MỤC LỤC
Lời cam đoan
i
Lời cảm ơn
ii
Mục lục
iii
Danh mục các chữ viết tắt
v
Danh mục bảng
vi
Danh mục hình
viii
MỞ ĐẦU
1
1
Tính cấp thiết của đề tài
1
2
Mục đích nghiên cứu
2
3
Yêu cầu của đề tài
2
Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU
3
1.1 Đặc điểm, phương pháp, đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
3
1.1.1 Đất nông nghiệp và quan điểm sử dụng đất nông nghiệp
3
1.1.2 Hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
11
1.2 Tình hình nghiên cứu nâng cao hiệu quả về sử dụng đất nông nghiệp trên
thế giới và Việt Nam
18
1.2.1 Các nghiên cứu về sử dụng đất nông nghiệp trên thế giới
18
1.2.2 Những nghiên cứu về nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
ở Việt Nam
22
1.3 Nghiên cứu vấn đề thổ nhưỡng của Tỉnh Quảng Ninh
28
Chương 2 NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
30
2.1 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
30
2.2 Nội dung nghiên cứu
30
2.2.1 Đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội có liên quan đến sử dụng
đất nông nghiệp huyện Hoành Bồ
2.2.2 Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp huyện Hoành Bồ
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
30
30
Page iii
2.2.3 Lựa chọn các LUT có hiệu quả và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu
quả sử dụng đất nông nghiệp của huyện Hoành Bồ
30
2.3 Phương pháp nghiên cứu
30
2.3.1 Phương pháp thu thập số liệu
30
2.3.2 Phương pháp điều tra phỏng vấn nông hộ
31
2.3.3 Phương pháp thống kê, xử lý số liệu
31
2.3.4 Phương pháp đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
31
Chương 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
33
3.1 Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội của huyện Hoành Bồ
33
3.1.1 Đặc điểm tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
33
3.1.2 Đặc điểm kinh tế, xã hội của huyện Hoành Bồ
37
3.1.3 Đánh giá chung điều kiên kinh tế - xã hội huyện Hoành Bồ
40
3.2 Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp của huyện Hoành Bồ
41
3.2.1 Hiện trạng sử dụng đất sản xuất nông nghiệp của huyện Hoàng Bồ
41
3.2.2 Đánh giá hiệu quả kinh tế của các LUT tại huyện Hoành Bồ
51
3.2.3 Đánh giá hiệu quả xã hội của các LUT tại huyện Hoành Bồ
61
3.2.4.Đánh giá hiệu quả môi trường
68
3.3 Lựa chọn các LUT có hiệu quả và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả sử
dụng đất
74
3.3.1.Lựa chọn các loại hình sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả
74
3.3.2 Các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp tại huyện
Hoành Bồ
76
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
88
Kết luận
88
Đề nghị
90
TÀI LIỆU THAM KHẢO
91
PHỤ LỤC
94
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iv
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT
Chữ viết tắt
Chữ viết đầy đủ
1
BVTV
Bảo vệ thực vật
2
CNNN
Cây công nghiệp ngắn ngày
3
CNXH
Chủ nghĩa xã hội
4
CPTG
Chi phí trung gian
5
DT
Diện tích
6
GTSX
Giá trị sản xuất
7
GTNC
Giá trị ngày công
8
HQĐV
Hiệu quả đồng vốn
9
LĐ
Lao động
10
LUT
Loại hình sử dụng đất
11
LX - LM
Lúa xuân - lúa mùa
12
SL
Sản lượng
13
STT
Số thứ tự
14
SXNN
Sản xuất nông nghiệp
15
TB
Trung bình
16
TNHH
Thu nhập hỗn hợp
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page v
DANH MỤC BẢNG
STT
Tên bảng
Trang
3.1
Tổng sản phẩm và cơ cấu kinh tế của huyện giai đoạn 2010-2014
38
3.2
Dân số và lao động huyện Hoành Bồ giai đoạn 2010-2014
39
3.3
Hiện trạng sử dụng đất huyện Hoành Bồ năm 2014
42
3.4
Diện tích và cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp năm 2014
43
3.5
Biến động diện tích đất nông nghiệp giai đoan 2010 - 2014
44
3.6
Giá trị sản xuất nông nghiệp huyện Hoành Bồ giai đoạn 2010 - 2014
45
3.7
Một số loại hình sử dụng đất chính tiểu vùng 1 huyện Hoành Bồ
47
3.8
Một số loại hình sử dụng đất chính tiểu vùng 2 huyện Hoành Bồ
48
3.9
Một số loại hình sử dụng đất chính tiểu vùng 3 huyện Hoành Bồ
49
3.10
Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường huyện Hoành Bồ
51
3.11
Hiệu quả kinh tế các LUT tiểu vùng 1 huyện Hoành Bồ
53
3.12
Hiệu quả kinh tế các LUT tiểu vùng 2 huyện Hoành Bồ
55
3.13
Hiệu quả kinh tế các LUT tiểu vùng 3 huyện Hoành Bồ
57
3.14
Tổng hợp hiệu quả kinh tế theo các LUT huyện Hoành Bồ
59
3.15
Hiệu quả xã hội các loại hình sử dụng đất tại tiểu vùng 1 huyện Hoành Bồ
62
3.16
Hiệu quả xã hội các loại hình sử dụng đất tại tiểu vùng 2 huyện Hoành Bồ
63
3.17
Hiệu quả xã hội các loại hình sử dụng đất tại tiểu vùng 3 huyện Hoành Bồ
65
3.18
Tổng hợp hiệu quả xã hội theo các loại hình sử dụng đất huyện
Hoành Bồ
3.19
67
So sánh mức đầu tư phân bón thực tế tại địa phương với tiêu chuẩn
bón phân cân đối và hợp lý
69
3.20
Mức độ sử dụng một số loại thuốc bảo vệ thực vật
71
3.21
Tổng hợp chỉ tiêu đánh giá hiệu quả môi trường các loại hình sử
dụng đất nông nghiệp
73
3.22
Tổng hợp chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
75
3.23
Định hướng các kiểu sử dụng đất nông nghiệp đến năm 2020 của tiểu
vùng 1
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
77
Page vi
3.24
Định hướng các kiểu sử dụng đất nông nghiệp đến năm 2020 của tiểu
vùng 2
3.25
79
Định hướng các kiểu sử dụng đất nông nghiệp đến năm 2020 của tiểu
vùng 3
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
83
Page vii
DANH MỤC HÌNH
STT
Tên hình
Trang
3.1
Cơ cấu sử dụng các loại đất huyện Hoành Bồ năm 2014
43
3.2
Sơ đồ mối liên hệ vùng của huyện Hoành Bồ năm 2014
46
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page viii
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu và đặc biệt không thể thay thế trong
sản xuất nông nghiệp. Việc quản lý, sử dụng đất bền vững, tiết kiệm và thực sự
có hiệu quả kinh tế đã trở thành chiến lược quan trọng đối với sự tồn tại và phát
triển của xã hội bởi nhiều nguyên nhân: Tài nguyên đất có hạn, đất có khả năng
canh tác càng ít ỏi, áp lực dân số, sự phát triển đô thị hóa, công nghiệp hóa và các
hạ tầng kỹ thuật; do điều kiện tự nhiên và hoạt động tiêu cực của con người dẫn
tới đất bị ô nhiễm, thoái hoá, mất khả năng canh tác, trong khi đó để phục hồi độ
phì nhiêu cần thiết cho canh tác nông nghiệp phải trải qua hàng trăm năm.
Đối với Việt Nam, là quốc gia đất chật, người đông, đời sống của đại
bộ phận nhân dân dựa vào sản xuất nông nghiệp(SXNN), thì đất đai lại
càng quý giá hơn. Việc sử dụng, khai thác có hiệu quả các loại quỹ đất hiện
có là việc làm hết sức có ý nghĩa, bởi Việt Nam đi lên xây dựng chủ nghĩa
xã hội(CNXH)từ một nước nông nghiệp, lạc hậu nghèo nàn, xuất phát điểm
của nền kinh tế thấp, tiềm năng chính của Việt Nam chủ yếu dựa vào lao động
và đất đai.
Hoành Bồ là một huyện thuộc vùng trung du miền núi, nằm trong vùng
ảnh hưởng của TP. Hạ Long. Do nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội, trong những
năm tới, quỹ đất của huyện sẽ có sự chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng một bộ
phận diện tích đất nông nghiệp sẽ chuyển cho các nhu cầu phát triển công
nghiệp, dịch vụ, du lịch, giao thông, mạng lưới cơ sở hạ tầng, phát triển các khu
đô thị mới và cấp đất ở cho người dân.
Do quỹ đất nông nghiệp lớn, Hoành Bồ trở thành vùng trọng điểm phát
triển về phía Bắc của TP. Hạ Long. Nhiều chương trình, dự án lớn sẽ được
đầu tư phát triển trên địa bàn huyện trong tương lai. Việc thu hồi đất sản xuất
nông nghiệp để chuyển sang đất làm công nghiệp, khu đô thị diễn ra quá
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 1
nhanh khiến diện tích đất nông nghiệp của huyện càng bị thu hẹp nhanh
chóng. Chính vì vậy cần tìm ra những hạn chế trong sử dụng đất sản xuất
nông nghiệp hiện nay ở Hoành Bồ để có những giải pháp sử dụng đất có hiệu
quả kinh tế cao, bền vững là yêu cầu cấp thiết của thực tế sản xuất .
Xuất phát từ thực tế trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài : “Đánh
giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Hoành Bồ tỉnh Quảng Ninh”.
2. Mục đích nghiên cứu
- Đánh giá hiệu quả các loại hình sử dụng đất nông nghiệp huyện
Hoành Bồ.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
trên địa bàn huyện.
3. Yêu cầu của đề tài
- Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp theo 3 tiêu chí: hiệu
quả kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường.
- Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
phải sát thực với điều kiện cụ thể ở địa phương và có tính khả thi cao.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 2
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Đặc điểm, phương pháp, đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
1.1.1. Đất nông nghiệp và quan điểm sử dụng đất nông nghiệp
1.1.1.1. Đất nông nghiệp
Đất được hình thành trong hàng triệu năm và là một trong những yếu tố
không thể thiếu cấu thành môi trường sống. Đất là nơi chứa đựng không gian sống
của con người và các loài sinh vật, là nơi cung cấp tài nguyên cần thiết cho cuộc
sống và hoạt động sản xuất của con người. Với đặc thù vô cùng quý giá là có độ phì
nhiêu, đất làm nhiệm vụ của một bà mẹ nuôi sống muôn loài trên trái đất.
Đất đai là tư liệu sản xuất không thể thay thế trong sản xuất nông nghiệp nếu
biết sử dụng hợp lý thì sức sản xuất của đất đai sẽ ngày càng tăng lên (Lê Trọng
Cúc và Trần Đức Viên, 1995). Sản xuất nông nghiệp cung cấp lương thực, thực
phẩm cho con người, đảm bảo nguồn nguyên liệu cho các ngành công nghiệp sản
xuất hàng tiêu dùng và công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm. Hiện tại cũng
như trong tương lai, nông nghiệp vẫn đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của
xã hội loài người, không ngành nào có thể thay thế được. Các Mác đã từng nói “Đất
là mẹ, sức lao động là cha sản sinh ra của cải vật chất” (Các Mác, 2004).
Luật Đất đai (2013) nêu rõ: “Đất nông nghiệp là đất sử dụng vào mục đích
sản xuất, nghiên cứu, thí nghiệm về nông nghiệp, lâm nghiệp và nuôi trồng thủy
sản, làm muối và mục đích bảo vệ, phát triển rừng, bao gồm đất sản xuất nông
nghiệp, đất sản xuất lâm nghiệp, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối và đất nông
nghiệp khác”.
* Vai trò và ý nghĩa của đất đai trong sản xuất nông nghiệp.
Đất đai là tài nguyên thiên nhiên của mỗi quốc gia, đóng vai trò quyết định
sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người, nó là cơ sở tự nhiên, là tiền đề cho mọi
quá trình sản xuất nhưng vai trò của đất đối với mỗi ngành sản xuất có tầm quan
trọng khác nhau. Hiến pháp năm 1992 quy định: “Nhà nước thống nhất quản lý đất
đai theo quy hoạch và pháp luật”, Luật đất đai 2013 khẳng định “Đất đai là tài
nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 3
trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng
các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh và quốc phòng”. Trong sản xuất nông
lâm nghiệp, đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu và đặc biệt không thể thay thế, với
những đặc điểm:
- Đất đai được coi là tư liệu sản xuất chủ yếu trong sản xuất nông lâm
nghiệp, bởi vì nó vừa là đối tượng lao động vừa là tư liệu lao động trong quá trình
sản xuất. Đất đai là đối tượng bởi lẽ nó là nơi con người thực hiện các hoạt động
của mình tác động vào cây trồng vật nuôi để tạo ra sản phẩm;
- Đất đai là loại tư liệu sản xuất không thể thay thế: bởi vì đất đai là sản
phẩm của tự nhiên, nếu biết sử dụng hợp lý sẽ làm cho sức sản xuất của đất đai
ngày càng tăng lên. Điều này đòi hỏi trong quá trình sử dụng đất phải đứng trên
quan điểm bồi dưỡng, bảo vệ, làm giàu thông qua những hoạt động có ý nghĩa của
con người;
- Đất đai là tài nguyên bị hạn chế bởi ranh giới đất liền và bề mặt địa cầu.
Đặc điểm này ảnh hưởng đến khả năng mở rộng quy mô sản xuất nông - lâm nghiệp
và sức ép về lao động và việc làm, do nhu cầu nông sản ngày càng tăng trong khi
diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp. Việc khai khẩn đất hoang hóa đưa
vào hoạt động sản xuất nông nghiệp đã làm cho quỹ đất nông nghiệp tăng lên. Đây
là xu hướng vận động cần khuyến khích.
Tuy nhiên, đất đưa vào hoạt động sản xuất nông nghiệp là đất hoang hóa, nằm trong
quỹ đất chưa sử dụng. Vì vậy, cần phải đầu tư lớn về sức người và sức của. Trong
điều kiện nguồn lực có hạn, cần phải tính toán kỹ để đầu tư cho công tác này thực
sự có hiệu quả;
- Đất đai có vị trí cố định và chất lượng không đồng đều giữa các vùng, các
miền. Mỗi vùng đất luôn gắn với các điều kiện tự nhiên (thổ nhưỡng, thời tiết, khí
hậu, nước,…), điều kiện kinh tế - xã hội (dân số, lao động, giao thông, thị
trường,…) và có chất lượng đất khác nhau. Do vậy, việc sử dụng đất đai phải gắn
liền với việc xác định cơ cấu cây trồng, vật nuôi cho phù hợp để nhằm đem lại hiệu
quả kinh tế cao trên cơ sở nắm chắc điều kiện của từng vùng lãnh thổ;
- Đất đai được coi là một loại tài sản, người chủ sử dụng có quyền nhất định
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 4
do pháp luật của mỗi nước quy định, tạo thuận lợi cho việc tập trung, tích tụ và
chuyển hướng sử dụng đất, từ đó phát huy được hiệu quả nếu biết sử dụng đầy đủ
và hợp lý.
Như vậy, đất đai là yếu tố hết sức quan trọng và tích cực của quá trình sản
xuất nông nghiệp. Thực tế cho thấy thông qua quá trình phát triển của xã hội loài
người, sự hình thành và phát triển của mọi nền văn minh vật chất - văn minh tinh
thần, các thành tựu vật chất, văn hoá khoa học đều được xây dựng trên nền tảng cơ
bản đó là đất và sử dụng đất, đặc biệt là đất nông lâm nghiệp. Vì vậy, sử dụng đất
hợp lý, có hiệu quả là một trong những điều kiện quan trọng nhất cho nền kinh tế
phát triển nhanh và bền vững.
* Vấn đề suy thoái đất nông nghiệp
Hiện nay trên thế giới có khoảng 3,3 tỷ ha đất nông nghiệp, trong đó đã khai
thác được 1,5 tỷ ha; còn lại phần đa là đất xấu, sản xuất nông nghiệp gặp nhiều khó
khăn (Ngô Thế Dân, 2001). Bên cạnh đó, đất nông nghiệp còn phải đối mặt với hiện
tượng suy thoái khá trầm trọng. Hiện tượng này có liên quan chặt chẽ đến chất
lượng đất và môi trường. Để đáp ứng được lương thực, thực phẩm cho con người
trong hiện tại và tương lai, con đường duy nhất là thâm canh tăng năng suất cây
trồng trong điều kiện hầu hết đất canh tác trong khu vực đều bị nghèo về độ phì, đòi
hỏi phải bổ sung cho đất một lượng dinh dưỡng cần thiết qua con đường sử dụng
phân bón.
Theo báo cáo của World Bank (World Bank, 1995), hàng năm mức sản xuất
so với yêu cầu sử dụng lương thực vẫn thiếu hụt từ 150 – 200 triệu tấn, trong khi đó
vẫn có từ 6 – 7 triệu ha đất nông nghiệp bị loại bỏ do xói mòn. Trong 1200 triệu ha
đất bị thoái hoá có tới 544 triệu ha đất canh tác bị mất khả năng sản xuất do sử dụng
không hợp lý.
Báo cáo của Viện Tài nguyên thế giới, cho thấy gần 20% diện tích đất đai
châu Á bị suy thoái do những hoạt động của con người. Trong đó hoạt động sản
xuất nông nghiệp là một nguyên nhân không nhỏ. Quá trình thâm canh tăng vụ
trong nông nghiệp đã làm phá hủy cấu trúc đất, xói mòn và suy kiệt dinh dưỡng
(ESCAP/FAO/UNIDO, 1993).
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 5
Dự án điều tra, đánh giá tốc độ thoái hóa đất ở một số nước vùng nhiệt đới
châu Á cho phát triển nông nghiệp bền vững trong chương trình môi trường của
Trung tâm Đông Tây và khối các trường đại học Đông Nam Châu Á đã tập trung
nghiên cứu những thay đổi dinh dưỡng trong hệ sinh thái nông nghiệp. Kết quả
nghiên cứu đã chỉ ra rằng các yếu tố dinh dưỡng N, P, K của hầu hết các hệ sinh
thái đều bị suy giảm. Nghiên cứu cũng chỉ ra nguyên nhân của sự thất thoát dinh
dưỡng trong đất là do thâm canh thiếu phân bón và đưa các sản phẩm của cây trồng,
vật nuôi ra khỏi hệ thống (ESCAP/FAO/UNIDO, 1993).
Ở Việt Nam, các kết quả nghiên cứu đều cho thấy đất ở vùng trung du miền
núi đều nghèo các chất dinh dưỡng P, K, Ca và Mg. Để đảm bảo đủ dinh dưỡng, đất
không bị thoái hóa thì N, P là hai yếu tố cần phải được bổ sung thường xuyên
(ESCAP/FAO/UNIDO, 1993).
Trong quá trình sử dụng đất, do chưa tìm được các loại sử dụng đất hợp lý
hoặc chưa có công thức luân canh hợp lý cũng gây ra hiện tượng thoái hóa đất như:
vùng đất dốc mà trồng cây lương thực, đất có dinh dưỡng kém lại không luân canh
với cây họ đậu. Trong điều kiện nền kinh tế kém phát triển, người dân tập trung chủ
yếu vào trồng cây lương thực đã gây ra hiện tượng xói mòn, suy thoái đất. Điều kiện
kinh tế và sự hiểu biết của con người còn thấp dẫn tới việc sử dụng phân bón còn
nhiều hạn chế và sừ dụng thuốc BVTV quá nhiều, ảnh hưởng tới môi trường. Tadon
H.L.S (1993) chỉ ra rằng: “ Sự suy kiệt đất và các chất dự trữ trong đất cũng là biểu
hiện thoái hóa về môi trường, do vậy việc cải tạo độ phì của đất là đóng góp cho cải
thiện cơ sở tài nguyên thiên nhiên và còn hơn nữa cho chính môi trường”.
Hiện nay những vấn đề môi trường đã trở nên mang tính toàn cầu và được
phân thành 2 loại chính: một loại gây ra bởi công nghiệp hóa và các kỹ thuật hiện
đại, loại khác gây ra bởi lối canh tác tự nhiên. Hệ sinh thái nhiệt đới vốn cân bằng
một cách mỏng manh rất dễ bị đảo lộn bởi các phương thức canh tác phản tự nhiên,
buộc con người phải chuyển hướng sản xuất nông nghiệp theo hướng sử dụng tài
nguyên bảo vệ môi trường, thỏa mãn các yêu cầu của thế hệ hiện tại nhưng không
làm hại đến nhu cầu của các thế hệ tương lai, đó là mục tiêu của việc xây dựng và
phát triển nông nghiệp bền vững và cũng là lối đi trong tương lai.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 6
1.1.1.2. Nguyên tắc và quan điểm sử dụng đất nông nghiệp
a, Nguyên tắc sử dụng đất nông nghiệp
- Nguyên tắc đất đai là sở hữu toàn dân do nhà nước đại diện chủ sở hữu.
- Nguyên tắc nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo quy hoạch và pháp luật.
- Nguyên tắc sử dụng đất đai một cách hợp lý, tiết kiệm, cải tạo và bồi bổ đất đai.
- Nguyên tắc quan tâm đến lợi ích của người sử dụng đất.
- Nguyên tắc ưu tiên bảo vệ và phát triển quỹ đất nông nghiệp. Nội dung của
nguyên tắc là :
+ Hạn chế thấp nhất việc chuyển đất nông nghiệp sang sử dụng vào mục
đích khác.
+ Đối với hộ gia đình và cá nhân trực tiếp làm nông nghiệp được Nhà nước
giao đất nông nghiệp để sử dụng trong hạn mức thì không phải nộp tiền sử dụng đất.
+ Không được tùy tiện mở rộng khu dân cư trên đất nông nghiệp, hạn chế
việc lập vườn mới trên đất trồng lúa nước.
+ Nhà nước thực hiện các chính sách khuyến khích và tạo điều kiện cho các
hộ gia đình, cá nhân, tổ chức khai hoang phục hóa lấn biển để mở rộng diện tích đất
nông nghiệp,...
b, Quan điểm sử dụng đất nông nghiệp bền vững.
Sử dụng đất là hệ thống các biện pháp nhằm điều hoà mối quan hệ giữa
người với đất đai. Mục tiêu của con người trong quá trình sử dụng đất là: Sử dụng
đất đai một cách khoa học, hợp lý(Cao Liêm và cs.,1990). Vì vậy, sử dụng đất bền
vững, tiết kiệm và có hiệu quả đã trở thành chiến lược quan trọng. Theo (Smyth và
Dumanski,1993) sử dụng đất bền vững được xác định theo 5 nguyên tắc:
-
Duy trì và nâng cao các hoạt động sản xuất (năng suất).
-
Giảm mức độ rủi ro đối với sản xuất (an toàn)
-
Bảo vệ tiềm năng của các nguồn tài nguyên tự nhiên, chống lại sự thoái
hoá chất lượng và nước(bảo vệ).
-
Khả thi về mặt kinh tế (tính khả thi).
-
Được xã hội chấp nhận (sự chấp nhận).
Năm nguyên tắc trên được coi là kim chỉ nam của sử dụng đất đai bền vững
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 7
và là những mục tiêu cần phải đạt được. Nếu thực tế diễn ra đồng bộ so với các mục
tiêu không phải là tất cả thì khả năng bền vững chỉ mang tính bộ phận.
Ngoài ra còn có các quan điểm sau:
-
Tận dụng các nguồn lực, khai thác lợi thế so sánh về khoa học, kỹ thuật,
đất đai, lao động để phát triển cây trồng, vật nuôi có tỷ suất hàng hoá cao, tăng sức
cạnh tranh và hướng tới xuất khẩu.
-
Thực hiện sử dụng đất nông nghiệp theo hướng tập trung chuyên môn
hoá, sản xuất hàng hoá theo hướng ngành hàng, nhóm sản phẩm, thực hiện thâm
canh toàn diện và liên tục.
-
Nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trên cơ sở thực hiện đa dạng
hoá hình thức sở hữu, tổ chức sử dụng đất nông nghiệp, đa dạng hoá cây trồng vật nuôi,
chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi phù hợp với sinh thái và bảo vệ môi trường.
-
Nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nhiệp phù hợp và gắn liền với định
hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Sử dụng đất đai là vấn đề phức tạp, chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố quan
trọng khác nhau, về thực chất đây là vấn đề kinh tế liên quan đến toàn bộ nền kinh
tế quốc dân.
Mục tiêu đặt ra trong quá trình sử dụng đất là: Sử dụng tối đa và có hiệu quả
toàn bộ quỹ đất của quốc gia, nhằm phục vụ phát triển nền kinh tế quốc dân và phát
triển xã hội, việc sử dụng đất dựa trên nguyên tắc là ưu tiên đất đai cho sản xuất
nông nghiệp. Trong thực tế do quá trình sử dụng lâu dài, nhận thức về sử dụng đất
còn hạn chế dẫn tới nhiều vùng đất đai đang bị thoái hóa, ảnh hưởng tới môi trường
sống của con người. Những diện tích đất đai thích hợp cho sản xuất nông nghiệp
ngày càng bị thu hẹp, do đó con người phải mở mang thêm diện tích đất canh tác
trên các vùng không thích hợp. Hậu quả đã gây ra quá trình thoái hóa rửa trôi và
phá hoại đất một cách nghiêm trọng.
Trước những năm 1970, trong nông nghiệp người ta nói đến nhiều giống
mới, năng suất cao, kỹ thuật cao. Nhưng sau năm 1970 một khái niệm mới đã xuất
hiện và ngày càng có tính thuyết phục, đó là khái niệm tính bền vững và tiếp theo là
nông nghiệp bền vững.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 8
Nông nghiệp bền vững không có nghĩa là khước từ những kinh nghiệm
truyền thống mà là phối hợp, lồng ghép những sáng kiến mới từ các nhà khoa học,
từ nông dân hoặc cả hai. Điều trở nên thông thường đối với những người nông dân,
bền vững là việc sử dụng những công nghệ và thiết bị mới vừa được phát kiến,
những mô hình canh tác tổng hợp để giảm giá thành đầu vào. Đó là những công
nghệ về chăn nuôi động vật, những kiến thức về sinh thái.
Phát triển nông nghiệp bền vững sẽ vừa đáp ứng nhu cầu của hiện tại, vừa
đảm bảo nhu cầu của các thế hệ tương lai (Phạm Vân Đình và Đỗ Kim Chung,
1998). Một quan niệm khác cho rằng: Phát triển nông nghiệp bền vững là sự quản lý
và bảo tồn sự thay đổi về tổ chức và kỹ thuật nhằm đảm bảo thoả mãn nhu cầu ngày
càng tăng của con người cả cho hiện tại và mai sau (FAO, 1990). Để phát triển nông
nghiệp bền vững ở nước ta cần nắm vững mục tiêu về tác dụng lâu bền của từng mô
hình, để duy trì và phát triển đa dạng sinh học.
Sự phát triển bền vững trong lĩnh vực nông nghiệp chính là sự bảo tồn đất,
nước, các nguồn động thực vật, không bị suy thoái môi trường, kỹ thuật thích hợp,
sinh lợi kinh tế và chấp nhận được về mặt xã hội. FAO đã đưa ra các chỉ tiêu cụ thể
cho nông nghiệp bền vững (FAO, 1992).
- Thỏa mãn nhu cầu sinh dưỡng cơ bản của các thế hệ hiện tại và tương lai về
số lượng, chất lượng và các sản phẩm nông nghiệp khác
- Cung cấp lâu dài việc làm, đủ thu nhập và các điều kiện sống, làm việc tốt
cho mọi người trực tiếp làm nông nghiệp.
- Duy trì và có thể, tăng cương khả năng sản xuất của các cơ sở tài nguyên
thiên nhiên, khả năng tái tạo sản xuất của các nguồn tài nguyên cải tạo được mà
không phá vỡ chức năng của các chu trình sinh thái cơ sở, cân bằng tự nhiên,
không phá vỡ bản sắc văn hóa xã hội của cộng đồng ở nông thôn, không gây ô
nhiễm môi trường.
- Giảm thiểu khả năng bị tổn thương trong nông nghiệp, củng cố lòng tin
trong nhân dân (Phạm Chí Thành, 1998).
Vào năm 1991 ở Nariobi đã tổ chức hội thảo về khung đánh giá quản lý đất
bền vững đã đưa ra định nghĩa: “ Quản lý bền vững đất đai bao gồm các công nghệ
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 9
chính sách và hoạt động nhằm liên hợp các nguyên lý kinh tế xã hội với các quan
tâm môi trường đồng thời duy trì, nâng cao sản lượng hiệu quả sản xuất ”.
+ Duy trì nâng cao các hoạt động sản xuất (năng suất).
+ Giảm tối thiểu mức rủi ro trong sản xuất (an toàn).
+ Có hiệu quả lâu dài (bền vững).
+ Được xã hội chấp nhận (tính chấp nhận).
- Năm nguyên tắc trên được coi là trụ cột trong sử dụng đất đai bền vững và
là những mục tiêu cần phải đặt được. Nếu thực tế diễn ra đồng bộ so với các mục
tiêu trên thì khả năng bền vững sẽ đạt được. Nếu chỉ đạt được một hay một vài mục
tiêu mà không phải tất cả thì khả năng bền vững chỉ mang tính bộ phận (Hội khoa
học đất Việt Nam, 2000).
Tại Việt Nam, theo ý kiến của Đào Châu Thu (2002), việc sử dụng đất bền
vững cũng dựa trên những nguyên tắc và được thể hiện trong 3 yêu cầu sau:
- Bền vững về mặt kinh tế: Cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao, được thị
trường chấp nhận. Hệ thống dử dụng phải có mức năng suất sinh học cao trên mức
bình quan vùng có điều kiện đất đai. Năng suất sinh học bao gồm các cản phẩm
chính và phụ phẩm ( đối với cây trồng là gỗ, hạt, củ, quả… và tàn dư để lại). Một hệ
thống bền vững phải có năng suất trên mức bình quân vùng, nếu không sẽ không
cạnh tranh được trong cơ chế thị trường. Về chất lượng sản phẩm phải đạt tiêu
chuẩn tiêu thụ tại địa phương, trong nước và xuất khẩu, tùy mục tiêu của từng vùng.
Tổng giá trị sản phẩm trên đơn vị diện tích là thước đo quan trọng nhất của hiệu quả
kinh tế đối với một hệ thống sử dụng đất. Tổng giá trị trong một thời đoạn hay cả
chu kỳ phải trên mức bình quân của vùng, nếu dưới mức đó thì nguy cơ người sử
dụng sẽ không có lãi, lãi suất phải lớn hơn lãi suất tiền vay vốn ngân hàng.
- Bền vững về mặt xã hội: Thu hút được lao động, đảm bảo đời sống xã hội phát
triển. Đáp ứng như cầu của nông hộ là điều quan tâm trước, nếu muốn họ quan tâm đến
lợi ích lâu dài ( bảo vệ đất, môi trường…). Sản phẩm thu được cần thỏa mãn cái ăn
mặc và nhu cầu sống hàng ngày của người nông dân. Nội lực và nguồn lực địa phương
phải được phát huy. Về đất đai, hệ sử dụng đất phải được tổ chức trên đất mà nông dân
có quyền hưởng thụ lâu dài, đất đã được giao và rừng đã được khoán với lợi ích các
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 10
bên cụ thể. Nguồn vốn vay được ổn định, có lãi suất và thời hạn phù hợp từ tín dụng
hoặc ngân hàng. Sử dụng đất sẽ bền vững nếu phù hợp với nền văn hóa dân tộc và tập
quán địa phương, nếu ngược lại sẽ không được cộng đồng ủng hộ.
- Bền vững về môi trường: Loại hình sử dụng đất phải bảo vệ được độ màu
mỡ của đất, ngăn chặn thoái hóa đất và bảo vệ môi trường sinh thái đất. Giữ đất
được thể hiện bằng giảm thiểu lượng đất mất hàng năm dưới mức cho phép. Độ phì
nhiêu đất tăng dần là yêu cầu bắt buộc đối với quản lý sử dụng bền vững. Độ che
phủ tối thiểu phải đạt ngưỡng an toàn sinh thái (>35%). Đa dạng sinh học biểu hiện
qua thành phần loài ( đa canh bền vững hơn độc canh, cây lâu năm có khả năng bảo
vệ đất tốt hơn cây hàng năm…)
Ba yêu cầu bền vững trên là để xem xét và đánh giá các loại hình sử dụng đất
hiện tại. Thông qua việc xem xét và đánh giá theo các yêu cầu trên để giúp cho việc
định hướng phát triển nông nghiệp ở từng vùng sinh thái (Hội khoa học đất Việt
Nam, 2000).
Tóm lại: Khái niệm sử dụng đất bền vững do con người đưa ra được thể hiện
trong nhiều hoạt động sử dụng và quản lý đất đai theo các mục đích mà con người
đã lựa chọn cho từng vùng đất xác định. Đối với sản xuất nông nghiệp, việc sử dụng
đất bền vững phải đạt được trên cơ sở đảm bảo khả năng sản xuất ổn định của cây
trồng, chất lượng tài nguyên đất không làm suy giảm theo thời gian và việc sử dụng
đất không ảnh hưởng xấu đến môi trường sống của con người, của các sinh vật.
1.1.2. Hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
1.1.2.1. Khái niệm về hiệu quả sử dụng đất.
Sử dụng các nguồn tài nguyên có hiệu quả cao trong sản xuất để đảm bảo phát
triển một nền nông nghiệp bền vững là xu thế tất yếu đối với các nước trên thế giới.
Có quan điểm cho rằng:” Hiệu quả sản xuất diễn ra khi xã hội không thể tăng
một loại hàng hóa mà không cắt giảm một loại hàng hóa khác. Một nền kinh tế hiệu
quả, một doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả thì các điểm lựa chọn đều nằm trên một
đường giới hạn sản xuất của nó”, hoặc “ Khi sản xuất có hiệu quả, chúng ta nói rằng
nền kinh tế đang sản xuất trên giới hạn khả năng sản xuất” (Nguyễn Văn Bích, 2007).
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 11
Hiệu quả theo quan điểm của Các Mác đó là việc “ Tiết kiệm và phân phối
một cách hợp lý”, các nhà khoa học Xô Viết cho rằng đó là sự tăng trưởng kinh tế
thông qua tăng tổng sản phẩm xã hội hoặc thu nhập quốc dân với tốc độ cao nhằm
đáp ứng được yêu cầu của quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội. (Nguyễn
Văn Bích, 2007).
Sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả cao thông qua việc bố trí cơ cấu cây
trồng, vật nuôi là một trong những vấn đề được chú ý hiện nay của hầu hết các nước
trên thế giới. Nó không chỉ thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học, các nhà
hoạch định chính sách, các nhà kinh doanh nông nghiệp mà còn là sự mong muốn
của nông dân, những người trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất nông nghiệp
(Đào Châu Thu, 2002).
Sử dụng đất đai có hiệu quả là hệ thống các biện pháp nhằm điều hòa mối
quan hệ người – đất trong tổ hợp các nguồn tài nguyên khác và môi trường. Căn cứ
vào nhu cầu của thị trường, thực hiện đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi trên cơ sở lựa
chọn các sản phẩm có ưu thế ở từng địa phương, từ đó nghiên cứu áp dụng công
nghệ mới nhằm làm cho sản phẩm có tính cạnh tranh cao, đảm bảo sự thống nhất
giữa các ngành, đó là một trong những điều kiện tiên quyết để phát triển nền nông
nghiệp hướng về xuất khẩu có tính ổn định và bền vững, đồng thời phát huy tối đa
công dụng của đất nhằm đạt tới hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường cao nhất
(Nguyễn Đình Hợi, 1993).
Các nội dung sử dụng đất có hiệu quả được thể hiện ở các mặt sau:
- Sử dụng hợp lý về không gian để hình thành hiệu quả kinh tế không gian sử
dụng đất.
- Phân phối hợp lý cơ cấu đất đai trên diện tích đất được sử dụng, hình thành
cơ cấu kinh tế sử dụng đất.
- Quy mô sử dụng đất cần có sự tập trung thích hợp hình thành quy mô kinh
tế sử dụng đất.
- Giữ mật độ sử dụng đất thích hợp hình thành việc sử dụng đất một cách kinh
tế, tập trung thâm canh. Việc sử dụng đất phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố liên
quan. Vì vậy, việc xác định bản chất khái niệm hiệu quả sử dụng đất phải xuất phát từ
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 12
luận điểm triết học của Mác và những nhận thức lý luận của lý thuyết hệ thống nghĩa
là hiệu quả phải được xem xét trên 3 mặt: hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội, hiệu quả
môi trường (Nguyễn Thị Vòng và cs, 2001);
- Phải xem xét đến lợi ích trước mắt và lâu dài.
- Phải xem xét cả lợi ích riêng của người sử dụng đất và lợi ích của cả
cộng đồng.
- Phải xem xét giữa hiệu quả sử dụng đất và hiệu quả sử dụng các nguồn
lực khác.
- Đảm bảo sự phát triển thống nhất giữa các ngành.
1.1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
- Nhóm các yếu tố về điều kiện tự nhiên.
Các yếu tố tự nhiên là tiền đề cơ bản nhất, là nền móng để phát triển và phân
bố nông nghiệp. Mỗi một loại cây trồng, vật nuôi chỉ có thể sinh trưởng và phát
triển trong những điều kiện tự nhiên nhất định nào đó, ngoài điều kiện đó cây trồng
và vật nuôi sẽ không thể tồn tại hoặc kém phát triển. Các điều kiện tự nhiên quan
trọng nhất là đất, nước và khí hậu. Chúng quyết định khả năng nuôi trồng các loại
cây, con cụ thể trên từng điều kiện đất, nước và khí hậu khác nhau, cũng như việc
áp dụng các quy trình sản xuất nông nghiệp trong các điều kiện tự nhiên khác nhau,
đồng thời có ảnh hưởng lớn đến năng suất cây trồng, vật nuôi.
Điều kiện tự nhiên (đất, nước, khí hậu, thời tiết....) là các yếu tố đầu vào có ý
nghĩa quyết định, tác động trực tiếp đến quá trình sản xuất nông nghiệp (Nguyễn
Đình Hợi, 1993; Nguyễn Duy Tính, 1995) và ảnh hưởng tới sự sinh trưởng và phát
triển của cây trồng, khả năng đầu tư trong quá trình sản xuất nông nghiệp cũng phụ
thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên.
Một trong những yếu tố hạn chế năng suất cây trồng chính là điều kiện về độ
phì của đất, điều kiện nước tưới, điều kiện khí hậu.
- Nhóm các yếu tố kỹ thuật canh tác.
Biện pháp kỹ thuật canh tác là tác động của con người vào đất đai, cây trồng,
vật nuôi, nhằm tạo nên sự hài hoà giữa các yếu tố của quá trình sản xuất để hình
thành, phân bố và tích luỹ năng suất kinh tế. Đây là những vấn đề thể hiện sự hiểu
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 13
biết về đối tượng sản xuất, về thời tiết, về điều kiện môi trường và thể hiện những
dự báo thông minh của người sản xuất. Lựa chọn các tác động kỹ thuật, lựa chọn
chủng loại và cách sử dụng các đầu vào phù hợp với các quy luật tự nhiên của sinh
vật nhằm đạt được các mục tiêu đề ra là cơ sở để phát triển sản xuất nông nghiệp
hàng hoá. Theo Frank Ellis và Douglass C.North (Vũ Thị Phương Thụy, 2000), ở
các nước phát triển, khi có tác động tích cực của kỹ thuật, giống mới, thuỷ lợi, phân
bón tới hiệu quả thì cũng đặt ra yêu cầu mới đối với tổ chức sử dụng đất. Có nghĩa
là ứng dụng công nghệ sản xuất tiến bộ là một đảm bảo vật chất cho kinh tế nông
nghiệp tăng trưởng nhanh dựa trên việc chuyển đổi sử dụng đất. Cho đến giữa thế
kỷ 21, trong nông nghiệp nước ta, quy trình kỹ thuật có thể góp phần đến 30% của
năng suất kinh tế. Như vậy, nhóm các biện pháp kỹ thuật đặc biệt có ý nghĩa quan
trọng trong quá trình khai thác đất theo chiều sâu và nâng cao hiệu quả sử dụng đất
nông nghiệp (Vũ Thị Thanh Tâm, 2007).
- Nhóm các yếu tố kinh tế tổ chức
+ Công tác quy hoạch và bố trí sản xuất: Phát triển sản xuất hàng hoá phải gắn
với công tác quy hoạch và phân vùng sinh thái nông nghiệp. Cơ sở để tiến hành quy
hoạch dựa vào điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội đặc trưng cho từng vùng. Việc phát
triển sản xuất nông nghiệp phải đánh giá, phân tích thị trường tiêu thụ và gắn với quy
hoạch phát triển công nghiệp chế biến, kết cấu hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực và
các thể chế pháp luật về bảo vệ tài nguyên, môi trường (Vũ Thị Phương Thụy, 2000).
Đó sẽ là cơ sở để phát triển sản xuất, khai thác các tiềm năng của đất đai, nâng cao hiệu
quả sử dụng đất nông nghiệp và phát triển sản xuất hàng hoá.
+ Hình thức tổ chức sản xuất: Các hình thức tổ chức sản xuất ảnh hưởng trực
tiếp đến việc khai thác, nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp (Lê Hội, 1996).
Vì vậy, cần phải thực hiện đa dạng hoá các hình thức hợp tác trong nông nghiệp,
xác lập một hệ thống tổ chức sản xuất, kinh doanh phù hợp và giải quyết tốt mối
quan hệ giữa sản xuất, dịch vụ và tiêu thụ nông sản hàng hoá. Tổ chức có tác động
lớn đến hàng hoá của hộ nông dân là: Tổ chức dịch vụ đầu vào và đầu ra.
+ Dịch vụ kỹ thuật: Sản xuất hàng hoá của hộ nông dân không thể tách rời
những tiến bộ kỹ thuật và việc ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ vào sản
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 14
xuất. Vì sản xuất nông nghiệp hàng hoá phát triển đòi hỏi phải không ngừng nâng
cao chất lượng nông sản và hạ giá thành nông sản phẩm (Vũ Thị Thanh Tâm, 2007).
- Nhóm các yếu tố kinh tế - xã hội
Các nhân tố kinh tế - xã hội có ảnh hưởng quan trọng tới phát triển và phân bố
nông nghiệp:
+ Thị trường tiêu thụ có tác động mạnh mẽ đến sản xuất nông nghiệp và giá cả
nông sản. Cung, cầu trên thị trường có tác dụng điều tiết đối với sự hình thành và phát
triển đối với các hàng hoá nông nghiệp. Theo Nguyễn Duy Tính (Nguyễn Duy Tính,
1995), ba yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp là năng suất
cây trồng, hệ số quay vòng đất và thị trường cung ứng đầu vào và tiêu thụ đầu ra. Trong
cơ chế thị trường, các nông hộ hoàn toàn tự do lựa chọn hàng hoá họ có khả năng sản
xuất, đồng thời họ có xu hướng hợp tác, liên doanh, liên kết để sản xuất ra những nông
sản hàng hoá mà nhu cầu thị trường cần với chất lượng cao đáp ứng nhu cầu thị hiếu của
khách hàng. Muốn mở rộng thị trường phải phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng, hệ thống
thông tin, dự báo, mở rộng các dịch vụ tư vấn.... Đồng thời, quy hoạch các vùng trọng
điểm sản xuất hàng hoá để người sản xuất biết nên sản xuất cái gì? bán ở đâu? mua tư
liệu sản xuất và áp dụng khoa học công nghệ gì? Sản phẩm hàng hoá của Việt Nam đa
dạng, phong phú về chủng loại, chất lượng, giá rẻ và đang được lưu thông trên thị trường
là điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá có hiệu
quả (Phạm Vân Đình; Đỗ Kim Chung và cs, 1998).
+ Hệ thống chính sách, pháp luật về phát triển nông nghiệp, đất đai, ... có vai
trò quan trọng trong phát triển nông nghiệp và sản xuất nông nghiệp. Hệ thống chính
sách pháp luật tác động rất lớn tới sự phát triển của nông nghiệp và cách thức tổ chức,
sắp xếp, cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Mỗi một sự thay đổi của chính sách, pháp luật
thường tạo ra sự thay đổi lớn, sự thay đổi đó có thể thúc đẩy sản xuất nông nghiệp
phát triển hoặc giới hạn, hạn chế một khuynh hướng phát triển nhằm mục đích can
thiệp và phát triển theo định hướng của nhà nước.
Phát triển nông nghiệp nước ta thực sự khởi sắc sau sự kiện đổi mới của pháp
luật và một loạt chính sách về đất đai bắt đầu là Nghị quyết 10 của Bộ chính trị vào
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 15
tháng 4 năm 1988, người nông dân được giao đất nông nghiệp sử dụng ổn định, lâu
dài, được thừa nhận như một đơn vị kinh tế và được tự chủ trong sản xuất nông
nghiệp. Sự ra đời của Luật đất đai 1993, sau đó là luật sửa đổi bổ sung luật đất đai
năm 1998 và năm 2001; Luật đất đai năm 2003; Nghị định 64/CP năm 1993 về giao
đất nông nghiệp và Nghị định 02/CP năm 1994 về giao đất rừng và một loạt các văn
bản liên quan khác đã đem lại luồng gió mới cho sản xuất nông nghiệp. Nước ta từ
chỗ phải nhập khẩu lương thực nay đã có thể tự túc lương thực và trở thành một nước
xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới.
+ Sự ổn định chính trị - xã hội và các chính sách của Nhà nước: ổn định
chính trị là yếu tố then chốt để tạo nên sự khác biệt giữa Việt Nam và các nước khác
trong khu vực. Đầu tư vào một nước có nền chính trị ổn định tạo tâm lý yên tâm về
khả năng tìm kiếm lợi nhuận và thu hồi vốn, giúp các nhà đầu tư có thể tính toán
chiến lược đầu tư lớn và dài hạn. Vai trò của ổn định chính sách cũng tương tự như
vậy, môi trường cởi mở và rõ ràng thu hút, hấp dẫn các nhà đầu tư ngoại quốc.
1.1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
a.. Nguyên tắc lựa chọn chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
Việc lựa chọn các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp cần
phải dựa trên những nguyên tắc cụ thể:
+ Hệ thống các chỉ tiêu phải có tính thống nhất, toàn diện và tính hệ thống.
Các chỉ tiêu phải có mối quan hệ hữu cơ với nhau, phải đảm bảo tính so sánh có
thang bậc (Nguyễn Đình Hợi, 1993; Đỗ Thị Tám, 2001).
+ Để đánh giá chính xác, toàn diện cần phải xác định các chỉ tiêu cơ bản biểu
hiện hiệu quả một cách khách quan, chân thật và đúng đắn theo quan điểm và tiêu
chuẩn đã chọn, các chỉ tiêu bổ sung để hiệu chỉnh chỉ tiêu cơ bản làm cho nội dung
kinh tế biểu hiện đầy đủ hơn, cụ thể hơn (Vũ Khắc Hòa, 1996).
+ Các chỉ tiêu phải phù hợp với đặc điểm và trình độ phát triển nông nghiệp
ở nước ta, đồng thời có khả năng so sánh quốc tế trong quan hệ đối ngoại, nhất là
những sản phẩm có khả năng hướng tới xuất khẩu.
+ Hệ thống các chỉ tiêu phải đảm bảo tính thực tiễn, tính khoa học và phải có
tác dụng kích thích sản xuất phát triển.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 16
b. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
* Chỉ tiêu về hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế được phân tích bởi các chỉ tiêu sau (Theo Nguyễn
Đình Hợi, 1993)
+ Hiệu quả kinh tế tính trên 1 ha đất nông nghiệp
- Giá trị sản xuất (GTSX): Là toàn bộ giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ
được tạo ra trong 1 kỳ nhất định (thường là một năm).
- Chi phí trung gian (CPTG): Là toàn bộ các khoản chi phí vật chất thường
xuyên bằng tiền mà chủ thể bỏ ra để thuê và mua các yếu tố đầu vào và dịch vụ sử
dụng trong quá trình sản xuất.
- Thu nhập hỗn hợp (TNHH): là hiệu số giữa giá trị sản xuất và chi phí trung
gian, là giá trị sản phẩm xã hội tạo ra thêm trong thời kỳ sản xuất đó.
TNHH = GTSX - CPTG
+ Hiệu quả kinh tế tính trên 1 đồng chi phí trung gian (GTSX/CPTG,
GTGT/CPTG): Đây là chỉ tiêu tương đối của hiệu quả, nó chỉ ra hiệu quả sử dụng
các chi phí biến đổi và thu dịch vụ.
+ Hiệu quả kinh tế trên ngày công lao động quy đổi, gồm có (GTSX/LĐ,
GTGT/LĐ). Thực chất là đánh giá kết quả đầu tư lao động sống cho từng kiểu sử dụng
đất và từng cây trồng làm cơ sở để so sánh với chi phí cơ hội của người lao động.
* Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả xã hội
Hiệu quả xã hội được phân tích bởi các chỉ tiêu sau (Theo Nguyễn Đình
Hợi, 1993):
+ Đảm bảo an toàn lương thực, gia tăng lợi ích của người nông dân;
+ Đáp ứng mục tiêu chiến lược phát triển của vùng;
+ Thu hút nhiều lao động, giải quyết công ăn việc làm cho nông dân;
+ Góp phần định canh định cư, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật.
* Các chỉ tiêu về hiệu quả môi trường
Theo Đỗ Nguyên Hải (Đỗ Nguyên Hải, 1999), chỉ tiêu đánh giá chất lượng
môi trường trong quản lý sử dụng đất bền vững ở vùng nông nghiệp được tưới là:
+ Quản lý đối với đất đai rừng đầu nguồn;
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 17
+ Đánh giá các tài nguyên nước bền vững;
+ Đánh giá quản lý đất đai;
+ Đánh giá hệ thống cây trồng;
+ Đánh giá về tính bền vững đối với việc duy trì độ phì nhiêu của đất và bảo
vệ cây trồng;
+ Đánh giá về quản lý và bảo vệ tự nhiên;
+ Sự thích hợp của môi trường đất khi thay đổi kiểu sử dụng đất.
Việc xác định hiệu quả về mặt môi trường của quá trình sử dụng đất nông
nghiệp là rất phức tạp, rất khó định lượng, nó đòi hỏi phải được nghiên cứu,
phân tích trong thời gian dài. Vì vậy, đề tài nghiên cứu của chúng tôi chỉ dừng
lại ở việc đánh giá hiệu quả môi trường thông qua kết quả điều tra về việc đầu tư
phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và nhận xét của nông dân đối với các loại hình
sử dụng đất hiện tại.
1.2. Tình hình nghiên cứu nâng cao hiệu quả về sử dụng đất nông nghiệp trên
thế giới và Việt Nam.
1.2.1. Các nghiên cứu về sử dụng đất nông nghiệp trên thế giới.
1.2.1.1. Tình hình sử dụng đất nông nghiệp trên thế giới
Đất nông nghiệp là nhân tố vô cùng quan trọng đối với sản xuất nông nghiệp.
Trên thế giới, mặc dù nền sản xuất nông nghiệp của các nước phát triển không
giống nhau nhưng tầm quan trọng đối với đời sống con người thì quốc gia nào cũng
thừa nhận. Hầu hết các nước coi sản xuất nông nghiệp là cơ sở nên tảng của sự phát
triển. Tuy nhiên, khi dân số ngày một tăng nhanh thì nhu cầu lương thực, thực phẩm
là một sức ép rất lớn. Để đảm bảo an ninh lương thực loài người phải tăng cường
các biện pháp khai hoang đất đai. Do đó, đã phá vỡ cân bằng sinh thái của nhiều
vùng, đất đai bị khai thác triệt để và không còn thời gian nghỉ, các biện pháp gìn giữ
độ phì nhiêu cho đất chưa được coi trọng. Kết quả là hàng loạt diện tích đất bị thoái
hoá trên phạm vi toàn thế giới qua các hình thức bị mất chất dinh dưỡng và chất hữu
cơ, bị xói mòn, bị nhiễm mặn và bị phá hoại cấu trúc của tầng đất... Người ta ước
tính có tới 15% tổng diện tích đất trên trái đất bị thoái hoá do những hành động bất
cẩn của con người gây ra (Rosemary Morrow, 1994). Theo P.Buringh (Vũ Ngọc
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 18
Tuyên, 1994), toàn bộ đất có khả năng nông nghiệp của thế giới chừng 3,3 tỷ ha
(chiếm 22% tổng diện tích đất liền); khoảng 78% (xấp xỉ 11,7 tỷ ha) không dùng
được vào nông nghiệp.
Đất trồng trọt là đất đang sử dụng, cũng có loại đất hiện tại chưa sử dụng
nhưng có khả năng trồng trọt. Đất đang trồng trọt của thế giới có khoảng 1,5 tỷ ha
(chiếm xấp xỉ 10,8% tổng diện tích đất đai và 46% đất có khả năng trồng trọt).
Như vậy, còn 54% đất có khả năng trồng trọt chưa được khai thác (Vũ Ngọc
Tuyên, 1994).
Đất đai trên thế giới phân bố ở các châu lục không đều. Tuy có diện tích đất
nông nghiệp khá cao so với các Châu lục khác nhưng Châu á lại có tỷ lệ diện tích
đất nông nghiệp trên tổng diện tích đất tự nhiên thấp. Mặt khác, châu á là nơi tập
trung phần lớn dân số thế giới, ở đây có các quốc gia dân số đông nhất nhì thế giới
là Trung Quốc, ấn Độ, Indonexia. Ở Châu Á, đất đồi núi chiếm 35% tổng diện tích.
Tiềm năng đất trồng trọt nhờ nước trời nói chung là khá lớn khoảng 407 triệu ha,
trong đó xấp xỉ 282 triệu ha đang được trồng trọt và khoảng 100 triệu ha chủ yếu
nằm trong vùng nhiệt đới ẩm của Đông Nam á. Phần lớn diện tích này là đất dốc và
chua; khoảng 40-60 triệu ha trước đây vốn là đất rừng tự nhiên che phủ, nhưng đến
nay do bị khai thác khốc liệt nên rừng đã bị phá và thảm thực vật đã chuyển thành cây
bụi và cỏ dại.
Đất canh tác của thế giới có hạn và được dự đoán là ngày càng tăng do khai
thác thêm những diện tích đất có khả năng nông nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu về
lương thực thực phẩm cho loài người. Tuy nhiên, do dân số ngày một tăng nhanh nên
bình quân diện tích đất canh tác trên đầu người ngày một giảm.
Đông Nam Á là một khu vực đặc biệt. Từ số liệu của UNDP năm 1995 (Đỗ
Nguyên Hải, 2001) cho ta thấy đây là một khu vực có dân số khá đông trên thế giới
nhưng diện tích đất canh tác thấp, khi nghiên cứu sự chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp
của một số nước Đông Nam Á cho thấy:
+ Các nước đang chuyển đổi nhanh cơ cấu kinh tế và cơ cấu nông nghiệp
theo hướng tập trung phát triển ngành hàng dựa vào lợi thế và cải tổ để đương đầu
với những thách thức mới của thế kỷ XXI.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 19