Tải bản đầy đủ (.doc) (278 trang)

Tâm Lý Học Nhân Cách Một Số Vấn Đề Lý Luận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (873.41 KB, 278 trang )

TÂM LÝ HỌC NHÂN CÁCH MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
TÂM LÝ HỌC NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
Tác giả: NGUYỄN NGỌC BÍCH

LỜI NÓI ĐẦU
Trong sự nghiệp đổi mới của đất nước ta, Đảng và Nhà nước rất quan
tâm vấn đề con người, đặc biệt nhân cách con người. Muốn công nghiệp hóa
và hiện đại hóa đất nước ta thành công thì phải có con người đạo đức và con
người trí tuệ. Đó chính là nhân cách.
Nhân cách có nhiều khoa học nghiên cứu: Triết học, xã hội học, văn
học, nghệ thuật, kinh tế học, tâm lý học, y học... Ở đây trên quan điểm tâm lý
học, chúng tôi đề cập tới những vấn đề lý luận nhân cách.
Do nhu cầu đào tạo học viên cao học tâm lý học và sinh viên học tâm lý
học, chúng tôi mạnh dạn biên soạn cuốn sách mang tính giáo trình này nhằm
phục vụ các đối tượng trên. Sách còn có ý đồ phục vụ cho những ai yêu mến
tâm lý học và có nhu cầu sử dụng nó vào công tác thực tiễn của mình.
Nội dung cuốn sách này có 6 chương.
Chương I đề cập tới những tư tưởng phương Đông cổ đại về nhân
cách. Những tư tưởng ở đây chủ yếu là tư tưởng Trung Hoa cổ đại trong các
học thuyết kinh dịch, học thuyết Khổng Mạnh v.v... về đạo đức nhân cách.
Chương II đề cập đến tâm lí học phương Tây về nhân cách. Ở đây,
chúng tôi không có điều kiện đề cập đến tất cả các trường phái hiện nay có
quan hệ về nhân cách. Chúng tôi chỉ đề cập tới các trường phái chính và một
ít những quan điểm nhân cách nổi bật hiện nay. Ví dụ như sự thống hợp nhân


cách của Vitkin; nhân cách hướng nội, hướng ngoại của Eysench; các kiểu
nhân cách của Rorschach; Thuyết hiện sinh, thuyết tương tác nhận thức của
Piaget; quan niệm nhân cách theo xu hướng Mác xít của Lucien Seve.
Chương III, đề cập tới xu hướng nghiên cứu nhân cách ở Liên Xô (cũ).


Chúng tôi không nêu lên tất cả các xu hướng nghiên cứu nhân cách ở Liên
Xô, mà chỉ nêu lên các xu hướng lớn mang tính cách đặc trưng của các tác
giả có tên tuổi ở Liên Xô (cũ).
Chương IV, đề cập tới một số vấn đề về tư tưởng của Mác, Lênin, Hồ
Chí Minh về nhân cách - đây cũng là cơ sở phương pháp luận để xây dựng
khoa học này.
Chương V, khái niệm và cấu trúc nhân cách và một số thuộc tính nhân
cách.
Chương này phân loại một số quan niệm về nhân cách, cũng như các
loại cấu trúc nhân cách, trên cơ sở đó xây dựng mô hình nhân cách phù hợp.
Đặc biệt trong chương này có đề cập tới một số thuộc tính nhân cách như giá
trị và năng lực trong nhân cách. Chúng tôi không có ý định nêu tất cả các
thuộc tính nhân cách, chỉ đề cập tới vấn đề Tài (năng lực). Đây cũng là vấn đề
còn ít được bàn đến. Đất nước ta đang cần những người có đức có tài để
thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì vậy, vấn đề
Tài (năng lực) cần phải được quan tâm thích đáng trong tâm lý học nhân
cách.
Chương VI, bàn về nhân cách trong tâm lý học xã hội.
Cá nhân trở thành nhân cách khi cá nhân đó hoạt động trong mối quan
hệ xã hội, trong nhóm xã hội nhất định. Vì vậy, nhân cách cũng được tâm lý
học xã hội coi là đối tượng nghiên cứu của mình. Theo đó, tâm lý học xã hội
nên quan tâm đến vị trí và vai trò của cá nhân trong xã hội. Đó chính là những
vấn đề nhân cách trong tâm lý học xã hội.


Cuối cùng là những lời tâm đắc của cổ nhân đối với người đời - Âu đó
cũng là thay lời kết luận của cuốn sách này.
Tập sách này cũng còn nhiều vấn đề để bàn luận, xin được những ý
kiến đóng góp chân thành để có thể hoàn thiện hơn trong những năm đến.
Nguyễn Ngọc Bích


Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ NHÂN CÁCH THEO QUAN NIỆM
PHƯƠNG ĐÔNG CỔ ĐẠI
I - CƠ SỞ TRIẾT HỌC CỦA NHÂN CÁCH PHƯƠNG ĐÔNG
1. Sự khác biệt giữa triết học phương Đông và phương Tây
Do hai nguồn văn hóa khác nhau nên triết học phương Đông khác biệt
triết học phương Tây.
- Xét về thế giới quan:
Phương Tây cho rằng người và trời khác biệt lẫn nhau.
Phương Đông cho rằng có sự hợp nhất giữa trời và người.
+ Lão Tử cho rằng: "Người phỏng theo đất, đất phỏng theo trời, trời
phỏng theo đạo, đạo phỏng theo tự nhiên".
Như vậy trời - đất - người thông nhau bằng một đạo.
+ Khổng Tử cho rằng người và trời thống nhất với nhau.
+ Triết học Trung Quốc lấy nhân sinh làm hạt nhân, triết học phương
Tây dựa vào siêu hình học và nhận thức luận.
Khổng Tử nói: "Chưa biết sự sống làm sao biết được cái chết".
Triết học Trung Quốc coi trọng "tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ".


Xây dựng giá trị đạt được "Thành đức, thành nhân, thành phật, thành
thánh".
- Về tinh thần của triết học:
Trung Quốc lấy đạo đức làm tinh thần, lấy chân thực bên trong làm mục
đích, lấy nghệ thuật làm tinh thần, lấy việc theo đuổi trạng thái làm cảm hứng.
Trung Quốc coi trọng chủ thể đạo đức chứ không coi trọng chủ thể lí
tính. Từ đó xem xét nghệ thuật mang màu sắc lãng mạn, chuyển tính và tâm
vào vật - giữa người và vật không còn khác biết nhiều nữa mà vật đã thấm
đượm tâm người.
Nếu như phương Đông người là động vật đạo đức thì phương Tây

người là động vật duy lí.
- Phương pháp triết học:
+ Triết học Trung Quốc lấy trực giác trực quan, thể nghiệm làm phương
pháp luận.
+ Triết học phương Tây lấy phân tích logic trừu tượng và diễn dịch suy
lý làm phương pháp luận.
2. Những tư tưởng triết học phương Đông
2.1. Tư tưởng nhất nguyên lưỡng cực động
Quan niệm cơ bản của nguyên lý nhất nguyên lưỡng cực động là "đạo
học": Hai mà một, một mà hai.
Đó là "tư tưởng động" luôn luôn biến đổi từ cực này sang cực khác
(không thể nói ra được, không thể dùng một từ nào để định được).
Người phương Tây trắng ra trắng, đen ra đen.


Người phương Đông không xác định rõ ràng cái nào tốt cái nào là xấu
hẳn: không chịu sự phân tích, không hệ thống hóa, không duy tâm, không duy
vật, duy linh duy thực.
a) Thể hiện cách hành văn và lập luận của phương Đông
Cách diễn đạt của người phương Đông mập mờ, hư hư, thực thực
thiếu sự rõ ràng dứt khoát.
Khổng Tử trong khi giảng giải đạo lý cho học trò cũng tùy theo từng học
trò từng lúc mà có cách giải thích khác nhau, uyển chuyển vô cùng. Đó là
những tư tưởng siêu hình của Phật và Lão. Chính Khổng Tử cũng nhận xét
Lão Tử như con rồng. Có nghĩa là uyển chuyển vô cùng. Tư tưởng của Lão
Tử không thể định nghĩa một chiều.
- Người phương Đông: "Ý tại ngôn ngoại" (ý ngoài lời), "thư bất tận
ngôn" (sách không nói hết lời).
- Hay dùng phương pháp tượng trưng, ngụ ngôn; Thể hiện các nét vẽ
trong dịch học vào thi, nhạc, họa.

b) Đồng thanh tương ứng
Theo người phương Đông sự hiểu biết do người khác đưa đến là sự
hiểu biết không thật - Đọc một cuốn sách, một bài thơ không phải dễ hiểu
cuốn sách hoặc bài thơ đó, nó gợi lên những ý tưởng đã ấp ủ từ lâu trong
lòng. Tức là đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Một câu nói có
người không hiểu gì cả, có người hiểu nhiều vấn đề, có sự rung chuyển lạ
thường.
- Người đệ tử đến tìm thầy để học thì phải biết chờ đợi, nhẫn nại. Mình
đợi thầy và thầy cũng đợi mình. Thầy đợi trò đến lúc trò rất cần và đủ độ nhẫn
nại mới dạy. Sách phương Đông không giải thích rõ ràng. Họ chỉ khêu gợi
chứ không truyền bá tư tưởng.


c) Ba giai đoạn trong lịch trình diễn biến của tâm thức theo triết học phương
Đông
- Giai đoạn 1: chưa có ta. Giai đoạn nhất nguyên.
Sống theo thiên tính, ngoại cảnh, lẫn lộn giữa lý và tình, giữa nội tâm và
ngoại giới. Sống vô tâm, bắt chước người xung quanh. Đây là thời kỳ của dân
tộc bán khai, thần thoại ấu trĩ, giai đoạn trẻ thơ.
- Giai đoạn 2: Sự trưởng thành của cái ta. Giai đoạn nhị nguyên.
Cá tính con người dần dần xuất hiện. Tính bắt chước giảm đần. Phân
biệt rạch ròi thiện ác, trắng đen, vinh nhục. Có tâm hồn độc đáo, sáng kiến và
phê bình sâu sắc. Óc khoa học đóng vai trò quan trọng như phương Tây ngày
nay.
- Giai đoạn 3: Siêu thoát nhị nguyên.
Giai đoạn này không cần đến lý trí nữa, cảm thấy mình không còn cách
biệt với vũ trụ, hợp nhất các mâu thuẫn. Đó là giai đoạn thoát cái tiểu ngã để
nhập vào cái toàn thể.
Câu chuyện vườn Eden cho ta biết về diễn biến của tâm thức
Lúc ban đầu loài người sống chung với loài vật và thiên nhiên. ADAM

và EVA sống trần truồng không phân biệt giới tính. Hai người tượng trưng cho
âm - dương.
Nhưng EVA ném trái thiện ác rồi đem cho AĐAM ăn. Từ khi ăn trái thiện
ác hai người biết xấu hổ và lấy lá che, Chúa trời quở mắng. Những muốn trở
về trời thì phải trở về tâm vô sai biệt của ban đầu.
2.2. Tư tưởng tam nguyên
Tư tưởng này thể hiện rõ trong thái cực đồ.


a) Thái cực đồ
- Phần âm màu đen
- Phần dương màu trắng. Bao trong một cái vòng tròn. Cái đó gọi là
đạo. Đây là nguyên lý chỉ huy và điều hòa hai lực lượng mâu thuẫn kia.
+ Phần dương không hoàn toàn là dương, phần âm không hoàn toàn là
âm. Có điểm nhỏ dương trong âm và điểm âm trong dương. Nó là mầm mống
mạnh mẽ. Nó là hạt giống, có tiềm lực phi thường. Nó là nguyên nhân mâu
thuẫn nội tại. Không có một vật nào trên đời mà thuần tốt hoặc thuần xấu,
thuần hại hoặc thuần lợi. Đó là do mâu thuẫn nội tại.
+ Được gọi là âm khi âm lấn phần dương, gọi là dương khi nào dương
lấn âm. Nếu sự lấn át lên cực độ thì liền biến tức khắc. Đó là luật "phản
phục".
+ Âm dương vừa mâu thuẫn vừa tương đồng; không cái nào phụ thuộc
cái nào.
+ Nguyên lý tối cao hợp nhất gọi là đạo điều hòa và chi phối hai lực
lượng kia, làm cho âm dương không rời nhau.
Con người là một "tiểu kiền khôn" (tức là từng đốt nhỏ). Thực thể con
người là sản vật của nguyên lý âm dương. Nhờ cáo đạo mà thấy rõ nguyên lý
tích cực và tiêu cực vừa mâu thuẫn vừa đồng đẳng về giá trị; luôn luôn có luật
quân bình trong mọi vật; luật quân bình ấy là đạo hay gọi là thường đạo, trung
đạo hay trung dung.

b) Các cặp mâu thuẫn
- Mâu thuẫn nhưng nương tựa nhau: Mâu thuẫn nhưng nương tựa
nhau để tồn tại. Sáng nương tối mà có, thiện nương ác mà có.
- Mâu thuẫn nào cũng chứa đựng lẫn nhau. Trong âm có dương, trong
dương có âm.


- Chuyển hóa lẫn nhau: Cái này biến thành cái kia, âm biến thành
dương và dương biến thành âm.
- Quan hệ ngang nhau: Không cái nào hơn cái nào, không cái nào trọng
hơn cái nào.
- Các cặp mâu thuẫn bị cái thứ ba khống chế làm cho nó không tách rời
nhau mà thống nhất với nhau (tam nguyên).
- Sự tác động hai chiều là nguyên nhân của mọi sinh hóa.
Hai yếu tố mâu thuẫn đùn đẩy nhau tác động lẫn nhau tạo nên sự biến hóa.
+ Tối cũng cần mà sáng cũng cần.
+ Nắng cũng cần mà mưa cũng cần.
+ Mạnh cũng cần mà yếu cũng cần.
+ Tội ác, cái xấu cũng cần để cho người ta thấy cái tốt.
- Chân lý không thể chứng minh, chỉ có thể khêu gợi mà thôi. "Nói là
không biết, biết thì không nói".
Điều này đã ăn sâu vào lối sống của người phương Đông.
Họ sống kín đáo, tế nhị, khêu gợi, thi vị.
Uống trà thành "trà đạo", chơi hoa biến thành "hoa đạo".
Những cơ sở triết học này đã chi phối tâm lý người phương Đông. Vì
vậy, việc nghiên cứu tâm lý người phương Đông phải chú ý đến những quan
niệm triết học cổ xưa của người phương Đông đã ảnh hưởng đến ngày nay
như thế nào để chúng ta có quan điểm đúng đắn trong việc nghiên cứu tâm lý
người phương Đông ngày nay, đặc biệt là tâm lý người Việt Nam.



II – CÁC TƯ TƯỞNG PHƯƠNG ĐÔNG VỀ NHÂN CÁCH
1. Thiên địa nhân hợp nhất
“Thiên - địa - nhân” hợp nhất là trời, đất, người hợp thành một. Về cơ
bản con người mang những thuộc tính của vũ trụ.
Về một sinh học, năng lượng vũ trụ của trời đi xuyên qua luân xa 7
(bách hội) rồi xuống tủy sống, còn năng lượng của đất qua luân xa 1 lên phía
trên, theo đường tủy sống.
Theo triết học phương Đông trời được xem là dương và đất là âm. Nhờ
có năng lượng âm dương của trời đất mà con người có năng lượng để tồn tại
duy trì cuộc sống. Như vậy, có sự giao hòa giữa năng lượng của Trời - Người
và Đất, thể hiện nguyên lý thiên địa nhân hợp nhất.
Trong đời sống xã hội người ta luôn nói: thiên thời, địa lợi nhân hòa để
nói lên sự hợp nhất của ba yếu tố trời đất và con người.
Về trời ảnh hưởng đến con người và xã hội loài người được thấy một
cách rõ ràng. Trời có các hành tinh, mặt trời, mặt trăng, nhiều ngôi sao, đặc
biệt 5 ngôi sao: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ có ảnh hưởng rất lớn đối với tâm lý
con người. Chính mặt trời, mặt trăng, các hành tinh đã có ảnh hưởng đến thời
tiết, nhiệt độ, tâm lý con người.
Về đất, người ta hay nói đến địa linh. Đó là những vùng đất ảnh hưởng
một phần đến bệnh tật, sức khỏe, trí tuệ, tình cảm, tính cách, năng lực của
con người và cộng đồng người. Ở Việt Nam một số người cho rằng những
vùng như chùa Hương, Tam Đảo; Núi Tản Viên, Côn Sơn, Ngũ Hành Sơn, núi
Yên Tử, Hồ Hoàn Kiếm, Hồ Tây... là những địa linh.
Tồn tại trong không gian và thời gian có lưỡng nghi gọi là âm và dương.
Âm đương giao hoà nhau, biến hóa không cùng trong vũ trụ. Từ đó sinh ra
vạn vật.


Âm dương đóng vai trò xoay chuyển không bao giờ ngừng.

Chúng cùng tồn tại, nhưng độc lập với nhau, tương phản nhưng hòa
đồng, hòa nhập vào nhau, mâu thuẫn nhưng không triệt tiêu nhau để sinh hóa
vô cùng.
Âm - dương dùng để biểu hiện trong thế giới hữu hình lẫn thế giới vô
hình (tư duy, tâm linh, tâm hồn), chúng có trong vạn vật dù có nhìn thấy hay
không nhìn thấy.
Triết học phương Đông cho trời là dương và đất là âm, đàn ông là
dương, đàn bà là âm. Đối với đàn ông mặt trước là âm mặt sau là dương và
đàn bà thì ngược lại. Trong cơ thể con người nơi nào cao là dương, nơi nào
thấp là âm. Trên dương dưới âm, thịt âm, xương dương.
Âm dương còn thể hiện trong môi trường. Cái gì nhẹ, lỏng, mềm, nhiều
nước là âm và trái lại là dương. Những lực hướng tâm đi xuống là dương,
những lực nhẹ bốc lên, thoát ra, mở rộng là âm.
Tất cả mọi vật đều có âm có dương. Không có vật nào tuyệt đối dương
hoặc tuyệt đối âm. Quả đất so với mặt trời là âm, nhưng so với trăng lại là
dương.
Những vật có hình thể theo phương thẳng đứng, lực li tâm chiếm ưu
thế đều là âm, các hình có phương nằm ngang, lực hướng tâm có ưu thế là
dương.
Màu nào cho ta cảm giác nóng, ấm áp hơn là dương, mát lạnh là âm.
Mùi vị cũng có âm dương. Ví dụ: vị chua là cực âm, vị cay là cực dương.
Âm dương không những là hai mặt đối lập nhưng dựa vào nhau và
phân loại theo một quy luật nhất định. Vạn vật và con người không có cái gì là
không có âm dương. Âm dương vừa dựa vào nhau vừa lợi dụng lẫn nhau.
Không có âm thì không có dương. Âm dương ở thế cân bằng động, cái này
giảm thì cái kia tăng; hết ngày lại đêm, hết nóng lại lạnh, âm dương chuyển


hóa cho nhau. Âm tiến đến cùng cực sinh dương, dương tiến đến cùng cực
sinh âm.

Con người không chỉ bị chi phối của quy luật âm dương mà còn bị chi
phối của quy luật ngũ hành.
Học thuyết cổ đại phương Đông cho rằng thế giới là do năm loại vật
chất cơ bản nhất tạo thành: mộc, thổ, hỏa kim, thủy. Sự phát triển về biến hóa
của các sự vật và hiện tượng (trong đó có con người) trong tự nhiên đều là
kết quả 5 loại vật chất khác nhau vận động và tác động lẫn nhau. Học thuyết
ngũ hành được dùng rộng rãi trong các lĩnh vực của khoa học và đời sống.
Đặc tính của ngũ hành:
Mộc có đặc tính mọc lên và phát triển.
Hỏa có đặc tính nóng, hướng lên trên.
Thổ có đặc tính nuôi lớn, phát dục.
Kim có đặc tính thanh tĩnh, thu sát.
Thủy có đặc tính lạnh lẽo, lắng xuống dưới.
Sự phối hợp giữa âm dương và ngũ hành tạo ra đặc tính riêng:
- Dương mộc là cây của đại ngàn, cứng rắn làm trụ cột.
- Âm mộc là cây cỏ; có vẻ đẹp kiều diễm, tính yếu mềm.
- Dương hỏa là hỏa của mặt trời, chiếu sáng muôn nơi, vạn vật, tính
mãnh liệt.
- Âm hỏa là lửa của nến, chiếu sáng trong nhà, tính mềm yếu, có đức
hy sinh vì người.


- Dương thổ là đất trên thành, cứng, hướng dương, dưỡng dục cho vạn
vật có đặc tính là cao thượng.
- Âm thổ là đất của ruộng vườn, có chức năng nuôi dưỡng cây cối và
ngăn nước, mềm mại và ẩm ướt, ở thấp, hướng về âm, đưa lại hạnh phúc
cho mọi người.
- Dương kim là kim loại của mũi kiếm, tính cứng khỏe, sát phạt, có đặc
tính cương trực.
- Âm kim là ngọc quý dùng để trang trí, sáng trong, ấm, có đặc tính là

nhu nhược.
- Dương thủy là nước của sông, hồ, biển chảy khắp nơi không ngừng,
tính mạnh mẽ, thông suốt.
- Âm thủy là nước mưa có khả năng biến thành khí, yên tĩnh, mềm yếu
có khả năng nuôi nấng vạn vật.
Con người là tiểu vũ trụ, là một sinh vật - vô cùng phức tạp vừa đối lập
vừa thống nhất. Con người chứa trong nó nhiều thông tin tự có và thu nhận từ
bên ngoài. Và đồng thời có khả năng thu nhận thông tin và phát thông tin.
Chức năng này chịu ảnh hưởng của âm dương ngũ hành. Giữa người và vũ
trụ có sự cảm ứng qua lại. Đó là quan hệ giữa khí âm dương ngũ hành của
trời đất tương sinh tương khắc, tương chế, tương hóa với con người.
Âm dương ngũ hành là loại vật chất vô cùng tinh vi chúng ta chưa thể
biết về nó. Người xưa muốn biết tác dụng của âm dương ngũ hành đã dùng
cách sắp xếp thiên can địa chí của giờ, ngày, tháng, năm sinh của con người Nó là thứ giao biến của đời người, chứa chất nhiều kịch tính phong phú,
mang tính chất dự báo cho tương lai con người và cộng đồng.
Âm dương cũng thể hiện trong tâm lý con người.


Người ta chia ra 3 loại người: loại người âm, loại người dương và trung
tính. Người âm tạng thì các đặc điểm về âm trội hơn, người dương tạng thì
các đặc điểm về dương trội hơn. Có thể dựa vào vẻ mặt, hình dáng, giọng
nói, dáng điệu, cử chỉ và tính tình để chia ra các loại người đó.
Người ta nhận thấy người dương tạng dễ bị kích thích nhiệt tình sôi nổi.
Người âm tạng khí chất lãnh đạm, trầm tĩnh. Ngoài ra có loại người bình tạng,
loại người này cân bằng về mặt tâm lý. Đó là loại người tối ưu về thể tạng
cũng như tâm lý. Để nhận biết người dương và người âm thì căn cứ vào thể
tạng.
Người dương tạng thân hình to khỏe, da nóng, sắc mặt tươi tắn, giọng
nói to.
Người âm tạng thì ướt, mát, sắc mặt xanh, giọng nói nhỏ, tròng đen

mắt hướng lên cao.
Sở dĩ có người dương tạng hay âm tạng là do chịu ảnh hưởng của di
truyền bố mẹ và sự ăn uống hoàn cảnh sinh hoạt hàng ngày, khí hậu và cách
sống của từng người. Tính cách của con người cũng chịu ảnh hưởng của ngũ
hành. Mỗi hành có đặc điểm về tính cách khác nhau. Người ta dựa vào 4 tiêu
chí: giờ sinh, ngày sinh, tháng sinh, năm sinh để biết ngũ hành của một
người.
Người mệnh kim ăn nói nghĩa khí, nếu kim vượng thì tính cách cương
trực.
Người mệnh hỏa thì lễ nghĩa, đối với mọi người nhã nhặn, lễ độ, hay
thích nói lý luận. Nhưng nếu hỏa nhiều, hỏa vượng thì nóng nảy, vội vã, dễ
hỏng việc.
Người mệnh thổ là người trọng chữ tín, nói là làm.
Nhưng thổ vượng thì hay trầm tĩnh, không năng động, để bỏ mất thời
cơ.


Người mệnh mộc hiền từ, lương thiện, độ lượng bao dung nhưng mộc
vượng thì tính cách bất khuất. Loại người này thích hợp với nghề nghiệp
quân sự và công an.
Người mệnh thủy thì khúc khuỷu, quanh co, nhưng thông suốt, như
nước chảy. Người mệnh thủy là người trí tuệ, thông minh ham học. Nếu thủy
vượng thì tính tình hung bạo, dễ gây ra tai họa.
Đặc tính của ngũ hành là tương sinh, tương khắc. Trong con người
cùng có năm chất khí đó nên cũng có tương sinh, tương khắc.
Tương sinh:
Kim sinh thủy
Thủy sinh mộc
Mộc sinh hỏa
Hỏa sinh thổ

Thổ sinh kim.
Tương khắc:
Kim khắc mộc
Thủy khắc hỏa
Mộc khắc thổ
Hỏa khắc kim
Thổ khắc thủy.
Nếu trong đời một người ngũ hành tương sinh nhiều sẽ tốt tương khắc
nhiều sẽ xấu. Đồng thời dựa vào số lượng hành trong 4 tiêu chí để biết được
tính tình và con đường đời của người đó.


Như vậy, để dự đoán được tâm lý con người và hoạt động của con
người sẽ diễn ra như thế nào cần phải xác định cho được thành phần các
hành trong mỗi người.
Ví dụ: Người sinh giờ mão, ngày 7 tháng 3 năm 1964 có thể đối ra can
chi: quí mão, đinh dậu, mậu thìn, giáp dần.
Từ đó đối ra âm dương ngũ hành:
Giờ - Quý Mão:

âm thuỷ + mộc

Ngày - Đinh Dậu:

âm hỏa + kim

Tháng - Mậu Thìn:

dương thổ + thổ


Năm - Giáp Thìn:

dương mộc + thổ.

Dựa vào tính chất tương sinh tương khắc của ngũ hành xem xét mà
biết sự tương hợp hay không tương hợp tâm lý của vợ chồng, những người
trong gia đình hay một nhóm xã hội hay không.
Cách biết một phần nhân cách con người của người phương Đông xưa
dựa vào âm dương ngũ hành là một tiêu chí cần được nghiên cứu nghiêm túc
để có thể vận dụng trong tâm lý học nhân cách.
2/ Người phương Đông không có triết học theo nghĩa thông thường mà
chỉ có đạo học
Người phương Đông theo nhất nguyên luận - từ trước đến nay ta quen
cách nghĩ nhị nguyên. Nhị nguyên là phân chia các vật trong đời ra làm hai
phần biệt lập nhau, mâu thuẫn nhau để tiêu diệt lẫn nhau: Thiện – ác, tâm –
vật, tĩnh - động.
Theo tư tưởng phương Đông nhất nguyên luận quan niệm sự vật nào
cũng có 2 bề: bề mặt và bề trái. Hơn nữa cả hai là một không thể tách rời
nhau. Nho hay Lão đều quan niệm như vậy.


Tư tưởng phương Đông thiên về đạo học hơn triết học.
3/ Người phương Đông trọng phẩm hơn là lượng.
Văn minh lượng lấy tiến bộ làm lý tưởng. Đó là văn minh phương Tây
hiện đại.
- Người phương Đông lấy "Tận Thiện" làm lý tưởng.
Phương Tây tôn sùng tiến bộ, tôn sùng văn minh vật chất, không quan
tâm nhiều đến "phẩm". Do đó nhiều người đã than phiền rằng đạo lý ngày nay
suy đồi, nhân cách con người thoái hóa, không bằng ngày xưa.
Những công trình văn hóa, mỹ nghệ, thơ văn, mỗi ngày bị mai một đi

cùng với văn minh lượng, tôn sùng tiến bộ vật chất. Tại sao trong thời đại văn
minh mà thấy cái gì cũng sa sút.
Người xưa do khoa học kỹ thuật lạc hậu nên sống nghèo nhưng các giá
trị văn hóa, tinh thần, mỹ thuật, văn chương, lý luận, tôn giáo, đã đến tận
thiện, tận mỹ.
Ngày nay về mặt lượng thì thấy có tăng, nhưng phẩm thì sa sút.
4/ Nhân cách người phương Đông thích sự im lặng hơn là nói ra
Chân lý là vô cùng và vô cùng uyển chuyển nên nói ra không hết ý.
"Ý tại ngôn ngoại" ý ở ngoài lời nói.
Người phương Đông dùng tượng trưng qua chữ hình tượng trong kinh
dịch, trong nhạc, họa, ngụ ngôn...
5/ Các quy luật vũ trụ chi phối cá nhân và cộng đồng
a. Tử vi và Độn giáp có những quy luật sâu xa chi phối con đường phát triển
của cá nhân.


- Tử vi cho ta biết con đường phát triển bên trong của từng con người.
- Độn giáp cho biết con đường phát triển bên ngoài của các cá nhân.
Đây là loại quy luật mang tính khả năng, trong quan hệ bổ sung, ngẫu
nhiêu và tất yếu; mang tính chủ quan và khách quan. Ý chí chủ quan của con
người góp phần quyết định.
b. Vũ trụ còn có những quy luật chi phối cộng đồng.
Nhưng những quy luật này còn mang tính khả năng, tính khách quan
kết hợp với chủ quan.
Hiểu được mệnh của cá nhân và cộng đồng - còn phải hiểu đến thân cái tạo nên ý chí.
6/ Con người là tiểu vũ trụ
Con người về cơ bản mang những đặc tính của vũ trụ.
Những đặc tính này chi phối sự phát triển con người.
Giữa con người và vũ trụ có quan hệ nhau:
Con người


-

Vũ trụ

Tâm linh

-

Tâm linh

Vật lý

-

Vật lý

Trong con người có đại ngã và tiểu ngã.
- Đại ngã: là cái một - đạo thấm vào người. Đó là cái không tôi hay gọi
là cái nó - cái vô thức.
- Tiểu ngã là cái tôi: cái tiểu ngã là phụ, đại ngã có vai trò chính.


+ Con người thường hay quên cái đại ngã của mình, mà ra quá mức
vào tiểu ngã. Đó là nguyên nhân làm suy đồi đạo lý làm người.
Con người sống lành mạnh phải biết dung hòa giữa đại ngã và tiểu
ngã.
Con người nhận biết được tiểu ngã qua cảm giác và tư duy.
Nhưng đại ngã khó nhận biết được. Có những phương pháp tiếp cận
của cận sinh học, cận tâm lý học, cận vật lý để tìm hiểu đại ngã.

Các cấu trúc của tiểu ngã và đại ngã của nhân thế theo Raymond
Reaut (Pháp) (xem hình 1, 2, 3, 4, 5)
Con người cũng là một hệ thống mở, con người liên hệ với vũ trụ bao
la, nên con ngừời cần biết được các thông tin của vũ trụ.
Nhịp sinh học của con người và Trái Đất; ảnh hưởng của mặt trăng và
vũ trụ. Trong con người có 365 kinh lạc và 365 khớp, phù hợp 365 ngày trong
1 năm.
- Quy luật con số: chi phối con số 2 và 5 (2 mắt, 2 chân, 2 tai, 5 ngón
tay).
7/ Đời sống tâm lý con người phải cân bằng, không thái quá
- Trong cuộc sống xác thịt và tâm linh phải hài hòa. Có nghĩa là âm
dương phải điều hòa.
Tâm linh là dương
Xác thịt là âm.
- Âm dương biến đổi theo quy luật: Âm phát triển cực đại sang dương.
Dương phát triển cực đại sang âm. Như vậy mọi sự thái quá sẽ chuyển từ
cực này sang cực kia, không tạo nên sự cân bằng.


- Mọi sự thái quá sẽ gây cực đoan. Ăn uống không điều độ sẽ tạo con
người có khuôn mặt khác đi.
- Sự tiến hóa là một quá trình vận động của âm - dương biến đổi nhau:
Âm sinh - Âm tướng
Dương sinh - Dương tướng
Âm cực - sinh dương.
Dương cực - sinh âm.
Ông cha ta nói: "Không ai giàu (quá) 3 họ, không ai khó (quá) 3 đời.
Thịnh rồi suy, suy rồi thịnh. Đó là quy luật của sự tiến hóa.
Theo cổ nhân:
+ Thời kỳ dương thịnh từ năm 2196 (trước công nguyên) đến năm 504

khoảng 2700 năm.
+ Thời kỳ âm thịnh từ năm 504 đến năm 3204 (2700 năm).
Sự sống chết là quá trình âm tụ và dương tán.
Ra đi (cuộc sống) là âm tụ
Trở về (cái chết) là dương tán.
Bước ra đi là đại ngã tụ thêm tiểu ngã.
Bước trở về là tiểu ngã tan ra để trở lại đại ngã.
- Con đường tiến hóa của con người là từ đại ngã đến tiểu ngã rồi từ
Tiểu ngã đến đại ngã. Tức là con đường đi từ tiên thiên đến hậu thiên (cõi
trần) rồi sau đó đi từ hậu thiên đến tiên thiên (cõi trời).


8/ Sự sáng tạo của nhân cách (con người) là tạo nên ý thức thuần khiết
hay còn gọi là minh triết.
Sự minh triết nhờ siêu thiền định.
Ý thức thuần khiết là cội nguồn của mọi sáng tạo hài hòa cũng như
trong bông hoa chất nhựa làm cho cây phát triển là không màu - thuần khiết.
Bằng sự thuần khiết của ý thức con người sẽ được sự hỗ trợ của tự nhiên để
hành động. Sự thanh thản trong tâm hồn con người sẽ có những tư tưởng
hoạt động có hiệu lực và làm việc sẽ có kết quả hơn.
Trong trạng thái đó con người sẽ phát ra những sóng sinh động và hài
hòa với môi trường xung quanh.
9) Sự ổn định trong một thời điểm và sự biến đổi theo thời gian của
nhân cách
- Xét về một thời điểm của ngũ hành:
Các yếu tố tương sinh
+ Thổ sinh kim
+ Kim sinh thủy
+ Thủy sinh mộc
+ Mộc sinh hỏa

+ Hỏa sinh thổ.
Các yếu tố tương khắc:
+ Kim khắc Mộc
+ Mộc khắc Thổ
+ Thổ khắc Thủy


+ Thủy khắc Hỏa
+ Hỏa khắc Kim.
Xét về các thời điểm khác nhau:
- Mộc: Sinh thành
- Hỏa : Trưởng thịnh
- Thổ: (Hoá)
- Kim: Thân Suy
- Thủy: Tàng Huỷ
10/ Đặc điểm nhân cách của con người theo ngũ hành
a) Người mộc.
- Mộc vượng: Người có mộc vượng thì năng động, liều lĩnh, can đảm,
hay nổi giận, hay nói. Trong chiêm bao (giấc mơ) thường thấy cảnh đánh
nhau, thấy cây xanh tươi, thấy rừng và các vật màu sáng.
- Mộc suy: Thụ động, nhu nhược, không dám hành động, bi quan, chủ
bại. Trong mơ thường thấy bị rượt bắt, bị đánh đập không chống lại nổi, thấy
cây lá úa.
b) Người Hỏa:
- Hỏa vượng: sôi nổi, nóng nảy, cuồng nhiệt, hay cười vô cớ. Trong giấc
mơ thấy màu sắc đỏ tươi như máu, thấy lửa, các vật màu đỏ rực.
- Hỏa suy: Tinh thần bất ổn, hay lo lắng, thiếu sáng suốt. Trong giấc mơ
thấy vật tái xanh, trắng bệch hay đỏ bầm.
c) Người Thổ:



- Thổ vượng: vô tư, hay hát, trong giấc mơ thấy cảnh vật màu vàng
tươi.
- Thổ suy: ưu tư, hay nghĩ ngợi, hay thương nhớ. Trong giấc mơ thấy
cảnh vàng tía.
d) Người Kim:
- Kim vượng: hay trầm tĩnh, biết chịu đựng, kiên nhẫn, ôn hòa. Trong
giấc mơ thấy vật trắng bóng.
- Kim suy: Loại người hay buồn rầu, hay khóc. Trong giấc mơ thường
thấy màu trắng bệch hay thấy bay bổng lên.
c) Người Thuỷ:
- Thủy vượng: có ý chí mạnh.
- Thủy suy: Hay sợ hãi, hay rên rỉ. Trong giấc mơ thường thấy lạnh lẽo,
thấy nước hay cảnh vật màu đen.

III – NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA NHÂN CÁCH DƯỚI DẠNG TRƯỜNG
SINH HỌC – VẬT LÝ
1. Khái quát về những biểu hiện của nhân cách
Thể hiện qua hình dạng và độ sáng của năng lượng tỏa ra của con
người. Năng lượng này tỏa ra một màu vàng trên đầu và trên vải lan ra khỏi
cơ thể một khoảng từ 3 đến 8 inso.
- Tư tưởng càng thanh cao thì càng sáng.
- Tính cách ích kỷ giống như những cái mộc
- Tư tưởng hiếu kỳ cao độ có dạng xoắn, màu vàng


- Sự tức giận, kéo dài có hình mũi tên nhọn, màu đỏ.
- Tiếng cười hồn nhiên của trẻ em là đường cong màu hồng
- Sự ghen tuông có hình con rắn và màu nâu sạm.
- Tiếng cười thân ái có làn sóng tròn đẹp, màu vàng hoặc xanh.

- Tiếng cười bỉ ổi giống như tiếng nổ, không biên giới rõ ràng và có màu
xám bẩn.
- Thái độ nhăn mặt có hình mũi tên đỏ bầm hẳn lên trên.
- Tiếng cười ích kỷ có dạng những vũng bùn sôi sùng sục.
- Tư tưởng sùng ái có dạng đóa hoa màu xanh lá cây hay hình tháp có đỉnh
hướng lên trên.
Các năng lượng tỏa sáng có thể giao thoa nhau: khi gặp 2 người yêu
nhau thì vòng tỏa sáng sẽ thành vòng cung nối hai quả tim với nhau.
Các hình tư tưởng khác nhau sẽ có thời gian sống khác nhau.
Khoa học về tư tưởng là một khoa học lớn về nhân cách.
Tương lai thế kỷ sau khoa học này sẽ được phát triển.
- Cơ thể có khả năng tự phát sáng như tinh tú.
2. Trường sinh học và nhân cách
Người ta nhận thức mỗi con người có những dạng trường sinh học
khác nhau. Điều dễ phụ thuộc vào sự phòng vệ của nhân cách chống lại bên
ngoài.
- Dạng con nhím: Trường sinh học có nhiều gai nhọn, sắc. Một người
ngoại cảm có cảm giác các đầu gai đâm vào ngón tay mình.


- Dạng rút lui: Một phần trường sinh học rời bỏ trong thân thể giây lát
dưới dạng một đám mây (màu xanh nhạt) trong lúc đó thì mặt không đờ đẫn,
bề ngoài làm ra vẻ lắng nghe.
- Dạng vía lệch ra bên cạnh: Trường sinh học lệch một phần ra ngoài
cơ thể vật lý trong một thời gian khá lâu có khi đến mấy năm. Trong thực tiễn
hiện tượng này gọi là mất linh hay mất vía.
- Dạng khước từ miệng: Xuất hiện nhiều năng lượng màu vàng ở đầu
và tắc nghẽn trầm trọng ở cổ. Trường sinh học suy yếu hẳn ở phía dưới cơ
thể và xuất hiện hiện tượng nhọc nhằn bất động.
- Dạng hút vào chủ thể để phòng vệ, hút năng lượng trường sinh học

của người xung quanh.
- Dạng dao quắm: Chủ thể đang đối đầu với một người hay một nhóm
người khác, hình thành một con dao quắm nơi đỉnh đầu của chủ thể, có thể
phóng đến đối thủ và tóm lấy đầu đối thủ.
- Dạng vòi: Các vòi của chủ thể vươn tới luân xa 3 của đối thủ để đoạt
lấy nguyên khí và lôi nó ra ngoài.
- Dạng ác khẩu “những mũi tên mềm”: Trường sinh học của chủ thể làm
bắn nhiều mũi tên trong không gian gây đau đớn cho đối phương qua ác
khẩu, làm nhiễu trường sinh học của đối phương. Các mũi tên này chọc tức
đối phương, đồng thời giải tỏa cơn giận của chủ thể.
- Dạng phối hợp: Chủ thể bắn các mũi tên mềm ở phía trên thân thể để
làm bẽ mặt đối phương, đồng thời né tránh cảm giác của bản thân mình dồn
về phía dưới.
- Dạng cuồng loạn (hysteris): Chủ thể phản ứng lại các mũi tên của đối
phương bằng cách làm cho nó bùng lên sự thịnh nộ của mình để nhiễu
trường sinh học của đối phương. Qua sự thịnh nộ này nhiều tia chớp đủ màu
hỗn loạn tỏa ra.


- Dạng ngăn biên giới: Chủ thể tự rút lui ra khỏi tình huống bị đối
phương tấn công bằng cách củng cố biên giới của mình.
Dạng phô trương quyền lực, ý chí, chủ thể tuyên bố quyền tối thượng
của mình làm cho đối phương sợ.
3. Nhân cách và vấn đề khai mở luân xa
- Luân xa là nơi tập trung tiếp xúc nguồn năng lượng con người và vũ
trụ.
- Trong con người có:
+ 21 sóng năng lượng tạo ra đại huyệt.
+ Giao thoa 14 sóng tạo ra trung huyệt.
+ Giao thoa 7 hoặc nhỏ hơn 7 huyệt tạo thành châm cứu.

Có 6 luân xa được khai thác hiện nay là:
+ Luân xa 6 nằm giữa trán liên quan tới vỏ não, làm tăng cường năng
lượng hệ thần kinh và hoạt động chân tay.
+ Luân xa 5: ở cột sống ngang vai liên quan đến cơ bắp.
+ Luân xa 4: ở cột sống ngay tim. Nó giúp con người thanh thản bình
tĩnh, dễ dàng thông cảm với người khác.
+ Luân xa 3: ngang thân, liên quan tới gan thận, dạ dày.
+ Luân xa 2: đốt sống cuối cùng liên quan tới bài tiết sinh lý.
4. Hào quang và nhân cách
a) Các vầng hào quang là năng lượng mang tích tổng hào quang thể của vật
chất.


×