NỘI DUNG
Chương I
VỊ TRÍ, VAI TRÒ, CHỨC NĂNG VÀ NHIỆM VỤ
CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
1. Khái niệm tổ chức cơ sở Đảng
Tổ chức cơ sở Đảng (TCCSĐ) là tổ chức Đảng ở đơn vị cơ sở. Điều lệ Đảng
do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X thông qua xác định : “ Ở xã, phường, thị
trấn, cơ quan HTX, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp, đơn vị cơ sở trong quân đội,
Công an và các đơn vị cơ sở khác có từ 3 Đảng viên chính thức trở lên, lập TCCSĐ
…”.
TCCSĐ dưới 30 Đảng viên lập Chi bộ cơ sở có các tổ Đảng trực thuộc.
“TCCSĐ có từ 30 Đảng viên trở lên, lập Đảng bộ cơ sở, có các Chi bộ trực thuộc
Đảng ủy”. “ TCCSĐ được lập tại đơn vị hành chính, sự nghiệp kinh tế hoặc công
tác, đặt dưới sự lãnh đạo của cấp ủy Huyện, quận, thị xã, Thành phố trực thuộc”.
Điều lệ Đảng cũng có qui định riêng cho tổ chức Đảng trong Quân đội nhân
dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt nam.
Như vậy, TCCSĐ có hai hình thức tổ chức là Chi bộ cơ sở và Đảng bộ cơ sở.
Đảng bộ cơ sở có hai loại hình : Đảng bộ cơ sở có các Đảng bộ bộ phận và Chi bộ
trực thuộc; Đảng bộ cơ sở chỉ có các Chi bộ trực thuộc. Các TCCSĐ đều có cấp ủy
cấp trên trực tiếp. Đó là Huyện ủy, Quận ủy, Thị ủy, Thành ủy trực thuộc, Đảng ủy
khối…
2. Vị trí, vai trò, chức năng và nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng
2.1. Vị trí, vai trò của tổ chức cơ sở dảng
C. Mác và Ph. Ăngghen là người đầu tiên nêu lên những quan điểm, tư tưởng
về vị trí, vai trò của chi bộ. Hai ông sáng lập ra “ liên đoàn những người cộng sản”
1
và khẳng định các chi bộ của “liên đoàn” được thành lập dưới hình thức các hội bí
mật trong các hiệp hội công nhân. Hai ông cũng chỉ ra rằng, nếu các chi bộ này bị
buông lỏng về mặt tổ chức sẽ dẫn đến cắt đứt liên lạc với ban chấp hành Trung
ương, làm cho Đảng “mất chỗ dựa vững mạnh và duy nhất”. Vì thế hai ông nhấn
mạnh rằng, phải củng cố các chi bộ, biến mỗi chi bộ thành trung tâm và hạt nhân
của các hiệp hội công nhân, trong đó lập trường và lợi ích của giai cấp vô sản được
đưa ra thảo luận độc lập với những ảnh hưởng tư sản.
Trong điều kiện chuyển từ hoạt động bí mật sang hoạt động công khai,
C.Mácvà Ph.Ăngghen đã phát triển tư tưởng của mình: Phải tổ chức lại liên đoàn
mà khâu đặc biệt quan trọng là củng cố các chi bộ, biến mỗi chi bộ thành trung tâm
và hạt nhân của các hiệp hội công nhân, là mắt xích quan trọng, là chỗ dựa vững
chắc của Đảng.
Kế thừa những tư tưởng đó của C. Mác và Ph. Ăngghen, V.I.Lênin phát triển
quan điểm về vị trí, vai trò của tổ chức cơ sở đảng trong quá trình xây dựng và lãnh
đạo đảng Bônsêvích Nga-Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Người chỉ rõ việc
thành lập các tổ chức cách mạng trong các xí nghiệp, nhà máy là nhiệm vụ đầu tiên,
cấp bách của Đảng công nhân dân chủ - xã hội Nga: mỗi nhà máy phải là một thành
trì. Lênin coi chi bộ là nơi rèn luyện, phân công công tác, quản lý, sàng lọc đảng
viên để họ luôn luôn là người chiến sỹ tiên phong của giai cấp. Chi bộ còn là nền
tảng của quần chúng, là hạt nhân chính trị của các tập thể lao động. Người yêu cầu
mỗi chi bộ phải là điểm tựa, để tiến hành công tác tuyên truyền, cổ động và tổ chức
thực hiện trong quần chúng.
Lênin rất quan tâm xây dựng tổ chức công nhân dân chủ - xã hội và nhất là khi
các tiểu tổ đó phát triển thành các chi bộ cơ sở của Đảng Bônsêvích Nga. Cách
mạng chuyển giai đoạn, Đảng cầm quyền lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội,
Đảng trở thành lãnh tụ chính trị của toàn xã hội. Các tổ chức cơ sở đảng đã tăng lên
về số lượng và phong phú về chức năng, nhiệm vụ, nội dung, phương thức hoạt
động. Lênin chỉ rõ: Những chi bộ ấy liên hệ chặt chẽ với nhau và với trung ương
2
Đảng phải trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau, phải làm công tác cổ động, tuyên truyền.
Công tác tổ chức phải thích nghi với mọi lĩmh vực của đời sống xã hội, với tất cả
mọi tầng lớp quần chúng lao động, những chi bộ ấy phải thông qua công tác muôn
hình muôn vẻ mà rèn luyện mình, rèn luyện đảng, giai cấp, quần chúng một cách hệ
thống. Người viết: “Mỗi chi bộ và mỗi uỷ ban công nhân của Đảng phải là một
điểm tựa để tiến hành công tác tuyên truyền cổ động và tổ chức thực hiện trong
quần chúng”, tức là phải đi đến nơi mà quần chúng đi, và trong mỗi bước đi, phải
cố gắng làm cho ý thức của quần chúng hướng về chủ nghĩa xã hội…”.
Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm xây
dựng tổ chức cơ sở đảng. Dù ở bất kỳ giai đoạn cách mạng nào, Đảng ta luôn
khẳng định tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở đơn vị
cơ sở: “Mỗi chi bộ của Đảng là một hạt nhân lãnh đạoquần chúng ở cơ sở, đoàn kết
chặt chẽ liên hệ mật thiết với quần chúng, phát huy được trí tuệ và lực lượng vĩ đại
của quần chúng” .
Trong cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng luôn coi các tổ chức của Đảng ở cơ
sở là tổ chức nền tảng, là các tế bào cấu thành nên Đảng, là đơn vị chiến đấu cơ bản
của Đảng, trong đó các tổ chức nằm trong tổ chức cơ sở đảng là pháo đài chiến đấu
của Đảng.
Đất nước thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, những bài học thành
công và những bài học chưa thành công đều gắn liền với vị trí, vai trò của tổ chức
cơ sở đảng.
Đảng ta khẳng định: Những thành tựu đã đạt được, những tiềm năng được
khai thác, những kinh nghiệm có giá trị đều bắt nguồn từ sự nỗ lực phấn đấu của
quần chúng ở cơ sở mà hạt nhân là tổ chức đảng.
Nhưng mặt khác, sự yếu kém của nhiều tổ chức cơ sở đảng đã hạn chế những
thành tựu của cách mạng.
Vị trí, vai trò của tổ chức cơ sở đảng được khái quát và khẳng định ở những
nội dung sau:
3
- Tổ chức cơ sở đảng là nơi nối liền Đảng với quần chúng, là tổ chức đầu tiên
của Đảng, nằm trong quần chúng, lãnh đạo quần chúng, tìm hiểu tâm tư, tình cảm,
nguyện vọng của quần chúng.
+ Tổ chức cơ sở đảng là nơi nối liền các cơ quan lãnh đạo cấp trên của quần
chúng, là chiếc cầu, là bản lề gắn bó Đảng với dân. Mọi tâm tư, nguyện vọng chính
đáng của dân vì thế được phản ánh kịp thời lên tổ chức đảng cấp trên thông qua chi
bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở.
+ Tổ chức cơ sở đảng là nơi trực tiếp đưa đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng vào quần chúng và tổ chức cho quần chúng thực hiện thắng lợi đường lối,
chủ trương, chính sách đó. Qua tổ chức thực hiện, tổ chức cơ sở Đảng là nơi bổ
sung, hoàn chỉnh đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
+ Tổ chức cơ sở đảng còn là nơi trực tiếp giáo dục, rèn luyện, kết nạp và
sàng lọc đảng viên; nơi đào tạo cán bộ cho Đảng; nơi xuất phát để cử ra cơ quan
lãnh đạo cấp trên của Đảng. Là cửa ngõ quan trọng bảo đảm tính tiên phong, tính
trong sạch của Đảng ta.
Trong giai đoạn cách mạng mới - giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước - đang đặt lên vai Đảng ta những trách nhiệm hết sức nặng nề, đó là phải
kiên trì con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
lựa chọn từ rất sớm. Toàn Đảng phải đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, coi đây là nền tảng tư tưởng là kim chỉ nam
cho mọi hoạt động của Đảng. Đồng thời còn phải giữ vững bản chất giai cấp công
nhân của Đảng vì đây là vấn đề bao trùm, có tính nguyên tắc đối với tất cả các
Đảng Cộng sản chân chính. Nó càng đặc biệt hơn đối với đảng ta, một Đảng ra đời
và trưởng thành từ một nước nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp chưa phát triển, giai
cấp công nhân còn nhỏ bé, tỷ lệ đảng viên xuất thân từ thành phần công nhân thấp;
Đảng ta lại đang hoạt động trong điều kiện mới - điều kiện một đảng cầm quyền
lãnh đạo đất nước chuyển sang phát triển kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, có nhiều thầnh phần kinh tế cùng tồn tại và
4
phát triển. Nhiệm vụ chính trị mới mẻ, môi trường xã hội có nhiều phức tạp, cán
bộ, đảng viên lại đang giữ nhiều trọng trách hàng ngày hàng giờ phải đối mặt với
tiền và hàng. Điều đó càng phải làm sao giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp
công nhân của Đảng.
Tư tưởng trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương
khoá VI của Đảng đã chỉ rõ: Trong điều kiện chuyển sang thực hiện cơ chế quản lý
mơi, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của các đơn vị cơ sở, mở rộng dân chủ xã
hội chủ nghĩa, các tổ chức cơ sở đảng đóng vai trò hết sức quan trọng.
2.2. Chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng
2.2.1. Chức năngcủa tổ chức cơ sở đảng
Chức năng của một tổ chức là sự phân công tất yếu, sự quy định chức trách
một cách tương đối ổn định và hợp lý trong điều kiện lịch sử xã hội nhất định của
một tổ chức để phân biệt tổ chức này với tổ chức khác.
Đối với tổ chức cở đảng có chức năng quan trọng là: hạt nhân chính trị lãnh
đạo tại đơn vị cơ sở. Nó được thể hiện ở vai trò đoàn kết và lãnh đạo các tổ chức
trong hệ thống chính trị ở cơ sở, là trung tâm quy tụ, tập hợp mọi lực lượng ở cơ sở,
định hướng cho cơ sở phát triển. Sẽ không trở thành hạt nhân chính trị lãnh đạo ở
cơ sở nếu tổ chức cơ sở đảng rơi vào tình trạng mất đoàn kết, quần chúng bị kích
động lôi kéo vào những việc làm tự phát… Tổ chức cơ sở đảng còn có chức năng
tiến hành các hoạt động xây dựng nội bộ đảng. Chỉ có thường xuyên chỉnh đốn và
đổi mới, củng cố, kiện toàn hệ thống tổ chức các cơ quan lãnh đạo của Đảng, giữ
vững nguyên tắc tập trung dân chủ, những tiêu chuẩn sinh hoạt Đảng, Đảng mới
thực sự là hạt nhân, là đơn vị chiến đấu cơ bản của Đảng ở cơ sở.
Tổ chức cơ sở Đảng là hạt nhân lãnh đạo chính trị ở đơn vi cơ sở. Điều đó
được thể hiện ở chỗ quán triệt và vận dụng sáng tạo đường lối, chính sách, nghị
quyết của Đảng, lãnh đạo thực hiện hiến pháp, pháp luật của Nhà nước, các quy
định của chuyên môn, của các đoàn thể nhân dân.
5
Thực hiện sự kiểm tra mọi hoạt động ở cơ sở để khích lệ việc làm tốt, uốn nắn
những lệch lạc và qua kiểm tra mà bổ sung hoàn chỉnh các chủ trương, biện pháp
thực hiện ở cơ sở. Tổ chức cơ sở Đảng tiến hành thực hiện các hoạt động xây dựng
nội bộ Đảng để nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng.
2.2.2. Nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng
Mỗi giai đoạn cách mạng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng có những bổ sung,
thay đổi phù hợp. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt nam được thông qua ở Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ngày 22 tháng 4 năm 2001 đã nêu lên 5 nhiệm
vụ của tổ chức cơ sở đảng:
Một là, chấp hành đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; đề
ra đường lối chủ trương, nhiệm vụ chính trị của đảng bộ, chi bộ và lãnh đạo thực
hiện có hiệu quả.
Đây là nhiệm vụ trọng tâm, là nội dung chủ yếu trong quá trình thực hiện vai
trò lãnh đạo của mình đối với đơn vị cơ sở. Đây là vấn đề quan trọng chi phối hoạt
động lãnh đạo các lĩnh vực khác cũng như xây dựng nội bộ đảng.
Đặc điểm của các loại hình tổ chức cơ sở đảng có khác nhau, hoạt động trong
các lĩnh vực có khác nhau. Tuy nhiên các loại hình tổ chức cơ sở đảng có điểm
chung là đều phải tổ chức cho đảng viên, quần chúng học tập, quán triệt đường lối
chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, nghiên cứu nắm vững đặc điểm tự
nhiên, xã hội, tiềm năng của cơ sở, nắm vững nguyện vọng chính đáng của dân để
đề ra đường lối chủ trương, nhiệm vụ chính trị cho đảng bộ, chi bộ và lãnh đạo thực
hiện có hiệu quả. Quá trình trên đây là quá trình phát huy dân chủ trong chi bộ,
đảng viên và quần chúng. Khi đã xác định được chủ trương, nhiệm vụ chính trị, tổ
chức cơ sở đảng thực hiện biến những quyết định đó thành nhiệm vụ, kế hoạch cụ
thể của đơn vị, thành quyết tâm và thành phong trào cách mạng của quần chúng ở
cơ sở.
Hai là, xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng
và tổ chức; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; nâng cao chất lượng sinh
6
hoạt Đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ luật và tăng cường đoàn
kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên giáo dục, rèn luyện và quản lý cán bộ,
đảng viên nhằm nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, tính chiến đấu, trình độ
kiến thức, năng lực công tác; làm công tác phát triển đảng viên.
Chất lượng của một tổ chức đảng, của cấp uỷ và của đội ngũ đảng viên là yếu
tố quyết định vai trò lãnh đạo, đến việc đổi mới phương thức lãnh đạo của các tổ
chức cơ sở đảng. Vì thế, nội dung của nhiệm vụ trên cần được vận dụng vào từng
loại hình tổ chức cơ sở đảng theo những quy định của Ban chấp hành Trung ương.
Xuất phát từ thực tế của chi bộ, đảng bộ mà xác định trọng tâm trọng điểm phải
giải quyết. Trong giai đoạn hiện nay cần tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng
viên về cả phẩm chất chính trị, đạo đức, kiến thức và năng lực thực tiễn. Nâng cao
chất lượng sinh hoạt chi bộ, giữ gìn kỷ luật đảng, tăng cường đoàn kết thống nhất
trong Đảng.
Ba là, lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức kinh tế, hành chính, sự
nghiệp, quốc phòng an ninh và các đoàn thể chính trị-xã hội trong sạch vững mạnh,
chấp hành đúng pháp luật và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Đây là yếu tố quan trọng bảo đảm vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng đối
với các hoạt động của đơn vị. Đó cũng là việc làm thường xuyên cơ bản của tổ
chức cơ sở đảng. Thực hiện tốt nhiệm vụ này ở mỗi loại hình tổ chức cơ sở đảng có
khác nhau, song hướng chủ yếu là chăm lo củng cố, kiện toàn hệ thống tổ chức, xây
dựng các quy chế làm việc trong đó xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và mối quan
hệ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị. Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao phẩm
chất đạo đức, kiến thức và năng lực hoạt động cho đội ngũ cán bộ chủ chốt. Hoạt
động lãnh đạo của Đảng không mâu thuẫn với việc chấp hành đúng hiến pháp, pháp
luật của nhà nước. Tổ chức cơ sở đảng cũng phải là tổ chức gương mẫu chấp hành
luật pháp và hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật.
7
Bốn là, liên hệ mật thiết với nhân dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và
bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, lãnh đạo nhân dân tham gia xây dựng và
thực hiện đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Nhiệm vụ này là mục tiêu trực tiếp, thường xuyên trong hoạt động lãnh đạo
của chi bộ, đảng bộ cơ sở. Vì thế cần nắm vững tình hình đời sống, tâm tư, nguyện
vọng của quần chúng. Khai thác có hiệu quả tiềm năng của đơn vị và phát triẻn sản
xuất, mở rộng ngành nghề, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho nhân dân. Tổ chức
đảng quan tâm đến việc xây dựng cơ sở hạ tầng, làm tốt công tác trật tự trị an, thực
hiện có hiẹu quả các chính sách xã hội. ổn định chính trị ở địa phương. Tố chức cơ
sở đảng có nhiệm vụ tổ chức cho quần chúng tham gia ý kiến vào quá trình xây
dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và nhà
nước.
Năm là, Kiểm tra việc thực hiện, bảo đảm các nghị quyết chỉ thị của Đảng và
pháp luật của nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh, kiểm tra tổ chức đảng và
đảng viên chấp hành điều lệ Đảng.
Như vậy, 5 nhiệm vụ trên của một tổ chức cơ sở đảng là một thể thống nhất,
nhiệm vụ này có quan hệ mật thiết với nhiệm vụ kia nên không coi nhẹ nhiệm vụ
nào. Để thực hiện tốt 5 nhiệm vụ này tuỳ thuộc vào từng loại hình tổ chức cơ sở
đảng và đặc điểm riêng của từng đảng bộ, chi bộ, ở từng thời điểm nhất định.
8
Chương II
NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA TỔ
CHỨC CƠ SƠ ĐẢNG HIỆN NAY
1. Tình hình chung về tổ chức cơ sở Đảng
Tính đến ngày 31/12/2006, toàn Đảng có 52.861 tổ chức cơ sở Đảng (21.164
Đảng bộ cơ sở, 31.697 chi bộ cơ sở), hơn 202.446 chi bộ trực thuộc Đảng uỷ cơ sở
với tổng số hơn 3,2 triệu Đảng viên.
Trong tổng số tổ chức cơ sở Đảng của toàn Đảng có: 10.929 tổ chức cơ sở
Đảng ở xã, phường, thị trấn (chiếm 20,7%) với tổng số 1.965.072 đảng viên; 5.441
tổ chức cơ sở Đảng trong doanh nghiệp nhà nước (chiếm 10,3%) với tổng số
230.272 đảng viên; 16.542 tổ chức cơ sở Đảng trong cơ quan hành chính (chiếm
31,3%) với tổng số 284.145 Đảng viên; 6.974 tổ chức cơ sở Đảng trong đơn vị sự
nghiệp (chiếm 13,2%) với tổng số 214.336 Đảng viên; 8.289 tổ chức cơ sở Đảng
trong lực lượng vũ trang (15,7%) với tổng số 399.754 Đảng viên; 3.474 tổ chức cơ
sở Đảng trong doanh nghiệp cổ phần có vốn nhà nước (6,6%) với 107.370 Đảng
viên; 598 tổ chức cơ sở Đảng trong doanh nghiệp tư nhân có vốn đầu tư nước ngoài
(chiếm (0,35%) với tổng số 5.039 Đảng viên; 75 tổ chức cơ sở Đảng ở ngoài nước
với gần 6.500 Đảng viên…
Trong những năm qua, thực hiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và
hội nhập kinh tế quốc tế, số lượng tổ chức cơ sở Đảng và Đảng viên tăng nhanh và
có một số thay đổi:
+ Số tổ chức cơ sở Đảng trong doanh nghiệp nhà nước giảm và số cơ sở Đảng
trong doanh nghiệp cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp liên doanh với
nước ngoài tăng.
9
+ Một số hình tổ chức cơ sở Đảng có sự thay đổi về quy mô, hình thức tổ
chức, nội dung và phương thức hoạt động (các tổ chức Đảng trong tập đoàn kinh tế
tổng công ty hay đặc biệt)
+ Một số loại hình tổi chức cơ sở Đảng mới được định hình như: Tổ chức cơ
sở Đảng trong doanh nghiệp cổ phần có vốn của nhà nước, doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài và tổ chức cơ sở Đảng trong các trường học, bệnh viện ngoài công lập.
Tuy nhiên do tình hình thực tiễn thay đổi, những hệ thống tổ chức của Đảng
ở một số loại hình cơ sở chưa được xắp xếp, tổ chức lại nên:
+ Còn thiếu thống nhất và chưa được hợp lí, phù hợp.
+ Tình trạng tổ chức trong cơ sở Đảng còn xảy ra ở một số nơi, nhất là trong
một số cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp.
+ Mô hình tổ chức các chi bộ trực thuộc Đảng uỷ cơ sở cũng còn nhiều bất
cập:
+ Nhiều chi bộ có đông Đảng viên (11.591 chi bộ có từ 31 đến 50 Đảng viên;
2.769 chi bộ có từ 51 đến 100 Đảng viên; 174 chi bộ có trên 100 Đảng viên) nên
gặp khó khăn về tổ chức sinh hoạt, học tập và việc theo dõi, quản lý Đảng viên.
+ Một số thôn, khu dân cư có Đảng viên thành lập nhiều chi bộ nên thiếu đồng
bộ giữa các tổ các chức trong hệ thống chính trị trên địa bàn dân cư, công tác lãnh
đạo, chỉ đạo của chi bộ gặp nhiều khó khăn.
+ Trong công tác phát triển Đảng viên đã được tăng cường, nhưng vẫn còn
8.277 thôn, ấp, bản làng chưa có chi bộ; 1.117 thôn, bản chưa có Đảng viên (chủ
yếu ở các vùng Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam Bộ); nhiều doanh nghiệp tư nhân,
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa có tổ chức Đảng, có ít hoặc chưa có
Đảng viên.
2. Tình hình tổ chức cơ sở đảng hiện nay
2.1Ưu điểm
10
Số đông tổ chức cơ sở Đảng xã làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, góp
phần nâng cao nhận thức chính trị, ý thức cảnh giác cách mạng, đấu tranh chống
"diễn biến hoà bình", chống địch phá hoại về tư tưởng chính trị của các tầng lớp
nhân dân ở các địa phương.
- Đội ngũ cán bộ cấp uỷ ở nhiệt tình, có kinh nghiệm thực tiễn, số đông cấp uỷ cơ
sở biết vận dụng, thực hiện đúng đắn chỉ thị, nghị quyết, chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước ở địa phương.
- Đa số đảng viên có phẩm chất chính trị vững vàng, có đạo đức cách mạng, rất tâm
huyết với sự nghiệp cách mạng của Đảng.
- Đa số quần chúng nhân dân ở cơ sở cần cù, chịu khó, luôn tin tưởng vào sự
lãnh đạo của Đảng và tâm huyết tham gia xây dựng Đảng và chính quyền ở cơ sở
. + Trong những năm qua, BCH TW, Bộ chính trị, BBT đã quan tâm lãnh đạo,
chỉ đạo nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ và quán triệt
chủ trương và thực hiện sự chỉ đạo của TW, công tác xây dựng Đảng ở cơ sở đã có
một số chuyển biến tiến bộ, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới đất nước .
+ Nhiều TCCSĐ đã giữ vững và phát huy được vai trò hạt nhân chính trị ở cơ
sở; lãnh đạo cán bộ, đảng viên, nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và sự chỉ đạo của cấp ủy cấp trên, thực
hiện có kết quả nhiệm vụ chính trị, công tác chuyên môn của địa phương, cơ quan,
đơn vị.
+ Việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở được triển khai và
bước đầu đem lại kết quả tích cực, dân chủ trong đảng và trong xã hội được mở
rộng hơn. “ Nhiều cấp ủy cơ sở đã coi trọng việc xây dựng quy chế làm việc và
thực hiện theo quy chế; duy trì chế độ giao ban định kỳ giữa thường trực cấp ủy với
chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở. Một số tỉnh, thành phố đã thực
hiện tổ chức lấy phiếu tín nhiệm của đại biểu nhân dân đối với chức danh Chủ tịch
HĐND, Chủ tịch UBND xã, phường, Thị trấn và Trưởng thôn, tổ Trưởng dân phố.
11
Có được những chuyển biến, tiến bộ trên là do:
- BCH TW, BCT, BBT và các cấp ủy đã có những nghị quyết, Chỉ thị, quy
định và giải pháp về xây dựng TCCSĐ.
- Các cấp ủy cơ sở đã nhận thức đầy đủ hơn vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm
vụ của TCCSĐ và chăm lo công tác XXĐ. (Văn kiện Hội nghị TW lần thứ sáu
(khoá X). (NXB CTQG, H, 2008 Tr 89 -90).
- Nhiều cấp ủy cấp trên đã quan tâm, chỉ đạo việc xây dựng TCCSĐ trong
sạch vững mạnh, củng cố cơ sở yêú kém: cơ sở vật chất, phương tiện và điều kiện
làm việc của cơ sở từng bước được trang bị tốt hơn trước.
2.2. Khuyết điểm, yếu kém
- Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ở nh chưa
tốt, thậm chí có nơi có lúc còn vi phạm, gây hậu quả phức tạp, làm mất lòng tin của
đảng viên, của nhân dân, làm mất ổn định an ninh, trật tự tại địa p- Công tác tuyên
truyền, tổ chức học tập quán triệt chỉ thị, nghị quyết, chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước tới cán bộ đảng viên và quần chúng nhân dân ở một
số cơ sở xã, phường, thị trấn còn hạn chế.
hương.
- Tình trạng suy thoái đạo đức, lối sống, thiếu tinh thần trách nhiệm, quan liêu xa
rời quần chúng nhân dân của một bộ phận cán bộ cơ sở, gây giảm sút sức chiến đấu
và vai trò lãnh đạo của Đảng.
- Đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn nhìn chung còn yếu và thiếu về chuyên môn, lý
luận. Khả năng, năng lực lãnh đạo điều hành rất hạn chế.
- Nhiều cấp uỷ chưa thực sự coi trong vị trí then chốt của Cơ sở Đảng. Chưa
dành thời gian, công sức để tập trung chỉ đạo, xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở
Đảng.
12
- Không ít tổ chức Cơ sở Đảng chưa nhận thức và thực hiện đúng chức năng,
nhiệm vụ của tổ chức cơ sở Đảng.
- Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, đạo
đức lối sống cho cán bộ, Đảng viên ở cơ sở chưa đúng mức, tính định hướng, tính
chiến đấu và tính giáo dục thuyết phục chưa cao.
- Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, khả năng nhận thức, vận dụng, cụ thể
hoá và tổ chức thực hiện tổ chức các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách
pháp luật của nhà nước và của cấp uỷ cấp trên của nhiều tổ chức cơ sở Đảng còn
yếu chưa đủ sức phát hiện giải quyết những vấn đề phức tạp xẩy ra ở cơ sở, có tổ
chức cơ sở Đảng bị mất sức chiến đấu.
- Còn không ít cơ sở chưa thực hiện có nề nếp chế độ sinh hoạt Đảng, nội
dung sinh hoạt chi bộ chậm đổi mới; nhiều cấp uỷ, Đảng bộ, chi bộ chưa thực hiện
nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng; chưa coi trọng đổi mới phương
thức lãnh đạo và phong cách, lề lối làm việc; bệnh thành tích cón nặng và khá phổ
biến.
Những khuyết điểm yếu kém nêu trên có cả nguyên nhân khách quan song
nguyên nhân chủ quan là chủ yếu:
+ Chúng ta chưa lường hết tác động bởi mặt trái của cơ chế thị trường và hội
nhập kinh tế Quốc tế. Vào công tác xây dựng Đảng. Vì vậy tuy đã được đổi mới
nhưng công tác xây dựng Đảng nói chung, xây dựng Đảng ở cơ sở nói riêng chư
theo kịp sự biến đổi của tình hình. Trên thực tế chúng ta chưa quan tâm đúng mức
đến công tác nghiên cứu lý luận, thiếu dự báo về côngg tác xây dựng Đảng trong
tình hình mới đề ra biện pháp chiết thực.
+ Chưa nhận thức, đầy đủ nhiệm vụ then chốt của công tác xây dựng Đảng, cụ
thể là:
+ Các cấp uỷ chưa quán triệt sâu sắc vị trí vai trò, chức năng, nhiệm vụ của chi
bộ, của tổ chức cơ sở Đảng.
13
+ Sự lãnh đạo, chỉ đạo,, kiểm tra, giám sát của cấp uỷ cấp trên đối với cơ sở
chưa thường xuyên.
- Việc ban hành các quy định hướng dẫn của Trung ương về công tác xây
dựng Đảng còn chậm, thiếu đồng bộ và một số quy định hướng dẫ chưa sát thực tế.
- Đội ngũ cấp uỷ viên ít được bồi dưỡng về kỹ năng nghiệp vụ công tác xây
dựng Đảng và cập nhật những kiến thức mới, nhất là về kinh tế, xã hội, pháp luật
2.3. Nguyên nhân chủ yếu của yếu kém.
- Nhìn chung cơ sở vật chất kỹ thuật ở các xã, phường, thị trấn trong tỉnh còn thiếu
thốn, nghèo nàn.
- Sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng ở cơ sở không theo kịp sự thay đổi cơ chế, chính
sách, nhiều vấn đề chưa có tiền lệ, chưa kịp tổng kết, bổ sung, hoàn chỉnh.
- Tình hình tiêu cực trong Đảng có chiều hướng gia tăng, các thế lực thù địch lợi
dụng cơ hội công kích, chống phá Đảng và Nhà nước về nhiều mặt.
- Cấp uỷ cấp trên chưa thật sâu sát cơ sở, có nơi buông lỏng quản lý, dẫn đến cơ sở
làm sai nguyên tắc, sai chính sách, pháp luật, nhưng không nắm được và không giải
quyết kịp thời.
- Bệnh ham thành tích, báo cáo sai sự thật để vụ lợi danh dự cho tập thể, cá nhân
nhất thời còn tồn tại.
- Một số tổ chức Đảng ở xã, phường, thị trấn chưa quan tâm đúng mức tới công tác
giáo dục chính trị tư tưởng.
- Trong công tác xây dựng Đảng ở một số xã, phường, thị trấn bị buông lỏng, các
nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng không được duy trì.
- Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng không thường xuyên; công tác quản lý đảng
viên, phân công công tác, công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ cơ sở chưa tốt.
- Nhận thức của đảng viên ở nông thôn còn thấp, không đồng đều.
3. Chủ trương, giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng
14
3.1 CHỦ TRƯƠNG
Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội X, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương
Đảng đã ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 02-02-2008, về “Nâng cao năng
lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ,
Đảng viên”. Đây là một nghị quyết chuyên đề rất quan trọng, vừa là nhiệm vụ cấp
bách, vừa có ý nghĩa lâu dài nhằm xây dựng, củng cố, nâng cao chất lượng tổ chức
cơ sở đảng và đội ngũ cán bộ, Đảng viên trong tất cả các loại hình tổ chức cơ sở
đảng.
Qua học tập, quán triệt nghị quyết này, các cấp ủy đảng và đông đảo cán bộ, Đảng
viên đều cho rằng: Nghị quyết Trung ương đã đánh giá sát, đúng thực trạng tình
hình tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ cán bộ, Đảng viên hiện nay; chỉ rõ những ưu
điểm, khuyết điểm, nguyên nhân và những khó khăn, vướng mắc, bất cập ở cơ sở;
đề ra những nhiệm vụ, giải pháp cụ thể về tổ chức, cán bộ và cơ chế, chính sách để
thực hiện trong những năm tới, trong đó có nhiều nội dung mới, mạnh mẽ và có
tính khả thi; việc triển khai thực hiện nghị quyết có nhiều đổi mới, đồng bộ từ
Trung ương đến các địa phương, tạo được niềm tin của cán bộ, Đảng viên và nhân
dân.
Thực hiện sự chỉ đạo của Bộ Chính trị về triển khai thực hiện Nghị quyết số 22NQ/TW, các cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể chính trị - xã hội có liên quan ở
Trung ương đã khẩn trương nghiên cứu, xây dựng các đề án nhằm cụ thể hóa nội
dung nghị quyết để thực hiện: Quốc hội có nghị quyết về thực hiện thí điểm không
tổ chức hội đồng nhân dân ở 67 huyện, 32 quận, 483 phường thuộc 10 tỉnh, thành
phố đại diện cho các vùng, miền trong cả nước; Chính phủ đã ban hành Nghị định
số 159-NĐ/CP, ngày 27/12/2005, về phân loại đơn vị hành chính xã, phường, thị
trấn; chỉ đạo việc nghiên cứu, bổ sung, sửa đổi Nghị định số 114/2003/NĐ-CP,
ngày 10/10/2003, của Chính phủ về cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn, Nghị
15
định số 121/2003/NĐ-CP, ngày 21/10/2003, của Chính phủ về chế độ, chính sách
đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn, Nghị định số 92-NĐ/CP, ngày
22/10/2009, về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ,
công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở
cấp xã; liên Bộ Nội vụ, Tài chính, Lao động - Thương binh và Xã hội đã ban hành
Thông tư liên tịch số 03/2010/TTLT-BNV-BTC-BLĐTB&XH, ngày 27/5/2010,
hướng dẫn thực hiện Nghị định số 92 của Chính phủ. Ban Tổ chức Trung ương đã
nghiên cứu trình Bộ Chính trị bổ sung, sửa đổi Quy chế bầu cử trong Đảng và Quy
định về Bảo vệ chính trị nội bộ Đảng; trình Ban Bí thư bổ sung, sửa đổi một số quy
định về chức năng, nhiệm vụ của một số loại hình tổ chức cơ sở đảng cho phù hợp
với tình hình mới và xây dựng quy định chức năng, nhiệm vụ của một số loại hình
tổ chức cơ sở đảng chưa có quy định; nghiên cứu, ban hành các hướng dẫn về việc
thực hiện thí điểm chủ trương đồng chí bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch ủy ban
nhân dân ở cấp xã và các địa phương thí điểm không tổ chức hội đồng nhân dân;
thực hiện thí điểm chủ trương đại hội đảng bộ cơ sở trực tiếp bầu ban thường vụ, bí
thư, phó bí thư và đại hội đảng bộ cấp trên cơ sở trực tiếp bầu bí thư cấp ủy; mô
hình tổ chức trong các loại hình tổ chức cơ sở đảng và tổ chức đảng trong các tập
đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước; bổ sung, sửa đổi hướng dẫn về đánh giá chất
lượng tổ chức cơ sở đảng và Đảng viên hằng năm.
Ban Tổ chức Trung ương cũng tham mưu giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư tổng kết 10
năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII về “Chiến lược cán bộ thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, hơn 10 năm thực hiện Chỉ thị
số 07-CT/TW của Bộ Chính trị khóa VIII về “Tăng cường công tác xây dựng
Đảng, các đoàn thể nhân dân trong các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ
phần tư nhân, doanh nghiệp tư nhân (gọi chung là doanh nghiệp tư nhân) và doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài”. Ngoài ra, Ban đã nghiên cứu hướng dẫn về
16
Đảng viên làm kinh tế tư nhân và việc kết nạp vào Đảng những người là chủ doanh
nghiệp tư nhân đủ tiêu chuẩn và có nguyện vọng xin vào Đảng...
Thực hiện sự chỉ đạo, hướng dẫn của Trung ương, các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy
trực thuộc Trung ương đã ban hành chỉ thị, nghị quyết hoặc xây dựng kế hoạch, đề
án nhằm cụ thể hóa nội dung nghị quyết của Trung ương để thực hiện. Trong đó,
tập trung chỉ đạo việc sắp xếp, kiện toàn mô hình tổ chức của Đảng cho đồng bộ,
thống nhất với các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở; đẩy mạnh công tác phát
triển Đảng viên, xây dựng tổ chức đảng ở những thôn, bản, trường học, doanh
nghiệp... chưa có tổ chức đảng, có ít hoặc chưa có Đảng viên.
Nhiều cấp ủy đã tiến hành tổng kết việc xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở
cơ sở; công tác xây dựng tổ chức đảng và phát triển Đảng viên ở vùng đồng bào
Khmer, vùng đồng bào có đạo và trong các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài. Các tỉnh ủy, thành ủy đã xây dựng kế hoạch và tổ chức Hội
thi bí thư chi bộ giỏi ở cơ sở và cấp trên trực tiếp của cơ sở, sau đó tổ chức hội nghị
tọa đàm, trao đổi kinh nghiệm và biểu dương, khen thưởng các bí thư chi bộ giỏi ở
cấp tỉnh như Hải Phòng, Hòa Bình, Đảng ủy Công an Trung ương...
Cùng với việc thực hiện Nghị quyết của Trung ương về “Nâng cao năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, Đảng
viên”, các cấp ủy đảng đã triển khai thực hiện nghiêm túc Chỉ thị của Bộ Chính trị
về thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh”, Chỉ thị của Ban Bí thư và Hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương về
“Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ” ... Do đó, sau hơn ba năm thực hiện Nghị
quyết Trung ương 6, công tác xây dựng Đảng ở cơ sở đã tạo được sự chuyển biến
tiến bộ trên nhiều mặt và đạt được một số kết quả cụ thể, góp phần thúc đẩy phát
17
triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh, đẩy mạnh sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nhiều tổ chức cơ sở đảng trong các loại hình cơ sở đã giữ vững và phát huy được
vai trò hạt nhân chính trị ở cơ sở, lãnh đạo cán bộ, Đảng viên, quần chúng thực
hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thực
hiện có kết quả nhiệm vụ chính trị, công tác chuyên môn của địa phương, cơ quan,
đơn vị. Việc xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở được triển khai rộng
rãi và đem lại một số kết quả tích cực; dân chủ trong Đảng và trong xã hội được mở
rộng và phát huy hơn. Công tác đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch đội ngũ cán bộ cơ sở
được quan tâm chỉ đạo, tạo một số chuyển biến tích cực và kết quả bước đầu. Đội
ngũ cán bộ, Đảng viên được tăng thêm về số lượng và chất lượng; trình độ, kiến
thức các mặt không ngừng được nâng lên. Nền nếp và chất lượng sinh hoạt chi bộ
có tiến bộ so với trước. Công tác đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và Đảng
viên bước đầu đã phản ánh đúng thực tiễn hơn. Công tác kết nạp Đảng viên được
các cấp ủy quan tâm chỉ đạo, đạt được một số kết quả, từng bước thu hẹp số thôn,
làng, ấp, bản, trường học, doanh nghiệp... chưa có tổ chức đảng, chưa có Đảng
viên. Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” được
triển khai thực hiện rộng khắp ở cơ sở, đem lại kết quả bước đầu, góp phần nâng
cao nhận thức, đề cao ý thức tổ chức kỷ luật và trách nhiệm của cán bộ, Đảng viên.
Nhiều cán bộ trẻ được đào tạo cơ bản, có phẩm chất, năng lực tốt, từng bước thích
ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế.
Bên cạnh những ưu điểm và kết quả đã đạt được nêu trên, công tác xây dựng tổ
chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng Đảng viên vẫn còn nhiều mặt hạn chế, yếu
kém cần phải khắc phục là: Nhiều cấp ủy chưa thực sự coi trọng vị trí then chốt của
công tác xây dựng Đảng, chưa dành thời gian, công sức để tập trung chỉ đạo xây
dựng, củng cố, nâng cao chất lượng các tổ chức cơ sở đảng. Không ít tổ chức cơ sở
18
đảng chưa nhận thức và thực hiện đúng, đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của tổ chức
cơ sở đảng, chưa làm tốt vai trò hạt nhân chính trị ở cơ sở. Công tác giáo dục chính
trị tư tưởng, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, Đảng
viên ở cơ sở chưa được coi trọng đúng mức. Năng lực nhận thức, khả năng vận
dụng, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước của không ít cấp ủy cơ sở còn yếu, chưa đủ sức giải quyết
những vấn đề phức tạp xảy ra ở cơ sở. Nhiều cấp ủy, đảng bộ, chi bộ cơ sở chưa
thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng; chưa coi trọng đổi mới
phương thức lãnh đạo và phong cách, lề lối làm việc. Bệnh thành tích, dân chủ hình
thức còn nặng; tệ quan liêu, xa dân, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân còn diễn
ra ở nhiều nơi. Một bộ phận không nhỏ Đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý
chí phấn đấu, vi phạm nguyên tắc Đảng, tự phê bình và phê bình yếu. Tình trạng
suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, Đảng
viên rất đáng lo ngại; tệ tham nhũng, lãng phí, tiêu cực còn xảy ra ở nhiều nơi
nhưng chậm được phát hiện, ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả. Công tác quản lý,
kiểm tra, giám sát đội ngũ cán bộ, Đảng viên ở nhiều cơ sở còn bị buông lỏng. Cấp
ủy và chi bộ chưa nắm chắc tình hình tư tưởng và phẩm chất của cán bộ, Đảng
viên; chưa có những giải pháp cụ thể để ngăn ngừa, đấu tranh và xử lý kịp thời
những Đảng viên vi phạm. Việc đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và Đảng
viên hằng năm tuy có tiến bộ nhưng vẫn chưa khắc phục căn bản được bệnh thành
tích. Công tác kết nạp Đảng viên vẫn còn chú ý nhiều đến số lượng, chưa chú trọng
đúng mức chất lượng; số Đảng viên mới được kết nạp ở địa bàn dân cư là công
nhân lao động trong các thành phần kinh tế còn ít.
3.2 GIAI PHAP
3.2.1 tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện đồng bộ các giải pháp để nâng cao năng
lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng; bảo đảm sự lãnh đạo của
Đảng trên tất cả các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội ở cơ sở, nhất là ở
19
những địa bàn, lĩnh vực trọng yếu; lấy chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống
chính trị ở cơ sở làm thước đo kết quả tổng hợp của toàn bộ công tác xây dựng
Đảng.
3.2.2 tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào dân để
xây dựng Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong việc
tham gia xây dựng Đảng; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, mọi tổ chức đảng
và cán bộ, Đảng viên phải chịu sự giám sát của nhân dân.
3.3.3 xây dựng tổ chức cơ sở đảng phải kết hợp chặt chẽ với thực hiện Cuộc vận
động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, với xây dựng chính
quyền, các tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở vững mạnh, với nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ, Đảng viên, trước hết là bí thư đảng bộ, chi bộ cơ sở, người đứng
đầu và các cấp ủy viên ở cơ sở.
Trước mắt và trong thời gian tới, các cấp ủy đảng cần tập trung lãnh đạo, chỉ
đạo thực hiện tốt một số nội dung cụ thể sau đây:
Một là, chỉ đạo việc chuẩn bị và tổ chức tốt đại hội các tổ chức cơ sở đảng theo
đúng yêu cầu Chỉ thị số 37-CT/TW, ngày 4/8/2009, của Bộ Chính trị về “Đại hội
đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng”. Sau đại
hội ở mỗi cấp, các cấp ủy cần khẩn trương bổ sung, hoàn thiện quy chế làm việc;
phân công nhiệm vụ cụ thể cho các cấp ủy viên; cụ thể hóa nghị quyết đại hội thành
chương trình công tác toàn khóa của ban chấp hành; xác định những nhiệm vụ
trong tâm, trọng điểm và xây dựng kế hoạch công tác cụ thể trong từng thời gian để
chỉ đạo thực hiện, đưa nghị quyết đại hội vào cuộc sống. Đẩy mạnh các phong trào
thi đua thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế, xã hội của địa phương, đơn vị, lập
thành tích chào mừng đại hội đảng bộ cấp trên và Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI của Đảng.
20
Hai là, tiếp tục sắp xếp, kiện toàn và hoàn thiện mô hình tổ chức của các loại hình
tổ chức cơ sở đảng cho đồng bộ, thống nhất với các tổ chức của hệ thống chính trị ở
cơ sở, vừa tạo được mô hình tổ chức chung trong toàn Đảng, vừa có những mô
hình tổ chức phù hợp với những nơi có tính đặc thù. Những nơi còn tình trạng đảng
bộ cơ sở trong đảng bộ cơ sở, thì cấp ủy cấp trên trực tiếp của cơ sở nghiên cứu
giao một số quyền cấp trên cơ sở cho đảng ủy cơ sở hoặc thành lập đảng bộ bộ
phận, dưới đảng ủy bộ phận có các chi bộ trực thuộc.
Ba là, đẩy mạnh việc xây dựng, phát triển tổ chức đảng và kết nạp Đảng viên mới,
nhất là ở những nơi chưa có tổ chức đảng, có ít hoặc chưa có Đảng viên. Cấp ủy
cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng cần phân công cấp ủy viên và Đảng viên
là cán bộ lãnh đạo các ban, ngành, đoàn thể phụ trách từng đơn vị. Cấp ủy cơ sở
giao nhiệm vụ cụ thể cho các chi bộ phân công Đảng viên phát hiện, bồi dưỡng,
giúp đỡ quần chúng phấn đấu vào Đảng hoặc luân chuyển cán bộ, Đảng viên từ nơi
khác đến để góp phần thành lập chi bộ và giúp đỡ quần chúng, tạo nguồn kết nạp
Đảng viên. Chú trọng nâng cao chất lượng kết nạp Đảng viên mới, khắc phục tình
trạng chạy theo thành tích, số lượng, hạ thấp tiêu chuẩn. Những Đảng viên làm việc
ổn định (từ một năm trở lên) trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phải chuyển
sinh hoạt đảng về nơi làm việc (nếu nơi đó có tổ chức đảng) để Đảng viên tham gia
sinh hoạt đảng và thực hiện nhiệm vụ Đảng viên.
Bốn là, tích cực thực hiện việc trẻ hóa, tiêu chuẩn hóa và từng bước nhất thể hóa
cán bộ chủ chốt ở cơ sở. Cần đẩy mạnh việc tuyển chọn, tiếp nhận và đưa những
sinh viên là người địa phương đã tốt nghiệp đại học, cao đẳng về công tác ở xã,
phường, thị trấn làm công chức dự bị để rèn luyện, thử thách, tạo nguồn cán bộ lâu
dài. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng và từng bước chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công
chức cơ sở xã, phường, thị trấn. Các tỉnh miền núi, vùng có đông đồng bào dân tộc
thiểu số, cần tăng cường đầu tư, nâng cao chất lượng đào tạo của các trường phổ
thông dân tộc nội trú; phối hợp với các quân khu lựa chọn những thanh niên người
dân tộc thiểu số đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự, tiếp tục đưa đi đào tạo, nâng cao
21
trình độ học vấn, lý luận chính trị, kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, tạo nguồn xây
dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở.
Năm là, các cấp ủy, đảng bộ, chi bộ cơ sở và chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở thực
hiện nghiêm túc, có nền nếp chế độ sinh hoạt đảng định kỳ. Nội dung sinh hoạt cần
tập trung giải quyết những vấn đề cụ thể, thiết thực liên quan đến chức năng, nhiệm
vụ của chi bộ và quyền lợi, trách nhiệm của Đảng viên; nâng cao trình độ, nhận
thức, tạo điều kiện cho Đảng viên thực hiện tốt nghị quyết của chi bộ và các nhiệm
vụ được phân công. Thường xuyên liên hệ, kiểm điểm việc thực hiện Cuộc vận
động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, kịp thời nêu gương
những Đảng viên có thành tích xuất sắc và nhắc nhở, giúp đỡ những Đảng viên có
thiếu sót hoặc gặp khó khăn. Việc đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng phải gắn
với kết quả thực hiện nhiệm vụ, sự vững mạnh của các tổ chức trong hệ thống
chính trị và chất lượng đội ngũ cán bộ, Đảng viên.
Sáu là, các cấp ủy cấp trên phải tập trung chỉ đạo và nắm chắc tình hình cơ sở,
phân công các cấp ủy viên trực tiếp phụ trách cơ sở, nhất là những nơi có khó khăn.
Cán bộ lãnh đạo, quản lý và cấp ủy viên cấp trên phải bố trí thời gian gặp gỡ Đảng
viên tại cơ sở, giải quyết kịp thời những kiến nghị chính đáng của Đảng viên, bảo
vệ những người trung thực, thẳng thắn đấu tranh chống tiêu cực. Thường xuyên tổ
chức các lớp bồi dưỡng để cập nhật kiến thức mới và bồi dưỡng nghiệp vụ cho cấp
ủy viên cơ sở; nâng cao năng lực nhận thức, vận dụng, cụ thể hóa đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các nghị quyết của cấp ủy
cấp trên và năng lực tổ chức thực hiện nghị quyết của cấp mình; phát huy sức mạnh
của cả hệ thống chính trị ở cơ sở để thực hiện các nhiệm vụ chính trị được giao.
Bảy là: Xây dựng Đảng bộ cơ sở về chính trị, tư tưởng.
- Tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền làm cho tất cả đảng viên nhận thức
được rõ về nền tư tưởng của Đảng ta là Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, tư tưởng đó là bảo vệ lợi ích của nhân dân.
22
- Thường xuyên giáo dục truyền thống vẻ vang của Đảng làm cho mọi đảng viên
kiên định lập trường đi theo con đường mà Đảng, Bác Hồ đã chọn.
- Làm tốt công tác xây dựng Đảng về chính trị và tư tưởng nhằm nâng cao bản lĩnh
chính trị, trí tuệ và năng lực của Đảng.
Tám là: Xây dựng Đảng bộ cơ sở về tổ chức.
- Các tổ chức cơ sở Đảng xã, phường, thị trấn phải thực hiện nghiêm ngặt các
nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, trước hết là nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Nâng cao chất lượng sinh hoạt của cấp ủy các cấp và của chi bộ; thực hiện
nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình một cách thường xuyên trong tổ chức
Đảng. Chống cách làm hình thức, không sửa chữa khuyết điểm.
- Mỗi chi bộ, mỗi cấp uỷ phải thực hiện tốt công tác quản lý chặt chẽ đảng viên,
không để một đảng viên nào đứng ngoài trách nhiệm quản lý của tổ chức Đảng.
- Tiếp tục xây dựng và củng cố các chi bộ thuộc Đảng bộ cơ sở xã, phường, thị trấn
- là cầu nối giữa Đảng với các tầng lớp nhân dân, trực tiếp tổ chức và lãnh đạo nhân
dân thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng.
Chín là Nâng cao chất lượng đảng viên.
- Cần phải làm cho mọi đảng viên ở cơ sở nhận thức được tình hình mới hiện nay,
người đảng viên phải có trình độ giác ngộ cách mạng cao, trình độ trí tuệ cao, ý
thức tổ chức kỷ luật nghiêm, phẩm chất đạo đức tốt.
- Mọi đảng viên đều được tổ chức Đảng quản lý và phân công nhiệm vụ công tác
cụ thể, hàng năm phân tích chất lượng đảng viên trên cơ sở mức độ hoàn thành
nhiệm vụ của đảng viên.
- Công tác phát triển đảng viên mới cần phải coi trọng hơn nữa. Phải thường xuyên
quan tâm lãnh đạo xây dựng Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, coi đây là
một nhiệm vụ quan trọng của công tác xây dựng Đảng.
- Việc phân công công tác cho đảng viên, nên nghiên cứu khả năng và điều kiện
của từng đồng chí để phân công cho phù hợp.
23
- Các cấp uỷ Đảng, đặc biệt là cấp uỷ chi bộ cần quan tâm động viên tới từng đồng
chí đảng viên; khắc phục ngay tình hình thiếu sót khuyết điểm hiện nay là chỉ biết
giao nhiệm vụ mà không chú ý tới đời tư.9
Mười là:Vấn đề nâng cao năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ cơ sở
- Phải rà soát, sắp xếp điều chỉnh, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ hiện có, trước hết là các
chức danh lãnh đạo ở cấp xã. Đối với cán bộ chủ chốt kiến thức năng lực yếu không
đảm đương nổi nhiệm vụ cần điều chỉnh, bố trí công việc thích hợp, ở những nơi trì
trệ, yếu kém, cán bộ chủ chốt có sai phạm cần làm rõ, xử lý kịp thời, nghiêm minh.
- Nên có kế hoạch và động viên số cán bộ đương chức học chuyên môn và nghiệp
vụ, chọn hình thức đào tạo cho phù hợp với điều kiện công tác cơ sở.
Mười một: Về công tác vận động nhân dân, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng
và nhân dân.
- Trước hết, giáo dục và động viên đảng viên, tạo điều kiện cho đảng viên liên hệ
chặt chẽ với quần chúng, thông qua sự liên hệ, đảng viên tuyên truyền đường lối
chính sách của Đảng đến với quần chúng với Đảng.
- Cấp uỷ cơ sở phải có kế hoạch chăm lo thường xuyên tới các đoàn thể quần chúng,
phân công đảng viên làm công tác quần chúng, tạo cho mối quan hệ giữa Đảng và
nhân dân gắn bó hơn.
- Đảng lãnh đạo thông qua chủ trương, định hướng bằng chương trình kế hoạch,
không can thiệp sâu vào việc điều hành của chính quyền và hoạt động của các đoàn
thể.
Mười hai: Về đổi mới phương thức hoạt động, lãnh đạo của đảng bộ cơ sở
- Xây dựng chỉnh đốn Đảng, hoàn thiện quy chế làm việc, đưa các hoạt động của tổ
chức Đảng vào nền nếp, đúng chức năng, rõ nhiệm vụ.
- Cải tiến và nâng cao chất lượng ra nghị quyết chi bộ, nghị quyết Đảng uỷ và nghị
quyết Đảng bộ, làm cho nghị quyết sát thực tế, phù hợp với đa số cán bộ đảng viên
và quần chsở đảng là hai mặt có liên quan chặt chẽ với nhau. Năng lực để ra nhiệm
24
vụ chính trị ở cơ sở là cơ sở của năng lực tổ chức thực tiễn. Năng lực để ra nhiệm
vụ chính trị càng tốt thì càng dễ hình thành năng lực tổ chức thực tiễn. Còn năng
lực tổ chức thực tiễn của tổ chức cơ sở đảng thì trong điều kiện nhất định ảnh
hưởng đêns sự phát triển của năng lực đề ra nhiệm vụ chính trị.
25