Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Skkn vận dụng pisa vào thiết kế phần đọc hiểu trong đề kiểm tra (đề thi) môn ngữ văn lớp 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (366.55 KB, 64 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO GIA LAI
TRƯỜNG THPT LÊ THÁNH TÔNG
TỔ NGỮ VĂN

ĐỀ TÀI:

VẬN DỤNG PISA VÀO THIẾT KẾ PHẦN ĐỌC-HIỂU
TRONG ĐỀ KIỂM TRA (ĐỀ THI)
MÔN NGỮ VĂN LỚP 12

Tác giả: Bùi Thị Thanh Hương
Chức danh: Giáo viên
Năm thực hiện: 2015


Bùi Thị Thanh Hương- Trường THPT Lê Thánh Tông

Mục lục
A. ĐẶT VẤN ĐỀ.............................................................................................3
I. Lí do chọn đề tài........................................................................................3
II. Mục đích nghiên cứu...............................................................................5
III. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu..............................................................5
IV. Phương pháp nghiên cứu........................................................................5
V. Lịch sử vấn đề..........................................................................................6
B. NỘI DUNG..................................................................................................8
I. Ưu điểm trong yêu cầu đọc-hiểu của PISA với yêu cầu đọc-hiểu của
chương trình Ngữ văn THPT.............................................................................8
1.

Mục tiêu.........................................................................................8


2.

Đối tượng......................................................................................8

3.

Yêu cầu..........................................................................................9

4.

Đề kiểm tra....................................................................................9

II. Mục đích, nguyên tắc và những yêu cầu khi vận dụng PISA vào thiết

kế phần Đọc-hiểu trong đề kiểm tra (đề thi) môn Ngữ văn lớp 12............9
1.

Mục đích........................................................................................9

2.

Nguyên tắc...................................................................................10

3.

Các yêu cầu cụ thể.......................................................................13

a. Về ngữ liệu và yêu cầu kiến thức................................................13
b. Về câu hỏi....................................................................................13
c. Về cách mã hóa (chấm điểm)......................................................17


III. Vận dụng PISA vào thiết kế phần Đọc-hiểu trong đề kiểm tra (đề
thi) môn Ngữ văn lớp 12 ( tập 1, chương trình cơ bản)...........................17
1. Tuyên ngôn Độc lập – Hồ Chí Minh...........................................17
2. Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc –
Phạm Văn Đồng.............................................................................20
Trang 2


Bùi Thị Thanh Hương- Trường THPT Lê Thánh Tông

3. Thông điệp nhân Ngày Thế giới phòng chống AIDS, 1-12-2003 –
Cô-phi An-nan....................................................................................23
4. Tây Tiến – Quang Dũng.....................................................................26
5. Việt Bắc (trích) – Tố Hữu...............................................................30
6. Đất Nước (trích) – Nguyễn Khoa Điềm.........................................33
7. Đất nước – Nguyễn Đình Thi........................................................36
8. Dọn về làng – Nông Quốc Chấn....................................................39
9. Đò Lèn – Nguyễn Duy...................................................................41
10.Sóng – Xuân Quỳnh.......................................................................44
11.Đàn ghi ta của Lor-ca – Thanh Thảo.............................................47
12.Bác ơi! – Tố Hữu...........................................................................50
13.Người lái đò Sông Đà – Nguyễn Tuân....................................... ...53
14.Ai đã đặt tên cho dòng sông? – Hoàng Phủ Ngọc Tường..............57
IV. Kết quả nghiên cứu................................................................................59
C. KẾT LUẬN.................................................................................................61
Tài liệu tham khảo............................................................................................63

Trang 3



Bùi Thị Thanh Hương- Trường THPT Lê Thánh Tông

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lí do chọn đề tài
1. Đổi mới kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn là vấn đề cấp thiết nhằm đáp
ứng yêu cầu định hướng chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo của nước ta
trong thời kì đổi mới, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Đặc biệt với bộ môn
Ngữ văn đang có những thay đổi quan trọng về cách ra đề và đánh giá trong
các bài kiểm tra, bài thi để phù hợp với xu thế chung của thời đại.
Nhưng việc đổi mới kiểm tra đánh giá vẫn chưa thực sự chuyển biến, nhiều
khi còn dừng ở hình thức, chưa có chiều sâu. Việc kiểm tra đánh giá vẫn chủ
yếu là kiểm tra kiến thức nhớ, tái hiện, làm theo, chép lại,... học tác phẩm nào
thi đúng tác phẩm đó, chưa đánh giá đúng được sự vận dụng kiến thức, chưa
chú trọng việc đánh giá thường xuyên trên lớp học và sử dụng kết quả đánh
giá để điều chỉnh nội dung, phương pháp dạy và học.
2. Theo “Kết quả hội thảo khoa học quốc gia về dạy học Ngữ văn ở
trường phổ thông Việt Nam” của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Số: 43 /TBBGDĐT, ngày 14/1/2013 đã thông báo: “Mở rộng nghiên cứu và chắt lọc
những kinh nghiệm quốc tế vào dạy học và kiểm tra đánh giá Ngữ văn – nhất là
khoa học về đánh giá thường xuyên trên lớp học. Cần vận dụng các bộ công cụ
đánh giá quốc tế theo hướng của PISA để đo lường năng lực đọc hiểu Ngữ văn
của học sinh. Đổi mới cách ra đề và hướng dẫn chấm phù hợp để đánh giá
được năng lực của người học, tránh hiện tượng học vẹt, viết theo bài văn mẫu,
học tác phẩm nào thi tác phẩm đó.”
Như vậy kiểm tra, đánh giá theo yêu cầu phát triển năng lực là một định
hướng mới do Bộ Giáo dục và Đào tạo đề ra. Định hướng này đã có những
thay đổi tích cực dựa trên các kết quả của chương trình đánh giá quốc tế, trong
đó có PISA. Tiếp cận PISA trong việc đánh giá năng lực đọc – hiểu văn bản
Ngữ văn của học sinh THPT sẽ đem đến nhiều đổi mới trong giảng dạy cho
Trang 4



Bùi Thị Thanh Hương- Trường THPT Lê Thánh Tông

giáo viên và học tập cho học sinh, hướng đến những năng lực tư duy, sáng tạo,
tránh được lối học thụ động, không gắn với thực tiễn cuộc sống. Mặt khác vận
dụng PISA trong đánh giá năng lực đọc – hiểu cho học sinh cũng là để hòa
nhập với giáo dục quốc tế.
3. Bắt đầu từ năm học 2013-2014, đề thi tốt nghiệp môn Ngữ văn có sự
thay đổi lớn, đó chính là sự xuất hiện của phần Đọc - hiểu. Để kiểm tra kĩ
năng đọc - hiểu sẽ có những câu hỏi theo tiêu chuẩn đánh giá năng lực người
học của PISA. Các câu hỏi này sẽ xoay quanh các vấn đề liên quan tới tác giả,
nội dung và nghệ thuật của văn bản đó. Ngoài ra, đề thi còn yêu cầu học sinh
vận dụng kiến thức vào thực tiễn, do đó tăng cường câu hỏi mở, gắn với thời
sự quê hương, đất nước để học sinh được bày tỏ chính kiến của mình về các
vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội.
4. Bản thân người viết cũng như các đồng nghiệp khi ra đề kiểm tra (đề
thi) phần Đọc-hiểu cũng còn nhiều lúng túng vì chưa hiểu hết những nguyên
tắc, yêu cầu cụ thể cũng như nguồn tư liệu chưa được phong phú.
5. Theo GS Trần Đình Sử, “Khởi điểm của môn Ngữ văn là dạy học sinh
đọc hiểu trực tiếp văn bản văn học của nhà văn… Nếu học sinh không trực
tiếp đọc các văn bản ấy, không hiểu được văn bản, thì coi như mọi yêu cầu,
mục tiêu cao đẹp của môn Văn đều chỉ là nói suông, khó với tới, đừng nói gì
tới tình yêu văn học”. Do đó, có thể nói rèn luyện năng lực, kĩ năng đọc – hiểu
văn bản cho học sinh là một trong những yêu cầu quan trọng, khoa học và
đúng đắn để các em tiếp cận môn Ngữ văn, đánh thức tình yêu đối với môn
Văn và có khả năng vận dụng sáng tạo kiến thức đã học trong nhà trường vào
cuộc sống.
Trong giai đoạn hiện nay, việc nâng cao chất lượng dạy và học môn
Ngữ văn là nhu cầu thiết yếu đặt ra đối với những người đang làm nhiệm vụ

giảng dạy. Vậy, làm thế nào để học sinh ngày nay có tình yêu, học tốt và có
Trang 5


Bùi Thị Thanh Hương- Trường THPT Lê Thánh Tông

thể vận dụng môn Ngữ văn vào cuộc sống sau này? Đó là câu hỏi của nhiều
giáo viên dạy Ngữ văn luôn trăn trở. Với quan điểm của người viết, đổi mới
kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn lớp 12 theo hướng đọc-hiểu của PISA mà cụ
thể là thiết kế phần Đọc-hiểu theo PISA trong đề kiểm tra (đề thi) môn Ngữ
văn là vấn đề quan trọng góp phần nâng dần chất lượng dạy và học đối với bộ
môn Ngữ văn.
Trên đây là những lí do người viết viết đề tài “ VẬN DỤNG PISA VÀO
THIẾT KẾ PHẦN ĐỌC-HIỂU TRONG ĐỀ KIỂM TRA (ĐỀ THI) MÔN
NGỮ VĂN LỚP 12”

II. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi nhằm các mục đích sau:
1. Góp phần đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá môn Ngữ văn phù
hợp với với nhu cầu thời đại.
2. Giúp học sinh làm quen và bước đầu có thể làm được đề thi môn
Ngữ văn trong kì thi THPT Quốc gia.
3. Đánh thức tình yêu đối với môn Ngữ văn, có khả năng vận dụng
sáng tạo kiến thức đã học trong nhà trường vào cuộc sống.
4. Cung cấp thêm tư liệu để giáo viên giảm bớt những khó khăn khi ra
đề kiểm tra ( đề thi) phần Đọc-hiểu.

III. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
1. Đối tượng nghiên cứu: học sinh lớp 12 trường THPT Lê Thánh
Tông.

2. Phạm vi nghiên cứu: chương trình Ngữ văn 12 THPT, tập 1 (Chương
trình Cơ bản).

IV. Phương pháp nghiên cứu
1. Tìm hiểu, nghiên cứu tài liệu.
2. Khảo sát kết quả học tập của học sinh.
Trang 6


Bùi Thị Thanh Hương- Trường THPT Lê Thánh Tông

3. Rút kinh nghiệm qua các bài giảng của bản thân và đồng nghiệp.

V. Lịch sử vấn đề
Các tài liệu mà người viết tìm đọc được đều là những văn bản, những bài
báo cáo, chuyên đề đưa ra một số nguyên tắc, yêu cầu khi thiết kế đề kiểm tra
(đề thi ) và thiết kế một số đề đọc-hiểu.
- Thực hiện nhiệm vụ đổi mới giáo dục phổ thông theo tinh thần Nghị quyết
29/NQ-TW, ngày 6/3/2014 Bộ GD&ĐT đã ban hành kế hoạch số 103/KHBGDĐT về việc tổ chức hội thảo “Đổi mới kiểm tra, đánh giá chất lượng học
tập môn Ngữ văn trong trường phổ thông”. Nhiều ý kiến trong hội thảo đã xác
định: bên cạnh việc yêu cầu học sinh đọc hiểu một đoạn văn, bài thơ; nhà
trường cần dạy và yêu cầu các em biết đọc hiểu các loại văn bản thông tin,
trong đó có rất nhiều văn bản kết hợp kênh chữ và kênh hình, học sinh phải
biết đọc hình kết hợp với đọc chữ để nắm được thông tin và hiểu đúng ý nghĩa
của văn bản.
Yêu cầu về năng lực đọc-hiểu được hội thảo đưa ra là:
. Kiểm tra kiến thức về tiếng Việt: phát hiện những sai sót về chính tả, ngữ
pháp, chấm câu, dùng từ, logic…. chẳng hạn cho một đoạn văn có nhiều sai
sót và yêu cầu học sinh phát hiện những sai sót trong đoạn văn đó.
. Yêu cầu tóm tắt ý chính của một đoạn văn bản cho trước (văn bản có thể là

văn học, sử , địa, khoa học tự nhiên…)
. Chỉ ra các biện pháp nghệ thuật đặc sắc và tác dụng của biện pháp đó trong
một đoạn thơ/ văn cho sẵn
- Theo tác giả Bùi Thị Thanh Huyền (Lào Cai) thì mục đích, ý nghĩa của việc
vận dụng PISA vào đánh giá chất lượng học tập môn Ngữ văn ở trường THPT
là đổi mới kiểm tra, đánh giá chất lượng học tập của học sinh theo xu hướng
phát triển năng lực. Tác giả đưa ra các kiểu câu hỏi được sử dụng như
. Câu hỏi mở đòi hỏi ngắn
Trang 7


Bùi Thị Thanh Hương- Trường THPT Lê Thánh Tông

. Câu hỏi mở đòi hỏi trả lời dài
(khi chấm phải tách ra từng phần để cho điểm)
. Câu hỏi đóng đòi hỏi trả lời
. Câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn
. Câu hỏi Có-Không, Đúng-Sai phức hợp
Với những câu hỏi như trên đòi hỏi không chỉ học sinh tái hiện kiến thức có
sẵn, mà còn phải có khả năng tư duy, sáng tạo, biết vận dụng kiến thức đã học
để giải quyết các tình huống cụ thể, có tác dụng kích thích sự hứng thú của
học sinh. Cách ra đề này cũng khắc phục tình trạng học tủ, học lệch, đồng thời
rèn luyên kĩ năng sử dụng ngôn ngữ chọn lọc, chính xác, ngắn gọn.
- PGS.TS Phạm Thị Hương (Khoa Ngữ văn- trường ĐHSP Hà Nội) đã đưa ra
một số định hướng về cấu trúc đề kiểm tra: Nên chia làm hai phần: Đọc – Viết
cơ bản và Đọc – Viết hồi ứng văn học (thẩm mĩ). Ở phần Đọc – Viết cơ
bản: Học sinh được đọc một hoặc một số văn bản văn hóa – thông tin có tính
chất nhật dụng và trả lời các câu hỏi ngắn (có thể tham khảo và áp dụng cách
làm của PISA) để kiểm tra tốc độ đọc, khả năng nắm bắt và kết nối thông tin,
khả năng đào sâu, mở rộng thông tin thu được từ văn bản và khả năng tổng

hợp, vận dụng điều được đọc vào giải quyết các vấn đề của thực tế đời sống.
- Chuyên đề “Đổi mới kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn cấp THPT theo hướng
đọc-hiểu của PISA” do cô Nhan Thị Hằng Nga biên soạn cũng đã đưa ra sự
cần thiết tiến hành nghiên cứu việc đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá
môn Ngữ văn cấp THPT theo hướng Đọc-hiểu của PISA; Một số vấn đề cần
biết về PISA và những yêu cầu cơ bản của việc thiết kế đề kiểm tra môn Ngữ
văn cấp THPT theo hướng Đọc-hiểu của PISA.
- Tài liệu “Dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo định hướng
phát triển năng lực của học sinh” của Vụ Giáo dục trung học đã hướng dẫn

Trang 8


Bùi Thị Thanh Hương- Trường THPT Lê Thánh Tông

biên soạn câu hỏi và đề kiểm tra theo định hướng phát triển năng lực của học
sinh, trong đó có áp dụng cách thiết kế câu hỏi của PISA.
Như vậy, người viết chưa đọc một tài liệu nào tổng hợp hai phần: hướng dẫn
cụ thể về cách ra đề, cách chấm các bài kiểm tra (bài thi) phần Đọc-hiểu có
vận dụng PISA và tài liệu về một số đề đọc-hiểu trong chương trình Ngữ văn
lớp 12, tập 1, vì vậy người viết đã thực hiện đề tài: “Vận dụng PISA vào thiết
kế phần Đọc-hiểu trong đề kiểm tra (đề thi) môn Ngữ văn lớp 12”

B. NỘI DUNG
I. Ưu điểm trong yêu cầu đọc-hiểu của PISA với yêu cầu đọchiểu của chương trình Ngữ văn THPT
1. Mục tiêu
Phần đọc- hiểu bậc học THPT môn Ngữ văn Việt Nam: cung cấp kiến
thức; hình thành và phát triển kĩ năng; bồi dưỡng và giáo dục học sinh những
tình cảm tốt đẹp, trách nhiệm của bản thân với gia đình và cộng đồng. Trong
đó cung cấp kiến thức cho học sinh được coi là số một. Từ đó cho thấy,

chương trình đọc - hiểu môn Ngữ văn THPT vẫn “nặng” về trang bị kiến thức
hơn là yêu cầu rèn kĩ năng, năng lực nhất là kĩ năng sống, tư duy sáng tạo, tự
học, tự nghiên cứu.
PISA lại hướng đến sự phát triển năng lực, đánh giá khả năng giải quyết các
vấn đề mà một học sinh 15 tuổi (độ tuổi được coi là kết thúc giai đoạn giáo
dục bắt buộc ở hầu hết các nước thành viên OECD) cần có để đối diện với
những thách thức của cuộc sống.
2. Đối tượng
Chương trình Ngữ văn THPT: đối tượng đọc hiểu cũng là văn bản, nhưng
văn bản được hiểu theo nghĩa hẹp hơn, chủ yếu là văn bản (liền mạch) và đại
đa số là văn bản văn học. Trong văn bản văn học, chương trình quá chú trọng

Trang 9


Bùi Thị Thanh Hương- Trường THPT Lê Thánh Tông

tới văn bản hư cấu như truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ, kịch…, các loại văn bản
báo chí, văn bản đời thường mà học sinh thường tiếp xúc và sử dụng hàng
ngày lại ít được chú ý. Hơn thế nữa, chúng ta cũng chưa đặt ra vấn đề đọc hiểu
các văn bản điện tử (electronic texts) - loại văn bản đã trở nên thông dụng và
thịnh hành trong nhà trường cũng như xã hội ngày nay.
Đối tượng đọc hiểu của PISA không chỉ có văn bản in mà còn bao gồm văn
bản điện tử
3. Yêu cầu
Nhìn chung, PISA xác định trình độ đọc dựa trên ba phương diện: Thu thập
thông tin, phân tích, lí giải văn bản, phản hồi và đánh giá. Trong khi đó,
chương trình đọc hiểu của môn Ngữ văn THPT chủ yếu tập trung xác định
trình độ dựa vào việc phân tích và lí giải văn bản (nội dung và hình thức),
trong đó nội dung được chú ý hơn. Vì vậy, chúng ta có thể nhận thấy yêu cầu

đọc hiểu của PISA cao và sâu hơn nhiều so với chương trình của Việt Nam.
4. Đề kiểm tra
Các đề kiểm tra đọc hiểu của chương trình Ngữ văn THPT phần lớn sử dụng
hệ thống câu hỏi tự luận, còn các đề kiểm tra của PISA bao gồm hai phần: trắc
nghiệm và tự luận.

II. Mục đích, nguyên tắc và những yêu cầu khi vận dụng PISA
vào thiết kế phần Đọc-hiểu trong đề kiểm tra (đề thi) môn Ngữ văn
lớp 12
1. Mục đích
- Kiểm tra việc đọc hiểu văn bản: Kiểm tra lại thông tin đã đọc, nhận
diện thông tin tương ứng; kiểm tra lại việc nắm thông tin, phải phù hợp, không
được lệch ra khỏi văn bản; kiểm tra kĩ năng trình bày lại nội dung văn bản dựa
trên những thông tin chính; tìm lại một cách cụ thể những thông tin đã đọc.

Trang 10


Bùi Thị Thanh Hương- Trường THPT Lê Thánh Tông

- Tạo ra nền tảng hiểu văn bản, cụ thể là lọc ra được chủ đề chính
của câu chuyện; tìm ra lý do cho việc lựa chọn của tác giả; hiểu được nội dung
chính của một đoạn văn tự chọn
- Phát triển kĩ năng bình luận văn bản, giữa việc hết hợp thông tin và
đọc biểu đồ; kết hợp thông tin giữa hai văn bản không liền mạch với nhau;
phân biệt mối liên hệ giữa các dữ liệu với nhau.
- Phát triển kĩ năng phân tích văn bản: nhận ra được những đặc điểm
hoặc tính cách nổi bật của nhân vật.
- Phản ánh lại việc suy nghĩ về nội dung văn bản: tạo nên việc so
sánh giữa nội dung văn bản với kiến thức của bản thân.

- Đánh giá cách hiểu về hình thức tác phẩm, nhận ra được thể loại
của văn bản.
Nhìn chung trình độ đọc được xác dịnh dựa trên ba phương diện:
+ Thu thập thông tin
+ Phân tích, lí giải văn bản
+ Phản hồi và đánh giá
2. Nguyên tắc
Kiểm tra đánh giá dù theo bất kỳ hình thức nào, cũng đều nhằm mục tiêu
phát triển hoạt động dạy và học, đồng thời phải đảm bảo lợi ích cho học sinh
được đánh giá và phát triển được. Vì vậy kiểm tra đánh giá cần phải được tuân
theo những chuẩn mực nhất định. Những chuẩn (quy định) này thường phải
được công khai rõ ràng với học sinh được đánh giá. Những qui định này cần
chi tiết, đầy đủ, rõ ràng về mọi lĩnh vực, từ việc xác định mục tiêu, nội dung
và phương thức đánh giá đến thời điểm đánh giá
- Thiết kế đề kiểm tra (đề thi) cần tuân theo các văn bản, hướng dẫn, chỉ định
của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sở Giáo dục và Đào tạo Gia Lai:

Trang 11


Bùi Thị Thanh Hương- Trường THPT Lê Thánh Tông

+ Công văn số 8733/BGDĐT-GDTrH ngày 30 tháng 12 năm 2010 của Bộ
Giáo dục và Đào tạo về việc hướng dẫn biên soạn đề kiểm tra. Trong hướng
dẫn kèm theo công văn, Bộ Giáo dục đã đưa ra các quy trình cụ thể khi biên
soạn đề kiểm tra. Quy trình bao gồm có 6 bước:
Bước 1: Xác định mục đích của đề kiểm tra
Bước 2: Xác định hình thức đề kiểm tra
Bước 3: Thiết lập ma trận đề kiểm tra
Bước 4: Biên soạn câu hỏi theo ma trận

Bước 5: Xây dựng hướng dẫn chấm (đáp án) và thang điểm
Bước 6: Xem xét lại việc biên soạn đề kiểm tra
+ Công văn số 5842/BGDĐT-VP ngày 01 tháng 9 năm 2011 của Bộ Giáo
dục và Đào tạo về việc hướng dẫn điều chỉnh nội dung dạy học.
Đối với môn Ngữ văn THPT mục đích điều chỉnh để dạy học phù hợp với
chuẩn kiến thức, kĩ năng của chương trình giáo dục phổ thông , phù hợp với
thời lượng dạy học và điều kiện thực tế các nhà trường, góp phần nâng cao
chất lượng dạy học và giáo dục. Hướng dẫn đã đưa ra nguyên tắc điều chỉnh,
nội dung thực hiện, thời gian điểu chỉnh và từng nội dung chi tiết
GV khi biên soạn đề cần căn cứ vào điều chỉnh để ra đề cho phù hợp.
+ Công văn số 5466/BGDĐT-GDTrH ngày 7 tháng 8 năm 2013 về việc
hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ Giáo dục Trung học năm học 2013-2014 đã chỉ
rõ: Đối với các môn khoa học xã hội và nhân văn cần tiếp tục nâng cao yêu cầu
vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tăng cường ra các câu hỏi mở, gắn với thời
sự quê hương đất nước để học sinh được bày tỏ chính kiến của mình về các
vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội.
+ Điều chỉnh nội dung dạy học môn Ngữ văn cấp THPT trong công văn
số 872/SGDĐT-GDTrH ngày 30 tháng 9 năm 2011 của Sở Giáo dục Đào tạo
Gia Lai.
Trang 12


Bùi Thị Thanh Hương- Trường THPT Lê Thánh Tông

- Giáo viên khi biên soạn đề cần dựa vào Chuẩn kiến thức – Kĩ năng hiện
hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
- Khi ra đề, giáo viên cần chú ý đến khả năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn của học sinh.
- Giáo viên còn dựa vào bảng mục tiêu đánh giá kiến thức của học sinh theo
PISA

Các mục tiêu
Cấp độ 2

Chủ
đề

Cấp độ 3

Cấp độ 1 (Tái hiện)

(Hiểu và vận

một số loại văn bản

văn bản (xác thức vào các tình

(Giải quyết vấn đề)
dụng)
- Biết cách trình bày - Hiểu được - Vận dụng các kiến
- Biết được một số loại định
văn bản.

được huống của đời sống

tiêu đề của
văn bản)
- Xây dựng
được một số
loại văn bản


+ Những câu hỏi thuộc cấp độ 1 nhằm kiểm tra kiến thức của học sinh về tác
giả, tác phẩm, về các chi tiết, dẫn chứng…trong văn bản Ngữ văn.
+ Những câu hỏi thuộc cấp độ 2 nhằm kiểm tra khả năng phân tích, lý giải …
các ý nghĩa, vấn đề trong văn bản Ngữ văn.
Câu hỏi ở cấp độ này có thể yêu cầu học sinh trả lời ngắn hoặc dài nhưng các
em phải hiểu vấn đề trình bày. Có thể yêu cầu các em giải thích nhan đề văn
bản, phân tích được giá trị nội dung, nghệ thuật, nêu được các ý nghĩa của văn
bản Ngữ văn.

Trang 13


Bùi Thị Thanh Hương- Trường THPT Lê Thánh Tông

+ Những câu hỏi thuộc cấp độ 3 của PISA yêu cầu phản hồi và đánh giá. Có
thể vận dụng những câu hỏi ở cấp độ này cho phép học sinh liên hệ từ bài học
(văn bản trong sách Ngữ văn THPT) đến cuộc sống. Từ vấn đề được bàn đến
trong tác phẩm, học sinh trình bày quan điểm cá nhân của mình, suy nghĩ,
nhận xét, bày tỏ ý kiến …
3. Các yêu cầu cụ thể
a. Về ngữ liệu và yêu cầu kiến thức
- Hiện nay, khi thiết kế phần Đọc-hiểu trong các bài kiểm tra và thi, chúng ta
thường lấy ngữ liệu trong các văn bản đã học ở SGK hoặc ngữ liệu ngoài SGK
thuộc các vấn đề văn học, văn hóa, đời sống xã hội…( chủ yếu là văn bản
nghệ thuật và văn bản nhật dụng)
- Cần đảm bảo một số yêu cầu nội dung kiến thức sau:
+ Nhận biết về kiểu (loại), phương thức biểu đạt, cách sử dụng từ ngữ,
câu văn, hình ảnh; nhận biết các biện pháp tu từ, phong cách chức năng ngôn
ngữ…
+ Hiểu đặc điểm thể loại, phương thức biểu đạt, ý nghĩa của việc sử

dụng từ ngữ, câu văn, hình ảnh, biện pháp tu từ, phong cách chức năng ngôn
ngữ...
+ Hiểu nghĩa của một số từ trong văn bản
+ Khái quát được nội dung cơ bản của văn bản, đoạn văn.
+ Bày tỏ suy nghĩ bằng một đoạn văn ngắn.
+....
b. Về câu hỏi
Có hai dạng câu hỏi: dạng thứ nhất là câu hỏi trắc nghiệm khách quan
(TNKQ), đây là dạng chủ yếu và thứ hai là trắc nghiệm tự luận (TNTL), đây
là dạng câu hỏi mở, phải viết câu trả lời theo suy luận của học sinh.

Trang 14


Bùi Thị Thanh Hương- Trường THPT Lê Thánh Tông

b.1. Yêu cầu chung
- Một đề thi đơn giản, thông thường phải có ít nhất 3 câu hỏi.
- Các câu hỏi phải phân hóa và đầy đủ cả 3 cấp độ.
- Văn bản sử dụng làm ngữ liệu tránh mập mờ, khó hiểu, tránh vi phạm pháp
luật, đạo đức, văn hóa của dân tộc…
- Tùy vào số lượng câu hỏi, thời gian KTĐG để dùng ngữ liệu dài hay ngắn.
- Lời dẫn câu hỏi phải rõ ràng, không đánh đố, mơ hồ.
- Các đáp án của câu TNKQ phải có độ dài – ngắn tương xứng.
- Các phương án nhiễu sai phải nằm trong mức độ hiểu nhầm cho phép.
- Các câu tự luận nên khu biệt vấn đề, không nên vượt quá xa sẽ gây khó khăn
cho xây dựng đáp án.
- Câu hỏi phải theo thứ tự từ dễ tới khó.
b.2. Yêu cầu cụ thể
- Câu hỏi TNKQ: Nên sử dụng các loại câu hỏi sau

+ Loại câu hỏi nhiều lựa chọn
Câu trắc nghiệm có nhiều câu trả lời để lựa chọn (hay câu hỏi nhiều lựa chọn)
là loại câu được ưa chuộng nhất và có hiệu quả nhất. Một câu hỏi loại này
thường gồm một phần phát biểu chính, thường gọi là phần dẫn (câu dẫn) hay
câu hỏi, và bốn, năm hay phương án trả lời cho sẵn để học sinh tìm ra câu trả
lời đúng nhất trong nhiều phương án trả lời có sẵn. Ngoài câu đúng, các câu
trả lời khác đều có vẻ hợp lý (hay còn gọi là các câu nhiễu).
• Trong việc soạn các phương án trả lời sao cho câu đúng phải đúng một
cách không tranh cãi được (không có điểm sai và những chỗ tối nghĩa), còn
các câu nhiễu đều phải có vẻ hợp lí.
• Các câu nhiễu phải có tác động gây nhiễu với các học sinh có năng lực
tốt và tác động thu hút các học sinh kém hơn.

Trang 15


Bùi Thị Thanh Hương- Trường THPT Lê Thánh Tông

• Các câu trả lời đúng nhất phải được đặt ở các vị trí khác nhau một số lần
tương đương ở mỗi vị trí A, B, C, D, E. Vị trí các câu trả lời để chọn lựa nên
được sắp xếp theo một thứ tự ngẫu nhiên.
• Câu dẫn phải có nội dung ngắn gọn, diễn đạt rõ ràng một vấn đề hay nên
mang trọn ý nghĩa. Nên tránh dùng những câu có vẻ như câu hỏi loại “đúng
sai” không liên hệ nhau được sắp chung một chỗ.
• Các câu trả lời trong các phương án cho sẵn để chọn lựa phải đồng nhất
với nhau. Tính đồng nhất có thể dựa trên căn bản ý nghĩa, âm thanh, độ dài,
hoặc cùng là động từ, tính từ hay danh từ.
• Nếu có 4 hoặc 5 phương án để chọn cho mỗi câu hỏi. Nếu số phương án
trả lời ít hơn thì yếu tố may rủi tăng lên. Ngược lại, nếu có quá nhiều phương
án để chọn thì giáo viên khó tìm được câu nhiễu hay và học sinh mất nhiều

thời gian để đọc câu hỏi
• Nên ít hay tránh dùng thể phủ định trong các câu hỏi. Không nên hai thể
phủ định liên tiếp trong một câu hỏi.
+ Loại câu hỏi đúng-sai
Là câu yêu cầu người làm phải phán đoán đúng hay sai với một câu trần thuật
hoặc một câu hỏi, cũng chính là để học sinh tuỳ ý lựa chọn một trong hai đáp
án đưa ra.
• Câu nên hỏi những điều quan trọng, nội dung có giá trị chứ không phải
là những chi tiết vun vặt, không quan trọng
• Câu nên trắc nghiệm khả năng lí giải, chứ không chỉ là trắc nghiệm trí
nhớ. Càng không nên chép lại những câu trong tài lệu giảng dạy, để tránh cho
học sinh thuộc lòng sách máy móc mà không hiểu gì.
• Trong một câu chỉ có một vấn đề trọng tâm hoặc một ý trong tâm, không
thể xuất hiện hai ý( phán đoán) hoặc nửa câu đúng, nửa câu sai.

Trang 16


Bùi Thị Thanh Hương- Trường THPT Lê Thánh Tông

• Tránh sử dụng các từ ngữ có tính giới hạn đặc thù mang tính ám thị. Khi
ý của đề là chính xác thì nên tránh dùng những từ “nói chung”, “thường
thường”, “thông thường”, “rất ít khi”, “có khi”, “một vài”, “có thể” để tránh
cho đối tượng tham gia dựa vào những từ này đưa ra đáp án “đúng” từ đó
đoán đúng câu trắc nghiệm.
• Tránh những điều chưa thống nhất.
+ Loại câu hỏi điền khuyết
Đây là câu hỏi TNKQ mà học sinh phải điền từ hoặc cụm từ thích hợp với các
chỗ để trống. Nói chung, đây là loại TNKQ có câu trả lời tự do.
• Lời chỉ dẫn phải rõ ràng, tránh lấy nguyên văn các câu từ sách để khỏi

khuyến khích học sinh học thuộc lòng.
• Các khoảng trống nên có chiều dài bằng nhau để học sinh không đoán mò,
nên để trống những chữ quan trọng nhưng đừng quá nhiều.
- Câu hỏi TNTL
+ Câu hỏi tự luận ngắn
. Đảm bảo cần có nhiều hơn hai câu trả lời
. Hỏi đề học sinh giải thích lí do cho câu trả lời
+ Câu hỏi nhiều lựa chọn
. Phải có đầy đủ thông tin để chỉ ra bản chất của câu hỏi
. Tất cả các phương án tùy chọn cần phải: phù hợp về ngữ pháp với phần
hỏi; được viết bằng văn phong tương tự phần hỏi; được ngắt câu một cách
chính xác; bắt đầu bằng chử cái in thường và kết thúc bằng dấu chấm câu.
+ Câu hỏi có câu trả lời dài: cần để một khoảng trống để học sinh điền phần
trả lời của mình.

Trang 17


Bùi Thị Thanh Hương- Trường THPT Lê Thánh Tông

c. Về cách mã hóa (chấm điểm)
- Căn cứ vào đáp án do PISA quốc tế qui định, điểm của bài làm của học
sinh sẽ được ghi bằng mã số (coding). Khi chấm điểm bài làm của học sinh sẽ
sử dụng các loại mã số sau:
Mã số cho mức điểm "tối đa": Làm đầy đủ theo qui định tại đáp án,
Mã số cho mức điểm "chưa tối đa": Không hoàn thành đầy đủ theo đáp án.
Mã số cho tình trạng "Không làm hoặc làm khác hoàn toàn so với đáp án"
- Tùy theo mỗi câu hỏi, mỗi mức trên sẽ có một hoặc một vài mã số được qui
định cụ thể
Mã hóa của các câu hỏi thường 0 1 2 9 hoặc 0 1 9 tùy theo từng loại câu hỏi.

+ Nếu câu hỏi dạng 0 1 2 9.
Mức tối đa: Mã 2
Mức chưa tối đa: Mã 1
Mức không đạt: Mã 0: trả lời sai; Mã 9: không trả lời.
+ Nếu câu hỏi dạng 0 1 9
Mức tối đa: Mã 1
Mức không đạt: Mã 0: trả lời sai; Mã 9: không trả lời.

III. Vận dụng PISA vào thiết kế phần Đọc-hiểu trong đề kiểm
tra (đề thi) môn Ngữ văn lớp 12 ( tập 1, chương trình cơ bản)
1.

Tuyên ngôn Độc lập – Hồ Chí Minh

a. Đề bài (3.0 điểm)
Đọc đoạn văn và trả lời câu hỏi:
Hỡi đồng bào cả nước!
"Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ
những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có
quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".

Trang 18


Bùi Thị Thanh Hương- Trường THPT Lê Thánh Tông

Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ.
Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra
bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự
do.

Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm
1791 cũng nói:
"Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn
được tự do và bình đẳng về quyền lợi".
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.
(Tuyên ngôn Độc lập – Hồ Chí Minh, Ngữ văn 12, Tập 1, NXB Giáo
dục Việt Nam, 2013, tr. 39)
Câu a. (0.25 điểm) Hãy cho biết vị trí của đoạn văn trên trong tác phẩm
“Tuyên ngôn độc lập”
Câu b. (0.25 điểm) Đoạn văn bản trên thuộc loại phong cách ngôn ngữ nào?
Câu c. (0.5 điểm) Câu cuối trong đoạn văn, Hồ Chí Minh khẳng định “Đó là
những lẽ phải không ai chối cãi được” Hãy cho biết “những lẽ phải” đó là
gì?
Câu d. (1.0 điểm) Nêu tác dụng của việc trích dẫn hai bản Tuyên ngôn trong
đoạn văn trên.
Câu e. (1.0 điểm) Từ đoạn văn bản trên, anh/chị hãy viết một đoạn văn ngắn
(khoảng 10-15 dòng) trình bày thái độ của mình về việc chủ quyền biển đảo
của dân tộc Việt Nam đang bị xâm phạm.
b. Phần hướng dẫn mã hóa
Câu a
- Mức tối đa (0.25 điểm)
Nêu được một trong các vị trí sau: phần đầu, phần một, phần cơ sở pháp lí
- Không đạt (0 điểm): Câu trả lời khác/ Không trả lời
Trang 19


Bùi Thị Thanh Hương- Trường THPT Lê Thánh Tông

Câu b
- Mức tối đa (0.25 điểm): Phong cách ngôn ngữ chính luận

- Không đạt (0 điểm): Câu trả lời khác/Không trả lời
Câu c
- Mức tối đa (0.5 điểm) Nêu được:
Tất cả mọi người, tất cả các dân tộc trên thế giới đều có quyền tự do, bình
đẳng
- Không đạt (0 điểm) Câu trả lời khác/ Không trả lời
Câu d
- Mức tối đa (1.0 điểm):
Nêu được ba ý sau:
+ Ý 1: Đề cao tư tưởng tiến bộ nhân loại. Tạo tiền đề cho lập luận ở phần hai
là lên án tố cáo tội ác của thực dân Pháp
+ Ý 2: Trích dẫn để “suy rộng ra” từ quyền con người thành quyền dân tộc.
+ Ý 3: Có ngụ ý đặt ba cuộc cách mạng, ba bản tuyên ngôn, ba nền độc lập
của ba nước Việt Nam, Mỹ, Pháp ngang hàng nhau
- Mức chưa tối đa
+ (0.5 điểm) Nêu được hai trong ba ý trên
+ (0.25 điểm) Nêu được một trong ba ý trên
- Không đạt (0 điểm)
Câu trả lời khác/ Không trả lời
Câu e
- Mức tối đa (1.0 điểm):
+ Hình thức: Các câu phải liên kết với nhau. Không được gạch đầu dòng ghi
ý. Diễn đạt trôi chảy, trong sáng, cảm xúc chân thành; Đúng chính tả
+ Nội dung:
HS trả lời được các ý sau
Trang 20


Bùi Thị Thanh Hương- Trường THPT Lê Thánh Tông


. Ý 1: Bất bình, căm giận trước hành động ngang nhiên, trái phép
. Ý 2: Xót xa vì chủ quyền lãnh thổ đất nước đang bị xâm phạm trắng trợn.
. Ý 3:

Ý thức rõ sứ mệnh và trách nhiệm của thế hệ mình: hãy là những

người trẻ yêu nước, bằng trái tim ấm nóng và lí trí tỉnh táo để góp phần giành
lại chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc thân yêu.
- Mức chưa tối đa
+ (0.5 điểm) Viết được đoạn văn, trình bày hai trong ba ý chính đã nêu trên,
mắc ít lỗi diễn đạt, chính tả
+ (0.25 điểm)Viết được đoạn văn, trình bày một trong ba ý chính đã nêu trên,
mắc ít lỗi diễn đạt, chính tả
- Không đạt (0 điểm)
Viết đoạn văn nhưng ý sơ sài, mắc nhiều lỗi diễn đạt/ Không trả lời

2.

Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc -

Phạm Văn Đồng
a. Đề bài (3.0 điểm)
Đọc đoạn văn và trả lời câu hỏi:
“Ngôi sao Nguyễn Đình Chiểu, một nhà thơ lớn của nước ta, đáng lẽ phải
sáng tỏ hơn nữa trong bầu trời văn nghệ của dân tộc, nhất là trong lúc này.
Trên trời có những vì sao có ánh sáng khác thường, nhưng con mắt của
chúng ta phải chăm chú nhìn thì mới thấy, và càng nhìn càng thấy sáng. Văn
thơ yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu cũng vậy. Có người chỉ biết Nguyễn
Đình Chiểu là tác giả của Lục Vân Tiên, và hiểu Lục Vân Tiên khá thiên lệch
về nội dung và về văn, còn rất ít biết thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình

Chiểu, khúc ca hùng tráng của phong trào yêu nước chống bọn xâm lược
Pháp lúc chúng đến bờ cõi nước ta cách đây một trăm năm!

Trang 21


Bùi Thị Thanh Hương- Trường THPT Lê Thánh Tông

(Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc
– Nguyễn Đình Chiểu, Ngữ văn 12, Tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam, 2013, tr.
48)
Câu a (0.25 điểm) Xác định phương thức biểu đạt chính trong đoạn văn?
Câu b (0.25 điểm) “Ngôi sao Nguyễn Đình Chiểu, một nhà thơ lớn của nước
ta, đáng lẽ phải sáng tỏ hơn nữa trong bầu trời văn nghệ của dân tộc, nhất là
trong lúc này.” . “Lúc này” được nói đến trong câu trên cụ thể là năm nào?
Câu c (0.5 điểm) Tác giả ví thơ văn Nguyễn Đình Chiểu với những vì sao có
ánh sáng khác thường nhằm mục đích gì? Chọn đáp án đúng trong các đáp án
sau:
A. Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu khó tiếp nhận, xa rời với lối sống nhân dân.
B. Thể hiện thái độ trân trọng của người viết với Nguyễn Đình Chiểu.
C. Tôn vinh vị trí của Nguyễn Đình Chiểu trong nền văn nghệ dân tộc.
D. Định hướng cách nhìn nhận đúng đắn về thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.

Câu d (1.0 điểm) Xác định biện pháp tu từ và ý nghĩa biện pháp tu từ đó trong
câu “Trên trời có những vì sao có ánh sáng khác thường, nhưng con mắt
thường của chúng ta phải nhìn chăm chú thì mới thấy và càng nhìn thì càng
thấy sáng. Văn thơ của Nguyễn Đình Chiểu cũng vậy.”
Câu e (1.0 điểm) Thông qua cuộc đời và các tác phẩm đã học của Nguyễn
Đình Chiểu, anh/chị rút ra được bài học gì cho bản thân? (Viết đoạn văn ngắn
khoảng 10-12 dòng)

b. Phần hướng dẫn mã hóa
Câu a
- Mức tối đa (0.25 điểm)
Phương thức biểu đạt: nghị luận
- Không đạt (0 điểm)
Trang 22


Bùi Thị Thanh Hương- Trường THPT Lê Thánh Tông

Trả lời khác/ Không trả lời
Câu b
- Mức tối đa (0.25 điểm)
Năm 1963
- Không đạt (0 điểm)
Trả lời khác/ Không trả lời
Câu c
- Mức tối đa (0.5 điểm)
Chọn đáp án đúng là B, C
- Mức chưa tối đa (0.25 điểm)
Chọn đúng một trong hai đáp án trên
- Không đạt (0 điểm)
Trả lời khác/ Không trả lời
Câu d
- Mức tối đa (1.0 điểm)
Nêu được hai ý:
Ý 1 : Biện pháp tu từ ẩn dụ
Ý 2: Tác dụng : khẳng định tài năng, vẻ đẹp và tấm lòng yêu nước của
Nguyễn Đình Chiểu
- Mức chưa tối đa (0.5 điểm)

Nêu được một trong hai ý trên
- Không đạt ( 0 điểm)
Trả lời khác/ Không trả lởi
Câu e
- Mức tối đa (1.0 điểm)
+ Hình thức: Các câu phải liên kết với nhau. Không được gạch đầu dòng ghi
ý. Diễn đạt trôi chảy, trong sáng, cảm xúc chân thành; Đúng chính tả
Trang 23


Bùi Thị Thanh Hương- Trường THPT Lê Thánh Tông

+ Nội dung:
Trả lời được bốn ý sau:
Ý 1: Cần phải rèn luyện ý chí, nghị lực, luôn biết vươn lên, vượt qua những
khó khăn trong cuộc sống.
Ý 2: Có tinh thần yêu nước
Ý 3: Thương yêu con người, đặc biệt là những người gặp hoàn cảnh khó khăn.
Ý 4: Biết trọng đạo lí
- Mức chưa tối đa
+ (0.5 điểm) Viết được đoạn văn, trình bày ba trong bốn ý chính đã nêu trên,
mắc ít lỗi diễn đạt
+ (0.25 điểm) Viết được đoạn văn, trình bày hai trong bốn ý chính đã nêu trên,
mắc ít lỗi diễn đạt
- Không đạt (0 điểm)
Viết đoạn văn nhưng ý sơ sài, mắc nhiều lỗi diễn đạt./ Không trả lời

3.

Thông điệp nhân Ngày Thế giới phòng chống AIDS, 1-12-2003 –


Cô-phi An-nan
a. Đề bài (5.0 điểm)
Đọc đoạn văn và trả lời câu hỏi:
“Đó là lý do chúng ta phải công khai lên tiếng về AIDS. Dè dặt, từ chối đối
mặt với sự thật không mấy dễ chịu này, hoặc vội vàng phán xét đồng loại của
mình, chúng ta sẽ không đạt được tiến độ hoàn thành các mục tiêu đề ra, thậm
chí chúng ta còn bị chậm hơn nữa, nếu sự kỳ thị và phân biệt đối xử vẫn tiếp
tục diễn ra đối với những người bị HIV/AIDS. Hãy đừng để một ai có ảo
tưởng rằng chúng ta có thể bảo vệ được chính mình bằng cách dựng lên các
bức rào ngăn cách giữa “chúng ta” và “họ”. Trong thế giới khốc liệt của
AIDS, không có khái niệm chúng ta và họ. Trong thế giới đó, im lặng đồng
nghĩa với cái chết.”
Trang 24


Bùi Thị Thanh Hương- Trường THPT Lê Thánh Tông

(Thông điệp nhân Ngày Thế giới phòng chống AIDS, 1-12-2003, Cô-phi
An-nan, Ngữ văn 12, Tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam, 2013, tr. 82)
Câu a (0.5 điểm) Nêu nội dung chính của đoạn trích?
Câu b (0.5 điểm) Đoạn trích sử dụng phương thức biểu đạt nào?
Câu c (0.5 điểm) Xác định đối tượng “chúng ta” và “họ” trong câu Hãy đừng
để một ai có ảo tưởng rằng chúng ta có thể bảo vệ được chính mình bằng
cách dựng lên các bức rào ngăn cách giữa “chúng ta” và “họ”
Câu d (1.0 điểm) Tại sao “im lặng là đồng nghĩa với cái chết”?
Câu e (1.0 điểm) Nêu thông điệp của tác giả muốn gửi gắm qua đoạn trích
Câu f (1.5 điểm) Từ đoạn trích trên hãy viết một đoạn văn ngắn (khoảng 10
dòng) trình bày một giải pháp mà anh/chị cho là hợp lí nhất để phòng chống
dịch bệnh HIV/AIDS.

b. Phần hướng dẫn mã hóa
Câu a
- Mức tối đa (0.5 điểm)
Trả lời được hai ý sau:
Ý 1: Mọi người không lẩn tránh trách nhiệm phòng chống HIV/AIDS
Ý 2: Không vội vàng phán xét đồng loại, không kì thị và phân biệt đối
xử với những người đã mắc bệnh HIV/AIDS.
- Mức chưa tối đa (0.25 điểm)
Trả lời được một trong hai ý trên
- Không đạt (0 điểm)
Trả lời khác/Không trả lời
Câu b
- Mức tối đa (0.5 điểm)
Nghị luận
- Không đạt (0 điểm)
Trang 25


×