Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

TIỂU LUẬN QUAN điểm của lê NIN về CHỦ NGHĨA xã hội và sự vận DỤNG về CHỦ NGHĨA xã hội và CON ĐƯỜNG đi lên CHỦ NGHĨA xã hội ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.79 KB, 27 trang )

QUAN ĐIỂM CỦA LÊNIN VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
VÀ SỰ VẬN DỤNG SÁNG TẠO ĐẢNG TA VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
MỞ ĐẦU
Trong thời đại hiện nay, không ít người còn đang mơ hồ về một chế độ xã
hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. Thậm chí, ngay trong hàng ngũ những người
cộng sản vẫn có các quan niệm khác nhau về chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt trong
giai đoạn hiện nay, các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau
cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia,
dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân
chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có
những bước tiến mới. Vì vậy, khi đánh giá tình hình để xác định mục tiêu và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã khẳng định: “Theo quy luật tiến hoá
của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”1. Hơn nữa, “Đi
lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của
Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát
triển của lịch sử”2.
Song để nhận thức và vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với
điều kiện thực tiễn cách mạng Việt Nam thì không hề đơn giản. Bởi vì, tính chất
phức tạp của vấn đề là ở chỗ, Học thuyết của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ
nghĩa xã hội không phải đã được xây dựng xong xuôi hẳn; còn việc xác định
những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội, tức là những nét riêng biệt có ý nghĩa tiêu
biểu để nhận biết nó, phân biệt nó với các xã hội khác thì lại chỉ có thể là một
quá trình hình thành và phát triển không ngừng của nhận thức. Chính C.Mác và
Ph.Ăngghen không coi chủ nghĩa cộng sản như một khuôn mẫu lý tưởng mà
hiện thực phải khuôn theo, mà xem nó như một phong trào hiện thực, qua đó
một xã hội mới sẽ thoát thai ra từ xã hội tư bản; từ đó, xác định một vài đặc
trưng chung nhất của xã hội mới - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Còn chủ nghĩa xã
1
2


Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, h.2011, tr. 69
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, h.2011, tr. 70

1


hội có những đặc điểm gì, sẽ trải qua những giai đoạn phát triển nào thì, như
V.I.Lênin đã khẳng định, chỉ có “kinh nghiệm của hàng triệu con người sẽ chỉ
rõ, khi họ bắt tay vào hành động”3.
Đối với Việt Nam, đi lên chủ nghĩa xã hội thông qua việc xây dựng và
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là con đường chưa
có tiền lệ lịch sử. Vì vậy, việc khái quát lý luận về chủ nghĩa xã hội càng khó
khăn và càng thêm quan trọng. Khó khăn vì tư duy lý luận phải vượt qua cản trở
của những khuôn mẫu giáo điều cứng nhắc để có thể "thay đổi căn bản" quan
niệm nào đó về chủ nghĩa xã hội một cách đúng đắn nhất, khoa học và cách
mạng nhất. Với ý nghĩa đó, tác giả lựa chọn vấn đề: Quan điểm của Lênin về
chủ nghĩa xã hội và sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hộị ở Việt Nam làm nội dung tiểu luận của môn
Nguyên lý chủ nghĩa xã hội khoa học.
NỘI DUNG
1. Quan điểm của V.I. Lênin về chủ nghĩa xã hội
Tên tuổi, sự nghiệp của V.I.Lênin gắn liền với cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa tháng Mười Nga vĩ đại và những cống hiến vô giá của Người
trong việc bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác nói chung, những quan điểm
của C.Mác, Ph.Ăngghen về xã hội chủ nghĩa và con đường xây dựng chủ
nghĩa xã hội nói riêng.
Giai cấp công nhân, nhân dân lao động, các dân tộc bị áp bức trên thế giới
ghi nhận những cống hiến to lớn của Lênin đối với phong trào cách mạng trên
thế giới không chỉ ở việc Lênin đã tiếp tục giương cao ngọn cờ cách mạng
không ngừng do Mác và Ăngghen khởi xướng mà còn ở chỗ Người đã kết hợp

chặt chẽ lý luận và thực tiễn, từ thực tiễn mà phát triển lý luận để hiện thực hoá
sinh động những quan điểm lý luận khoa học và cách mạng đã khái quát những
quan hệ thực tiễn của cuộc đấu tranh giai cấp.

3

V.I.Lênin: Toàn tập, t.34. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, tr.153.

2


Các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học khẳng định về lý luận
của những người cộng sản: “Những quan điểm lý luận của những người
cộng sản tuyệt nhiên không dựa vào những ý niệm, những nguyên lý do một
nhà cải cách thế giới nào phát minh ra. Những nguyên lý ấy chỉ là biểu hiện
khái quát của những quan hệ thực tại của cuộc đấu tranh giai cấp hiện có” 4.
Đặc biệt là quan điểm khoa học - thực tiễn về chủ nghĩa xã hội: “… ngày
nay chủ nghĩa xã hội không còn bị xem là một sự phát hiện ngẫu nhiên của
một khối óc thiên tài nào đó mà là một kết quả tất nhiên của cuộc đấu tranh
giữa hai giai cấp phát sinh ra trong quá trình lịch sử - giai cấp vô sản và
giai cấp tư sản. Nhiệm vụ của CNXH không còn là ở chỗ nặn ra một chế độ
hết sức hoàn thiện, mà là ở chỗ phải nghiên cứu cái quá trình kinh tế - lịch
sử đã tất nhiên sản sinh ra các giai cấp nói trên và sự đấu tranh giữa các
giai cấp ấy và ở chỗ tìm ra, trong tình hình kinh tế do quá trình ấy tạo ra,
những thủ đoạn giải quyết sự xung đột” 5.
Những luận điểm của Lênin về chủ nghĩa xã hội là mẫu mực về bổ sung,
phát triển vận dụng sáng tạo quan điểm mác xít về chủ nghĩa xã hội vào điều
kiện lịch sử cụ thể. Người đã tuân thủ một di huấn nổi tiếng của Ăngghen, muốn
làm cho chủ nghĩa xã hội trở thành khoa học thì trước hết phải đặt chủ nghĩa xã
hội trên mảnh đất hiện thực.

Theo quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác thì chủ nghĩa xã hội
không phải là một hình thái kinh tế - xã hội mà chỉ là một giai đoạn, một trình
độ phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. V.I.Lênin viết:
“Xã hội cộng sản, đó là một xã hội trong đó tất cả là của chung: ruộng đất, nhà
máy, lao động chung của mọi người” 6. Không chỉ vậy, V.I.Lênin còn chỉ ra
rằng chỉ dưới chủ nghĩa xã hội thì tư liệu sản xuất mới thuộc về của chung (số
đông giai cấp vô sản). Tuy nhiên, khi gọi chủ nghĩa xã hội là chủ nghĩa cộng sản
4

V.I.Lê-nin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1981, t 26, tr 110.
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t22, Nxb. CTQG, H. 1997, tr. 757.
6
V.I.Lênin: Toàn tập, t.41, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr.373.
5

3


thì Lênin đã khẳng định rằng đó chưa phải là chủ nghĩa cộng sản phát triển trên
những cơ sở của chính nó, chưa phải là chủ nghĩa cộng sản hoàn toàn. Mà trái
lại, đó mới chỉ là giai đoạn đầu hay giai đoạn thấp của xã hội cộng sản chủ
nghĩa. Khi giải thích những tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin viết:
“... Về mặt khoa học, thì sự khác nhau giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản thật là rõ ràng. Cái mà người thường gọi là chủ nghĩa xã hội, thì C.Mác gọi
là giai đoạn “đầu” hay giai đoạn thấp của xã hội cộng sản chủ nghĩa”7.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ ra rằng, chủ nghĩa xã
hội với tư cách là một giai đoạn, một nấc thang của xã hội mới, là xã hội trực
tiếp phát sinh ra từ chủ nghĩa tư bản thì nó không chỉ đối lập một cách chung
chung với chủ nghĩa tư bản mà nó còn là một xã hội phát triển cao hơn, tốt đẹp
hơn so với chủ nghĩa tư bản. Điều này được thể hiện ở chỗ, chủ nghĩa xã hội sẽ

tạo ra một năng suất lao động cao hơn chủ nghĩa tư bản bởi mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội là vì con người.
Trên cơ sở đó, chủ nghĩa Mác-Lênin đã khẳng định rằng, xét đến cùng
thì năng suất lao động là cái quan trọng nhất, quyết định nhất cho thắng lợi của
chế độ mới. Chủ nghĩa tư bản đã lật đổ được chế độ phong kiến bởi nó đã tạo ra
một năng suất lao động cao hơn chưa từng thấy so với chế độ phong kiến. Do
đó, chủ nghĩa tư bản cũng có thể bị lật đổ, bởi chủ nghĩa xã hội tạo ra một năng
suất lao động mới, cao hơn nhiều so với chủ nghĩa tư bản. Và một điều nữa là,
khác với chủ nghĩa tư bản, những sản phẩm của chủ nghĩa xã hội được làm ra là
nhằm đáp ứng cho nhu cầu ngày càng cao của mọi thành viên trong xã hội chứ
không nhằm nô dịch con người. Và để phân biệt sự khác nhau giữa chủ nghĩa xã
hội với chủ nghĩa tư bản, V.I.Lênin đã phác thảo về chủ nghĩa xã hội, được thể
hiện ở những điểm sau:
Một là, cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội là nền đại công nghiệp cơ khí.
7

V.I.Lênin: Toàn tập, t.33, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, tr.121.

4


Chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản ra đời là tất yếu, trước hết là tất
yếu kinh tế. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, phải ưu tiên hàng đầu cho phát triển
lực lượng sản xuất, xác lập từng bước chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, tạo ra
phương thức tổ chức quản lý mới tiến bộ hơn để có năng suất lao động cao hơn
năng suất trong xã hội tư bản. V.I.Lênin đánh giá rất cao vai trò to lớn của nền
đại công nghiệp cơ khí đối với chủ nghĩa xã hội. Trong đó, ông đặc biệt chú ý
đến vai trò của điện lực đối với công cuộc xây dựng xã hội mới. Bởi, ông coi
điện lực chính là cơ sở kỹ thuật mới để xây dựng kinh tế, là cơ sở để xây dựng
nền sản xuất hiện đại. Từ cơ sở hiện thực của nước Nga, của những điều kiện,

tiền đề và những yêu cầu của xây dựng CNXH - một chế độ tiến bộ hơn, ưu việt
hơn chủ nghĩa tư bản, Lênin đã nêu một công thức nổi tiếng: “chủ nghĩa cộng
sản là chính quyền Xô Viết cộng với điện khí hoá toàn quốc”. Và nếu nước Nga
được bao phủ bằng một mạng lưới dày đặc các trạm phát điện thì công cuộc xây
dựng kinh tế cộng sản chủ nghĩa ở Nga sẽ trở thành kiểu mẫu cho châu Âu và
châu Á xã hội chủ nghĩa trong tương lai.
Sở dĩ ông xem điện khí hóa là cơ sở để xây dựng nền đại công nghiệp là
bởi, vào thời của V.I.Lênin thì điện khí hóa toàn quốc là trình độ phát triển rất
cao của đại công nghiệp mà không mấy nước trên thế giới đã đạt tới. Bản thân
các nước tư bản phát triển cao vào lúc bấy giờ như Thụy Điển, Đức, Mỹ... cũng
chỉ gần đạt tới trình độ điện khí hóa toàn quốc. Nhưng ngày nay, tình hình phát
triển của khoa học và điện khí hóa toàn quốc chưa phải là trình độ phát triển cao
nhất hiện nay. Do đó, cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội chắc chắn sẽ là cái cao
hơn cơ sở vật chất của chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Như vậy, V.I.Lênin đã cụ thể hóa về cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội
là nền đại công nghiệp cơ khí. Nhưng theo V.I.Lênin, bản thân nền đại công
nghiệp hiện đại không dung hợp với chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa; nó đòi hỏi
phải thủ tiêu chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa và thiết lập chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất. Quán triệt quan điểm chỉ đạo này của Lênin sau Cách mạng tháng
5


Mười Nga, chỉ sau vài chục năm, nước Nga từ một nước tư bản kém phát triển
đã trở thành một cường quốc về kinh tế, khoa học, kỹ thuật.
Hai là, chủ nghĩa xã hội tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao
động mới.
Trong những luận giải của mình về chủ nghĩa xã hội, V.I.Lênin đã nêu rõ
nguyên nhân vì sao chủ nghĩa xã hội đã tạo ra được một năng suất lao động cao
hơn so với chủ nghĩa tư bản. Xác lập một nền kinh tế phát triển cao hơn, tiến bộ
hơn chủ nghĩa tư bản cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, tổ chức lao

động và năng suất lao động, chính là quan niệm của V.I.Lênin về kinh tế của
chủ nghĩa xã hội: “Trong bất cứ cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa nào, khi giai
cấp vô sản đã làm xong nhiệm vụ giành được chính quyền rồi và trong chừng
mực mà nhiệm vụ tước đoạt những kẻ đi tước đoạt và nhiệm vụ đập tan sự phản
kháng của chúng đã được hoàn thành trên những nét chủ yếu và cơ bản - thì tất
nhiên có một nhiệm vụ căn bản khác được đề lên hàng đầu, đó là: thiết lập một
chế độ xã hội cao hơn chủ nghĩa tư bản, nghĩa là nâng cao năng suất lao động
và do đó phải tổ chức lao động theo một trình độ cao hơn” 8. Đó cũng chính là
đặc trưng thể hiện bản chất về kinh tế của chủ nghĩa xã hội theo quan điểm của
Lênin.
Ngoài cơ sở vật chất là nền đại công nghiệp hiện đại, thì còn do những yếu
tố vốn có của chủ nghĩa xã hội, những yếu tố này không thể có được trong lòng chủ
nghĩa tư bản. Đó là cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới.
V.I.Lênin khẳng định, kỷ luật của chế độ nô lệ và chế độ phong kiến là
kỷ luật roi vọt; kỷ luật của chủ nghĩa tư bản là kỷ luật đói; còn kỷ luật của chủ
nghĩa xã hội là kỷ luật tự giác. Theo ông, kiểu tổ chức lao động xã hội của chủ
nghĩa xã hội sở dĩ cao hơn so với kiểu tổ chức lao động xã hội của chủ nghĩa tư
bản là vì nó dựa vào một kỷ luật tự giác và tự nguyện của chính ngay những
8

V.I.Lênin: Toàn tập, tập 36, Nxb TB, M.1978, tr.228-229.

6


người lao động. Song, theo V.I.Lênin, để có được cách tổ chức lao động mới thì
cần phải thực hiện chế độ kiểm kê, kiểm soát toàn dân.
Khi thực hiện “Chính sách kinh tế mới” (NEP), tư tưởng về sự kiểm kê,
kiểm soát toàn dân không hề bị hạ thấp mà còn được đề cao hơn. V.I.Lênin coi
đó là cái để cứu nước Nga khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế, nhưng vẫn đảm

bảo cho nước Nga tiến lên chủ nghĩa xã hội. Ông coi việc kiểm kê, kiểm soát
toàn dân đối với sản xuất và phân phối sản phẩm là một hình thức của sự quá độ,
là cái giữ cho xã hội không đi chệch khỏi con đường xã hội chủ nghĩa trong điều
kiện thực hiện chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Như vậy, chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra một năng suất lao động cao hơn chủ
nghĩa tư bản nhờ việc đưa ra một hình thức tổ chức lao động và kỷ luật lao động
mới. Hình thức tổ chức lao động và kỷ luật lao động đó được thực hiện trên cơ
sở của sự kiểm kê, kiểm soát toàn dân đối với việc sản xuất và phân phối sản
phẩm.
Ba là, chủ nghĩa xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động.
Theo V.I.Lênin, phân phối theo lao động là cách thức phân phối trong
giai đoạn thấp của xã hội cộng sản chủ nghĩa. Cách thức phân phối theo lao
động là thích hợp nhất với chủ nghĩa xã hội, bởi vì nó được dựa trên chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất. Phân phối theo lao động không có nghĩa là mỗi người
làm được bao nhiêu sản phẩm thì được hưởng hết bấy nhiêu. Trái lại, tổng sản
phẩm do lao động xã hội tạo ra phải được đem phân phối cho cả tiêu dùng cá
nhân, cho cả tích lũy tái sản xuất mở rộng và cho cả tiêu dùng công cộng của xã
hội. Tiêu dùng cá nhân chỉ là một phần trong tổng sản phẩm do lao động của
người công nhân làm ra. Tuy nhiên, theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa MácLênin, trên thực tế, những phần không phân phối trực tiếp cho tiêu dùng cá nhân
những người công nhân vẫn thuộc về họ, vẫn nhằm đảm bảo lợi ích cơ bản, lâu
dài, chung cho mọi thành viên trong xã hội.
7


V.I.Lênin chỉ rõ cách phân phối sản phẩm theo lao động được dựa trên
hai nguyên tắc: “người nào không làm thì không ăn”; “số lượng lao động ngang
nhau thì hưởng số sản phẩm ngang nhau”.
Nguyên tắc “người nào không làm thì không ăn”, theo V.I.Lênin, đó là
quy tắc cơ bản, là chân lý sở đẳng và hiển nhiên. Tất cả những công nhân, tất cả
những bần nông và ngay cả trung nông, tức là tất cả những người đã trải qua

cảnh túng thiếu, tất cả những người đã sống bằng lao động của mình đều tán
thành điều đó.
Nguyên tắc “số lượng lao động ngang nhau thì hưởng số lượng sản phẩm
ngang nhau” thể hiện sự công bằng dưới chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, V.I.Lênin
cũng nhận thấy rằng nguyên tắc này mặc dù thể hiện sự phân phối công bằng
hơn so với xã hội tư bản và các xã hội tư hữu khác, song nó vẫn chưa tạo ra
được sự bình đẳng hoàn toàn. Bởi đó vẫn là “bình đẳng kiểu tư sản” và chưa gạt
bỏ được “pháp quyền tư sản”. Điều đó biểu hiện ở chỗ người ta còn phải dùng
nguyên tắc “trao đổi ngang giá”, còn phải dùng quy tắc duy nhất là lấy lao động
làm thước đo để phân phối cho mọi người mà trong thực tế họ không có khả
năng lao động ngang nhau.
Do đó, V.I.Lênin cho rằng xã hội cần phải kiểm tra, kiểm soát nghiêm
ngặt mức độ lao động và mức độ tiêu dùng của từng người bởi dưới chủ nghĩa
xã hội vẫn còn nhiều người trốn tránh lao động, muốn làm ít hưởng nhiều, tránh
việc nặng tìm việc nhẹ…
Bốn là, chủ nghĩa xã hội xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết
lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.
Kế thừa những quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã nhận
thấy rõ tầm quan trọng của việc xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa. Bởi, ông
cho rằng chính chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa là nguyên nhân gây ra mọi đau
8


khổ của quần chúng nhân dân lao động. Do đó, để giải phóng người lao động thì
cần phải xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa. V.I.Lênin khẳng định: “Để
thực sự giải phóng giai cấp công nhân, cần phải có cuộc cách mạng xã hội,
xuất phát một cách tự nhiên từ toàn bộ sự phát triển của phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa, tức là phải thủ tiêu chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, chuyển
các tư liệu đó thành sở hữu công cộng và thay thế nền sản xuất hàng hóa tư bản
chủ nghĩa bằng việc tổ chức sản xuất sản phẩm theo lối xã hội chủ nghĩa...” 9.

Đồng thời, Lênin cũng cho rằng chủ nghĩa xã hội không hề xóa bỏ tất cả các
quyền sở hữu của mọi công dân mà chỉ muốn xóa bỏ quyền sở hữu của bọn địa
chủ và tư bản.
Như vậy, V.I.Lênin cũng coi một trong những mục tiêu của chủ nghĩa xã
hội là xóa bỏ chế độ tư hữu, nhưng không phải chế độ tư hữu nói chung mà là
chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội không hề xóa bỏ tất cả các
quyền sở hữu của quần chúng nhân dân lao động.
Năm là, chủ nghĩa xã hội giải phóng con người khỏi mọi ách áp bức,
bóc lột, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện.
Tiếp thu những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, trong các tác phẩm
của mình, V.I.Lênin đã khẳng định sự áp bức, bóc lột là tai họa lớn đối với
người lao động. Sự thay thế của các xã hội trước chủ nghĩa xã hội chẳng qua
cũng chỉ là sự thay thế của các hình thức áp bức, bóc lột đối với người lao động
mà thôi. Chỉ đến chủ nghĩa xã hội thì con người mới có khả năng được giải
phóng khỏi các hình thức áp bức và bóc lột đó.
V.I.Lênin viết: “Chủ nghĩa xã hội có mục đích không những xóa bỏ tình
trạng nhân loại bị chia thành những quốc gia nhỏ và xóa bỏ mọi trạng thái biệt
lập giữa các dân tộc, không những làm cho các dân tộc gần gũi nhau, mà cũng

9

V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1975, t.6, tr.518.

9


còn nhằm thực hiện việc hợp nhất các dân tộc lại” 10. Sở dĩ có được điều đó là vì
chủ nghĩa xã hội, theo V.I.Lênin, đã tổ chức được nền sản xuất không có sự áp
bức giai cấp, do đó đảm bảo phúc lợi cho tất cả các thành viên của quốc gia, cho
nên nó làm cho “tình cảm” của dân cư phát triển tự do; và chính vì vậy, đã tạo

điều kiện thuận lợi để thúc đẩy hết sức mạnh mẽ sự gần gũi và sự hợp nhất giữa
các dân tộc. Chủ nghĩa tư bản không thể thủ tiêu được ách áp bức dân tộc, cũng
như ách áp bức chính trị nói chung bởi vì nó không xóa bỏ được giai cấp. Sau
khi xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội, giai cấp vô sản tạo ra
khả năng thủ tiêu hoàn toàn ách áp bức dân tộc. Nhưng, V.I.Lênin cho rằng khả
năng ấy chỉ biến thành hiện thực nếu hoàn toàn thiết lập được nền dân chủ trong
mọi lĩnh vực, kể cả việc quy định biên giới của quốc gia dựa theo những “tình
cảm” của dân cư, và kể cả quyền hoàn toàn tự do. V.I.Lênin còn khẳng định
rằng, việc thủ tiêu ách áp bức dân tộc đòi hỏi phải có một cơ sở tức là nền sản
xuất xã hội chủ nghĩa, nhưng trên cơ sở đó cần phải thiết lập một tổ chức nhà
nước dân chủ.
Như vậy, chủ nghĩa xã hội sẽ giải phóng con người khỏi mọi áp bức bóc
lột, khỏi tình trạng dân tộc này thống trị dân tộc khác, đồng thời tạo điều kiện
thuận lợi và thúc đẩy sự gần gũi và sự hợp nhất giữa các dân tộc.
Sáu là, chủ nghĩa xã hội thực hiện sự bình đẳng xã hội.
Khi đề cập đến vấn đề này, V.I.Lênin khẳng định rằng cơ sở của mọi sự
bất bình đẳng xã hội và bất bình đẳng chính trị là do sự phân chia xã hội thành
giai cấp gây ra. Do đó, để xóa bỏ mọi bất bình đẳng xã hội và bất bình đẳng
chính trị thì cần phải xóa bỏ sự phân chia xã hội thành giai cấp; và chỉ có chủ
nghĩa xã hội mới giải quyết được vấn đề đó. Sở dĩ V.I.Lênin khẳng định như vậy
là vì dưới chủ nghĩa tư bản nền kinh tế thị trường không những còn tồn tại mà
quyền lực của đồng tiền và sức mạnh của tư bản còn được giữ vững. Khi quyền
10

V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, t.27, tr.328.

10


lực của đồng tiền còn được giữ vững thì không thể nói đến sự bình đẳng được.

Từ đó, ông đã chỉ ra rằng không những ruộng đất, mà cả lao động của con
người, bản thân con người, lương tâm, tình yêu và khoa học, tất cả nhất định đều
để bán chừng nào còn quyền lực của tư bản.
Tuy nhiên, khi đề cập đến vấn đề bình đẳng dưới chủ nghĩa xã hội thì
điều đó không có nghĩa là sự ngang bằng nhau về mọi phương diện. Bởi, chủ
nghĩa xã hội không thể thực hiện được sự bình đẳng hoàn toàn về mọi mặt, đặc
biệt là sự bình đẳng về thể lực và trí lực của các cá nhân. Trái lại, khi nói tới
bình đẳng trong chủ nghĩa xã hội thì phải luôn hiểu rằng đó là sự bình đẳng xã
hội, bình đẳng về địa vị xã hội của con người.
Không chỉ vậy, mà V.I.Lênin còn nêu ra nguyên nhân của sự bất bình
đẳng trong xã hội chính là do sự phân chia xã hội thành giai cấp. Chừng nào các
giai cấp chưa bị xóa bỏ, thì đề cập đến tự do và bình đẳng nói chung chỉ là tự lừa
dối mình hoặc là lừa dối công nhân cùng toàn thể những người lao động và
những người bị tư sản bóc lột.
Tóm lại, chủ nghĩa xã hội sẽ không thể thực hiện sự bình đẳng hoàn toàn,
sự bình đẳng về mọi phương diện, bởi vì dưới chủ nghĩa xã hội vẫn thực hiện
nguyên tắc phân phối theo lao động, vẫn còn sự khác biệt giữa các giai cấp, sự
khác biệt giữa nông thôn và thành thị, v.v... Những khác biệt đó cho thấy còn
tồn tại những bất bình đẳng xã hội. Mặc dù vậy, chủ nghĩa xã hội vẫn là xã hội
bình đẳng hơn so với chủ nghĩa tư bản. Điều đó được thể hiện trước hết ở sự
bình đẳng xã hội, bình đẳng về địa vị xã hội của con người. Quá trình phát triển
của chủ nghĩa xã hội cũng chính là quá trình khắc phục và xoá bỏ dần những bất
bình đẳng trong xã hội.
Trên đây chưa phải là toàn bộ những phác thảo của V.I.Lênin về chủ
nghĩa xã hội, nhưng điều này đã cho thấy những quan điểm khoa học, cách

11


mạng của ông khi đưa ra những dự báo về chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, Đảng ta cần

bổ sung, phát triển cho phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam.
2. Sự vận dụng sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa
xã hội ta và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
2.1. Những phác thảo của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh đã nhiều lần đề cập đến mô hình tổng thể của chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam, với một cách diễn đạt ngắn gọn, súc tích và dễ hiểu: “Xây
dựng chủ nghĩa xã hội là làm cho dân giàu nước mạnh. Dân có giầu thì nước
mới mạnh”.
Người nhấn mạnh đến những bản chất tốt đẹp nhất của chủ nghĩa xã hội
là làm sao cho dân giàu, nước mạnh, xã hội không còn người bóc lột người,
không còn đói rét, mọi người đều được ấm no, hạnh phúc; là không ngừng nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân lao động.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một quá trình đầy
khó khăn, phức tạp và lâu dài. Người chỉ rõ: “Phải thiết thực đi từng bước, phải
tiến vững chắc. Phải nắm vững qui luật phát triển của cách mạng, phải tính
toán cẩn thận những điều kiện cụ thể. Kế hoạch phải chắc chắn, cân đối. Chớ
đem chủ quan của mình thay cho điều kiện thực tế. Phải chống bệnh chủ quan
tác phong quan liêu, đại khái. Phải xây dựng tác phong điều tra nghiên cứu
trong mọi công tác cũng như khi định ra mọi chính sách của Đảng và của Nhà
nước”11. Hồ Chí Minh đã sớm đề phòng về khuynh hướng chủ quan, nóng vội,
đốt cháy giai đoạn. Người luôn coi trọng đến từng bước đi sao cho thật vững
chắc và phải luôn xuất phát từ đặc điểm tình hình thực tế của đất nước. Xa rời
thực tế, không tôn trọng thực tế khách quan thì không thể có chủ trương, biện
pháp đúng đắn và những bước đi thích hợp được.
11

Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.9, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1989, tr.69-70.

12



Hồ Chí Minh cho rằng, muốn đi lên chủ nghĩa xã hội phải đi bằng hai
chân “nông nghiệp và công nghiệp”, không chú ý đến một trong hai mặt đó thì
bước đi sẽ chậm và khập khiễng như người đi một chân. Vận dụng quan điểm đó
của Hồ Chí Minh, Đảng ta đã từng bước tiếp cận qui luật phát triển của xã hội
nước ta, từng bước đổi mới cơ cấu nền kinh tế phù hợp với đặc điểm tình hình
của đất nước, tạo ra những chuyển biến quan trọng như ngày nay. Người luôn
luôn chú trọng tới điều kiện thực tế của đất nước để xác định các bước đi. Người
nhận thức được rằng, chủ nghĩa xã hội không phải là sắc lệnh từ trên ban xuống.
Chủ nghĩa xã hội sinh động, sáng tạo là sự nghiệp của quần chúng nhân dân.
Một tháng trước khi đi xa, Người căn dặn: “Ta xây dựng chủ nghĩa xã
hội từ hai bàn tay trắng đi lên thì còn gian khổ và lâu dài”. Người xác định, các
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trong đó, chế độ xã hội mới đó là
chế độ do nhân dân lao động làm chủ, tất cả mọi quyền lực thuộc về nhân dân.
Về nền kinh tế mới, đó là một nền kinh tế công - nông nghiệp hiện đại, khoa học
và kỹ thuật tiên tiến. Về văn hóa, Văn hóa giáo dục phải phát triển mạnh để
phục vụ yêu cầu cách mạng. Văn hóa giáo dục là một mặt trận quan trọng trong
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội… Giáo dục phải phục vụ đường lối chính
trị của Đảng và Chính phủ, gắn liền với sản xuất và đời sống của nhân dân… Về
con người mới xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh khẳng định:“Muốn xây dựng chủ
nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa”12.
Bác đã nhận định, trong quá trình xây dựng một xã hội mới - xã hội chủ
nghĩa, do đây là một việc làm hết sức mới mẻ đối với Đảng ta, cho nên Hồ Chí
Minh luôn nhấn mạnh đến tác hại của tình trạng rập khuôn, máy móc, giáo điều
về kinh nghiệm của các nước khác. Bởi, theo Người, mỗi nước, mỗi dân tộc có
điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa và lịch sử khác nhau, do đó phải tìm cách làm
riêng, phù hợp với Việt Nam - như vậy mới là khoa học, mới là người mácxít
thực sự.
12


Sđd, t.8, tr.429.

13


Tóm lại, do hoàn cảnh đặc biệt của đất nước ta còn đang bị chiến tranh
chia cắt, Chủ tịch Hồ Chí Minh không có điều kiện nghiên cứu sâu về chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam. Mặc dù vậy, những phác thảo của Người về chủ nghĩa xã hội
cho đến nay vẫn còn giữ nguyên giá trị đối với sự nghiệp cách mạng của nhân
dân ta nói chung, đặc biệt là trong sự nghiệp đổi mới mà chúng ta đang tiến
hành, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Với ánh sáng tư tưởng của Người với quyết
tâm và sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, chắc chắn sự nghiệp
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh sẽ trở thành hiện thực trên
đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta.
2.2 Quan điểm của Đảng ta về đặc trưng của chủ nghĩa xã hội
Vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, Đảng ta khẳng định, đi lên chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất
đúng đắn của đảng và nhân dân ta. từ khi tiến hành công cuộc đổi mới xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta đến nay, Đảng ta đã từng bước xác định, bổ sung và
hoàn thiện dần những đặc trưng chủ nghĩa xã hội mà đảng và nhân dân ta xây
dựng đã đưa ra mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đại
hội XI cho rằng, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ngày càng sáng tỏ hơn với một hệ thống quan điểm lý luận; đồng thời lưu
ý rằng, hệ thống quan điểm lý luận tuy đã hình thành nhưng mới là "trên những
nét cơ bản" mà thôi. So với Cương lĩnh năm 1991 thì Cương lĩnh (bổ sung, phát
triển năm 2011) có gì khác?
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. (Năm 1991)
1. Do nhân dân lao động làm chủ

2. Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu
3. Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc

14


4. Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo
năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc, có điều
kiện phát triển toàn diện cá nhân
5. Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng
tiến bộ
6. Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên
thế giới
Những Đặc trưng về chủ nghĩa xã hội trong Văn kiện Đại hội XI
1. Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
2. Do nhân dân làm chủ
3. Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
4. Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
5. Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát
triển toàn diện.
6. Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng
và giúp nhau cùng phát triển.
7. Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
8. Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Như vậy, đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và qua thực tế xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng ta đã nhận thức đầy đủ hơn về những
đặc trưng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đồng thời có sự bổ sung, phát triển thêm

những đặc trưng mới, gồm 8 đặc trưng cơ bản, đó là:
Thứ nhất, xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng, nhà nước và nhân dân ta
đang xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh. đặc trưng này được đặt lên hàng đầu và có ý nghĩa bao trùm, thể hiện cô
đọng tư tưởng cơ bản của chủ tịch hồ chí minh: chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời
15


sống vật chất và văn hoá của nhân dân, thực hiện ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng
được hạnh phúc, ấm no.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội chính là làm cho cuộc sống của nhân dân
ngày càng giàu lên thì nước mới mạnh. đồng thời, bảo đảm sự công bằng
trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từng bước xây dựng xã hội dân chủ
văn minh. tư tưởng “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
thể hiện mục tiêu xuyên suốt của chủ nghĩa xã hội mà chúng ta xây dựng và
đạt tới. đồng thời, xây dựng niềm tin của nhân dân với sự nghiệp cách mạng
xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, đó là xã hội do nhân dân làm chủ.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội , Đảng ta nêu xã hội mà chúng ta đang xây dựng là: do nhân dân là động
làm chủ. Song từ thực tiễn của công cuộc đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta, Đảng ta nhận thức rằng sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là của
dân, do dân và vì nhân dân. Đó là sự nghiệp của mọi người dân yêu nước, bất
kể đó là người Việt Nam ở trong nước hay định cư ở nước ngoài, các giai cấp,
dân tộc, tôn giáo, các doanh nhân… Vì vậy, Văn kiện Đại hội XI chỉ rõ xã hội
mà chúng ta đang xây dựng là xã hội do nhân dân làm chủ. Đây là sự phát triển
mới về lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học.
Đặc trưng này thể hiện tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh “bao nhiêu lợi
ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân… quyền hành và lực lượng
đều ở nơi dân”13. bất cứ chế độ xã hội có giai cấp nào cũng đều do một giai cấp

nhất định làm chủ. trong xã hội xã hội chủ nghĩa, người chủ duy nhất là nhân
dân lao động, đây là sự khác biệt căn bản giữa chủ nghĩa xã hội và các chế độ xã
hội trước đó. đặc trưng này chi phối và thể hiện trong toàn bộ hoạt động chính
trị, kinh tế, xã hội của đảng và nhà nước ta, xét đến cùng, xây dựng chủ nghĩa xã
hội là bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân lao động trên thực tế, trong mọi lĩnh
vực đời sống xã hội. Do vậy, trong văn kiện Đại hội Đảng XI đã xác định: “dân
13

Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 2, nxb ctqg, h.1995, tr.120

16


chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới…
nhà nước đại diện quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực
hiện đường lối chính trị của đảng. mọi đường lối, chính sách của đảng và pháp
luật của nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, có sự tham gia ý kiến của nhân
dân”.14
Tư tưởng nhân dân làm chủ, là người chủ của xã hội là sự kế thừa tư
tưởng làm chủ của bác hồ đã nêu đậm nét ngay từ khi cách mạng thành công.
Đây là sự phát triển mới của Đảng ta trong Văn kiện Đại hội XI.
Thứ ba, có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp.
Với tư cách là một chế độ xã hội tiên tiến, chủ nghĩa xã hội khi ở giai
đoạn trưởng thành, chín muồi nhất định phải có một nền kinh tế phát triển. có
như vậy mới làm ra nhiều của cải, mức sống của nhân dân mới được nâng cao.
luận điểm “kinh tế phát triển có dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ
sản xuất phù hợp” có một nội hàm chặt chẽ, sâu sắc. Đây là nội dung mới so với
đặc trưng trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Đại hội VII của Đảng. Nền kinh tế phát triển làm cơ sở cho chủ

nghĩa xã hội không ngừng hoàn thiện. đó là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa
trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Nếu không khẳng định dứt
khoát vấn đề này, thì đã để mất tiêu chí quan trọng, điểm mấu chốt nhất để phân
biệt chế độ xã hội chủ nghĩa với chế độ tư bản chủ nghĩa. chủ nghĩa xã hội chỉ
có thể chiến thắng chủ nghĩa tư bản khi phát triển lực lượng sản xuất tiên tiến
hiện đại phù hợp với quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Vì thế, cần hiểu đúng
đặc trưng trong Văn kiện Đại hội XI, để có kế hoạch xây dựng, phát triển lực
lượng sản xuất, củng cố quan hệ sản xuất cho hợp lý.
Thứ tư, có một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Về đặc trưng này, Đảng ta khẳng định lại như trong Cương lĩnh 1991.
nền văn hoá tiên tiến được hiểu theo nghĩa rộng, đó chính là nền văn hoá xã hội
14

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ x, nxb. ctqg, h.2006, tr. 125.

17


chủ nghĩa. các lĩnh vực thuộc đời sống tinh thần như văn học, nghệ thuật, giáo
dục, khoa học, trí tuệ, phẩm chất đạo đức… phát triển ở trình độ tiên tiến, cần
nhấn mạnh nền văn hoá đó đạt tới trình độ tiên tiến, nhưng in đậm sắc thái, bản
sắc dân tộc, phải chăm lo, giữ gìn và phát triển bản sắc tốt đẹp đó. thực tế hiện
nay, một số hình thức nghệ thuật tốt đẹp của dân tộc không phát triển được, trái
lại, bị co lại, hoặc thờ ơ; nhiều công trình văn hoá có lịch sử lâu đời bị xuống
cấp; những ứng xử, giao tiếp tốt đẹp của cha ông ít được bồi dưỡng cho thế hệ
trẻ… không giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, đó là điều vô cùng nguy hiểm.
nhấn mạnh bản sắc văn hoá dân tộc, song không có nghĩa là bài ngoại, mà phải
tiếp thu có chọn lọc tất cả những tinh hoa văn hoá của thế giới, làm cho giá trị
đó hoà quyện với bản sắc dân tộc.
Thứ năm, con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc,có điều kiện

phát triển toàn diện.
So với Cương lĩnh 1991, đặc trưng này, Đảng ta khỏi quỏt gọn lại, rừ
hơn, bỏ cụm từ “búc lột” và “làm theo năng lực, hưởng theo lao động”. chủ
nghĩa xã hội là xã hội vì con người, do con người và giải phóng triệt để con
người, đưa con người thực sự làm chủ xã hội. nội dung mà Đảng ta nêu ra trên
đây là thể hiện bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội. đây cũng chính là sự khác
biệt về chất với xã hội tư bản chủ nghĩa, nhưng cũng là nguyện vọng đầu tiên
của nhân dân lao động trên con đường tiến tới giải phóng con người. khẳng định
nội dung trên tức là đặt đúng vị trí, vai trò của người lao động trong xã hội xã
hội chủ nghĩa, tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện những nguyện vọng và
năng lực cá nhân, về trí lực, thể lực, đạo đức một cách đầy đủ. thực hiện được điều
đó là một quá trình phấn đấu lâu dài, đòi hỏi sự nỗ lực cao của đảng, nhà nước và
toàn thể nhân dân với tinh thần chủ động, sáng tạo, kiên trì và lòng quyết tâm cao
nhất, vì đây là mục tiêu mà chủ nghĩa xã hội cần đạt tới.
Thứ sáu, các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết,
tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển.
18


Bản thân nội dung chính sách dân tộc này đã được nêu từ lâu. điểm mới
là nội dung ấy được nêu thành đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở việt nam. có
những nước tư bản phát triển cao, nhưng sự bất bình đẳng về dân tộc, chủng tộc
vẫn diễn ra, xung đột dân tộc, tôn giáo không hề giảm… nhưng không phải chỉ
giới hạn ở đây là một đặc trưng phân biệt chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản,
trong chủ nghĩa xã hội mỗi nước có nhiều dân tộc, các dân tộc đó không mất đi
mà ngày càng phát triển cả về kinh tế, xã hội và bản sắc dân tộc. điều đó chỉ
được thực hiện đầy đủ với chính sách dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết,
giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. một số nước xây dựng chủ nghĩa xã hội trong
nhiều năm, nhưng xung đột dân tộc vẫn diễn ra, có nhiều nguyên nhân, song
nguyên nhân chính là do chính sách dân tộc chưa đúng hoặc thực hiện chưa tốt.

Thứ bảy, có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Đây là đặc trưng mà Đảng ta bổ sung và phỏt triển mới so với Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một
thành tố của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, là một thiết chế có chức năng
trực tiếp trong việc thể chế hoá và tổ chức thực hiện yêu cầu dân chủ của nhân
dân; là công cụ trong cuộc đấu tranh chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn đi ngược
lại lợi ích của nhân dân; là công cụ hữu hiệu để vai trò lãnh đạo của đảng trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội được thực hiện. Vì thế, Đảng ta xác định:
nhà nước là trụ cột, là một công cụ chủ yếu, vững mạnh của nhân dân trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Tư tưởng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta khẳng định
có cơ sở từ tư tưởng dân chủ và xây dựng nhà nước pháp quyền trong lịch sử.
Tư tưởng về nhà nước pháp quyền đối lập với độc đoán, độc tài của nhà nước
chủ nô, phong kiến. Đây là bước tiến của của lịch sử dân chủ và pháp quyền.
Nhà nước pháp quyền mà Đảng ta khẳng định trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội là:

19


Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công
rành mạch và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tổ chức và hoạt động trên cơ sở
hiến pháp và pháp luật.
Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo đồng thời bảo đảm sự giám sát của nhân dân.

Thứ tám, có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân trên thế giới.
Về đặc trưng này, Đảng ta khẳng định lại như trong Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Ở một nước mà chủ
nghĩa tư bản thống trị thì không thể có đặc trưng này. Với mục đích lợi nhuận,
giai cấp thống trị luôn làm mọi cách bóc lột, áp bức các dân tộc. Các nước xã
hội chủ nghĩa theo đúng bản chất của nó không thể hành động như chủ nghĩa tư
bản, mà cần thiết và có khả năng thực hiện đầy đủ đặc trưng trên. Thực tế quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là những năm đổi mới đất nước đến nay,
Đảng ta luôn nhận thức đầy đủ mối quan hệ, đoàn kết quốc tế, từ đó đề ra đường
lối, chính sách phù hợp để tăng cường, hợp tác đoàn kết với các nước, các tổ
chức quốc tế góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa.
Ngay từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, chúng ta đã chủ
trương tham gia các thể chế kinh tế quốc tế, trong lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến, tháng 12/1946, Bác Hồ nêu rõ: “Đối với các nước dân chủ, nước Việt
Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực” 15.
Hiện nay, nhận thức đầy đủ xu thế mới của thế giới, Đại hội Đảng XI đã xác
định: Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác
và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội
15

Hå ChÝ Minh, Toµn tËp, tËp 2, Nxb CTQG, H.1995, tr.120.

20


nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một
nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên
có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hoà bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.

Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước trên cơ sở những
nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.
Trước sau như một ủng hộ các đảng cộng sản và công nhân, các phong
trào tiến bộ xã hội trong cuộc đấu tranh vì những mục tiêu chung của thời đại;
mở rộng quan hệ với các đảng cánh tả, đảng cầm quyền và những đảng khác
trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ, vì hoà bình, hữu
nghị, hợp tác và phát triển.
Có thể xem đây là mô hình chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Những đặc
trưng trong mô hình đó vừa phản ánh tính phổ biến theo tinh thần học thuyết
Mác-Lênin về xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa thể hiện tính đặc thù dân tộc, có
tính đến các đặc điểm của thời đại. Tuy nhiên, ở đây vẫn còn nhiều vấn đề cần
được tiếp tục nghiên cứu sâu và cụ thể hoá.
Những đặc trưng trên có mối quan hệ mật thiết với nhau, vừa làm tiền
đề, vừa là điều kiện của nhau. Việc thực hiện thắng lợi những nội dung này sẽ
tác động tích cực tới việc thực hiện có kết quả nội dung khác. Quá trình thực
hiện đồng bộ các nội dung đó sẽ từng bước đưa đất nước ta thực hiện thắng lợi
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
2.3 Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt nam về con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung phát triển năm 2011) chỉ rõ: Đi lên đi lên
chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta. Đây chính là sự tiếp tục khẳng
định các quan điểm đã nêu ở các Đại hội trước và cụ thể hoá, phát triển trong
điều kiện mới. Để thực hiện thành công các mục tiêu trên, toàn Đảng, toàn dân
21


ta cần nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, ý chí tự lực tự cường, phát huy
mọi tiềm năng và trí tuệ, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, quán triệt và
thực hiện tốt các phương hướng cơ bản sau đây:
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát

triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Thực tiễn nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện kinh tế kém
phát triển, cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn mà đòi hỏi của chủ nghĩa xã hội lại
rất cao. Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội đến nay đã chứng minh những
thành tựu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã góp phần to lớn vào
việc phát triển kinh tế của đất nước. Trong điều kiện hiện nay, thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá mới có thể rút ngắn được quá trình phát triển của đất
nước.
Nội dung của công nghiệp hoá, hiện đại hoá được Đại hội XI xác định:
tranh thủ thời cơ thuận lợi tạo ra tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tập trung đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn; giải quyết đồng bộ vấn đề
nông nghiệp, nông thôn, nông dân; phát triển nhanh công nghiệp và xây dựng,
dịch vụ; phát triển kinh tế vùng, kinh tế biển… Đồng thời, bảo vệ và sử dụng có
hiệu quả tài nguyên quốc gia, cải thiện môi trường tự nhiên.
Hai là, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đây là yếu tố được đặt lên hàng đàu, nhằm từng bước tạo ra sự phát triển
mạnh mẽ của nền kinh tế đất nước, phát huy vai trò của các thành phần kinh tế,
của mọi người dân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Tư tưởng phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã
làm sáng tỏ thêm một bước nội dung cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa

22


trong phát triển kinh tế thị trường với mục tiêu: thực hiện dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh; giải phóng và phát triển sức sản xuất; nâng cao

đời sống nhân dân; đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo; khuyến khích mọi người làm
giàu chính đáng… mục tiêu trên đây của phát triển nền kinh tế thị trường là vì
con người, nó khác hẳn với mục tiêu tất cả vì lợi nhuận phục vụ lợi ích của giai
cấp tư sản; của chủ nghĩa tư bản.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát
triển các thành phần kinh tế và khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà
nước trong nền kinh tế quốc dân. Đồng thời, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội trong quá trình phát triển; quan tâm giải quyết các vấn đề xã
hội một cách thoả đáng, bảo đảm sự phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện
công bằng xã hội và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc làm
nền tảng tinh thần của xã hội.
Văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội. Mọi hoạt động văn hoá nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn
diện. văn hoá trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách, kế
thừa truyền thống dân tộc, phát huy tinh thần yêu nước, ý thức tự lực tự cường
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật
tự an toàn xã hội.
Tư duy về quốc phòng và an ninh có sự phát triển, gắn quốc phòng với
an ninh quốc gia, gắn xây dựng vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân với thế
trận an ninh nhân dân trên phạm vi quốc gia cũng như từng địa bàn tỉnh, thành
phố; đặc biệt là trên các địa bàn chiến lược, xây dựng các khu phòng thủ vững
chắc, bảo đảm sẵn sàng ứng phó với các tình huống bất trắc.

23


Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu
nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.

Tư tưởng trên của Đảng ta thể hiện quyết tâm đưa các quan hệ quốc tế
được mở rộng đi vào chiều sâu, phấn đấu tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt
động trên phạm vi khu vực và quốc tế.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế cần được hiểu đầy đủ rằng:
chúng ta hoàn toàn chủ động quyết định đường lối, chính sách phát triển
kinh tế - xã hội nói chung, chính sách hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng.
Chủ động là nắm vững quy luật, tính tất yếu của sự vận động kinh tế toàn
cầu, phát huy đầy đủ năng lực nội sinh, đa dạng hoá, đa phương hoá các
quan hệ quốc tế. Chủ động hội nhập quốc tế sâu hơn và sáng tạo, phân tích,
lựa chọn phương thức hành động, dự báo được những tình huống thuận lợi
và khó khăn khi hội nhập quốc tế.
Tích cực hội nhập kinh tế quốc tế là khẩn trương chuẩn bị, điều
chỉnh, đổi mới bên trong từ phương thức lãnh đạo, quản lý đến hoạt động
thực tiễn, từ Trung ương đến địa phương, khẩn trương xây dựng lộ trình,
kế hoạch, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý,
hoàn chỉnh hệ thống luật pháp… khắc phục tình trạng trông chờ, ỷ lại ở sự
bao cấp của nhà nước. Hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi ý chí quyết tâm của
Đảng, Nhà nước và nhân dân, của mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế và toàn xã hội.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết
toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Dân chủ là một hình thức chính trị- nhà nước của xã hội, thừa nhận
quyền tự do, bình đẳng của công dân, thừa nhận nhân dân là chủ thể của quyền
lực. Quyền làm chủ của công dân được thể chế hoá thành các quy định mang
tính pháp quyền, thành nguyên tắc tổ chức và vận hành của nhà nước cũng như
của các thiết chế khác tạo nên chế độ dân chủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định: Dân chủ gắn liền với quyền làm chủ của nhân dân. Thực hiện tư tưởng trên
24



của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt
Nam luôn xác định phát huy dân chủ trong xã hội, coi đây là nội dung quan
trọng trong đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa; là mục tiêu, động lực của
công cuộc đổi mới hiện nay; thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với Nhà
nước và nhân dân.
Cùng với thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, cần phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giữa công
nhân với nông dân và trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng là sự nghiệp của toàn
dân tộc, của cả hệ thống chính trị và công việc của mọi người. Thuật ngữ “Đại
đoàn kết toàn dân” được thay bằng thuật ngữ “Đại đoàn kết toàn dân tộc” trong
Văn kiện Đại hội XI của Đảng ta là một nội hàm đầy đủ hơn, toàn diện hơn. Đó
là một quan điểm mới, thành quả trong đổi mới tư duy của Đảng ta.
Đại đoàn kết toàn dân tộc lấy mục tiêu giữ vững độc lập dân tộc, thống
nhất Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh làm điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các dân tộc, tôn giáo, các tầng
lớp nhân dân ở trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Do đó, xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc thực hiện đồng bộ các chính sách, pháp luật
của Nhà nước; tổ chức động viên nhân dân tham gia các phong trào thi đua, bảo
vệ lợi ích của nhân dân và bảo đảm công bằng xã hội.
Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân.
Tư tưởng nhà nước pháp quyền mà Đảng ta khẳng định nó có cơ sở từ tư
tưởng dân chủ và xây dựng nhà nước pháp quyền trong lịch sử. Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà chúng ta xây dựng là công cụ bảo vệ, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ, phát triển quyền con người. Trong
điều kiện hiện nay xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là bảo đảm
nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân, quyền lực nhà

25



×