghèo, tinh thần thi đua xã hội chủ nghĩa v.v...
Qua 20 năm đổi mới, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày
càng sáng tỏ hơn, những nét cơ bản của hệ thống quan điểm lý luận về con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cũng bước đầu được hình thành.

4- Về CNH, HÐH và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa
Thực hiện CNH, HÐH và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa là những con đường cơ bản, phương hướng chính yếu đi lên chủ


nghĩa xã hội trong lĩnh vực kinh tế ở nước ta.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa, tất yếu chúng ta phải tiến hành CNH và kết hợp ngay từ đầu CNH với
HÐH - nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ để phát triển mạnh mẽ và bền vững
lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Phấn
đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Khác với CNH theo kiểu cũ, khép kín, hướng nội, thiên về phát triển công
nghiệp nặng, chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên, đất đai và viện trợ
của các nước xã hội chủ nghĩa đi trước, ngày nay CNH gắn với HÐH trong một
nền kinh tế mở; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển mạnh công
nghiệp và dịch vụ, gắn CNH, HÐH với từng bước phát triển kinh tế tri thức và chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế.
Kết hợp tốt các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra với các lợi thế
của nước đi sau, để rút ngắn quá trình CNH, HÐH, thực hiện "đi tắt đón đầu". Coi
trọng cả tốc độ tăng trưởng và chất lượng phát triển, cả phát triển nhanh và bền
vững.
CNH, HÐH là sự nghiệp của toàn dân, toàn xã hội. Nhà nước có chính sách
để khơi dậy, phát huy các nguồn lực của nhân dân, của mọi thành phần kinh tế,
đồng thời huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn ngoại lực để đẩy mạnh
CNH, HÐH đất nước. Lấy thị trường làm cơ sở chủ yếu để phân bổ các nguồn lực
kết hợp sự điều tiết của nhà nước; lấy tiêu chuẩn trước hết là hiệu quả kinh tế để
đầu tư. Nhà nước có chính sách khuyến khích và ưu đãi cho một số ngành, lĩnh
vực, địa bàn, doanh nghiệp vừa và nhỏ và một số mục tiêu (xuất khẩu, tạo việc



làm, xóa đói, giảm nghèo...).
Hết sức coi trọng CNH, HÐH nông nghiệp, nông thôn; phát triển công
nghiệp và xây dựng kết cấu hạ tầng; phát triển kinh tế vùng, kinh tế biển, đẩy
mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ đáp ứng yêu cầu phát triển;
sử dụng hợp lý tài nguyên, chú trọng bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
Từ Ðại hội VI, Ðảng ta dứt khoát từ bỏ mô hình kinh tế phi hàng hóa, phi thị
trường, mô hình kinh tế tập trung bao cấp, chủ trương phát triển nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần. Ðến Ðại hội VII, Ðảng ta khẳng định "phát triển nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước". Ðến Ðại hội IX, lần đầu Ðảng ta
khẳng định phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xem
đó là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Quan niệm trên đây là một đột phá lý luận sáng tạo của Ðảng ta trong nhận
thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Với quan
niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Ðảng ta đã chính
thức thừa nhận kinh tế thị trường không phải là riêng có của chủ nghĩa tư bản, có
thể và cần phải sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội, kinh tế thị
trường là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, có thể kết hợp kinh tế
thị trường với chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa khác với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa cả về mục đích, bản chất,
chế độ sở hữu, chế độ quản lý, chế độ phân phối.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bao gồm nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế đan xen, hỗn hợp trong đó kinh tế nhà nước đóng
vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể tạo thành nền tảng của


nền kinh tế quốc dân; kinh tế tư nhân, kể cả kinh tế tư bản tư nhân được khuyến
khích phát triển trong mọi ngành nghề mà luật pháp không cấm, kể cả tư nhân quy
mô lớn. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu

thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng
phát triển lâu dài, bình đẳng trước pháp luật, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Phải phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường,
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nâng cao hiệu
quả quản lý, điều tiết nền kinh tế của nhà nước trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc
của thị trường; phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực, mặt trái của kinh tế thị
trường, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
5- Về xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân
Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân là
mục tiêu và bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Ðể thực hiện mục tiêu đó, vấn
đề trung tâm là phải xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thật sự của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình
chủ yếu bằng nhà nước, thông qua nhà nước dưới sự lãnh đạo của Ðảng. Nhà nước
là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
Trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới, Ðảng ta hết sức coi trọng việc
cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Ðặc biệt tại
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994) Ðảng ta khẳng
định chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. So với nhà nước pháp quyền tư sản, nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa khác về bản chất. Pháp quyền dưới chủ nghĩa tư bản về thực chất là


công cụ thống trị của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chủ nghĩa xã hội là
công cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Nhà nước bảo đảm quyền công
dân, quyền con người, nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân;
thực hành dân chủ, đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật. Quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công và phối hợp các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối cao trong điều chỉnh các quan hệ của đời
sống xã hội. Trong xã hội ta, hiến pháp và pháp luật là sự thể chế hóa cương lĩnh,

đường lối, quan điểm của Ðảng, đồng thời là sự thể hiện ý chí, nguyện vọng của
nhân dân. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục
đạo đức.
Trong hệ thống chính trị, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội
giữ vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, đại diện
cho quyền làm chủ của nhân dân. Vì vậy cần tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động
của Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội nhằm tập hợp rộng rãi các tầng lớp
nhân dân, phát huy tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội đối với đường lối của
Ðảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Sự lãnh đạo đúng đắn của Ðảng là nhân tố quyết định thắng lợi của sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Vì vậy,
phải coi xây dựng Ðảng là nhiệm vụ then chốt, không ngừng nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng, xây dựng Ðảng một cách toàn diện và đồng
bộ cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, về đạo đức, về phong cách và phương thức
lãnh đạo. Ðảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, coi đó là quy luật tồn
tại và phát triển của Ðảng. Kiên quyết khắc phục các nguy cơ đối với một Ðảng
cầm quyền, nhất là nguy cơ quan liêu, xa dân, thoái hóa, biến chất, đi đến mất
phương hướng về chính trị. Ðảng kiên định nền tảng tư tưởng của Ðảng là chủ


nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định nguyên tắc tổ chức cơ bản
của Ðảng là tập trung dân chủ, phát huy dân chủ trong Ðảng đi đôi với giữ vững
kỷ cương, kỷ luật Ðảng, kiên trì nguyên tắc một đảng lãnh đạo là Ðảng Cộng sản,
không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập.
6- Về tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội
Kinh tế, văn hóa, xã hội là những lĩnh vực quan trọng có quan hệ chặt chẽ
với nhau cần được phát triển một cách đồng bộ, hài hòa.
Trong khi coi trọng phát triển kinh tế nhanh và bền vững, chúng ta đồng thời
cũng hết sức coi trọng phát triển văn hóa bởi vì văn hóa là nền tảng tinh thần của

xã hội, văn hóa, con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của đổi mới, của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là một
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hóa thống nhất trong
đa dạng. Phải làm cho văn hóa thực sự thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội, trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, xây dựng lối
sống có văn hóa cho con người. Chiến lược kinh tế - xã hội phải đặt con người vào
vị trí trung tâm, tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển, phát huy mọi
năng lực của mình.
Kết hợp chặt chẽ các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong từng
chính sách phát triển; kết hợp tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội ngay từ đầu, trong mỗi bước đi và trong cả quá trình. Không hy sinh
mục tiêu xã hội cho tăng trưởng kinh tế, song cũng không vì mục tiêu xã hội mà
làm hạn chế, triệt tiêu động lực tăng trưởng kinh tế.


Khuyến khích, tạo điều kiện để mọi người làm giàu hợp pháp và hợp đức đi
đôi với xóa đói, giảm nghèo, xử lý vấn đề phân hóa hai đầu trong chính sách kinh
tế và chính sách xã hội; đổi mới các chính sách đối với y tế, giáo dục và đào tạo,
khoa học và công nghệ, văn hóa - thông tin, thể dục - thể thao, tạo việc làm, dân
số, gia đình, trẻ em... Xây dựng hệ thống chính sách an sinh xã hội, bảo hiểm xã
hội, chính sách ưu đãi xã hội, chính sách tiền lương, chính sách phân phối thu nhập
công bằng, hợp lý.
7- Về xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa
Ðây là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, hỗ trợ
lẫn nhau. Trong điều kiện mới, chúng ta đã nhận thức sâu sắc, cụ thể hơn về mối
quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữa kinh tế với quốc phòng - an ninh đối ngoại, giữa thế trận quốc phòng với thế trận an ninh trên phạm vi quốc gia
cũng như trên từng địa bàn. Ðã nhận thức toàn diện hơn khái niệm "an ninh quốc
gia": không chỉ an ninh chính trị mà còn an ninh kinh tế, an ninh văn hóa, an ninh
tư tưởng, an ninh xã hội... Khái niệm "bảo vệ Tổ quốc" được xác định đầy đủ hơn:

không chỉ là bảo vệ lãnh thổ, biên giới, hải đảo, vùng trời, vùng biển mà còn là bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Ðảng, Nhà nước, nhân dân; bảo vệ kinh tế, văn
hóa dân tộc, sự nghiệp đổi mới... Chúng ta bước đầu xây dựng hệ quan điểm mới
về chiến tranh nhân dân, về hậu phương trong điều kiện chiến tranh công nghệ
cao; làm sáng tỏ nội dung mới của chiến lược bảo vệ Tổ quốc, chiến lược quốc
phòng toàn dân.
8- Về quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế


Trong những năm đổi mới, trên cơ sở ngày càng nhận thức sâu sắc hơn tình
hình thế giới và khu vực, Ðảng ta đã có sự đổi mới quan trọng về tư duy đối ngoại.
Ðảng đã khẳng định Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế, vì hòa bình, độc lập và phát triển; thực hiện chính sách
đối ngoại độc lập, tự chủ, đi đôi với đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc
tế; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác trên
các lĩnh vực khác; trong hoạch định chính sách đối ngoại, đặt lợi ích quốc gia - dân
tộc lên vị trí hàng đầu. Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường
hòa bình, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới đất nước, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân
dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Trên đây là hệ thống quan điểm, lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta mà bước đầu chúng ta đã xác định được. Tuy
nhiên trong nội dung những quan điểm đó, còn nhiều vấn đề cụ thể chưa phải đã
thật rõ. Hơn nữa bên cạnh đó, có nhiều vấn đề mới đặt ra. Chẳng hạn, các vấn đề
quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng và chất lượng phát triển, giữa tăng trưởng nhanh
và phát triển bền vững; vấn đề quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã
hội; vấn đề quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị, giữa đổi
mới và ổn định; vấn đề quan hệ giữa độc lập tự chủ và chủ động hội nhập quốc tế,
v.v.




×