Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

Tuyên Truyền Quảng Bá Du Lịch Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (710.62 KB, 122 trang )

TÀI LIỆU HỌC PHẦN

TUYÊN TRUYỀN QUẢNG BÁ
DU LỊCH VIỆT NAM
Bài 1. Tổng quan về tuyên truyền quảng bá du lịch

1. Định nghĩa:
Tuyên là bảo khắp mọi nơi; truyền là đem trao cho người này, người kia. Như vậy, tuyên
truyền là giải thích rộng rãi để thuyết phục mọi người tán thành, ủng hộ, làm theo.
Quảng là rộng, mở rộng ; bá là làm lan ra khắp cho mọi người đều biết. Như vậy, quảng
bá là làm lan rộng ra khắp tất cả mọi nơi cho ai ai cũng đều biết.
Từ đó, “Tuyền truyền quảng bá du lịch Việt Nam” là thực hiện công tác giới thiệu rộng rãi
khắp tất cả mọi nơi để mọi người đều biết đến du lịch Việt Nam và quyết định thực hiện
chuyến du lịch đến Việt Nam.
Nói khác đi, tuyên truyền quảng bá du lịch Việt Nam chính là marketing cho thương hiệu du
lịch Việt Nam.

2. Mụcđích:

Mục đích chung của bất kỳ một kế hoạch marketing nào là nhằm làm tối đa hoá lợi nhuận của
doanh nghiệp.
Mục đích của công tác tuyên truyền quảng bá du lịch Việt Nam nhằm mang lại doanh thu cao,
trong đó lợi nhuận tối đa, góp phần phát triển kinh tế đất nước, đưa du lịch Việt Nam theo kịp
các nước đi trước trong khu vực.


3. Mục tiêu:
Mục tiêu của công tác tuyên truyền quảng bá du lịch Việt Nam chính là du khách.
Du khách của du lịch Việt Nam gồm du khách nước ngoài và du khách trong nước.
Cả hai loại du khách trên đều cần phải chia ra thành: du khách thực tế, du khách mục tiêu và
du khách tiềm năng.


Công tác tuyên truyền quảng bá du lịch Việt Nam phải nhắm vào tất cả đối tượng du khách
nói trên để mang lại một hiệu quả tổng hợp.

4. Tầm quan trọng:
Du lịch là một ngành kinh tế có doanh thu cao trong số ít ngành kinh tế mũi nhọn của một
quốc gia.
Việt Nam là một đất nước nhỏ bé,tuy có nhiều tiềm năng hấp dẫn khách du lịch cũng như có
tiềm lực tổ chức du lịch đáng tin cậy, nhưng đất nước này lại vừa thoát qua cuộc chiến tranh
khốc liệt, cho nên ít người biết đến những tiềm năng, tiềm lực này.
Do vậy, việc tuyên truyền quảng bá du lịch Việt Nam có tầm quan trọng khá to lớn: vừa giúp
cho mọi người ở trong và ngoài nước biết đến tiềm năng của du lịch Việt Nam mà quyết định
thực hiện chuyến du lịch, vừa góp phần đưa kinh tế Việt Nam từng bước nâng lên
5. Các nguyên tắc tuyên truyền quảng bá sản phẩm du lịch Việt Nam:
5.1. Nguyên tắc về sự dẫn đầu.
Là sản phẩm đầu tiên bao giờ cũng có ưu thế hơn sản phẩm tốt hơn
5.2. Nguyên tắc về chủng loại.
Nếu không thể là sản phẩm đầu tiên của một chủng loại, hãy thay đổi tính chất của chủng loại
đó, hoặc tạo ra một chủng loại mới mà sản phẩm du lịch Việt Nam có thể là sản phẩm đầu
tiên.
5.3. Nguyên tắc bậc thang.
Chiến lược sẽ áp dụng tuỳ thuộc vào nấc thang thứ mấy mà du lịch Việt Nam đang đứng.
5.4. Nguyên tắc về song đôi.
Về lâu dài, mọi cuộc đua tranh rồi sẽ chỉ còn lại hai con ngựa.
5.5. Nguyên tắc về tư duy và nhận thức.
Marketing không phải là một trận chiến của các sản phẩm du lịch, nó là một trận chiến về
nhận thức của khách hàng, và đôi khi chiếm lĩnh nhận thức của khách hàng trước tạo ra
nhiều ưu thế hơn là thâm nhập thị trường trước.
5.6. Nguyên tắc về sự tập trung.
Khái niệm có tác động cao nhất trong marketing là sở hửu một từ trong tư duy của khách
hàng tiềm năng.

5.7. Nguyên tắc về sự mở rộng.
Việc mở rộng thêm nhãn hiệu thường là một áp lực không thể cưỡng lại được.


5.8. Nguyên tắc về sự độc nhất và tính ưu việt
Sở hửu một vị trí ưu việt trong tư duy của khách hàng là yếu tố sống còn, marketing là một
sự nỗ lực liên tục trong quá trình tìm kiếm sự độc nhất.
5.9. Nguyên tắc về sự phân chia.
Theo thời gian, một chủng loại sản phẩm sẽ phân chia và trở thành hai (hoặc nhiêu hơn)
chủng loại.
5.10. Nguyên tắc của trái tim.
Chiến lược marketing mà không có yếu tố tình cảm thì sẽ không có hiệu quả.
5.11. Nguyên tắc về đặc tính
Khi phải tập trung vào đặc tính sản phẩm, bất kỳ khía cạnh nào cũng có một đặc tính đối
nghịch và hiệu quả.
5.12. Nguyên tắc về tính thật thà
Khi chấp nhận một nhược điểm, khách hàng tiềm năng sẽ cho sản phẩm du lịch Việt Nam
một ưu điểm
5.13. Nguyên tắc về sự hy sinh.
Muốn được một thứ phải từ bỏ một thứ khác.
5.14. Nguyên tắc về sự thành công.
Thành công thường dẫn đến kiêu ngạo, và kiêu ngạo dẫn đến thất bại
5.15. Nguyên tắc về sự thất bại
Thất bại là điều phải được dự kiến và được chấp nhận
5.16. Nguyên tắc về yếu tố không thể lường trước.
Trừ phi du lịch Việt Nam chính là người soạn ra kế hoạch của đối thủ cạnh tranh, du lịch Việt
Nam không thể biết được điều gì sẽ xãy ra trong tương lại.
5.17. Nguyên tắc về sự cường điệu
Tình hình thực tế thường ngược lại với những gì xuất hiện trên báo.
5.18. Nguyên tắc về sự gia tốc

Các chương trình thành công thường không được xây dựng dựa trên mốt nhất thời mà dựa
trên khuynh hướng
5.19. Nguyên tắc về viễn cảnh.
Hiệu ứng marketing thường xãy ra và kéo dài
5.20. Nguyên tắc về sự đối nghịch
Nếu nhắm vào vị trì thứ hai, chiến lược của du lịch Việt Nam do du lịch của nước dẫn đầu
quyết định
5.21. Nguyên tắc về xuất xứ.
Xuất xứ của thương hiệu thường quan trọng hơn chất lượng
5.22. Nguyên lý về nguồn tài nguyên.
Không có đủ nguồn ngân sách và kiến thức chuyên môn cần thiết, ý tưởng không thể thành
hiện thực và thương hiệu không thể được tạo nên.
6. Bốn hình thức chính xúc tiến tuyên truyền quảng bá du lịch Việt Nam:
6.1. Quảng cáo:
Do có nhiều hình thức và cách áp dụng quảng cáo khác nhau nên việc áp dụng được những
đặc tính duy nhất của quảng cáo như là một bộ phận của hỗn hợp xúc tiến kinh doanh thật là


khó.
Tuy nhiên, ta có thể nhận thấy một vài đặc tính của nó. Do quảng cáo mang tính quần chúng
nên sản phẩm được quảng cáo phải đúng chuẩn và hợp pháp. Vì nhiều người xem những
mẫu quảng cáo sản phẩm nên người mua biết rõ việc mua hàng sẽ được chấp nhận và biết
đến một cách công khai.
Quảng cáo cho phép người bán lặp lại một thông điệp nhiều lần, và cho phép người mua tiếp
nhận, so sánh các thông điệp của nhiều đối thủ cạnh tranh khác nhau. Quảng cáo trên phạm
vi rộng từ phía người bán nói lên một số mặt tích cực như tính phổ biến, tầm cỡ và mức độ
thành công của người bán.
Quảng cáo cũng có nhiều tính biểu cảm, cho phép công ty kịch hoá sản phẩm của mình với
lối sử dụng in ấn, âm thanh, màu sắc đầy tính nghệ thuật. Một mặt quảng cáo có thể được sử
dụng để xây dựng hình ảnh lâu dài cho sản phẩm (như các mẩu quảng cáo của Coca-Cola),

và mặt khác, quảng cáo là để mang lại doanh thu nhanh chóng (như kiểu cửa hiệu K quảng
cáo bán hàng vào cuối tuần). So với hiệu quả thu được từ một lượng khách hàng khắp nơi
trên trái đất thì chi phí cho mỗi lần quảng cáo thật không đáng kể.
Quảng cáo cũng có một số khiếm khuyết. Mặc dù nhanh chóng đến được với nhiều người,
nhưng quảng cáo mang tính gián tiếp và không có khả năng thuyết phục như một nhân viên
bán hàng. Quảng cáo chỉ có thể giao tiếp một chiều với thính giả, và thính giả cảm thấy
không nhất thiết phải phản hồi hay để ý.
Ngoài ra, quảng cáo có thể rất tốn kém. Mặc dù với một số hình thức quảng cáo như trên báo
đài, có thể thực hiện với kinh phí thấp, nhưng với những hình thức khác như quảng cáo trên
TV đòi hỏi kinh phí rất lớn.
6.2. Bán hàng trực tiếp:
Bán hàng trực tiếp là công cụ hiệu quả nhất ở những giai đoạn nhất định trong quá trình mua
hàng, đặc biệt là trong việc tạo dựng sự ưa thích, tin tưởng và quyết định mua hàng nơi
khách hàng.
So với quảng cáo, bán hàng trực tiếp có nhiều đặc tính riêng biệt. Nó liên quan tới sự tương
tác giữa hai hay nhiều người, do vậy, mỗi người đều có thể quan sát được nhu cầu và đặc
điểm của người kia và nhanh chóng có điều chỉnh thích hợp. Bán hàng trực tiếp cũng có thể
làm nảy sinh tất cả các kiểu quan hệ, từ một quan hệ mua bán đơn thuần đến một tình bạn
riêng tư sâu sắc.
Một người bán hàng hiệu quả sẽ ghi nhớ những sở thích của khách hàng để phát triển mối
quan hệ lâu dài. Cuối cùng người mua thường cảm thấy có nhiều nhu cầu nghe và phản hồi
hơn, thậm chí chỉ là một câu trả lời lịch sự: "Không, cám ơn".
Những đặc tính duy nhất này có giá của nó. Lực lượng bán hàng đòi hỏi tính bền bỉ lâu dài
hơn quảng cáo, quảng cáo có thể bật lên hoặc tắt đi - nhưng quy mô đội ngũ bán hàng sẽ
khó thay đổi hơn. Việc bán hàng trực tiếp là một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất, trung bình đòi
hỏi công ty công nghiệp phải chi 197 đô la cho mỗi lần chào hàng. Các công ty Mỹ chi cho
bán hàng trực tiếp nhiều gấp ba lần cho quảng cáo.
6.3. Khuyến mại:
Khuyến mại bao gồm nhiều loại công cụ, như phiếu giảm giá, tham dự một cuộc thi, bán
hàng giảm giá, mua hàng có thưởng, và có nhiều dạng khác; và những công cụ này có nhiều

đặc điểm riêng biệt. Chúng thu hút sự quan tâm của người tiêu dùng và cung cấp các thông
tin cần thiết để lôi cuốn người tiêu dùng mua hàng.


Chúng khuyến khích mạnh mẽ việc mua hàng bằng cách đưa ra những 1 khích lệ hoặc góp
phần làm tăng thêm giá trị cho khách hàng. Khuyến mại mời gọi và nhanh chóng nhận được
phản hồi. Trong khi quảng cáo chỉ nói "hãy mua sản phẩm của chúng tôi" thì khuyến mãi kêu
gọi "hãy mua nó ngay bây giờ".
Các công ty sử dụng các công cụ khuyến mãi để nhận được phản hồi nhanh chóng và mạnh
mẽ hơn từ phía các khách hàng. Khuyến mãi có thể được sử dụng để làm nổi bật việc chào
bán sản phẩm và vực dậy doanh thu sa sút.Tuy nhiên, khuyến mại thường chỉ có ảnh hưởng
trong thời gian ngắn và không có tác dụng gì trong việc tạo sự ưa thích lâu dài nhãn hiệu đó.
6.4. Quan hệ công chúng:
Quan hệ công chúng có nhiều đặc tính riêng biệt. Nó rất đáng tin cậy - những mẩu chuyện về
tin tức, những bài viết chuyên đề và sự kiện dường như thực ơn và đáng tin cậy đối với
người đọc hơn là những mẩu quảng cáo.
Quan hệ công chúng có thể tiếp cận được với những khách hàng tiềm năng, những người
thường né tránh các đội ngũ bán hàng và các mẩu quảng cáo - thông điệp đến với người
mua ở dạng "tin tức" hơn là một phương tiện nhắm đến việc bán hàng. Và giống như quảng
cáo, quan hệ công chúng có thể làm nổi bật hình ảnh của công ty hoặc sản phẩm.

Các nhà Marketing thường có khuynh hướng không phát huy hết công dụng của quan hệ
công chúng hoặc nếu có sử dụng thì cũng chỉ là một hành động muộn màng. Song, một
chiến dịch quan hệ công chúng được chuẩn bị thấu đáo kết hợp với các nhân tố khác trong
hỗn hợp xúc tiến kinh doanh sẽ mang lại hiệu quả và tiết kiệm được chi phí.

7. Ngân sách giành cho công tác tuyên truyền quảng bá du lịch Việt Nam

Ngân sách dành cho công tác tuyên truyền quảng bá du lịch Việt Nam tùy thuộc rất lớn vào
loại hình sản phẩm du lịch đã, đang có của Việt Nam cũng như tùy vào mục tiêu của công

tác. Ngân sách này dao động từ 5% đến 50% hay nhiều hơn.
Tổng ngân sách phải chia ra thật cụ thể cho từngđối tượng mục tiêu cụ thể của công tác
tuyên truyền quảng bá du lịch Việt Nam.

Bài 2: CHÍNH SÁCH TUYÊN TRUYỀN QUẢNG BÁ VÀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH VIỆT NAM
TRONG THỜI GIAN QUA CỦA NHÀ NƯỚC:

2.1. CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN DU LỊCH VIỆT NAM 2001 – 2010

CHÍNH PHỦ

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM


---------

Ðộc lập - Tự do - Hạnh phúc

Số: 97/2002/QĐ-TTg
------------------------------Hà Nội, ngày 22 tháng 7 năm 2002

QUYẾT ĐỊNH CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Phê duyệt Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam 2001 - 2010
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Pháp lệnh Du lịch ngày 08 tháng 02 năm 1999;
Xét đề nghị của Tổng cục Du lịch tại Công văn số 1009/TCDL-BBTCL ngày 30 tháng 10
năm 2001 và Công văn số 558/TCDL-BTCL ngày 12 tháng 6 năm 2002, về "Chiến lược phát
triển Du lịch Việt Nam 2001 - 2010",
QUYẾT ĐỊNH:


Điều 1. Phê duyệt "Chiến lược phát triển Du lịch Việt Nam 2001 - 2010" với những nội
dung chủ yếu sau đây:
1. Mục tiêu của Chiến lược:
a) Mục tiêu tổng quát:
Phát triển du lịch trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn trên cơ sở khai thác có hiệu quả
lợi thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hoá lịch sử, huy động tối đa nguồn
lực trong nước và tranh thủ sự hợp tác, hỗ trợ quốc tế, góp phần thực hiện công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Từng bước đưa nước ta trở thành một trung tâm du lịch có tầm cỡ
của khu vực, phấn đấu sau năm 2010 du lịch Việt Nam được xếp vào nhóm quốc gia có
ngành du lịch phát triển trong khu vực.
b) Mục tiêu cụ thể:
Phấn đấu tốc độ tăng trưởng GDP của ngành du lịch bình quân thời kỳ 2001 - 2010 đạt
11 - 11,5%/ năm, với các chỉ tiêu cụ thể sau:
Năm 2005: Khách quốc tế vào Việt Nam du lịch từ 3 đến 3,5 triệu lượt người, khách nội
địa từ 15 đến16 triệu lượt người, thu nhập du lịch đạt trên 2 tỷ USD;
Năm 2010: Khách quốc tế vào Việt Nam du lịch từ 5,5 đến 6 triệu lượt người, khách nội
địa từ 25 đến 26 triệu lượt người, thu nhập du lịch đạt 4 đến 4,5 tỷ USD.
2. Phát triển một số lĩnh vực:
a) Về thị trường:
Khai thác khách từ các thị trường quốc tế ở khu vực Đông á - Thái Bình Dương, Tây Âu,
Bắc Mỹ, chú trọng các thị trường ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, Pháp, Đức,


Anh, kết hợp khai thác các thị trường ở Bắc Á, Bắc Âu, Úc, New Zealand, các nước SNG và
Đông Âu.
Chú trọng phát triển và khai thác thị trường du lịch nội địa, phát huy tốt nhất lợi thế phát
triển du lịch từng địa phương, đáp ứng yêu cầu giao lưu, hội nhập và phù hợp với quy định
của Nhà nước. Tạo điều kiện cho nhân dân đi du lịch trong nước và ngoài nước, góp phần
nâng cao dân trí, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.

b) Về đầu tư phát triển du lịch:
Đầu tư phát triển du lịch phải kết hợp tốt việc sử dụng nguồn đầu tư từ ngân sách nhà
nước với việc khai thác, sử dụng nguồn vốn nước ngoài và huy động nguồn lực trong dân
theo phương châm xã hội hoá phát triển du lịch.
Ưu tiên đầu tư phát triển các khu du lịch tổng hợp quốc gia và các khu du lịch chuyên đề.
Kết hợp đầu tư nâng cấp, phát triển các điểm tham quan du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật
du lịch với đầu tư cho tuyên truyền, quảng bá và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực du lịch
để tạo ra các sản phẩm du lịch hấp dẫn, mang tính đặc thù cho từng vùng du lịch và cả nước.
Có kế hoạch đẩy mạnh phát triển du lịch đối với các địa bàn du lịch trọng điểm như: Hà
Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Nghệ An, Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Khánh Hoà, Đà Lạt,
Ninh Thuận, Vũng Tàu, thành phố Hồ Chí Minh, Hà Tiên, Phú Quốc và các tuyến du lịch quốc
gia có ý nghĩa liên kết các vùng, các địa phương có tiềm năng du lịch trên toàn quốc, các
điểm du lịch thuộc các tuyến du lịch quốc gia phù hợp trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội của từng địa phương và cả nước.
Đối với các thành phố du lịch như: Hạ Long, Huế, Nha Trang, Vũng Tàu, Đà Lạt; các đô
thị du lịch như: Sa Pa, Đồ Sơn, Sầm Sơn, Hội An, Phan Thiết, Hà Tiên cần phải đầu tư cho
phát triển du lịch một cách hợp lý bảo đảm sự hài hoà giữa phát triển đô thị với phát triển du
lịch bền vững, nhằm tăng tính hấp dẫn của hoạt động du lịch.
Thực hiện xã hội hoá trong việc đầu tư, bảo vệ, tôn tạo các di tích, cảnh quan môi
trường, các lễ hội, hoạt động văn hoá dân gian, các làng nghề phục vụ phát triển du lịch.
c) Về phát triển nguồn nhân lực du lịch và nghiên cứu ứng dụng khoa học, công nghệ:
Xây dựng hệ thống cơ sở đào tạo nguồn nhân lực du lịch gồm: dạy nghề, đào tạo trung
cấp, cao đẳng, đại học và trên đại học về du lịch.
Đổi mới cơ bản công tác quản lý và tổ chức đào tạo nguồn nhân lực du lịch; đổi mới
chương trình, nội dung và phương pháp đào tạo theo chuẩn hoá quốc gia cho ngành du lịch;
gắn lý thuyết với thực hành, đào tạo với nghiên cứu để nâng cao chất lượng giảng dạy và
trình độ đội ngũ cán bộ giảng dạy.
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ du
lịch tiên tiến phục vụ phát triển du lịch bền vững, tạo bước phát triển mới có hiệu quả trong
nghiên cứu và ứng dụng các thành quả khoa học và công nghệ vào hoạt động quản lý và

kinh doanh du lịch.
d) Về xúc tiến, tuyên truyền quảng bá du lịch:
Đẩy mạnh xúc tiến, tuyên truyền, quảng bá du lịch với các hình thức linh hoạt; phối hợp
chặt chẽ giữa các cấp, các ngành; tranh thủ hợp tác quốc tế trong hoạt động xúc tiến du lịch
ở trong và ngoài nước, từng bước tạo dựng và nâng cao hình ảnh du lịch Việt Nam trên
trường quốc tế; nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp, các ngành và của nhân dân
về vị trí, vai trò của du lịch trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
đ) Hội nhập, hợp tác quốc tế về du lịch


Tăng cường củng cố và mở rộng hợp tác song phương và hợp tác đa phương với các tổ
chức quốc tế, các nước có khả năng và kinh nghiệm phát triển du lịch. Thực hiện tốt hợp tác
du lịch với các nước đã thiết lập quan hệ hợp tác, nhất là hợp tác du lịch Việt Nam - Lào Campuchia, Việt Nam - Lào - Thái Lan, Việt Nam - Lào - Campuchia- Thái Lan - Myanmar;
tiểu vùng Mêkông mở rộng, hợp tác du lịch sông Mêkông - sông Hằng. Thực hiện các cam
kết và khai thác quyền lợi trong hợp tác du lịch với Tổ chức Du lịch thế giới (WTO), Diễn đàn
hợp tác kinh tế châu á - Thái Bình Dương (APEC), Hiệp hội du lịch Châu Á - Thái Bình
Dương (PATA) và Hiệp hội du lịch Đông Nam á (ASEANTA), Liên minh châu Âu (EU). Chuẩn
bị điều kiện để hội nhập ở mức cao với du lịch thế giới khi Việt Nam gia nhập Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO).
Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
các khu du lịch, các dự án tạo sản phẩm du lịch đặc thù, chất lượng cao. Thu hút và sử dụng
có hiệu quả nguồn vốn ODA cho phát triển nguồn nhân lực, công nghệ và bảo vệ môi trường
du lịch.
3. Phát triển các vùng du lịch:
a) Vùng du lịch Bắc Bộ: Gồm các tỉnh từ Hà Giang đến Hà Tĩnh. Hà Nội là trung tâm của
vùng và của địa bàn động lực tăng trưởng du lịch Hà Nội - Hải Phòng - Hạ Long. Sản phẩm
du lịch đặc trưng của vùng là du lịch văn hóa, sinh thái kết hợp với du lịch tham quan, nghiên
cứu, nghỉ dưỡng.
b) Vùng du lịch Bắc Trung Bộ: Gồm các tỉnh, thành phố từ Quảng Bình đến Quảng Ngãi.
Huế và Đà Nẵng là trung tâm của vùng và địa bàn động lực tăng trưởng du lịch Quảng Trị Huế - Đà Nẵng - Quảng Nam. Sản phẩm du lịch đặc trưng của vùng là du lịch thể thao, giải

trí, nghỉ dưỡng biển, tham quan các di tích lịch sử văn hoá, cách mạng, di sản văn hoá thế
giới.
c) Vùng du lịch Nam Trung Bộ và Nam Bộ: Gồm các tỉnh từ Kon Tum đến Cà Mau với
hai vùng du lịch Nam Trung Bộ và Nam Bộ. Trung tâm của vùng là thành phố Hồ Chí Minh và
các địa bàn tăng trưởng du lịch là: thành phố Hồ Chí Minh - Nha Trang - Đà Lạt, thành phố
Hồ Chí Minh - Cần Thơ - Hà Tiên - Phú Quốc, thành phố Hồ Chí Minh - Vũng Tàu - Phan
Thiết. Sản phẩm du lịch đặc trưng của vùng là du lịch tham quan, nghỉ dưỡng biển và núi để
khai thác thế mạnh du lịch của dải ven biển Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, du lịch sông
nước, du lịch sinh thái đồng bằng châu thổ sông Cửu Long.
Phát triển du lịch ở các vùng, các địa bàn trọng điểm du lịch, cần phải xuất phát từ điều
kiện, đặc điểm phát triển kinh tế - xã hội của mỗi địa phương và lợi thế về du lịch của từng
vùng nhằm khai thác tốt nhất tiềm năng của cả nước để phát triển du lịch.
4. Những giải pháp chủ yếu:
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật chuyên ngành du lịch; tổ chức tốt việc thực hiện
Pháp lệnh Du lịch, đồng thời chuẩn bị các điều kiện cần thiết để xây dựng Luật Du lịch, tạo
môi trường pháp lý cho việc quản lý hoạt động du lịch, thu hút mọi nguồn lực trong và ngoài
nước cho đầu tư phát triển du lịch phù hợp với tiến trình phát triển và hội nhập kinh tế của cả
nước.
Đầu tư để phát triển kết cấu hạ tầng tại các địa bàn trọng điểm du lịch, các khu du lịch
quốc gia, các điểm du lịch có tiềm năng phát triển du lịch ở miền núi, vùng sâu, vùng xa...
trên cơ sở khai thác các tiềm năng và thế mạnh của từng vùng, từng lĩnh vực, từng địa
phương; kết hợp có hiệu quả việc sử dụng các nguồn lực của Nhà nước và các nguồn lực từ
các thành phần kinh tế vào đầu tư phát triển du lịch theo chủ trương xã hội hoá phát triển du
lịch.
Sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực du lịch, thực hiện chủ
trương cổ phần hoá, cho thuê, bán, khoán... doanh nghiệp nhà nước.


Cải cách hành chính, phân cấp và đơn giản hoá các thủ tục liên quan đến khách du lịch
và doanh nghiệp kinh doanh du lịch.

Kết hợp linh hoạt các hình thức tuyên truyền như: hội chợ, hội thảo, triển lãm... và các
phương tiện thông tin tuyên truyền khác để xúc tiến du lịch phù hợp với định hướng phát triển
thị trường du lịch ở trong và ngoài nước. Đồng thời tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài và
hỗ trợ quốc tế để phục vụ công tác xúc tiến quảng bá du lịch đạt hiệu quả.
Xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển nguồn nhân lực du lịch. Nâng cao chất lượng
đào tạo chuyên ngành du lịch với cơ cấu nhân lực phù hợp. Thực hiện phương châm Nhà
nước, doanh nghiệp cùng tham gia đào tạo phát triển nguồn nhân lực du lịch. Thí điểm mô
hình dạy nghề có sự phối hợp giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp với nguồn kinh phí từ
ngân sách nhà nước và từ doanh nghiệp. Coi trọng và tăng cường hợp tác quốc tế về đào
tạo nguồn nhân lực du lịch.
Có chính sách đãi ngộ hợp lý để thu hút nhân tài, chuyên gia, nghệ nhân tham gia vào
việc phát triển du lịch của đất nước.
Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ phục vụ phát triển du lịch; chú
trọng đúng mức việc ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin du lịch. Xây lập hệ thống cơ
sở dữ liệu chuyên ngành du lịch đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp phát triển kinh tế.
Khuyến khích, tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân tham gia nghiên cứu và ứng dụng tiến
bộ khoa học công nghệ vào hoạt động kinh doanh du lịch. Tăng cường hợp tác với các tổ
chức, cơ quan khoa học trong và ngoài nước để tranh thủ sự hỗ trợ kỹ thuật, kinh nghiệm,
tiếp cận với những thành tựu mới, tiên tiến về khoa học công nghệ du lịch quốc tế để áp
dụng cho du lịch Việt Nam.
Tăng cường vai trò và hiệu lực quản lý Nhà nước về quản lý môi trường, tài nguyên du
lịch, đặc biệt ở những khu du lịch quốc gia, các điểm du lịch có sức hấp dẫn cao, các khu du
lịch sinh thái; khuyến khích và tạo điều kiện để huy động sự tham gia và đóng góp của các tổ
chức và cá nhân vào việc bảo vệ tài nguyên, môi trường du lịch, đảm bảo phát triển bền
vững của du lịch Việt Nam.
Lồng ghép đào tạo và giáo dục về tài nguyên và môi trường du lịch trong chương trình
giảng dạy của hệ thống đào tạo các cấp về du lịch; nâng cao nhận thức về việc bảo vệ tài
nguyên, môi trường du lịch cho khách du lịch và cộng đồng dân cư thông qua các phương
tiện thông tin đại chúng.
Chủ động tham gia hợp tác song phương, đa phương, khai thác tốt quyền lợi hội viên và

thực hiện các nghĩa vụ của mình. Chuẩn bị các điều kiện để hội nhập du lịch ở mức cao,
trước hết là chuẩn bị các điều kiện để khai thác những yếu tố về du lịch trong việc thực thi
Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và cũng như khi Việt Nam gia nhập Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO).
Hướng dẫn và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xây dựng kế hoạch, giải pháp để thực
hiện cam kết quốc tế trong du lịch nói riêng và trong hợp tác kinh tế quốc tế nói chung, nâng
cao năng lực cạnh tranh trên thị trường, tăng thị phần trên thị trường truyền thống và khai
thông, nâng dần vị thế trên thị trường mới.
Khuyến khích và tạo điều kiện để hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam đầu tư du lịch ra nước
ngoài. Thực hiện đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ du lịch với các nước để vừa tranh
thủ vốn đầu tư, công nghệ, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý..., vừa tiếp tục tạo lập và nâng cao
hình ảnh và vị thế của du lịch Việt nam ở khu vực và trên thế giới.
Điều 2. Tổ chức thực hiện
1. Căn cứ các mục tiêu, nội dung chủ yếu của Chiến lược này, Tổng cục Du lịch phối hợp
với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố


trực thuộc Trung ương tổ chức triển khai thực hiện "Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam
2001 - 2010", đề xuất và kiến nghị các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiện những
giải pháp cần thiết triển khai thực hiện Chiến lược này.
2. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm
phối hợp với Tổng cục Du lịch thực hiện các mục tiêu của Chiến lược; đảm bảo tính thống
nhất, đồng bộ với việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của ngành và địa
phương.
Điều 3. Quyết định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày ký.
Điều 4. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc
Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách
nhiệm thi hành Quyết định này.
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ

(Đã ký)
Phan Văn Khải
2.2. CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ĐỘNG CỦA DU LỊCH 2007 – 2012:

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
--------------------------

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------------

-----Hà Nội, ngày 21 tháng 9 năm 2007
CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ĐỘNG
của ngành Du lịch
Thực hiện chương trình hành động của chính phủ sau khi
Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)
giai đoạn 2007 - 2012
(Ban hành kèm theo Quyết định số 564/QĐ-BVHTTDL ngày 21/9/2007)
I. MỤC TIÊU
1. Mục tiêu chung
Chương trình Hành động của ngành Du lịch được thực hiện nhằm triển khai Chương trình
Hành động của Chính phủ (được ban hành kèm theo Nghị quyết số 16/2007/NQ-CP ngày
27/02/2007 của Chính phủ) thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá X về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và
bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Chương trình
này xác định rõ nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ở Trung ương và địa
phương, của các doanh nghiệp du lịch nhằm tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức, đưa du
lịch nước ta bước vào giai đoạn phát triển mới, nhanh, mạnh và bền vững, phấn đấu đạt và
vượt các chỉ tiêu đã đề ra trong Chiến lược Phát triển Du lịch Việt Nam giai đoạn 2001-2010.
2. Mục tiêu cụ thể

- Về đón khách quốc tế: phấn đấu đến năm 2010, Du lịch Việt Nam sẽ đón được 5,5-6,0 triệu
lượt khách quốc tế với nhịp độ tăng trưởng trung bình đạt 11,4%, 25 triệu lượt khách du lịch
nội địa.
- Về thu nhập du lịch: phấn đấu năm 2010, doanh thu du lịch đạt 4,0 - 4,5 tỷ USD, đưa tổng
sản phẩm du lịch (GDP) năm 2010 đạt 5,3% tổng GDP của cả nước với tốc độ tăng trưởng
GDP bình quân đạt 11,0 – 11,5%/năm.


- Về phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch: điều tra, lập quy hoạch và đầu tư xây dựng và
hoàn thiện 4 khu du lịch tổng hợp quốc gia và 16 khu du lịch chuyên đề quốc gia; nâng cấp
các tuyến điểm du lịch quốc gia và quốc tế, các khu du lịch có ý nghĩa vùng và địa phương;
đầu tư xây mới và nâng cấp hệ thống khách sạn, phấn đấu đến năm 2010 có trên 250.000
phòng khách sạn, đáp ứng nhu cầu lưu trú của khách.
- Về tạo việc làm cho xã hội: đến năm 2010 Du lịch tạo 1,4 triệu việc làm cho xã hội, trong đó
có 350.000 việc làm trực tiếp.
- Phấn đấu đến năm 2020 đưa Việt Nam trở thành một trong những nước có ngành du lịch
phát triển hàng đầu trong khu vực.
II. NHỮNG NHIỆM VỤ CHỦ YẾU
1. Nhóm nhiệm vụ xuất phát từ việc cụ thể hoá Chương trình Hành động của Chính
phủ
1.1. Về công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức
- Tổ chức nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết cho cán bộ, công chức, viên chức và người lao
động trong ngành Du lịch nhận thức sâu sắc quan điểm của Đảng về hội nhập kinh tế quốc
tế, gia nhập WTO, những cơ hội và thách thức của du lịch Việt Nam khi Việt Nam là thành
viên của WTO, phát huy mọi tiềm lực để nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức, đưa du lịch
Việt Nam phát triển nhanh và bền vững sau khi Việt Nam gia nhập WTO.
- Tổ chức các cuộc hội thảo, các lớp tập huấn để trao đổi, phổ biến nội dung các cam kết cụ
thể trong lĩnh vực du lịch và các lĩnh vực có liên quan cho cán bộ, công chức, viên chức và
người lao động trong Ngành nhằm nâng cao hiểu biết về nội dung cam kết, về qui tắc và luật
lệ của WTO để đảm bảo việc tuân thủ đúng luật, đúng qui tắc và cam kết trong quá trình

quản lý và kinh doanh.
- Tổ chức các chương trình truyền thông để phổ biến về những cơ hội và thách thức đối với
du lịch Việt Nam khi Việt Nam gia nhập WTO thông qua các phương tiện thông tin đại chúng
nhằm định hướng thông tin phù hợp đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
- Phối hợp với các địa phương tổ chức phổ biến Luật Du lịch và các văn bản hướng dẫn thi
hành.
- Hình thành diễn đàn trao đổi thông tin, kinh nghiệm về phát triển du lịch với việc tuân thủ
các cam kết khi gia nhập, qui tắc và luật lệ của WTO trên mạng thông tin ngành Du lịch.
1.2. Về công tác xây dựng pháp luật, thể chế và cải cách hành chính
- Tiến hành rà soát hệ thống văn bản pháp luật về du lịch hiện hành, loại bỏ những quy định
chồng chéo, không phù hợp với các cam kết; soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật cụ
thể, phù hợp cam kết, đảm bảo môi trường kinh doanh thông thoáng cho các tổ chức, cá
nhân tham gia hoạt động du lịch;
- Rà soát, điều chỉnh quy hoạch phát triển du lịch quốc gia và vùng làm cơ sở cho việc xây
dựng quy hoạch chi tiết phát triển du lịch các khu vực có tiềm năng và xác định các dự án
đầu tư cụ thể.
- Rà soát các thủ tục hành chính để loại bỏ các giấy tờ, thủ tục, giấy phép không cần thiết,
công bố công khai, minh bạch mọi chính sách, cơ chế quản lý, quy trình tác nghiệp, người
chịu trách nhiệm và thời hạn giải quyết công việc của các cơ quan quản lý nhà nước trong
lĩnh vực du lịch để mọi tổ chức, cá nhân thực hiện và giám sát việc thực hiện.
- Ban hành hệ thống phân cấp mới theo đề án tổng thể của Chính phủ đảm bảo tính hệ
thống, ban hành cơ chế kiểm tra việc thực hiện phân cấp, gắn phân cấp với kiểm tra, giám
sát.
- Tiếp tục hoàn thiện dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật Du
lịch theo hướng đẩy mạnh phân cấp, đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch và quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế.
- Xây dựng cơ chế hỗ trợ đầu tư và phát triển sản phẩm du lịch.
- Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong điều hành và quản lý theo hướng xây
dựng công sở điện tử, phục vụ đắc lực cho cải cách hành chính.
- Xác định các nội dung liên quan đến du lịch trong cam kết gia nhập WTO có thể thực hiện

trực tiếp và nội dung cần phải nội luật hoá để xây dựng kế hoạch sửa đổi Luật Du lịch và các
văn bản dưới luật liên quan.


- Hoàn thiện các tiêu chuẩn kỹ thuật ngành phù hợp với các quy định quốc tế để bảo vệ lợi
ích của doanh nghiệp và người tiêu dùng.
- Xây dựng cơ chế tham vấn đối với các đối tượng được quản lý, các doanh nghiệp du lịch
trong quá trình xây dựng chính sách, pháp luật theo nguyên tắc công khai, minh bạch của
WTO.
- Xây dựng hệ thống thống kê du lịch phù hợp với Luật Thống kê và thông lệ quốc tế.
1.3. Về hợp tác quốc tế
- Nghiên cứu, đề xuất cụ thể hoá các hiệp định về hợp tác du lịch song phương và đa
phương giữa Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế.
- Tăng cường hợp tác nhằm đẩy mạnh tuyên truyền hình ảnh đất nước và du lịch giữa Việt
Nam với các nước.
- Tăng cường mối quan hệ hợp tác phát triển giữa Hiệp hội Du lịch Việt Nam với Hiệp hội Du
lịch các nước, giữa các hiệp hội nghề du lịch Việt Nam với hiệp hội nghề du lịch các nước.
- Khuyến khích hợp tác, liên kết, liên doanh giữa địa phương với địa phương, giữa doanh
nghiệp với doanh nghiệp góp phần phát triển mối quan hệ giữa du lịch Việt Nam với du lịch
các nước.
- Tăng cường hợp tác quốc tế về đào tạo, phát triển nguồn nhân lực du lịch; tranh thủ sự hỗ
trợ của quốc tế để thu hút chuyên gia, hỗ trợ kỹ thuật, thu hút tài trợ từ các nước có du lịch
phát triển, triển khai hiệu quả các dự án về phát triển nguồn nhân lực du lịch; liên kết trao đổi
học sinh sinh viên giữa các cơ sở đào tạo du lịch của Việt Nam và các nước.
- Tăng cường hợp tác với các nước láng giềng, các nước tiểu vùng sông Mê Kông và các
nước ASEAN, xây dựng các chương trình phát triển chung để thu hút đầu tư nước ngoài.
2. Nhóm nhiệm vụ xuất phát từ chiến lược phát triển ngành
2.1. Về phát triển cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật ngành Du lịch
- Chủ động phối hợp với các ngành liên quan trong xây dựng và thực hiện các kế hoạch phát
triển và nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng, đặc biệt là mạng lưới giao thông phục vụ phát triển

du lịch.
- Xây dựng kế hoạch phát triển hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật Ngành trong đó ưu tiên phát
triển các cơ sở lưu trú du lịch đạt tiêu chuẩn quốc tế nhằm khắc phục tình trạng thiếu các cơ
sở lưu trú du lịch nói chung và cơ sở lưu trú du lịch cao cấp nói riêng, đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của thị trường.
- Xác định danh mục các dự án ưu tiên đầu tư trong lĩnh vực du lịch theo từng giai đoạn đến
năm 2020 trong đó ưu tiên các dự án đầu tư xây dựng các công trình nghỉ dưỡng, vui chơi
giải trí, khách sạn, hạ tầng du lịch có chất lượng cao theo quy hoạch, ưu tiên các dự án phát
triển loại hình du lịch thân thiện với môi trường và góp phần xoá đói, giảm nghèo.
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với các dự án đầu tư xây dựng các công trình
du lịch (khách sạn, khu du lịch, khu vui chơi giải trí...) có ý nghĩa quốc gia.
2.2. Về tăng cường năng lực đội ngũ lao động trong ngành du lịch
Tổ chức triển khai thực hiện Chương trình phát triển nguồn nhân lực du lịch đến 2015 và tầm
nhìn đến năm 2020 sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt nhằm phát triển nguồn
nhân lực du lịch đủ về số lượng, cao về chất lượng và hợp lý về cơ cấu; là động lực thúc đẩy
du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn, đảm bảo yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc
tế. Nội dung chủ yếu của chương trình bao gồm: tăng cường năng lực hệ thống quản lý phát
triển nguồn nhân lực du lịch; Đào tạo lại, bồi dưỡng cho cán bộ quản lý và lao động trong
Ngành; Phát triển đội ngũ giáo viên, giảng viên, đào tạo viên du lịch; Đầu tư cơ sở vật chất kỹ
thuật và tăng cường năng lực quản lý của cơ sở đào tạo du lịch; Phát triển chương trình, giáo
trình; xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp du lịch; ứng dụng công nghệ
mới trong phát triển nguồn nhân lực du lịch; Nâng cao nhận thức cộng đồng về du lịch.
2.3. Về xây dựng và phát triển sản phẩm du lịch
- Xây dựng chiến lược phát triển sản phẩm du lịch phù hợp với xu hướng thị trường và có
sức cạnh tranh trong khu vực. Trong đó, ưu tiên phát triển du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, du
lịch văn hoá lịch sử và thể thao, vui chơi giải trí.
- Thúc đẩy phát triển các loại hình du lịch mới, đặc biệt là du lịch đường bộ liên quốc gia, du
lịch đường biển. Nghiên cứu khảo sát xây dựng các sản phẩm du lịch độc đáo của các địa



phương, các vùng và sản phẩm liên quốc gia để thu hút khách quốc tế và đẩy mạnh thu hút
khách nội địa
- Lập đề án phát triển các khu du lịch nghỉ dưỡng tổng hợp cao cấp ở khu vực ven biển và
vùng núi có khí hậu ôn hoà nhằm hình thành hệ thống các sản phẩm chất lượng cao, đáp
ứng nhu cầu ngày càng cao của khách.
- Xây dựng đề án phát triển các cơ sở vui chơi giải trí, hệ thống các cửa hàng dịch vụ đạt
chuẩn nhằm đáp ứng nhu cầu, kéo dài thời gian lưu trú và tăng chi tiêu của khách du lịch.
- Lập kế hoạch và tổ chức các sự kiện văn hoá, thể thao, du lịch tầm cỡ quốc tế nhằm thu hút
khách du lịch và quảng bá hình ảnh du lịch Việt Nam.
2.4. Về công tác xúc tiến quảng bá, phát triển thị trường
- Xây dựng và thực hiện chiến lược xúc tiến du lịch với các nhiệm vụ cơ bản gồm:
+ Nghiên cứu xác định nhu cầu thị trường và các thị trường trọng điểm cần ưu tiên trong tình
hình hiện tại.
+ Nghiên cứu, đầu tư nâng cao chất lượng của công tác xúc tiến quảng bá du lịch ở nước
ngoài nhằm đảm bảo hiệu quả quảng bá hình ảnh du lịch Việt Nam ra thị trường và thu hút
khách.
+ Đa dạng hoá các hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch cả trong nước và ở nước ngoài nhằm
mở rộng thị trường khách cả trong và ngoài nước, góp phần vào sự tăng trưởng của du lịch
Việt Nam.
+ Mở rộng phạm vi các công cụ sử dụng trong công tác tuyên truyền, quảng bá du lịch Việt
Nam, trong đó vai trò của internet được coi trọng đặc biệt.
+ Xây dựng và hoàn thiện cơ chế tiếp nhận và sử dụng các nguồn tài trợ cho công tác xúc
tiến du lịch.
+ Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác xúc tiến ở trung ương và các địa phương.
2.5. Bảo vệ môi trường và phát triển du lịch bền vững
- Triển khai tổ chức các sự kiện quảng bá du lịch Việt Nam ở nước ngoài, ở trong nước.
Trong đó, tập trung tối đa cho việc tổ chức các sự kiện quan trọng như năm du lịch Cần Thơ
2008, diễn đàn du lịch các nước ASEAN 2009.
- Phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường xây dựng đề án bảo vệ môi trường, nâng cao
năng lực quan trắc, ứng phó với các sự cố môi trường tại các khu du lịch quốc gia.

- Tăng cường kiểm tra, giám sát việc khai thác tài nguyên, bảo vệ môi trường cho phát triển
du lịch bền vững.
- Nghiên cứu xây dựng đề án ứng phó khủng hoảng, rủi ro trong du lịch, đặc biệt là thiên tai
và dịch bệnh.
- Nghiên cứu xây dựng đề án phát triển du lịch gắn với xoá đói giảm nghèo.
- Xây dựng chiến lược phát triển du lịch bền vững nhằm thực hiện chương trình Nghị sự 21
Việt Nam.
- Xây dựng chương trình bảo vệ môi trường của ngành du lịch, lồng ghép vào kế hoạch đào
tạo, phổ biến thông tin và thực hiện các biện pháp nâng cao hiệu quả việc thực hiện nhiệm vụ
môi trường của Ngành.
- Nghiên cứu xây dựng và áp dụng các tiêu chuẩn về môi trường trong du lịch.
3. Nhóm nhiệm vụ xuất phát từ kết quả đánh giá về tác động của hội nhập kinh tế quốc
tế nói chung và gia nhập WTO nói riêng
3.1. Về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực du lịch
- Thực hiện hiệu quả sâu rộng quá trình xã hội hoá, hiện đại hoá và nâng cao chất lượng đào
tạo, tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế, các đối tượng trong nước và ngoài nước tham
gia vào đào tạo, phát triển nguồn nhân lực du lịch.
- Thực hiện đào tạo theo nhu cầu xã hội, áp dụng mô hình đào tạo linh hoạt theo tín chỉ, thực
hiện việc hợp tác liên kết đa dạng, đào tạo theo địa chỉ, thu hút sự tham gia của doanh
nghiệp để nâng cao chất lượng đào tạo đáp ứng đúng với nhu cầu doanh nghiệp, nhu cầu
người học và nhu cầu của xã hội.
3.2. Về phối hợp liên ngành


- Phối hợp với Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan nghiên cứu, đề xuất việc điều chỉnh
một số mức thuế đối với hoạt động du lịch, xây dựng và áp dụng chính sách hoàn thuế giá trị
gia tăng đối với hàng hoá mua tại Việt Nam cho khách du lịch.
- Phối hợp với Bộ Thương mại phát triển hệ thống cửa hàng dịch vụ đạt chuẩn để khuyến
khích hoạt động mua sắm, tăng chi tiêu của khách khi đến Việt Nam.
- Phối hợp với Bộ Giao thông Vận tải và các Bộ, Ngành liên quan xây dựng và thực hiện đề

án phát triển hệ thống trạm dừng chân phục vụ khách du lịch dọc các tuyến đường quốc lộ,
đặc biệt là các tuyến đường trùng với tuyến du lịch quốc gia; xây dựng đề án với lộ trình cụ
thể về việc mở rộng phạm vi hoạt động cho các đoàn xe du lịch tay lái bên phải, các đoàn xe
caravan và xe mô tô phân khối lớn vào Việt Nam; triển khai việc quy định tiêu chuẩn, kiểm
định chất lượng, cấp biển hiệu và kiểm tra hoạt động của các loại phương tiện vận chuyển
khách du lịch (ô tô, tàu thuyền).
- Phối hợp với các cơ quan hữu quan nghiên cứu khả năng cấp visa tại cửa khẩu, miễn visa
song phương và đơn phương cho khách du lịch tại một số thị trường du lịch trọng điểm của
Việt Nam.
- Phối hợp với Cục Quản lý Xuất nhập cảnh, Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng, Tổng cục Hải
quan xây dựng đề án nâng cao chất lượng dịch vụ công tại các đầu mối tiếp xúc với du
khách.
- Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các Bộ, Ngành liên quan trong việc xác định danh
mục các dự án ưu tiên đầu tư trong lĩnh vực du lịch và tổ chức các diễn đàn kêu gọi đầu tư
cả ở trong nước và nước ngoài.
- Phối hợp với các cơ quan thông tấn báo chí ở trung ương và địa phương đẩy mạnh công
tác tuyên truyền nâng cao nhận thức xã hội về du lịch và quảng bá xúc tiến du lịch.
- Phối hợp với các ngành, các địa phương thực hiện có hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát
đối với các dự án đầu tư xây dựng các công trình du lịch (khách sạn, khu du lịch, khu vui chơi
giải trí...) có ý nghĩa quốc gia.
3.3. Nâng cao năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực du lịch
- Xây dựng đề án nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong lĩnh vực du lịch, trong đó đề
xuất các chính sách vĩ mô nhằm khai thác tối đa tiềm năng về lịch sử văn hoá, về sinh thái
của nước ta, phát huy lợi thế của xã hội ổn định, hoà bình và mến khách.
- Xây dựng chương trình nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp du lịch với các
nội dung cơ bản gồm:
+ Phối hợp với Hiệp hội Du lịch Việt Nam lựa chọn một số doanh nghiệp điển hình để phân
tích khả năng cạnh tranh, làm cơ sở cho các doanh nghiệp trong Ngành tự phân tích khả
năng cạnh tranh của mình.
+ Tổ chức đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ cho doanh nghiệp du lịch Việt Nam, phù hợp

xu thế và trình độ quốc tế.
+ Thúc đẩy hợp tác quốc tế, hợp tác trong nước giữa các doanh nghiệp để nâng cao vị thế
của du lịch Việt Nam.
+ Xây dựng kế hoạch mở rộng thị trường trên cơ sở phân tích khả năng cạnh tranh của sản
phẩm du lịch Việt Nam và chương trình nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Xây dựng và triển khai đề án nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm du lịch Việt Nam
với các hoạt động bao gồm :
+ Tăng cường khảo sát, nghiên cứu các vùng, các địa phương để khai thác, phát hiện các
nguồn tiềm năng cho xây dựng các sản phẩm du lịch độc đáo, đặc thù của các địa phương
(văn hoá bản địa đặc sắc, cảnh quan thiên nhiên kỳ thú...).
+ Xây dựng và phát triển các sản phẩm du lịch mạo hiểm đặc thù của Việt Nam (lặn biển, leo
núi, thám hiểm hang động...), tổ chức các cuộc đua, các hoạt động chuyên đề... để thu hút
khách du lịch.
+ Xây dựng các sản phẩm du lịch liên vùng, liên quốc gia để hội nhập các sản phẩm du lịch
Việt Nam với khu vực.
- Xây dựng kế hoạch củng cố, mở rộng và nâng cao năng lực của các hiệp hội nghề du lịch.
III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN


- Trên cơ sở những nội dung, nhiệm vụ chủ yếu trong chương trình hành động này và căn cứ
chức năng, nhiệm vụ đã được phân công, Văn phòng Tổng cục Du lịch, các Vụ, Cục và các
đơn vị trực thuộc xây dựng kế hoạch hành động cụ thể của đơn vị mình.
- Đối với những nhiệm vụ cần triển khai theo chương trình, đề án, Lãnh đạo các Vụ, Văn
phòng, Cục và các đơn vị trực thuộc chịu trách nhiệm chỉ đạo việc xây dựng các đề án,
chương trình của đơn vị mình với các mục tiêu, nội dung, giải pháp thực hiện và phương án
tổ chức triển khai cụ thể trình Lãnh đạo Bộ trước ngày 31 tháng 10 năm 2007.
- Đối với những nhiệm vụ không phải triển khai theo chương trình, đề án, các đơn vị cần tổ
chức triển khai thực hiện ngay để bảo đảm thực hiện kịp thời và hiệu quả những nội dung
của Chương trình Hành động.
- Các sở quản lý du lịch căn cứ Chương trình Hành động của địa phương và nội dung của

Chương trình này, xây dựng kế hoạch hành động của đơn vị mình trình UBND tỉnh phê duyệt
và gửi báo cáo Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch để phối hợp chỉ đạo trước ngày 31 tháng 10
năm 2007./.
KT. BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
(Đã ký)
Trần Chiến Thắng

Bài 3. Thương hiệu quốc gia Việt Nam - hành trình đến bản sắc
Trong bối cảnh toàn cầu hóa đang diễn ra hết sức mạnh mẽ, Chính phủ nhiều nước đã tiến
hành xây dựng và thực hiện các chiến lược thương hiệu quốc gia để trở nên hấp dẫn hơn
trong việc thu hút các nhà đầu tư, khách du lịch, người tiêu dùng, giới truyền thông... và cả
các quốc gia khác.
Thương hiệu quốc gia (THQG) được hiểu là tập hợp các liên tưởng của cộng đồng về hình
ảnh và bản sắc quốc gia. Trong đó, hình ảnh quốc gia là những gì mà quốc gia đã tạo dựng
được trong nhận thức của cộng đồng trong quá khứ. Bản sắc quốc gia là những gì mà quốc
gia mong muốn định vị, gắn với hình ảnh quốc gia trong tương lai. Bất kỳ cá nhân nào trên
thế giới, khi còn chưa biết đến hai chữ "Việt Nam" hoặc không có nhu cầu tìm hiểu hai chữ
"Việt Nam" thì họ không có khái niệm về "thương hiệu Việt Nam". Những người đã đọc, nghe,
tìm hiểu, trải nghiệm đối với "Việt Nam" sẽ hình thành trong nhận thức các liên tưởng về quốc
gia Việt Nam. Một THQG tích cực sẽ giúp quốc gia đó thúc đẩy xuất khẩu, đầu tư và du lịch,
giúp các doanh nghiệp (DN) có thể tiếp cận người tiêu dùng quốc tế một cách nhanh chóng
và hiệu quả hơn. Trên thực tế, gần đây nhiều nước đã xây dựng khá thành công THQG của
mình, điển hình là Hàn Quốc với chương trình "Dynamic Korea", Niu Di-lân với "Fern Brand",
Thái-lan với "Thailand's Brand".
Ý thức được tầm quan trọng của xây dựng thương hiệu quốc gia Việt Nam, phát triển hình
ảnh và vị thế của Việt Nam trên bản đồ địa lý kinh tế - chính trị toàn cầu, Thủ tướng Chính
phủ đã ký Quyết định số 253/QÐ-TTg ngày 25-11-2003 phê duyệt Chương trình xây dựng và
phát triển THQG Việt Nam, giao Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương) là cơ quan
thường trực, chịu trách nhiệm phối hợp với các bộ, ngành triển khai. Cục Xúc tiến thương

mại (Bộ Công Thương) đảm nhiệm vai trò Ban Thư ký của chương trình.
Chương trình THQG hướng tới mục đích xây dựng hình ảnh về Việt Nam là một quốc gia có
uy tín về hàng hóa và dịch vụ đa dạng, phong phú với chất lượng cao; nâng cao sức cạnh
tranh cho các thương hiệu sản phẩm Việt Nam trên thị trường trong nước và quốc tế trong
quá trình hội nhập. Khuyến khích xuất khẩu sản phẩm công nghiệp chế biến. Tăng cường sự
nhận biết của các nhà phân phối và người tiêu dùng trong và ngoài nước đối với các sản
phẩm mang thương hiệu Việt Nam; xây dựng hình ảnh Việt Nam gắn với các giá trị "chất
lượng - đổi mới, sáng tạo - năng lực lãnh đạo"; tăng thêm uy tín, niềm tự hào và sức hấp dẫn


cho đất nước và con người Việt Nam, góp phần khuyến khích du lịch và thu hút đầu tư nước
ngoài.
Với ý nghĩa đó, Chính phủ đã quyết định lấy ngày 20-4 hằng năm là "Ngày Thương hiệu Việt
Nam". Thời gian qua, chương trình tập trung triển khai hai nội dung chính là giúp các DN
nâng cao nhận thức về tầm quan trọng và tăng cường năng lực trong việc xây dựng, quảng
bá, bảo vệ thương hiệu; lựa chọn các thương hiệu sản phẩm tiêu biểu của Việt Nam tham gia
chương trình. Trên cơ sở đó, Nhà nước sẽ cùng với các DN xây dựng các chương trình hành
động cụ thể để nâng cao năng lực cạnh tranh cho các thương hiệu sản phẩm được lựa chọn,
hướng tới ba giá trị cốt lõi "chất lượng - đổi mới, sáng tạo - năng lực lãnh đạo" và quảng bá
hình ảnh Việt Nam gắn với các giá trị này trên thị trường trong nước và thế giới tới các đối
tượng mục tiêu. Nhà nước không làm thay cho DN nhưng sẽ đứng ra bảo trợ cho các thương
hiệu sản phẩm có chất lượng và uy tín kinh doanh, nhằm giúp các DN Việt Nam tạo chỗ
đứng vững vàng trên thị trường trong nước và có điều kiện phát triển thương hiệu của mình
ra thế giới.
Ðến nay, Chương trình THQG Việt Nam đã thu hút được sự tham gia rộng rãi và thiết thực
của cộng đồng DN, giúp các DN có được những kiến thức cần thiết trong quá trình xây dựng
và tạo lập thương hiệu, hỗ trợ cho các doanh nhân các điều kiện pháp lý đăng ký và bảo vệ
thương hiệu của mình. Nhờ đó bước đầu một số hàng hóa, sản phẩm dịch vụ của Việt Nam
đã tạo được vị thế trên thị trường trong nước và quốc tế, được người tiêu dùng ưa chuộng.
Năm 2008, từ hơn 1.000 DN đăng ký tìm hiểu tham gia chương trình, trải qua hai vòng xét

tuyển, chương trình THQG đã lựa chọn được 30 DN trở thành các đối tác của chương trình,
cùng chương trình phát triển các bản sắc giá trị mà chương trình theo đuổi.
Việc xây dựng thương hiệu quốc gia phải là nhiệm vụ của mỗi công dân, mỗi DN, chứ không
phải chỉ là nhiệm vụ của Chính phủ. Muốn xây dựng thành công thương hiệu quốc gia cần
phải có sự quyết tâm cao và những bước đi vững chắc.
Chương trình Thương hiệu quốc gia Việt Nam được xây dựng trên cách tiếp cận theo thang
giá trị thể hiện bản sắc tương lai của hình ảnh Việt Nam gắn kết với ba giá trị "đổi mới sáng
tạo - chất lượng - năng lực lãnh đạo".
Việc lựa chọn ba giá trị nói trên xuất phát từ các nghiên cứu của chương trình kết hợp với
Công ty nghiên cứu thị trường Taylor Neilsen Sofres. Dưới góc độ tiếp cận người dùng, sản
phẩm có chất lượng được cải tiến và đổi mới không ngừng sẽ thỏa mãn nhu cầu người tiêu
dùng ngày một tốt hơn. Dưới góc độ tiếp cận của DN, đổi mới sáng tạo khuyến khích nâng
cao năng suất, giảm chi phí và tạo ra các sản phẩm có chất lượng tốt hơn. Dưới góc độ tiếp
cận vị thế, năng lực lãnh đạo quyết định khả năng dẫn đầu một lĩnh vực hay khác biệt hóa
trong lĩnh vực nào đó nhằm khẳng định vị thế dẫn đầu./.
Xây dựng và quảng bá hình ảnh Việt Nam trong tình hình mới
Cập nhật: Thứ ba, 9/12/2008
Hội nghị ngoại giao lần thứ 26 đã khai mạc sáng 2/12/2008 tại Hà Nội. Ngày 8/12, đồng chí
Hoàng Tuấn Anh, Ủy viên BCH TƯ Đảng, Bộ trưởng Bộ VH,TT&DL có bài phát biểu “Xây
dựng và quảng bá hình ảnh Việt Nam trong tình hình mới”. Xin trân trọng giới thiệu toàn văn
bài phát biểu của Bộ trưởng:
Tạo dựng và quảng bá hình ảnh quốc gia là một trong những nội hàm của ngoại giao văn
hóa được các nước trên thế giới đặc biệt quan tâm. Trong xu thế hòa bình, sự phân công lao
động trên thế giới ngày càng sâu sắc, sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng rõ nét và xu thế hội
nhập đang nắm giữ vai trò chủ đạo trong đời sống kinh tế quốc tế thì ngoại giao văn hóa
ngày càng trở nên quan trọng và được quan tâm hơn bao giờ hết. Ngoại giao văn hóa mà
bản chất sâu xa của nó là “sức mạnh mềm” hay “quyền lực mềm” được các nước khai thác
triệt để nhằm tạo dựng nền móng và điều kiện để thể hiện uy lực trên trường quốc tế. Trải
qua những biến thiên của lịch sử, văn hóa đã khẳng định vị trí then chốt, đóng vai trò quyết
định đối với sự hưng thịnh hoặc suy vong của một đất nước. Trong thời đại ngày nay, văn

hóa ngày càng phát huy sức mạnh vai trò cầu nối giữa các dân tộc, nâng cao hiểu biết lẫn
nhau, góp phần hoà giải các xung đột, mâu thuẫn, tạo tiền đề thúc đẩy hợp tác phát triển.
Nội hàm “ngoại giao văn hóa” được các quốc gia, các nhà nghiên cứu định nghĩa theo nhiều
góc độ. Ngoại giao văn hóa có thể được hiểu như là “sự giao lưu, trao đổi về tư tưởng, thông


tin, nghệ thuật và các lĩnh vực khác của văn hóa giữa các quốc gia và người dân nhằm tăng
cường hiểu biết lẫn nhau”. Ngoại giao văn hóa cũng còn có thể được hiểu là “tổng thể các
hoạt động văn hóa do Nhà nước chỉ đạo, điều tiết và thực hiện ở bên ngoài lãnh thổ nhằm
đảm bảo sự hiện diện văn hóa quốc gia và tăng cường quảng bá hình ảnh quốc gia đó ở
nước ngoài”.
Sự hiện diện văn hóa quốc gia của một đất nước tại một quốc gia khác chính là hình ảnh của
quốc gia đó trong lòng người dân nước sở tại – là điều đầu tiên mà bất kỳ người dân nào sẽ
nghĩ đến khi được hỏi về quốc gia đó. Hình ảnh đó có thể là một công trình kiến trúc, tác
phẩm âm nhạc, thơ, văn, hội họa, điêu khắc, có thể là một danh thắng thiên nhiên, một nhân
vật nổi tiếng, một phong tục, tập quán, một lễ hội, những sản phẩm thủ công, mỹ nghệ, công
nghiệp, một con vật, một loài cây, loài hoa, thậm chí là một món ăn, một loại đồ uống... Một
quốc gia có thể có một hình ảnh quốc gia tiêu biểu, nhưng nhìn chung, các quốc gia thường
có nhiều hình ảnh quốc gia. Ví dụ, khi nhắc đến Pháp, điều mà ai cũng nghĩ đến đó là tháp
Épphen, rượu vang Boócđô; nói đến Úc, người ta sẽ nghĩ đến Nhà hát vỏ sò Xítni, đến thú có
túi Cănguru; nói đến Nhật Bản, đó là núi Phú Sĩ, rượu Sakê, trà đạo; nói đến Hàn Quốc, đó là
món dưa kim chi; nói đến Cuba, đó là xì gà Cuba, là bãi biển trong xanh, mía đường; nói đến
nước Nga, đó là điện Kremlin, là rượu vốtka, âm nhạc Glinka, Tchaikovsky; nói đến Tây Ban
Nha, đó là hiệp sĩ Đông Ki-sốt, là môn đấu bò tót v.v... Những hình ảnh về một xứ sở nào đó
sẽ được người dân các xứ sở khác đón nhận, ghi nhận và lưu giữ để trở thành biểu tượng.
Khi có một sự tác động nhất định, biểu tượng đó sẽ hiện diện trong đầu óc con người theo
quy luật liên tưởng.
Nhìn chung, hình ảnh quốc gia phần lớn là hình ảnh tích cực, nhưng ngược lại, tùy vào từng
thời điểm lịch sử, cũng có nhiều quốc gia bị gán cho những hình ảnh tiêu cực, đặc biệt khi họ
mang quân xâm chiếm hoặc đàn áp một quốc gia khác.

Để được biết đến một cách rộng rãi trên trường quốc tế với những hình ảnh tích cực, điều
mà các quốc gia đều quan tâm, đó là tạo dựng và quảng bá, xúc tiến, giới thiệu hình ảnh
quốc gia ra nước ngoài. Trong thời đại ngày nay, việc tạo dựng hình ảnh quốc gia được các
nước cân nhắc kỹ lưỡng và đầu tư triển khai với sự hỗ trợ của các công nghệ tiên tiến, hiện
đại nhất. Một trong những yếu tố được quan tâm khi tạo dựng hình ảnh quốc gia, đó là sự
độc đáo so với các nước khác, khai thác triệt để những ưu thế và lợi thế của đất nước mình.
Bên cạnh đó, các nước cũng rất quan tâm đến địa bàn và đối tượng sẽ được giới thiệu nhằm
khai thác tối đa hiệu quả của công tác xúc tiến quảng bá hình ảnh quốc gia. Tại nhiều nước
trên thế giới, nguyên thủ quốc gia có vai trò quan trọng trong tiếp thị hình ảnh đất nước, đặc
biệt trong nhiệm kỳ lãnh đạo, quốc gia đó đạt được sự tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã
hội, chính trị ổn định, đời sống người dân được nâng cao.
Hình ảnh quốc gia phải luôn gắn liền với thực tế của đất nước, không thể tạo ra những hình
ảnh giả tạo, che giấu sự thật trong thời đại công nghệ thông tin và thế giới hội nhập với tính
công khai, minh bạch ngày càng cao. Một hình ảnh quốc gia chỉ có thể tồn tại lâu dài khi nó
phản ánh chân thực những giá trị của quốc gia đó về lịch sử, sự phát triển về kinh tế-xã hội,
công nghệ, con người, điều kiện địa lý đặc thù, điểm đến, môi trường kinh doanh, sự vận
động và năng động của quốc gia, chất lượng sống, sáng tạo... nhất là giá trị nhân văn.
Hầu hết các quốc gia đều muốn thu hút nguồn vốn đầu tư và gia tăng lượng khách du lịch,
mong muốn cộng đồng toàn cầu nhận thức tích cực về các sản phẩm do quốc gia đó chế tạo,
quảng bá môi trường sống và làm việc thuận tiện để thu hút người tài đến sống và làm việc
tại quốc gia đó. Do đó, mỗi quốc gia đều phải tạo dựng một hình ảnh như là thương hiệu
riêng để lay thức sự nhận biết về bản sắc riêng của quốc gia đó, nhất là trong thời kỳ hội
nhập và cạnh tranh, một thông điệp định vị rõ ràng hay một hình ảnh tích cực sẽ giúp quốc
gia đó chiếm một vị trí nhất định trong tâm tưởng người nước ngoài khi họ quyết định đầu tư,
du lịch hay mua sản phẩm. Đổi lại, một thương hiệu nổi tiếng cũng góp phần tạo nên hình
ảnh đặc trưng cho quốc gia đó. Một khi tạo được hình ảnh quốc gia có giá trị tích cực qua
các kênh tiếp thị, nó không những đem lại những lực đẩy vô cùng quan trọng cho một nước
như bùng nổ dự án đầu tư nước ngoài, tăng số lượng khách du lịch, tăng hạn ngạch xuất
khẩu... mà còn thu hút nhân tài, khơi dậy niềm tự hào trong mỗi công dân.
Trong khu vực ASEAN, Thái Lan, Xinhgapo, Malaysia đã và đang nỗ lực xây dựng hình ảnh

quốc gia thông qua các chiến dịch quảng bá du lịch nhằm thu hút khách nước ngoài. Với
nguồn kinh phí lớn được rót vào các chương trình quảng bá hình ảnh đất nước trên các kênh
truyền hình quốc tế và các phương tiện thông tin đại chúng, hình ảnh các quốc gia này đã


được cải thiện rõ nét. Lượng khách du lịch đến các nước này tăng vọt trong thời gian qua, và
cũng chính hàng chục triệu du khách nước ngoài đó đã trở thành những “tuyên truyền viên”
đắc lực cho các quốc gia này khi họ quay trở về nước.
Đối với Việt Nam, trong thời gian qua, đã có khá nhiều nỗ lực trong tạo dựng và quảng bá
hình ảnh Việt Nam ra khu vực và thế giới. Những thành tựu của sự nghiệp Đổi mới, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và trong công tác đối ngoại đã góp phần làm cho các
nước trên thế giới biết đến Việt Nam như một nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, chính trị
ổn định, với lực lượng lao động trẻ, thông minh, sáng tạo, tiếp thu nhanh. Đặc biệt, trong lĩnh
vực du lịch, Việt Nam được biết đến như một điểm đến hấp dẫn với phong cảnh thiên nhiên
kỳ vĩ, nhiều di sản thiên nhiên và văn hóa, người dân thân thiện, mến khách, ẩm thực phong
phú, đa dạng, bãi biển đẹp. Trong những năm đầu của thế kỷ 21, với khẩu hiệu “Việt Nam –
Điểm đến của thiên niên kỷ mới” và hiện nay là “Việt Nam – Vẻ đẹp tiềm ẩn” đã góp phần
chuyển tải một thông điệp, cuốn hút đối với du khách nước ngoài. Công tác xúc tiến, quảng
bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam được đẩy mạnh với việc tăng cường tham gia các
hội nghị khu vực và quốc tế, tham gia các lễ hội, hội chợ, triển lãm du lịch, các đợt phát động
thị trường, các Tuần Văn hóa Việt Nam ở nước ngoài, tổ chức các chuyến khảo sát cho
phóng viên báo chí và truyền hình nước ngoài, cho các hãng điều hành tour vào thăm và tìm
hiểu tiềm năng du lịch Việt Nam... Những cố gắng này không những góp phần nâng lượng
khách du lịch quốc tế tăng gần gấp 3 lần kể từ năm 1998 đến nay (từ 1,5 triệu lượt năm 1998
lên 4,3 triệu lượt năm 2008; khách du lịch nội địa tăng gấp đôi, từ 9,6 triệu lượt năm 1998 lên
20 triệu lượt năm 2008; thu nhập từ du lịch tăng gần 5 lần, từ 12.700 tỉ đồng lên 60.000 tỉ
đồng năm 2008), mà còn quảng bá được hình ảnh tươi đẹp và nhất là nền văn hóa phong
phú, đa dạng của đất nước Việt Nam. Khẩu hiệu của chúng ta nhằm đạt tới là: “Thêm một
người nước ngoài thích đến với Việt Nam, đất nước Việt Nam thêm một người bạn”.
Tuy nhiên, thực trạng trình độ phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn hiện nay và dự báo trong

một số năm tới cho thấy phần lớn giá trị hàng xuất khẩu của Việt Nam vẫn sẽ chủ yếu là
nhiên liệu, nông sản sơ chế hay những mặt hàng gia công, chế biến với giá trị gia tăng thấp.
Tỷ trọng các sản phẩm có hàm lượng trí tuệ và sáng tạo cao còn hạn chế. Do vậy, để có một
sản phẩm công nghệ và trí tuệ cao làm hình ảnh quốc gia như Samsung của Hàn Quốc,
Nokia của Phần Lan, Sony của Nhật Bản, Tata của Ấn Độ, Boeing của Mỹ, Mercedes của
Đức... hiện đang là bài toán khó đối với Việt Nam. Trong bối cảnh như vậy, hình ảnh và
thương hiệu Việt Nam như là một biểu tượng hoặc một biểu trưng của đất nước Việt Nam
trong thời gian tới chủ yếu là những giá trị văn hóa ngàn năm văn hiến, là truyền thống đấu
tranh dựng nước và giữ nước vẻ vang, bất khuất của dân tộc, là phong cảnh thiên nhiên kỳ
vĩ, thơ mộng, là lòng nhân hậu và mến khách của người Việt Nam, là tính đa dạng và hấp
dẫn của ẩm thực Việt Nam, là sự tinh xảo của các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, là đất nước
yêu chuộng hòa bình, ổn định với những chính sách cởi mở, thông thoáng cho các nhà đầu
tư nước ngoài, là điểm đến an toàn, thân thiện và mến khách, lực lượng lao động trẻ, năng
động, sáng tạo, có khả năng tiếp thu và sử dụng nhanh công nghệ, kỹ thuật cao, luôn cầu
tiến bộ.
Hình ảnh quốc gia là những hình ảnh liên tưởng của người nước ngoài về quốc gia đó về
chính sách kinh tế, chính trị, đầu tư, đặc tính sản phẩm, bản sắc văn hóa và tính cách con
người... của đất nước đó. Vì vậy, Việt Nam cần thiết phải có một chiến lược tạo dựng và
quảng bá hình ảnh quốc gia để định hướng các hoạt động. Việc làm này thường mất khá
nhiều thời gian, đòi hỏi sự bền bỉ và sáng tạo; đặc biệt phải khai thác thật đúng về thế mạnh
và tính độc đáo của đất nước ta. Một hình ảnh quốc gia tích cực về Việt Nam sẽ làm cho bạn
bè thêm yêu Việt Nam – và chính đó sẽ là một lá chắn bảo vệ đất nước Việt Nam.
Vì thế, cần có và phải có một chiến lược tạo dựng và quảng bá hình ảnh quốc gia với sự
tham gia của các Bộ, ngành, địa phương trong cả nước; đồng thời, khuyến khích sự tham gia
tích cực và sáng tạo của mọi thành phần kinh tế trong công việc này. Đây vừa là nghĩa vụ,
vừa là trách nhiệm của mọi cơ quan công quyền, tổ chức đoàn thể chính trị-xã hội, doanh
nghiệp và mọi người dân, nhất là các học giả, các nhà nghiên cứu văn hoá, những người
giàu nhiệt huyết, các nhà sử học, các nhà báo... Bên cạnh đó, cần đặc biệt quan tâm nâng
cao nhận thức cho người dân nói chung, đặc biệt là những người buôn bán, kinh doanh ở
các trung tâm du lịch, khu du lịch, điểm du lịch nhằm tạo ấn tượng tốt đối với du khách quốc

tế về văn hóa Việt Nam.


Trong thời gian tới, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh hoạt động văn
hóa đối ngoại trên cơ sở phối hợp với Bộ Ngoại giao và các Bộ, ngành, địa phương trong cả
nước nhằm tăng cường hơn nữa công tác xúc tiến, quảng bá những giá trị văn hóa, lịch sử,
đất nước, con người Việt Nam ra nước ngoài. Công việc và tiến trình công việc sẽ không ít,
nhưng điều trước mắt là cần quan tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức có
trình độ chuyên môn cao, giỏi ngoại ngữ và nghiệp vụ, giàu lòng yêu nước và tự hào về Tổ
quốc mình nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác đối ngoại và ngoại giao văn
hoá trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá hiện nay./.

Bài 4. Xây dựng và quảng bá thương hiệu Du lịch VN
Ở nhiều nước trên thế giới, Du lịch đã và đang trở thành một trong những ngành kinh tế mũi
nhọn của nền kinh tế quốc dân. Du lịch không chỉ mang lại nguồn thu nhập lớn cho nền kinh
tế, tạo việc làm, phát triển các ngành dịch vụ, cơ sở hạ tầng, mà còn thúc đẩy hòa bình, giao
lưu văn hóa.
Ngày nay, thương hiệu du lịch quốc gia trở thành một trong những tài sản giá trị nhất của mỗi
quốc gia, trong đó có Việt Nam. Do đó, việc xây dựng và quảng bá thương hiệu nhằm xác lập
hình ảnh du lịch của đất nước một cách rộng rãi đến với khách du lịch trên toàn cầu là một
nhiệm vụ rất quan trọng trong công tác marketing điểm đến để khẳng định vị thế cạnh tranh
của Việt Nam với tư cách là một điểm đến du lịch ấn tượng "Impressive Vietnam" trên thị
trường quốc tế.
Dưới đây, xin trân trọng giới thiệu bài viết "Xây dựng và quảng bá thương hiệu Du lịch Việt
Nam" của Thạc sỹ Nguyễn Anh Tuấn - Vụ Lữ hành (Tổng cục Du lịch)“Việt Nam – vẻ đẹp
tiềm ẩn” (Vietnam – the hidden charm). Tuy nhiên, khẩu hiệu và biểu tượng trên vẫn chưa
thực sự tạo được thông điệp rõ ràng cho Du lịch Việt Nam. Trong khi đó, nhiều nước trong
khu vực đã rất thành công trong việc xây dựng và quảng bá thương hiệu du lịch quốc gia
như Thái Lan với “Amazing Thailand” Singapore với “Độc đáo Singapore“ (Uniquely
Singapore), Malayssia với “Malaysia-Châu Á đích thực” ( Malaysia –Truly Asia), Ấn Độ với

“Ấn Độ trỗi dậy“ (Incredible India). Chính những chương trình khuếch trương thành công các
biểu tượng và khẩu hiệu này đã góp phần nâng cao hình ảnh và thương hiệu du lịch của các
nước này trên thế giới, đồng thời qua đó góp phần thu hút đáng kể khách quốc tế đến các
nước này trong thời gian qua.
Thương hiệu điểm đến và vai trò của thương hiệu điểm đến
Trong thời đại ngày nay, Du lịch đó trở thành hiện tượng phổ biến và là một trong những
ngành công nghiệp lớn nhất thế giới. Nhờ những đóng góp to lớn về kinh tế-xã hội, du lịch đã
trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc gia trên thế giới. Du lịch là một trong những
hoạt động kinh tế quan trọng, không chỉ đem lại nguồn thu nhập lớn cho nền kinh tế, tạo
nhiều việc làm, phát triển các ngành dịch vụ, cơ sở hạ tầng mà còn là phương tiện thúc đẩy
hoà bình, giao lưu văn hoá, tạo ra những giá trị vô hình nhưng bền chặt. Như vậy, có thể nói
du lịch là một trong những hoạt động quan trọng đầu tiên hướng tới xây dựng và phát triển
thương hiệu quốc gia. Vì vậy, luôn có hai mục tiêu song trùng đối với ngành du lịch, đó là
quảng bá du lịch góp phần xây dựng thương hiệu quốc gia và xây dựng một thương hiệu du
lịch quốc gia.
Bản chất của việc xây dựng thương hiệu du lịch là việc chuyển tải có chủ định một bản sắc
riêng thành một hình ảnh trong tâm trí khách du lịch. Ngày nay, thương hiệu đã và đang trở
thành một trong những tài sản giá trị nhất của một quốc gia với tư cách là một điểm đến du
lịch. Thương hiệu điểm đến giúp nhận ra những đặc điểm nổi bật của sản phẩm du lịch của
điểm đến. Thương hiệu điểm đến là quá trình quản lý trong ngành du lịch đóng vai trò gắn kết
chặt chẽ dựa trên hiểu biết với hệ thống đánh giá và cảm nhận của khách hàng, đồng thời là
phương tiện định hướng hành vi của các nhà quản lý và kinh doanh du lịch tiếp thị điểm đến
như một sản phẩm du lịch thống nhất. Nói cách khác, thương hiệu như một nguồn lực quan


hệ với cả khách du lịch còng như với các doanh nghiệp trong nước và các tổ chức du lịch
khác.
Xây dựng và quảng bá thương hiệu nhằm xác lập hình ảnh du lịch của một quốc gia một
cách rộng rãi đến với khách du lịch trên toàn cầu là một nhiệm vụ rất quan trọng trong công
tác marketing điểm đến để khẳng định vị thế cạnh tranh của quốc gia với tư cách là một điểm

đến du lịch quốc tế trên thị trường quốc tế. Để thu hút khách du lịch, các nước quan tâm phát
triển du lịch đều phải chú trọng xây dựng và quảng bá thương hiệu du lịch quốc gia trên thị
trường du lịch thế giới và khu vực.Thương hiệu du lịch quốc gia không chỉ là những yếu tố
hữu hình như khẩu hiệu quảng cáo, logo, tập gấp, trang web mà còng bao gồm các yếu tố vụ
hình như thông tin quảng cáo, quan hệ công chúng và marketing trực tiếp, các sự kiện đặc
biệt, chiến lược bán và thực hiện sản phẩm/dịch vụ du lịch. Thương hiệu luôn luôn là hỗn
hợp của tất cả các yếu tố này trong mối liên kết chặt chẽ với nhau.
Tạo dựng thương hiệu là một quá trình xây dựng và nhận dạng tính khác biệt, độc đáo và
đặc trưng của một điểm đến du lịch. Tạo dựng thương hiệu là sự phối kết hợp tất cả sản
phẩm và dịch vụ của các ngành khác nhau như nông nghiệp, du lịch, thể thao, nghệ thuật,
đầu tư công nghệ, giáo dục,... liên quan tới điểm đến du lịch. Mục tiêu là để nắm được bản
chất của điểm đến trong một thể thống nhất. Hơn nữa, thương hiệu được sử dụng để chào
bán những giá trị độc đáo này tới khách du lịch tiềm năng. Tạo dựng thương hiệu điểm đến
du lịch có thể giảm rủi ro cho khách du lịch khi quyết định lựa chọn địa điểm du lịch cho kỳ
nghỉ của họ. Khách du lịch cảm thấy tin tưởng với một thương hiệu mạnh vì nó cung cấp kiến
thức, thông tin, an ninh và sự chắc chắn.
Tuy nhiên, ý tưởng để tạo dựng thành công một thương hiệu điểm đến du lịch đòi hỏi phải
nghiên cứu kỹ lưỡng và mất nhiều năm. Thương hiệu điểm đến không chỉ tạo ra mà còn
khuếch trương quảng bá những gì một đất nước, một vùng hoặc một thành phố đã cung cấp
rồi. Để thành công, thương hiệu điểm đến cần phải độc đáo và khác biệt. Nếu một nước, một
khu vực hoặc một điểm du lịch liên quan khác có các sản phẩm tương tự rồi thì sức mạnh
của thương hiệu nhanh chóng biến mất. Vì vậy, luôn luôn phải chú ý tới đối thủ cạnh tranh
nâng cao vị thế của họ như thế nào để xây dựng thương hiệu cho phù hợp.
Thực trạng xây dựng và quảng bá thương hiệu du lịch Việt Nam
Du lịch Việt Nam đã phát triển khá nhanh trong thời gian qua, trở thành ngành kinh tế quan
trọng của đất nước. Năm 2007, lượng khách quốc tế đến Việt Nam đã đạt trên 4,3 triệu lượt,
gấp gần 20 lần so với năm 1990, tổng doanh thu toàn ngành đạt gần 56 nghìn tỷ đồng. Ngoài
đóng góp về kinh tế, du lịch là một kênh quan trọng để giới thiệu quảng bá hình ảnh Việt Nam
ra thế giới, góp phần tạo nên thương hiệu quốc gia. Thời gian qua, hình ảnh về Du lịch Việt
Nam đã bắt đầu được biết tới trên thị trường du lịch thế giới và khu vực. Du lịch Việt Nam

được đánh giá là một trong 10 nước có triển vọng tăng trưởng du lịch cao nhất thế giới trong
vòng 10 năm tới. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng, Du lịch Việt Nam vẫn chưa phát triển
tương xứng với tiềm năng du lịch to lớn của đất nước. Cơ sở hạ tầng du lịch và các cơ sở
dịch vụ du lịch đã được cải thiện nhưng còn nhiều hạn chế. Sản phẩm du lịch còn nghèo nàn.
Chất lượng sản phẩm và dịch vụ du lịch Việt Nam còn thấp. Thông tin và hình ảnh về Du lịch
Việt Nam ở nhiều phần của thế giới còn rất ít và mờ nhạt. Khả năng cạnh tranh trên thị
trường du lịch thế giới của Du lịch Việt Nam còn thấp. Do đó, lượng khách quốc tế đến Việt
Nam còn thấp so với nhiều nước trong khu vực. Có nhiều nguyên nhân, trong đó một nguyên
nhân quan trọng đó là đến nay Du lịch Việt Nam vẫn chưa tạo dựng được thương hiệu. Chưa
có chiến lược quốc gia về xây dựng thương hiệu du lịch Việt Nam.
Trong những năm qua, Du lịch Việt Nam đã có rất nhiều nỗ lực để khuyếch trương hình ảnh
của mình đến với thế giới . Tuy nhiên, Du lịch Việt Nam vẫn chưa có thông điệp chung và rõ
ràng. Hình ảnh về điểm đến Việt Nam chưa nổi bật và chưa rõ ràng trong tâm trí của du
khách, vì vậy chúng ta gặp nhiều khó khăn trong cạnh tranh với các đối thủ cạnh tranh trực
tiếp. Để khuếch trương hình ảnh và thương hiệu Du lịch Việt Nam, đòi hỏi phải có một chiến
lược khuếch trương thông qua một khẩu hiệu và biểu tượng thống nhất. Năm 2000, Du lịch
Việt Nam lần đầu tiên đưa ra khẩu hiệu “Việt Nam - điểm đến của thiên niên kỷ mới”
(Vietnam- A destination for the new milliennium) với hình ảnh logo là một cô gái Việt Nam đội
nón lá. Tuy nhiên, khẩu hiệu và logo này không phải là kết quả của một công trình nghiên
cứu và đề xuất thống nhất mà chỉ là một sự lắp ghép cơ học từ hai ý tưởng khác nhau. Năm
2003, Du lịch Việt Nam đã đưa ra khẩu hiệu “Hãy đến với Việt Nam” (Welcome to Vietnam)
với biểu tượng là hình cô gái mặc áo dài trắng đội nón lá. Tuy nhiên, khẩu hiệu và biểu tượng


này ngày sau khi được công bố đã bị phê phán nhiều nên đặt ra yêu cầu phải thay thế sớm
bằng một biểu tượng và khẩu hiệu khác. Năm 2005, Tổng cục Du lịch đã tổ chức cuộc thi lựa
chọn khẩu hiệu và biểu tượng mới cho Du lịch Việt Nam nhằm thay thế khẩu hiệu và logo
nêu trên. Kết quả cuộc thi đã lựa chọn ra khẩu hiệu và biểu tượng mới là
Nước ta có tiềm năng to lớn về du lịch, tuy nhiên đến nay, ngành du lịch VN vẫn chưa tạo
được một sản phẩm du lịch VN mang tầm vóc thương hiệu du lịch quốc gia. Điều cơ bản

nhất mà du lịch VN đang thiếu là tính chuyên nghiệp. Sự thiếu chuyên nghiệp đó thể hiện ở
nhiều khâu, trong đó quan trọng nhất là sự phối kết hợp thiếu hiệu quả của các tổ chức, cá
nhân kinh doanh du lịch và liên quan đến du lịch: từ các doanh nghiệp lữ hành, khách sạn,
nhà hàng, phương tiện vận chuyển đến siêu thị, cửa hàng lưu niệm và các điểm du lịch.
Công tác quảng bá du lịch của Du lịch Việt Nam vẫn chưa được quan tâm thực sự và thiếu
chuyên nghiệp. Du lịch Việt Nam vẫn ít được thế giới biết đến, chất lượng sản phẩm và dịch
vụ du lịch chưa tạo được lòng tin cho du khách. Thực tế cho thấy, có những điểm du lịch
được giới thiệu như là thiên đường nghỉ ngơi, trong các ấn phẩm du lịch, sách hướng dẫn du
lịch, trên trang web... nhưng khi du khách đến sân bay, họ đó vấp phải không ít khó chịu như
cơ sở hạ tầng sân bay còn lạc hậu, lái xe taxi tranh giành lừa đảo khách, môi trường bị ô
nhiễm, kinh doanh chộp giật, chất lượng sản phẩm và dịch vụ không đúng như quảng cáo và
nhiều hạn chế khác.
Trong những năm gần đây, một số doanh nghiệp du lịch Việt Nam đó bắt đầu quan tâm xây
dựng và củng cố thương hiệu và thường đầu tư từ 1-5% doanh thu cho xây dựng và quảng
bá thương hiệu. Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng và quảng bá thương hiện của các
doanh nghiệp du lịch hiện nay còn gặp khú khăn nhiều về nhân lực, tài chính, giá dịch vụ,
tình trạng vi phạm bản quyền còng như cơ chế, chính sách và thủ tục hành chính. Nhiều
doanh nghiệp còng chưa ý thức được vai trò và ý nghĩa quan trọng của thương hiệu trong
hoạt động kinh doanh còng như nâng cao vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường
để thu hút khách du lịch. Do đó, hầu hết các doanh nghiệp du lịch Việt Nam vẫn đang ở thế
yếu về năng lực cạnh tranh thu hút khách du lịch do thương hiệu của doanh nghiệp chưa
được biêt đến trên thị trường khu vực và thế giới.
Để có được một thương hiệu du lịch quốc gia tầm cỡ, ngành Du lịch phải đóng vai trò hiệu
quả hơn nữa để tạo sự kết nối giữa các tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch và liên quan đến
du lịch, từ đó, vạch ra chiến lược tạo dựng và quảng bá thương hiệu du lịch Việt Nam. Điều
quan trọng nhất hiện nay phải là chấn chỉnh ngay tình trạng bán hàng rong, chèo kéo khách
du lịch hiện đang trở thành vấn nạn phổ biến ở nhiều điểm du lịch. Hiện nay, Việt Nam được
coi là một điểm đến an toàn, thân thiện nhưng như vậy vẫn chưa đủ. An toàn thật sự phải là
làm cho khách du lịch cảm giác được tự do, thanh thản và thoải mái ngắm nhìn cảnh quan
thiên nhiên đẹp và khám phá kho tàng văn hoá đa dạng và đặc sắc của dân tộc Việt Nam mà

không phải băn khoăn về những chuyện rắc rối gây ra bởi đội ngũ làm du lịch nghiệp dư hay
những người bán hàng rong, ăn xin, dựt dọc. Phải làm thế nào để thúc đẩy và khích lệ mọi tổ
chức, cá nhân kinh doanh du lịch và liên quan đến du lịch ở địa phương kinh doanh lành
mạnh, văn minh và biết tôn trọng khách du lịch thực sự.
Ngày nay, mọi khu vực hoặc điểm đến du lịch đều có các khách sạn cao cấp, các điểm du
lịch hấp dẫn và đều khẳng định có các di sản văn hoá độc đáo, có người dân giàu lòng mến
khách và có ngành công nghiệp du lịch quan tâm tới khách du lịch nhất. Dịch vụ và tiện nghi
gần như không có sự khác biệt nhiều. Vì vậy, các điểm đến khác nhau cần tạo ra điều gì đó
độc đáo và khác biệt với tất cả các điểm đến khác. Do đó, trong môi trường cạnh tranh gay
gắt hiện nay, tạo ra sự độc đáo và khác biệt là cần thiết hơn bao giờ hết. Nó thực sự trở
thành cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của một điểm đến du lịch. Đã đến lúc chúng ta cần
tìm ra điểm khác biệt để tạo dựng thương hiệu cho Du lịch Việt Nam. Việc tạo ra hình ảnh
khác biệt, sẽ giúp Việt Nam khác biệt và cạnh tranh được với các nước Đông Nam Á còn lại.
Một số biện pháp xây dựng và quảng bá thương hiệu Du lịch Việt Nam
Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu để thu hút khách du lịch, việc xây dựng một thương hiệu
du lịch quốc gia có ý nghĩa to lớn. Để xây dựng và quảng bá thành công thương hiệu du lịch
Việt Nam trên thị trường du lịch thế giới và khu vực, làm cho khách du lịch trên toàn cầu có
ấn tượng đặc biệt về thương hiệu Du lịch Việt Nam, ngành Du lịch Việt Nam cần thực hiện
một số chủ trương và biện pháp sau:


Xây dựng chiến lược thương hiệu Du lịch Việt Nam nằm trong Chiến lược marketing du lịch
Việt Nam.
Xây dựng hình ảnh du lịch quốc gia dựa trên nền tảng văn hoá và tiềm năng thiên nhiên đa
dạng của Việt Nam để khẳng định thương hiệu của Du lịch Việt Nam.
Thiết lập văn phòng đại diện du lịch quốc gia ở những thị trường trọng điểm và tiềm năng và
hình thành mạng lưới trung tâm thông tin du lịch tại các thành phố, trung tâm du lịch lớn ở
trong nước để thúc đẩy quảng bá thương hiệu du lịch Việt Nam
Thúc đẩy quảng bá thương hiệu Du lịch Việt Nam ở nước ngoài thông qua sự hiện diện
thường xuyên của Du lịch Việt Nam tại các hội chợ, hội nghị, hội thảo du lịch quốc tế có tính

chuyên nghiệp cao và sự hợp tác chặt chẽ của Du lịch Việt Nam với Hàng không Việt Nam
Huy động mọi cấp, mọi ngành và mọi tầng lớp nhân dân tham gia vào hoạt động tiếp thị, xúc
tiến một hình ảnh Việt Nam mới, năng động và đầy sức bật để khẳng định vị thế của thương
hiệu Du lịch Việt Nam trên thị trường du lịch toàn cầu.

Quảng bá hình ảnh Việt Nam ra nước ngoài
Một trong những hoạt động trọng tâm của chương trình “Ấn tượng Việt Nam” từ nay đến cuối
năm 2009 là tiếp tục đẩy mạnh chiến dịch quảng bá hình ảnh du lịch Việt Nam ra nước ngoài,
trong đó tập trung vào các thị trường quốc tế trọng điểm luôn được Tổng cục Du lịch ưu tiên
hàng đầu.

Một trong những thị trường truyền thống của du lịch Việt Nam là Trung Quốc với số dân 1,3 tỉ
người. Trong khuôn khổ hội nghị các Bộ trưởng Văn hóa châu Á được tổ chức mới đây tại
Nội Mông (Trung Quốc), Ngành Văn hóa-Thể thao và Du lịch nước ta đã tổ chức nhiều hoạt
động nhằm giới thiệu, quảng bá hình ảnh đất nước, con người, văn hóa và tiềm năng, thế
mạnh của du lịch Việt Nam tới người dân Trung Quốc. Nhờ đó, các doanh nghiệp lữ hành, du
lịch của nước bạn có thêm thông tin, hiểu biết để nghiên cứu cơ hội hợp tác, đầu tư du lịch
vào Việt Nam. Cùng với đó, chúng ta đã đẩy mạnh chiến dịch quảng bá chương trình “Ấn
tượng Việt Nam” (Impressive Vietnam) sâu rộng tại Trung Quốc và được kéo dài đến đầu
năm 2010 với mức giá ưu đãi giảm 30-50% cho các tour trọn gói. Đặc biệt, vào dịp mùa đông
sắp tới, khi Bắc Kinh có tuyết lạnh thì Việt Nam sẽ có cơ hội đón các đoàn du khách, doanh
nhân, golf thủ của Trung Quốc đến nước ta chơi môn thể thao này. Sau tổ chức hội thảo,
roadshow ở Bắc Kinh, các chuyên gia và đoàn doanh nghiệp du lịch nước ta tiếp tục đến
thành phố Thượng Hải và một số thành phố khác của Trung Quốc để giới thiệu, quảng bá du
lịch Việt Nam.
Một trong những thị trường truyền thống của du lịch Việt Nam là Trung Quốc với số dân 1,3 tỉ
người. Trong khuôn khổ hội nghị các Bộ trưởng Văn hóa châu Á được tổ chức mới đây tại
Nội Mông (Trung Quốc), Ngành Văn hóa-Thể thao và Du lịch nước ta đã tổ chức nhiều hoạt
động nhằm giới thiệu, quảng bá hình ảnh đất nước, con người, văn hóa và tiềm năng, thế
mạnh của du lịch Việt Nam tới người dân Trung Quốc. Nhờ đó, các doanh nghiệp lữ hành, du

lịch của nước bạn có thêm thông tin, hiểu biết để nghiên cứu cơ hội hợp tác, đầu tư du lịch
vào Việt Nam. Cùng với đó, chúng ta đã đẩy mạnh chiến dịch quảng bá chương trình “Ấn
tượng Việt Nam” (Impressive Vietnam) sâu rộng tại Trung Quốc và được kéo dài đến đầu
năm 2010 với mức giá ưu đãi giảm 30-50% cho các tour trọn gói. Đặc biệt, vào dịp mùa đông
sắp tới, khi Bắc Kinh có tuyết lạnh thì Việt Nam sẽ có cơ hội đón các đoàn du khách, doanh
nhân, golf thủ của Trung Quốc đến nước ta chơi môn thể thao này. Sau tổ chức hội thảo,
roadshow ở Bắc Kinh, các chuyên gia và đoàn doanh nghiệp du lịch nước ta tiếp tục đến
thành phố Thượng Hải và một số thành phố khác của Trung Quốc để giới thiệu, quảng bá du
lịch Việt Nam.
Bên cạnh thị trường trọng điểm là Trung Quốc, Nhật Bản, Pháp và Tây Âu, Ô-xtrây-li-a và Niu
Di-lân, ASEAN, chúng ta tăng cường mở rộng thị trường mới như Nga, Đông Âu, Bắc Mỹ,
Hàn Quốc, Trung Đông. Hiện nay, Tổng cục Du lịch đang phối hợp với các cơ quan chức
năng của Bộ Ngoại giao triển khai kế hoạch tổ chức “Tuần Việt Nam tại Mỹ” vào cuối năm
2009. Chương trình này sẽ có các hoạt động như: Biểu diễn văn hóa nghệ thuật, triển lãm


ảnh về đất nước và con người Việt Nam, hội thảo xúc tiến quảng bá du lịch Việt Nam tại Mỹ...
Ông Vũ Thế Bình, Vụ trưởng Vụ Lữ hành (Tổng cục Du lịch) cho biết: “Do lịch sử để lại và
một phần tuyên truyền xuyên tạc của các thế lực phản động, trên thực tế, một bộ phận người
Mỹ hiện nay vẫn chưa hiểu đúng về Việt Nam. Do vậy, thông qua tuần văn hóa này, ngành
du lịch và ngoại giao nước ta muốn giới thiệu với nhân dân Mỹ về một đất nước Việt Nam
thanh bình, thân thiện, có nhiều danh lam thắng cảnh đẹp và luôn mở rộng vòng tay đón
chào bạn bè, du khách khắp nơi trên thế giới, trong đó có du khách Mỹ”.
Một hình thức quảng bá được Tổng cục Du lịch đang xúc tiến mạnh mẽ là tuyên truyền, giới
thiệu hình ảnh đất nước, du lịch Việt Nam trên các phương tiện thông tin đại chúng ở nước
ngoài. Cùng với việc đăng tải hình ảnh các di sản Việt Nam trên Tạp chí Di sản thế giới của
UNESCO-một tạp chí duy nhất chuyên về di sản thế giới có uy tín sâu rộng trên toàn cầu, du
lịch Việt Nam tiếp tục được quảng bá trên tạp chí JESTAR với số lượng hơn 1 triệu độc giả ở
nhiều nước trên thế giới như Ô-xtrây-li-a, Niu Di-lân, Nhật Bản, In-đô-nê-xi-a, Mỹ... Ngoài ra,
những hình ảnh đẹp kèm với các thông tin cụ thể về du lịch Việt Nam cũng được quảng bá

trong cuốn sổ tay “Sách cẩm nang du lịch năm 2010” của Hiệp hội Du lịch châu Á -Thái Bình
Dương và Tạp chí World Travel market daily magazine (Tạp chí hằng ngày về thị trường du
lịch thế giới) - một tạp chí với 60.000 ấn phẩm được cung cấp đến các hội chợ, triển lãm du
lịch lớn nhất thế giới.
Với phương châm “Chuẩn bị chu đáo, tổ chức hiệu quả, tiết kiệm”, chiến dịch quảng bá hình
ảnh Việt Nam ra nước ngoài được Tổng cục Du lịch thực hiện bài bản, chuyên nghiệp và
hướng tới mục tiêu cao nhất là làm cho du khách ngày càng hiểu rõ hơn Việt Nam, yêu mến
Việt Nam, từ đó xác định Việt Nam là một trong những điểm đến ưu tiên trong những tour du
lịch của mình.

Bài 5. Du lịch Việt Nam vượt khó
Trong báo cáo mới đây về tình hình du lịch toàn cầu, Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO) đã
đưa ra một con số đáng lo ngại: Hoạt động du lịch bốn tháng đầu năm 2009 giảm 8% so với
cùng kỳ năm ngoái.
Hiệp hội Du lịch Châu Á - Thái Bình Dương (PATA) cũng cho biết, dự tính lượng khách đến
châu lục này trong năm nay sẽ giảm khoảng 4%. Cùng bối cảnh đó, hầu hết các thị trường
trọng điểm của Việt Nam sụt giảm từ 5 đến 37% lượng khách. Dẫu vậy, ngay từ cuối năm
2008, những nỗ lực kích cầu du lịch đã le lói khả năng vượt qua suy thoái...
Khó người, khó ta
Kinh tế thế giới nói chung và kinh tế Việt Nam nói riêng gặp rất nhiều khó khăn, thách thức do
chịu ảnh hưởng của sự suy thoái và cùng đó là dịch cúm A (H1N1) đang lan rộng trên phạm
vi toàn cầu. Ngoài ra, sự biến động của tỷ giá hối đoái, hoạt động kinh doanh không ổn định
và niềm tin của người tiêu dùng chưa phục hồi cũng là những yếu tố tác động xấu tới triển
vọng du lịch. Tại hội nghị du lịch toàn cầu ở Bra-xin mới đây, các chuyên gia dự báo, ngành
"công nghiệp không khói" thế giới có thể phải gánh chịu thiệt hại hơn hai tỷ USD do dịch cúm
A (H1N1) trong thời gian từ nay đến hết năm 2010. Ở chặng vượt qua giai đoạn khủng hoảng
này, ngành du lịch của nhiều quốc gia cần sự trợ giúp của chính phủ, kể cả các khoản cho
vay ưu đãi. UNWTO cũng nhận định, thị trường du lịch thế giới khó có thể phục hồi trước
năm2010.
Ðể "ngành kinh tế mũi nhọn" nước ta sớm vượt qua thời kỳ suy thoái, rất nhiều biện pháp đã

được đưa ra như tăng cường quảng bá tại nước ngoài; giảm giá các dịch vụ liên quan đến
du lịch như giá vé máy bay, dịch vụ khách sạn và lữ hành; cố gắng khôi phục thị trường
ngoài nước nhưng không quên thị trường nội địa; coi trọng hơn nữa vai trò chủ động của
chính quyền địa phương trong việc phát triển và nâng cao chất lượng các sản phẩm du lịch...
song tất thảy những cố gắng ấy dường như vẫn chưa đẩy qua được thế "cầm cự". Từ đầu
năm, Hiệp hội Du lịch Việt Nam đã dự báo, mùa du lịch trọng điểm hè 2009 có khả năng sẽ
thưa vắng khách. Các đơn vị lữ hành có thể sẽ gặp khó khăn trong việc mở tua; kéo theo đó,
các cơ sở lưu trú và dịch vụ song hành sẽ rơi vào cảnh ế ẩm. Tính đến lúc này, dự báo trên


cơ bản chính xác. Khách quốc tế đến Việt Nam trong chín tháng qua đạt hơn 2,7 triệu lượt
người, giảm 16% so với cùng kỳ năm trước. Hầu hết các doanh nghiệp kinh doanh du lịch
hiện vẫn phải chấp nhận nghịch lý: đầu tư nhiều (cải thiện cơ sở vật chất, bổ sung sản phẩm
du lịch...) nhưng doanh thu vừa phải, lợi nhuận thấp (do giảm giá dịch vụ, khuyến mãi...).
Riêng với các cơ sở dịch vụ may mặc và đồ lưu niệm, khó khăn lớn nhất hiện nay là bán
hàng rất chậm, do phần lớn du khách hạn chế mua sắm.
Tin vào khả năng ứng phó
Dẫu sao, du lịch Việt Nam vẫn le lói những điểm sáng. Lượng khách du lịch nội địa bảy tháng
đầu năm tăng khoảng 13%, ước đạt 13,72 triệu lượt. Thu nhập xã hội về du lịch ở hầu hết
các vùng trọng điểm đều có sự tăng trưởng. Thu nhập xã hội từ du lịch trên cả nước sáu
tháng đầu năm ước đạt 32,4 nghìn tỷ đồng tăng 8,7% so với cùng kỳ năm 2008. Không chỉ lo
phục hồi, nhiều "điểm đến" đang sửa soạn hành trang mới để tiếp tục phát triển tương xứng
một khi nền kinh tế thoát ra khỏi khủng hoảng. Bên cạnh sự hỗ trợ về nhiều mặt của các cấp
chính quyền và các tổ chức kinh tế, tinh thần chủ động cùng khả năng ứng phó nhanh nhạy,
kịp thời của địa phương và các công ty du lịch vẫn là yếu tố quyết định. Tại hai điểm đến Hội
An và Mỹ Sơn chẳng hạn, ngay trong thời điểm này, lượng khách tìm đến hằng ngày vẫn khá
đông. Cũng bởi vậy mà từ đầu năm đến nay vẫn có hơn nửa triệu du khách quốc tế đến
Quảng Nam, Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và một số địa phương khác cũng đã ghi nhận những
kết quả bước đầu của thời vượt khó. Bên cạnh giải pháp kích cầu được triển khai từ cuối
năm 2008, một số doanh nghiệp kinh doanh du lịch đang tăng cường quảng bá hình ảnh và

thu hút khách thông qua việc mở thêm nhiều chương trình khuyến mãi hấp dẫn như giảm giá
phòng, tặng thêm ngày lưu trú. Theo ông Hoàng Tuấn Anh, Bộ trưởng Văn hóa, Thể thao và
Du lịch, trong thời điểm khó khăn này, chiến lược của ngành du lịch là thu hút khách ở thị
trường gần như Hồng Công, Ðài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái-lan... và những tỉnh ven
biển Trung Quốc như Quảng Ðông, Quảng Tây, Vân Nam. Thống kê mới đây của Tổng cục
Du lịch cho biết, số du khách đến Việt Nam trong tháng chín vừa qua đã tăng 2,7% so với
cùng kỳ năm trước.
Hành trình mới
Khó khăn cũng là dịp để ngành du lịch nhìn kỹ lại nhiều điều. Rõ nhất là cái yếu trong hoạch
định chính sách mang tính chiến lược để cạnh tranh với các nước trong khu vực. Từng nhắm
đến mục tiêu phát triển Việt Nam thành điểm đến hấp dẫn của thế giới với khoảng sáu triệu
lượt khách quốc tế trong năm 2010, nhưng với lượng khách đến như hiện nay, mục tiêu ấy
xem ra khó đạt được. Trong xây dựng chiến lược mới (giai đoạn 2011 - 2020, tầm nhìn đến
2030), du lịch Việt Nam hy vọng tạo nên một bước đột phá, tập trung vào các vấn đề: Xây
dựng sản phẩm du lịch, tuyên truyền quảng bá, đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, đào tạo nguồn
nhân lực, nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ, hợp tác và hội nhập quốc tế, phát triển
tổ chức lãnh thổ về du lịch. Ðó cũng chính là những hạn chế cơ bản của ngành du lịch. Và để
cụ thể hóa từng bước, từ nay đến cuối năm 2009, Tổng cục Du lịch đưa ra bảy nội dung và là
mục tiêu hướng đến cần giải quyết. Trong đó, chủ động sử dụng kinh phí đã được phân bổ,
tăng cường xúc tiến tại thị trường lớn Trung Quốc, lập đề án thành lập kênh truyền hình cáp
chuyên về du lịch, thi sáng tác biểu tượng và khẩu hiệu cho ngành du lịch giai đoạn 2011 2015, tăng cường bầu chọn cho vịnh Hạ Long trở thành một trong bảy kỳ quan thiên nhiên
mới của thế giới. Mục tiêu là mỗi địa phương phải tạo sản phẩm du lịch độc đáo riêng chứ
không lặp lại sản phẩm của nơi khác. Các sản phẩm du lịch được hình thành dựa trên ba yếu
tố: Du lịch biển với những tiềm năng mà nước khác không có; những công trình kiến trúc, di
sản văn hóa được thế giới công nhận; những điểm khác biệt văn hóa của các cộng đồng dân
tộc trên cả nước.
Mặt khác, để tiếp tục kích cầu, ngành du lịch tập trung vào năm nhóm vấn đề chính. Thứ
nhất, tiếp tục chương trình "Ấn tượng Việt Nam". Thứ hai, thực hiện chiến dịch quảng bá xúc
tiến du lịch ở trong nước và nước ngoài. Thứ ba, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân
lực (trực tiếp và lâu dài). Thứ tư, tập trung định hướng để tiếp tục thúc đẩy đầu tư, chuẩn bị

cơ sở vật chất và nâng cấp chất lượng dịch vụ, chất lượng sản phẩm du lịch. Thứ năm, khẩn
trương chuẩn bị những nội dung lớn cho năm 2010. (Thí dụ như năm du lịch quốc gia tại Hà
Nội, các hoạt động kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, các hoạt động tổ chức kỷ niệm
50 năm thành lập ngành du lịch Việt Nam và các chương trình hành động quốc gia, chương
trình xúc tiến du lịch trong năm 2010)...
Hiện chúng ta đang nghĩ đến một chỉ tiêu mới, sát thực hơn là từ 3,7 đến 3,8


triệu lượt khách trong năm 2009 so với chỉ tiêu đặt ra từ năm 2008 là 4,5 triệu lượt. Nhưng,
xin nhấn mạnh, để thu hút khách nước ngoài trở lại Việt Nam, ngành du lịch cần lưu ý hơn
đến một kế hoạch xúc tiến quảng bá xuyên suốt và thống nhất, vì hiện nay đang có sự cạnh
tranh rất lớn trên thị trường quốc tế và khu vực. Ðây cũng chính là một điểm yếu căn bản mà
ngành du lịch cần sớm vượt qua.
Tạo dựng và quảng bá hình ảnh Việt Nam trong tình hình mới
Tạo dựng và quảng bá hình ảnh quốc gia là một trong những nội hàm của ngoại giao văn hóa
được các nước trên thế giới đặc biệt quan tâm. Trong xu thế hòa bình, sự phân công lao
động trên thế giới ngày càng sâu sắc, sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng rõ nét và xu thế hội
nhập đang nắm giữ vai trò chủ đạo trong đời sống kinh tế quốc tế thì ngoại giao văn hóa
ngày càng trở nên quan trọng và được quan tâm hơn bao giờ hết.
Ngoại giao văn hóa mà bản chất sâu xa của nó là “sức mạnh mềm” hay “quyền lực mềm" được các nước khai thác triệt để nhằm tạo dựng nền móng và điều kiện để thể hiện uy lực trên
trường quốc tế. Trải qua những biến thiên của lịch sử, văn hóa đã khẳng định vị trí then chốt,
đóng vai trò quyết định đối với sự hưng thịnh hoặc suy vong của một đất nước. Trong thời
đại ngày nay, văn hóa ngày càng phát huy sức mạnh vai trò cầu nối giữa các dân tộc, nâng
cao hiểu biết lẫn nhau, góp phần hoà giải các xung đột, mâu thuẫn, tạo tiền đề thúc đẩy hợp
tác phát triển.
Nội hàm “ngoại giao văn hóa" được các quốc gia, các nhà nghiên cứu định nghĩa theo nhiều
góc độ. Ngoại giao văn hóa có thể được hiểu như là "sự giao lưu, trao đổi về tư tưởng, thông
tin, nghệ thuật và các lĩnh vực khác của văn hóa giữa các quốc gia và người dân nhằm tăng
cường hiểu biết lẫn nhau”. Ngoại giao văn hóa cũng còn có thể được hiểu là "tổng thể các
hoạt động văn hóa do Nhà nước chỉ đạo, điều tiết và thực hiện ở bên ngoài lãnh thổ nhằm

đảm bảo sự hiện diện văn hóa quốc gia và tăng cường quảng bá hình ảnh quốc gia đó ở nước ngoài" .
VĂN HÓA- HÌNH ẢNH QUỐC GIA
Sự hiện diện văn hóa quốc gia của một đất nước tại một quốc gia khác chính là hình ảnh của
quốc gia đó trong lòng người dân nước sở tại - là điều đầu tiên mà bất kỳ người dân nào sẽ
nghĩ đến khi được hỏi về quốc gia đó. Hình ảnh đó có thể là một công trình kiến trúc, tác
phẩm âm nhạc, thơ, văn, hội họa, điêu khắc, có thể là một danh thắng thiên nhiên, một nhân
vật nổi tiếng, một phong tục, tập quán, một lễ hội, những sản phẩm thủ công, mỹ nghệ, công
nghiệp, một con vật, một loài cây, loài hoa, thậm chí là một món ăn, một loại đồ uống… Một
quốc gia có thể có một hình ảnh quốc gia tiêu biểu, nhưng nhìn chung, các quốc gia thường
có nhiều hình ảnh quốc gia. Ví dụ, khi nhắc đến Pháp, điều mà ai cũng nghĩ đến đó là tháp
Eiffel, rượu vang Boócđô; nói đến Australia, người ta sẽ nghĩ đến nhà hát vỏ sò Sydney, đến
thú có túi Cănguru; nói đến Nhật Bản, đó là núi Phú Sỹ, rượu Sakê, trà đạo; nói đến Hàn
Quốc, đó là món dưa kim chi; nói đến Cuba, đó là xì gà, là bãi biển trong xanh, mía đường;
nói đến nước Nga, đó là điện Kremlin, là rượu vốtka, âm nhạc Glinka, Tchaikovsky; nói đến
Tây Ban Nha, đó là hiệp sĩ Đông Ki-sốt, là môn đấu bò tót… Những hình ảnh về một xứ sở
nào đó sẽ được người dân các xứ sở khác đón nhận, ghi nhận và lưu giữ để trở thành biểu
tượng. Khi có một sự tác động nhất định, biểu tượng đó sẽ hiện diện trong đầu óc con người
theo quy luật liên tưởng.
Nhìn chung, hình ảnh quốc gia phần lớn là hình ảnh tích cực, nhưng ngược lại, tùy vào từng
thời điểm lịch sử, cũng có nhiều quốc gia bị gán cho những hình ảnh tiêu cực, đặc biệt khi họ
mang quân xâm chiếm hoặc đàn áp một quốc gia khác.
Để được biết đến một cách rộng rãi trên trường quốc tế với những hình ảnh tích cực, điều
mà các quốc gia đều quan tâm, đó là tạo dựng và quảng bá, xúc tiến, giới thiệu hình ảnh
quốc gia ra nước ngoài. Trong thời đại ngày nay, việc tạo dựng hình ảnh quốc gia được các
nước cân nhắc kỹ lưỡng và đầu tư triển khai với sự hỗ trợ của các công nghệ tiên tiến, hiện
đại nhất. Một trong những yếu tố được quan tâm khi tạo dựng hình ảnh quốc gia, đó là sự
độc đáo so với các nước khác, khai thác triệt để những ưu thế và lợi thế của đất nước mình.
Bên cạnh đó, các nước cũng rất quan tâm đến địa bàn và đối tượng sẽ được giới thiệu nhằm
khai thác tối đa hiệu quả của công tác xúc tiến quảng bá hình ảnh quốc gia. Tại nhiều nước
trên thế giới, nguyên thủ quốc gia có vai trò quan trọng trong tiếp thị hình ảnh đất nước, đặc

biệt trong nhiệm kỳ lãnh đạo, quốc gia đó đạt được sự tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã


×