MỤC LỤC
Lời cam đoan
i
Lời cảm ơn
ii
Mục lục
iii
Danh mục chữ viết tắt
v
Danh mục bảng
vi
Danh mục sơ đồ
vi
Danh mục biểu đồ
vii
PHẦN I MỞ ĐẦU
1
1.1
Tính cấp thiết của đề tài
1
1.2
Mục tiêu nghiên cứu
3
1.3
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4
1.4
Câu hỏi nghiên cứu
4
PHẦN II CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
5
2.1
Cơ sở lý luận
5
2.1.1
Các khái niệm
5
2.1.2
Vai trò, yêu cầu của dân số trong phát triển kinh tế
2.1.3
Các chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước ta đối với công tác
12
DS-KHHGĐ
14
2.1.4
Đặc điểm hoạt động của cán bộ DS-KHHGĐ cơ sở
20
2.1.5
Nội dung và tiêu chí đánh giá chất lượng cán bộ DS-KHHGĐ
23
2.1.6
Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng cán bộ DS-KHHGĐ
26
2.2
Cơ sở thực tiễn
29
2.2.1
Kinh nghiệm thực hiện chính sách dân số ở một số nước trên thế giới 29
2.2.2
Kết quả thực hiện công tác DS-KHHGĐ Việt Nam qua các thời kỳ
35
2.2.3
Bài học kinh nghiệm rút ra
39
2.3
Tổng quan các nghiên cứu có liên quan
41
PHẦN III PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
42
3.1
Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
42
3.1.1
Điều kiện tự nhiên
42
3.1.2
Điều kiện kinh tế - xã hội
44
3.2
Phương pháp nghiên cứu
50
iii
3.2.1
Phương pháp tiếp cận
50
3.2.2
Chọn điểm nghiên cứu và chọn mẫu điều tra, khảo sát
50
3.2.3
Phương pháp thu thập số liệu
51
3.2.4
Phương pháp tổng hợp và xử lý số liệu
52
3.2.5
Phương pháp phân tích số liệu
53
3.2.6
Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu
53
PHẦN IV KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
55
4.1
Thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ DS-KHHGĐ huyện Gia Bình
55
4.1.1
Thực trạng hệ thống tổ chức cán bộ DS-KHHGĐ huyện Gia Bình
55
4.1.2
Số lượng, cơ cấu đội ngũ cán bộ DS-KHHGĐ huyện Gia Bình
58
4.1.3
Thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ DS-KHHGĐ tại các địa điểm
nghiên cứu và đối tượng điều tra, khảo sát
4.2
74
Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng cán bộ DS-KHHGĐ huyện Gia
Bình, tỉnh Bắc Ninh
91
4.2.1
Về sự quan tâm, chỉ đạo của các cấp lãnh đạo
91
4.2.2
Về trình độ học vấn, trình độ chuyên môn
92
4.2.3
Về đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực và kỹ năng cho cán bộ
93
4.2.4
Về tổ chức bộ máy ngành dân số - KHHGĐ
93
4.2.5
Về quy hoạch, quản lý, kiểm tra, đánh giá cán bộ
94
4.2.6
Về cơ chế chính sách, đãi ngộ
94
4.2.7
Về điều kiện kinh tế - xã hội của huyện
95
4.3
Giải pháp nâng cao chất lượng cán bộ DS-KHHGĐ huyện Gia Bình
95
4.3.1
Những căn cứ khoa học để lựa chọn giải pháp
95
4.3.2
Định hướng nâng cao chất lượng cán bộ DS-KHHGĐ huyện Gia Bình
giai đoạn 2015 - 2020
4.3.3
100
Các giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ DS-KHHGĐ tại huyện
Gia Bình
101
PHẦN V KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
107
5.1
Kết luận
107
5.2
Kiến nghị
108
TÀI LIỆU THAM KHẢO
110
PHẦN PHỤ LỤC
112
iv
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ ĐẦY ĐỦ
BBT
:
Ban Bí thư
BCĐ
:
Ban chỉ đạo
BCH TƯ
:
Ban chấp hành Trung ương
BCT
:
Bộ Chính trị
BPTT
:
Biện pháp tránh thai
CTMT
:
Chương trình mục tiêu
CTV
:
Cộng tác viên
DS-KHHGĐ
:
Dân số - Kế hoạch hóa gia đình
GDP
:
Tổng sản phẩm quốc nội
GTKS
:
Giới tính khi sinh
HĐBT
:
Hội đồng bộ trưởng
HDI
:
Chỉ số phát triển con người
KH
:
Kế hoạch
KHHGĐ
:
Kế hoạch hóa gia đình
KT-XH
:
Kinh tế - xã hội
PLDS
:
Pháp lệnh Dân số
PTTT
:
Phương tiện tránh thai
SKSS
:
Sức khỏe sinh sản
SLSS
:
Sàng lọc sơ sinh
THCS
:
Trung học cơ sở
THPT
:
Trung học phổ thông
TTCN
:
Tiểu thủ công nghiệp
UBND
:
Ủy ban nhân dân
UBTVQH
:
Ủy ban Thường vụ Quốc hội
v
DANH MỤC BẢNG
Số hiệu
Tên bảng
Trang
3.1
Tình hình đất và sử dụng đất của huyện Gia Bình năn 2012 - 2014
43
3.2
Tình hình dân số, lao động của huyện Gia Bình năm 2012 - 2014
46
3.3
Kết quả phát triển kinh tế - xã hội huyện Gia Bình năm 2012 - 2014
48
3.4
Phân bổ mẫu điều tra
51
3.5
Thu thập số liệu thứ cấp
52
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Số hình
Tên sơ đồ
Trang
2.1
Sơ đồ tổ chức bộ máy công tác DS-KHHGĐ các cấp
20
4.1
Sơ đồ hệ thống tổ chức cán bộ DS-KHHGĐ huyện Gia Bình
57
vi
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Số biểu đồ
4.1
Tên biểu đồ
Trang
Đánh giá mức độ phù hợp của công việc và một số hoạt động đối
với cán bộ DS-KHHGĐ huyện Gia Bình
4.2
Đánh giá của cán bộ DS-KHHGĐ được điều tra về điều kiện làm
việc và chính sách đối với cán bộ DS-KHHGĐ
4.3
81
Đánh giá của cán bộ DS-KHHGĐ được điều tra về chất lượng làm
việc của cán bộ DS-KHHGĐ
4.5
80
Đánh giá của cán bộ DS-KHHGĐ được điều tra về sự tham gia hỗ
trợ của địa phương đối với công tác DS-KHHGĐ
4.4
79
82
Đánh giá của cán bộ DS-KHHGĐ được điều tra về hoạt động tuyên
truyền, giáo dục, vận động người dân thực hiện chính sách DSKHHGĐ
4.6
85
Đánh giá của người dân được phỏng vấn về phẩm chất đạo đức đội
ngũ cán bộ DS-KHHGĐ huyện Gia Bình
4.7
Đánh giá của người dân về năng lực của cán bộ DS-KHHGĐ
huyện Gia Bình
4.8
87
Đánh giá của người dân về kỹ năng vận động, thuyết phục của cán
bộ DS-KHHGĐ huyện Gia Bình
4.9
88
Đánh giá mức độ hài lòng của người dân về đội ngũ cán bộ DSKHHGĐ huyện Gia Bình
4.10
86
90
Đánh giá của các đối tượng điều tra về nguyên nhân ảnh hưởng đến
chất lượng cán bộ DS-KHHGĐ
91
vii
PHẦN I
MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Dân số đóng vai trò quyết định trong quá trình phát triển. Một mặt dân số là
lực lượng tạo ra của cải vật chất và các dịch vụ cho xã hội. Mặt khác, dân số là lực
lượng tiêu thụ sản phẩm. Bởi vậy, quy mô, cơ cấu dân số có ảnh hưởng lớn đến quy
mô, cơ cấu sản xuất, tiêu dùng và tích luỹ xã hội. Vấn đề dân số và phát triển luôn là
mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia trên thế giới, sự bùng nổ và gia tăng dân số
sẽ có ảnh hưởng xấu tới quá trình phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH), sẽ dẫn tới đói
nghèo một cách nhanh chóng (Tổng cục DS-KHHGĐ, 2011a).
Đối với nước ta, công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ) luôn
được xác định là một bộ phận quan trọng trong Chiến lược phát triển đất nước, một
trong những vấn đề KT-XH hàng đầu của quốc gia. Thực hiện tốt công tác DSKHHGĐ là giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người,
từng gia đình và toàn xã hội (BCH TƯ, 1993).
Với sự quyết tâm chỉ đạo của Đảng, nhà nước, các cấp, các ngành đã ban
hành rất nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm quan tâm toàn diện đến công
tác DS-KHHGĐ; đặc biệt là sự tâm huyết, nhiệt tình của cán bộ DS-KHHGĐ các
cấp không quản ngại vất vả, khó khăn “Đi từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng đối
tượng” để tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chính sách DS-KHHGĐ. Trải
qua 50 năm xây dựng và trưởng thành, công tác DS-KHHGĐ đã đạt được những
thành tựu đáng ghi nhận, góp phần quan trọng đối với sự phát triển đất nước như:
Tỷ suất sinh thô từ 19,0‰ năm 2002, dao động tăng lên 19,2‰ năm 2004, giảm dần
xuống 17,1‰ năm 2010 và 16,9‰ năm 2012, giảm 2,1‰ so với năm 2010. Tỷ lệ
sinh con thứ 3 trở lên giảm từ 21,5% năm 2003, xuống còn 15,1% năm 2010 và
14,2% năm 2012. Năm 2003, dân số Việt Nam là 80,47 triệu người, tăng lên 88,78
triệu người năm 2012, tăng thêm 8,31 triệu người so với năm 2003. Tỷ lệ phát triển dân
số từ 1,17% năm 2003 giảm xuống 1,06% năm 2012. Người dân đã được cung cấp
thông tin đầy đủ về kế hoạch hóa gia đình (KHHGĐ), trên 98% số người có nhu cầu
1
đã tự nguyện sử dụng các phương tiện tránh thai một cách an toàn, thuận tiện…(Bộ
Y tế, 2013).
Có được kết quả như trên là do có sự quan tâm lãnh đạo, thực hiện của cả hệ
thống chính trị và toàn thể nhân dân. Đặc biệt là công sức đóng góp của đội ngũ cán bộ
những người làm công tác DS-KHHGĐ, từ cán bộ chuyên trách DS-KHHGĐ các cấp
đến CTV DS-KHHGĐ ở thôn, làng đã luôn phát huy tinh thần đoàn kết, kiên định, bền
bỉ vượt qua những khó khăn, thách thức, nỗ lực phấn đấu trong công tác vận động,
tuyên truyền, thuyết phục mọi tầng lớp nhân dân tích cực thực hiện các chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về DS-KHHGĐ. Qua đó đã thực hiện tốt
các chỉ tiêu giảm sinh, giảm sinh con thứ 3 trở lên, góp phần phát triển KT-XH, nâng
cao đời sống nhân dân trong những năm qua (Tổng cục DS-KHHGĐ, 2011b).
Nằm trong tình trạng chung của cả nước và của tỉnh Bắc Ninh, trong những
năm qua công tác DS-KHHGĐ trên địa bàn huyện Gia Bình luôn được sự quan tâm
lãnh đạo, chỉ đạo của Huyện ủy, Ủy ban nhân dân (UBND) huyện, nhiều văn bản
được ban hành để chỉ đạo, thực hiện công tác DS-KHHGĐ. Đội ngũ cán bộ DSKHHGĐ trên địa bàn huyện luôn kiên trì, bền bỉ đi từng nhà để tuyên truyền, vận
động các cá nhân và cặp vợ chồng thực hiện tốt công tác DS-KHHGĐ, không sinh
con thứ 3 để có thời gian làm kinh tế, chăm sóc con cái học tập tốt, xây dựng gia
đình no ấm, hạnh phúc. Nên công tác DS-KHHGĐ đã đạt được kết quả đáng khích
lệ, luôn hoàn thành đạt và vượt chỉ tiêu về tỷ suất sinh, tỷ lệ sinh con thứ 3, tỷ suất
tăng dân số tự nhiên luôn giảm trong nhiều năm, tỷ lệ các cặp vợ chồng sử dụng các
biện pháp tránh thai (BPTT) đều đạt ở mức cao, tỷ số giới tính khi sinh (GTKS) đã
giảm dần qua các năm…
Tuy nhiên, tình hình dân số đang có diễn biến không bình thường, nhiều bất
cập diễn ra giữa lý thuyết và thực tiễn trước sự biến đổi KT-XH tác động đến từng
gia đình, từng con người, nhất là đối với dân số trẻ đang trong độ tuổi sinh đẻ.
Những bất cập đang gây ra những khó khăn cho hoạt động dân số nói chung và đội
ngũ cán bộ làm công tác dân số nói riêng trong cả nước và huyện Gia Bình. Hiện tại
tỷ suất sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3 vẫn còn ở mức cao so với mặt bằng chung của
tỉnh và cả nước (năm 2014 tỷ suất sinh là 17‰, tỷ lệ sinh con thứ 3 là 16,9%), tỷ số
2
GTKS cao ở mức 117 bé trai/100 bé gái ..., nguy cơ tăng dân số có thể sẽ xảy ra
(Trung tâm DS-KHHGĐ huyện Gia Bình, 2014). Chất lượng công tác DS-KHHGĐ
chưa được đảm bảo, nguồn kinh phí đầu tư cho công tác DS-KHHGĐ còn eo hẹp.
Vấn đề đặt ra đối với công tác DS-KHHGĐ của huyện Gia Bình đó là: Muốn thực
hiện tốt công tác DS-KHHGĐ, trước hết phải nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
DS-KHHGĐ trên địa bàn huyện Gia Bình. Do vậy phải đánh giá được thực trạng và
nguyên nhân của thực trạng chất lượng cán bộ DS-KHHGĐ hiện nay? Giải pháp
nào để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ DS-KHHGĐ trên địa bàn huyện trong
thời gian tới? Có những kiến nghị, đề xuất gì để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
DS-KHHGĐ nói chung, cán bộ DS-KHHGĐ của huyện nói riêng?
Qua thực tiễn trực tiếp làm công tác DS-KHHGĐ tại huyện, tuy kinh nghiệm
trong lĩnh vực này chưa được nhiều, song với mong muốn đóng góp một phần nhỏ
của mình vào việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ DS-KHHGĐ, để từ đó nâng
cao chất lượng công tác DS-KHHGĐ trên địa bàn huyện. Đồng thời trả lời hàng loạt
các câu hỏi nêu trên, góp phần hạn chế mức sinh, giảm áp lực gia tăng dân số, giảm
dần tiến tới cân bằng tỷ số GTKS, nâng cao chất lượng dịch vụ KHHGĐ. Vì vậy,
Tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Dân số - kế
hoạch hóa gia đình trên địa bàn huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh”, nhằm góp phần
quan trọng trong việc thực hiện chính sách DS-KHHGĐ, phát triển KT-XH, an ninh
quốc phòng và nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân trong huyện.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ DS-KHHGĐ
trên địa bàn huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh trong những năm qua, đề xuất một số
giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ DS-KHHGĐ của huyện trong thời
gian tới.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về chất lượng cán bộ DS-KHHGĐ.
- Đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ DS-KHHGĐ trên địa bàn
nghiên cứu.
3
- Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đội ngũ cán bộ DS-KHHGĐ
trên địa bàn huyện Gia Bình.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ DS-KHHGĐ
trên địa bàn huyện Gia Bình đến năm 2020.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn về
chất lượng đội ngũ cán bộ DS-KHHGĐ.
- Đối tượng điều tra: Cán bộ, viên chức dân số thuộc biên chế nhà nước, đội
ngũ CTV DS-KHHGĐ thôn và người dân thuộc địa bàn nghiên cứu.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
+ Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu và đánh giá chất lượng đội ngũ
cán bộ DS-KHHGĐ (bao gồm cả đội ngũ cán bộ, viên chức và CTV DS-KHHGĐ);
những yếu tố tác động đến chất lượng đội ngũ cán bộ DS-KHHGĐ và một số giải
pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ DS-KHHGĐ trên địa bàn huyện Gia Bình.
+ Về không gian: Đề tài tiến hành nghiên cứu trên địa bàn huyện Gia Bình,
tỉnh Bắc Ninh.
+ Về thời gian: Số liệu được thu thập từ năm 2012 đến 2014. Đề tài được
thực hiện từ tháng 10 năm 2014 đến tháng 10 năm 2015. Đề xuất một số giải pháp
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ DS-KHHGĐ giai đoạn 2015 - 2020.
1.4 Câu hỏi nghiên cứu
Cơ sở lý luận và thực tiễn về chất lượng cán bộ DS-KHHGĐ là gì?
Thực trạng chất lượng cán bộ DS-KHHGĐ hiện nay ra sao? Yếu tố nào ảnh
hưởng tới chất lượng cán bộ DS-KHHGĐ?
Những giải pháp được khuyến cáo áp dụng trong thời gian tới?
4
PHẦN II
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Các khái niệm
2.1.1.1 Khái niệm về DS-KHHGĐ
a) Khái niệm dân số
Dân số là vấn đề gắn bó mật thiết với mọi mặt của đời sống KT-XH. Nói đến
dân số là nói đến mối quan hệ chặt chẽ giữa người với người hay mối quan hệ giữa
các cộng đồng người ở cấp độ vĩ mô: vùng, miền, lãnh thổ, dân tộc. Bởi vì dân số
có thể coi là lượng dân cư của cả trái đất, hay một phần của nó, của một quốc gia
hay một vùng địa lý.
Khái niệm dân số được hiểu theo nhiều cách khác nhau:
+ Dân số theo nghĩa thông thường là số lượng dân số trên một vùng lãnh thổ,
một địa phương nhất định.
+ Dân số theo nghĩa rộng được hiểu là một tập hợp người. Tập hợp này không
chỉ là số lượng mà cả cơ cấu và chất lượng (Tổng cục DS-KHHGĐ, 2011a).
+ Theo Pháp lệnh dân số năm 2003 thì "Dân số là tập hợp người sinh sống
trong một quốc gia, khu vực, vùng địa lý kinh tế hoặc một đơn vị hành chính”.
Dân số bao gồm 4 yếu tố cơ bản sau: Quy mô dân số, cơ cấu dân số, phân bố
dân cư và chất lượng dân số.
Quy mô dân số là số người sống trong một quốc gia, khu vực, vùng địa lý
kinh tế nhất định, hoặc đơn vị hành chính tại thời điểm nhất định.
Cơ cấu dân số là sự phân chia tổng số dân thành các bộ phận theo một số tiêu
chí nhất định: Giới tính, độ tuổi, dân tộc, trình độ học vấn, nghề nghiệp, tình trạng
hôn nhân và các đặc trưng khác.
Phân bố dân cư là sự phân chia tổng số dân theo khu vực, vùng địa lí hoặc
đơn vị hành chính.
Chất lượng dân số là sự phản ánh các đặc trưng về thể chất, trí tuệ và tinh
thần của toàn bộ dân số.
5
Như vậy, dân số là khái niệm chỉ tập hợp người sinh sống trong một khu vực
địa lí hoặc một không gian xác định, có qui mô, cơ cấu, chất lượng xác định. Sự
biến động của dân số thông qua tỷ lệ sinh, tỷ lệ chết và di cư. Dân số của một quốc
gia, hay một vùng được đo thông qua các cuộc điều tra dân số.
Chất lượng dân số phản ánh các đặc trưng về thể chất, trí tuệ, tinh thần và
đạo đức của một cộng đồng dân cư; do vậy, việc nâng cao chất lượng dân số trước
hết phụ thuộc vào việc nâng cao chất lượng sống của từng người, từng gia đình và
toàn xã hội được thể hiện qua việc thực hiện các mục tiêu, chính sách chăm sóc và
bảo vệ sức khỏe nhân dân; lao động việc làm; giáo dục - đào tạo; khoa học - kỹ
thuật và các nội dung phát triển KT-XH nói chung.
Có nhiều chỉ báo đo lường chất lượng dân số và thường được phân thành các
nhóm chỉ báo chính liên quan đến sự phát triển về sức khỏe, trí tuệ, tinh thần và đạo
đức của dân số (Tổng cục DS-KHHGĐ, 2013).
b) Kế hoạch hoá gia đình
Kế hoạch là điều đặt ra với các mục tiêu và cách thức thực hiện nhằm đạt
được trong thời gian tới.
Kế hoạch hóa là hướng mọi hoạt động của cả hệ thống vào các mục tiêu, để
tạo khả năng đạt được mục tiêu một cách hiệu quả và kiểm soát được quá trình tiến
hành nhiệm vụ.
KHHGĐ là nỗ lực của Nhà nước, xã hội để mỗi cá nhân, cặp vợ chồng chủ
động, tự nguyện quyết định số con, thời gian sinh con và khoảng cách giữa các lần sinh
nhằm bảo vệ sức khoẻ, nuôi dạy con có trách nhiệm, phù hợp với chuẩn mực xã hội và
điều kiện sống của gia đình (Quốc hội, 2003).
Như vậy, có thể hiểu KHHGĐ trong công tác dân số là việc chủ động quyết
định số con của các cặp vợ chồng và khoảng cách giữa các lần sinh thông qua việc
áp dụng các BPTT để có gia đình ít con, khỏe mạnh, giàu có, hạnh phúc. KHHGĐ là
nhằm đảm bảo cho việc nuôi dạy con cái tốt hơn và đảm bảo sức khỏe của người
phụ nữ. Nếu không thực hiện KHHGĐ thì mỗi năm người phụ nữ có chồng đều
phải sinh con. Sinh nhiều con thì sức khỏe của người phụ nữ bị ảnh hưởng, giảm sút
và không còn nhiều thời gian để tham gia lao động, tăng gia sản xuất, làm kinh tế,
6
như vậy sẽ làm cho đời sống kinh tế gia đình gặp nhiều khó khăn hơn; đồng thời trẻ
em khi sinh ra không được chăm sóc đầy đủ và toàn diện.
Có nhiều biện pháp để thực hiện KHHGĐ như đặt vòng, uống thuốc tránh
thai, thuốc tiêm tránh thai, thuốc cấy tránh thai, đình sản và sử dụng bao cao su.
Trong đó bao cao su được sử dụng như là một công cụ vừa để ngừa thai, vừa để
ngăn ngừa các bệnh lây qua đường tình dục nhất là HIV/AIDS, gồm có bao cao su
cho người nam và bao cao su cho người nữ (Tổng cục DS-KHHGĐ, 2013).
c) Công tác DS-KHHGĐ
Công tác dân số là việc quản lý và tổ chức thực hiện các hoạt động tác động
đến quy mô dân số, cơ cấu dân số, phân bố dân cư và nâng cao chất lượng dân số.
Công tác KHHGĐ là biện pháp chủ yếu để điều chỉnh mức sinh góp phần
bảo đảm cuộc sống no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. Các biện pháp thực hiện
KHHGĐ bao gồm:
+ Tuyên truyền, tư vấn, giúp đỡ, bảo đảm để mỗi cá nhân, cặp vợ chồng chủ
động, tự nguyện thực hiện KHHGĐ;
+ Cung cấp các dịch vụ KHHGĐ bảo đảm chất lượng, thuận tiện, an toàn và
đến tận người dân;
+ Khuyến khích lợi ích vật chất và tinh thần, thực hiện các chính sách bảo
hiểm để tạo động lực thúc đẩy việc thực hiện KHHGĐ sâu rộng trong nhân dân
(Quốc hội, 2003).
Công tác DS-KHHGĐ không phải là công tác nghiệp vụ kỹ thuật đơn thuần,
mà là công tác mang tính xã hội cao. Nhiệm vụ cơ bản của công tác này là cung cấp
thông tin, kiến thức cho người dân, làm chuyển biến thái độ từ tiêu cực đến tích cực
và cuối cùng là họ chuyển đổi hành vi, thực hiện KHHGĐ. Đây là một quá trình
phức tạp, lâu dài bởi vì quá trình này diễn ra ở từng gia đình, từng người sống trong
cộng đồng làng, xã và chịu ảnh hưởng trực tiếp của cộng đồng ấy về mọi mặt kinh
tế, văn hoá, tâm lý truyền thống. Mặt khác, thực hiện KHHGĐ là sự tự nguyện của
mỗi người dân và do đó phải tiến hành đồng bộ các hoạt động tuyên truyền ở mọi
thời gian, mọi địa điểm và trong mọi hoạt động thích hợp một cách liên tục, thường
xuyên (Tổng cục DS-KHHGĐ, 2013).
7
2.1.1.2 Khái niệm về cán bộ DS-KHHGĐ
a) Khái niệm cán bộ
Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ,
chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ chức chính
trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, ở huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước.
Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường
xuyên, được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn, được xếp ngạch
vào một ngạch cấp về chuyên môn nghiệp vụ, có chức danh, tiêu chuẩn riêng và
hưởng lương từ ngân sách Nhà nước (Quốc hội, 2008).
Đội ngũ cán bộ là mạng lưới những người được cơ quan nhà nước tuyển
dụng, được giao nhiệm vụ chuyên trách một lĩnh vực chuyên ngành trong hệ thống
ban, ngành từ trung ương đến địa phương có tiêu chuẩn và chức danh theo ngạch
bậc và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước.
b) Cán bộ DS-KHHGĐ
Cán bộ DS-KHHGĐ được hiểu là những người được cơ quan nhà nước tuyển
dụng, được giao nhiệm vụ quản lý và tổ chức thực hiện các hoạt động tác động đến
quy mô dân số, cơ cấu dân số, phân bố dân cư, nâng cao chất lượng dân số và thực
hiện các biện pháp chủ yếu để điều chỉnh mức sinh góp phần bảo đảm cuộc sống no
ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.
Cán bộ DS-KHHGĐ cấp huyện: Theo Luật Viên chức năm 2010 của Quốc
hội thì Viên chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm
việc tại đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ
quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.
Mặt khác, theo Thông tư số 05/2008/TT-BYT của Bộ Y tế qui định: Trung tâm
DS-KHHGĐ huyện là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Chi cục DS-KHHGĐ đặt tại huyện,
có chức năng triển khai thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn kỹ thuật, truyền thông
giáo dục về DS-KHHGĐ trên địa bàn huyện. Trung tâm DS-KHHGĐ huyện chịu sự
quản lý toàn diện của Chi cục DS-KHHGĐ, đồng thời chịu sự chỉ đạo về chuyên môn,
kỹ thuật về dịch vụ KHHGĐ, truyền thông giáo dục của các Trung tâm liên quan ở cấp
tỉnh và chịu sự quản lý nhà nước theo địa bàn của UBND huyện.
8
Do vậy cán bộ DS-KHHGĐ huyện là Viên chức, được tuyển dụng theo vị trí
việc làm, làm việc tại Trung tâm DS-KHHGĐ huyện theo chế độ hợp đồng làm việc,
hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị theo quy định của pháp luật (Bộ Y tế, 2008).
Viên chức Dân số có các ngạch chức danh: Dân số viên chính, mã số: 16.304;
Dân số viên, mã số: 16.305; Dân số viên cao đẳng, mã số: 16.306; Dân số viên trung
cấp, mã số: 16.307; Dân số viên sơ cấp, mã số: 16.308 (Bộ Nội vụ, 2011).
Cán bộ DS-KHHGĐ cấp huyện có nhiệm vụ triển khai, thực hiện công việc của
Trung tâm DS-KHHGĐ huyện theo sự phân công của Giám đốc và theo đề án vị trí
việc làm của Trung tâm đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, các nhiệm vụ gồm:
+ Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn, kỹ
thuật về DS-KHHGĐ và truyền thông giáo dục về DS-KHHGĐ trên cơ sở kế hoạch
của Chi cục DS-KHHGĐ thuộc Sở Y tế và tình hình thực tế trên địa bàn huyện,
trình cấp có thẩm quyền phê duyệt;
+ Triển khai, phối hợp thực hiện các hoạt động chuyên môn, kỹ thuật, cung
cấp dịch vụ về DS-KHHGĐ theo phân cấp và theo quy định của pháp luật;
+ Triển khai, phối hợp thực hiện các hoạt động truyền thông, giáo dục, vận
động, phổ biến các sản phẩm truyền thông về DS-KHHGĐ theo phân cấp và theo
quy định của pháp luật;
+ Hướng dẫn, kiểm tra và giám sát chuyên môn các hoạt động về DSKHHGĐ của Trạm Y tế xã và CTV DS-KHHGĐ thôn;
+ Quản lý và triển khai thực hiện các dự án thuộc CTMT Quốc gia về DSKHHGĐ, các dự án khác được Chi cục DS-KHHGĐ phân công;
+ Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ đối với
cán bộ chuyên trách DS-KHHGĐ xã và CTV DS-KHHGĐ thôn;
+ Tham gia nghiên cứu khoa học, ứng dụng kết quả nghiên cứu và tiến bộ
khoa học, kỹ thuật về lĩnh vực DS-KHHGĐ/SKSS;
+ Quản lý cán bộ, viên chức, chế độ chính sách, khen thưởng, kỷ luật đối với
cán bộ, viên chức và quản lý tài chính, tài sản của Trung tâm theo quy định của
pháp luật; quản lý cán bộ chuyên trách DS-KHHGĐ xã và CTV DS-KHHGĐ thôn;
+ Thực hiện các chế độ thống kê, báo cáo theo quy định hiện hành;
9
+ Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác do Chi cục trưởng Chi cục DSKHHGĐ và UBND huyện giao (Bộ Y tế, 2008).
Cán bộ chuyên trách DS-KHHGĐ xã: Là viên chức của Trạm Y tế xã, chịu
sự chỉ đạo trực tiếp của Trưởng trạm Y tế xã, chịu sự quản lý, chỉ đạo, hướng dẫn
về chuyên môn nghiệp vụ của Trung tâm DS-KHHGĐ huyện. Cán bộ chuyên trách
DS-KHHGĐ xã có trách nhiệm giúp việc cho Trưởng trạm Y tế xã xây dựng kế
hoạch và tổ chức thực hiện CTMT DS-KHHGĐ trên địa bàn xã.
Cán bộ chuyên trách DS-KHHGĐ xã có tiêu chuẩn như sau:
+ Có trách nhiệm, nhiệt tình với công tác DS-KHHGĐ;
+ Trình độ: Cán bộ chuyên trách DS-KHHGĐ được đào tạo chuyên môn ít
nhất là trung cấp song không nhất thiết là chuyên môn y tế; đối với vùng sâu, vùng
xa, miền núi, hải đảo, vùng khó khăn, nếu chưa có trình độ trung cấp về nghiệp vụ
thì ít nhất phải tốt nghiệp phổ thông trung học;
+ Cư trú tại địa bàn xã;
+ Có sức khoẻ tốt; gương mẫu thực hiện KHHGĐ;
+ Đã tham gia các lớp đào tạo, tập huấn về DS-KHHGĐ.
Nhiệm vụ của cán bộ chuyên trách DS-KHHGĐ xã:
+ Xây dựng kế hoạch công tác năm, chương trình công tác quý, tháng, tuần về
DS-KHHGĐ. Sau khi kế hoạch được Trưởng Trạm Y tế xã trình cấp có thẩm quyền
phê duyệt, cán bộ DS-KHHGĐ có trách nhiệm tham mưu, phối hợp với các ngành,
đoàn thể tổ chức thực hiện nhiệm vụ, giám sát hoạt động của CTV DS-KHHGĐ thôn,
các ngành, đoàn thể theo đúng nhiệm vụ được phân công;
+ Hướng dẫn CTV DS-KHHGĐ thôn lập chương trình công tác tuần, tháng;
thực hiện chế độ ghi chép ban đầu về DS-KHHGĐ, thu thập số liệu về DSKHHGĐ, lập báo cáo tháng, lập các sơ đồ và biểu đồ quản lý các chỉ tiêu DSKHHGĐ của xã; phương pháp tuyên truyền, vận động, tư vấn; cung cấp bao cao su,
thuốc uống tránh thai;
+ Kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ của CTV DS-KHHGĐ thôn;
giúp Trưởng trạm Y tế xã tham mưu cho UBND cấp xã kiểm tra, giám sát việc thực
hiện công tác DS-KHHGĐ trên địa bàn xã;
+ Tổ chức giao ban CTV DS-KHHGĐ thôn hàng tháng để đánh giá kết quả
10
hoạt động về DS-KHHGĐ của từng thôn. Kịp thời giải quyết hoặc xin ý kiến cấp có
thẩm quyền để giải quyết những vấn đề phát sinh. Dự giao ban cán bộ chuyên trách
tại cấp huyện hàng tháng;
+ Tham dự đầy đủ các khoá đào tạo, tập huấn về DS-KHHGĐ do cơ quan
cấp trên tổ chức;
+ Đề xuất với cấp trên vấn đề cần thực hiện về DS-KHHGĐ (Bộ Y tế, 2008).
CTV DS-KHHGĐ thôn: CTV DS-KHHGĐ thôn hoạt động theo chế độ tự
nguyện, có thù lao hàng tháng, chịu sự hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ của
Trạm y tế xã. Có trách nhiệm cùng cán bộ y tế thôn tuyên truyền, vận động về DSKHHGĐ, vệ sinh phòng bệnh, chăm sóc sức khỏe ban đầu.
CTV DS-KHHGĐ thôn có nhiệm vụ:
+ Xây dựng chương trình công tác tháng, tuần về DS-KHHGĐ; phối hợp với
các tổ chức triển khai các hoạt động quản lý và vận động tới từng hộ gia đình;
+ Trực tiếp tuyên truyền, vận động, tư vấn về DS-KHHGĐ và cung cấp bao
cao su, thuốc uống tránh thai đến từng hộ gia đình;
+ Kiểm tra việc duy trì thực hiện các nội dung DS-KHHGĐ của các hộ gia
đình tại địa bàn quản lý;
+ Thực hiện chế độ ghi chép ban đầu, thu thập số liệu, lập báo cáo tháng về
DS-KHHGĐ theo quy định hiện hành; lập các sơ đồ và biểu đồ, quản lý sổ hộ gia
đình về DS-KHHGĐ tại địa bàn quản lý;
+ Bảo quản và sử dụng các tài liệu (sổ sách, biểu mẫu báo cáo…) liên quan
đến nhiệm vụ được giao;
+ Dự giao ban CTV DS-KHHGĐ thôn hàng tháng để phản ảnh tình hình và
báo cáo kết quả hoạt động DS-KHHGĐ của địa bàn quản lý. Giải quyết hoặc xin ý
kiến cán bộ chuyên trách DS-KHHGĐ xã để giải quyết những vấn đề phát sinh;
+ Tham dự đầy đủ các khóa tập huấn do cơ quan cấp trên tổ chức;
+ Phát hiện và đề xuất với cán bộ chuyên trách DS-KHHGĐ xã các vấn đề
cần thực hiện về DS-KHHGĐ tại địa bàn quản lý;
CTV DS-KHHGĐ thôn do cán bộ chuyên trách DS-KHHGĐ xã phối hợp với
Trưởng thôn vận động và tuyển chọn. CTV DS-KHHGĐ thôn có tiêu chuẩn như sau:
+ Là người có tinh thần trách nhiệm, nhiệt tình tham gia công tác DS-
11
KHHGĐ, có uy tín trong cộng đồng;
+ Là cán bộ thôn, xã, công chức về hưu hoặc là người dân có trình độ văn
hoá tốt nghiệp THPT; đối với vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo, vùng khó khăn
nếu chưa tốt nghiệp THPT thì ít nhất phải tốt nghiệp THCS;
+ Đã tham gia các lớp tập huấn về DS-KHHGĐ;
+ Cư trú tại thôn;
+ Có sức khoẻ tốt; gương mẫu thực hiện KHHGĐ;
+ Có trách nhiệm cùng cán bộ Y tế thôn tuyên truyền, vận động về DSKHHGĐ, vệ sinh phòng bệnh, chăm sóc sức khỏe ban đầu (Bộ Y tế, 2008).
Trong đề tài thực hiện nghiên cứu chất lượng đội ngũ cán bộ DS-KHHGĐ
trên tại huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh gồm: Viên chức DS-KHHGĐ cấp huyện,
cấp xã và CTV DS-KHHGĐ thôn. Xong trong quá trình nghiên cứu, có phần tác giả
xin được gọi chung là cán bộ DS-KHHGĐ.
2.1.2 Vai trò, yêu cầu của dân số trong phát triển kinh tế
Dân số vừa là lực lượng sản xuất, vừa là lực lượng tiêu dùng. Vì vậy, quy
mô, cơ cấu và sự gia tăng của dân số liên quan mật thiết tới nền kinh tế và sự phát
triển của mỗi quốc gia, là một trong những vấn đề tác động trực tiếp đến nền KTXH, là yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. Chính vì
vậy, dân số vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển.
Yếu tố cơ bản của tăng trưởng và phát triển KT-XH là nguồn nhân lực, mà
nguồn nhân lực luôn luôn gắn liền sự biến đổi dân số về số lượng và chất lượng.
Mục tiêu của sự phát triển là nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống và đáp ứng nhu
cầu ngày càng cao của con người. Mục tiêu đó chỉ có thể đạt được khi quy mô dân
số, tốc độ tăng trưởng dân số, sự phân bố dân cư và nguồn nhân lực thật sự phù hợp,
có tác động tích cực đến sự phát triển (Lê Cảnh Nhạc, 2013).
Ðể có sự phát triển bền vững, việc đáp ứng tăng nhu cầu và nâng cao chất
lượng cuộc sống của các thế hệ hiện tại, không làm ảnh hưởng đến các thế hệ tương
lai trên cơ sở sử dụng tài nguyên thiên nhiên, môi trường sinh thái. Trong thực tế,
các yếu tố dân số có ảnh hưởng rất lớn đến tài nguyên thiên nhiên và trạng thái môi
trường. Dân số phù hợp sự phát triển đòi hỏi sự điều chỉnh các xu hướng dân số phù
12
hợp sự phát triển nền KT-XH của đất nước.
Sự phù hợp đó là yếu tố quan trọng kích thích sự phát triển nhanh và bền
vững, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nâng cao tiềm lực của
lực lượng sản xuất, là yếu tố cơ bản để xóa đói, giảm nghèo, giảm tình trạng thất
nghiệp, giảm tỷ lệ mù chữ, tỷ lệ suy dinh dưỡng, nâng cao trình độ học vấn, nâng
cao vị thế của người phụ nữ, giảm rủi ro về môi trường, mở rộng dịch vụ y tế, xã
hội và huy động nguồn lực đầu tư cho phát triển sản xuất, kinh doanh, khoa học và
công nghệ, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh (Lê Cảnh Nhạc, 2013).
Dân số và phát triển có mối quan hệ tác động qua lại rất chặt chẽ. Quy mô,
cơ cấu, chất lượng và tốc độ gia tăng dân số có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình phát
triển KT-XH và ngược lại. Phát triển KT-XH có tác động trực tiếp đến mức sinh,
mức chết, đến phân bố dân cư và chất lượng dân số.
Mặt khác, dân số là cơ sở hình thành các nguồn lao động. Quy mô dân số
lớn, cơ cấu dân số hợp lý, chất lượng dân số cao, sẽ tạo điều kiện phát triển nguồn
nhân lực cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu.
Muốn tăng trưởng kinh tế thì yếu tố đầu tiên phải là con người, nguồn nhân lực,
mà nguồn nhân lực lại gắn liền với tình hình biến đổi dân số. Mặt khác, mục đích cuối
cùng của chiến lược phát triển KT-XH là việc nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi
người dân. Mục tiêu đó chỉ có thể đạt được với một quy mô, tốc độ tăng trưởng, sự
phân bố dân cư và nguồn nhân lực phù hợp với nền KT-XH của mỗi quốc gia.
GDP bình quân đầu người phụ thuộc vào tổng sản phẩm quốc nội và số dân.
Sự gia tăng dân số quá nhanh có tác động rất mạnh đến chỉ tiêu này theo hướng tiêu
cực. Để GDP bình quân đầu người ngày càng tăng thì tỷ lệ tăng GDP phải cao hơn
tỷ lệ tăng dân số. Để đạt mục tiêu tăng tỷ lệ GDP bình quân đầu người, việc giảm tỷ
lệ tăng dân số 1% cũng có giá trị như làm tăng GDP lên 1% (Nguyễn Đình Cử và
Lưu Bích Ngọc, 2012).
Mặt khác, nếu chỉ nâng cao tổng sản lượng lương thực mà không chú ý đến
giảm tốc độ tăng dân số thì khó có thể nâng cao bình quân lương thực đầu người.
Dân số tăng nhanh là áp lực lớn về lương thực, thực phẩm và là nguyên nhân chủ
yếu của tình trạng đói nghèo, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và tàn phá môi trường.
13
Ở nước ta, mối quan hệ giữa gia tăng dân số và tăng trưởng kinh tế cũng không
nằm ngoài quy luật trên. Rõ ràng, nếu không có các biện pháp hữu hiệu để giảm nhanh
tốc độ gia tăng dân số và đầu tư phát triển kinh tế mạnh hơn vào những vùng nghèo thì
sự chênh lệch về khoảng cách giàu nghèo ở nước ta sẽ ngày càng lớn.
Trên đây là những tác động của dân số đến phát triển kinh tế. Nhận rõ tác
động to lớn này, cần đẩy mạnh nghiên cứu trong lĩnh vực xây dựng và thực hiện
chính sách dân số nhằm sớm hạ thấp mức sinh, ổn định quy mô dân số, phân bố dân
cư hợp lý và nâng cao chất lượng dân số nhằm phát triển bền vững đất nước.
2.1.3 Các chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước ta đối với công tác DSKHHGĐ
Giai đoạn 1961 - 1975:
Trong giai đoạn này, đất nước tạm bị chia cắt, hoà bình được tái lập ở
miền bắc, hiện tượng tăng bù dân số sau chiến tranh đã xuất hiện. Chính sách
DS-KHHGĐ giai đoạn này là cuộc vận động “hướng dẫn sinh đẻ” và sau đó là
“sinh đẻ có kế hoạch”, được triển khai ở miền bắc. Thông qua các chính sách
DS-KHHGĐ gồm: Quyết định số 216/CP ngày 26/12/1961 của Hội đồng Chính
phủ về việc sinh đẻ có hướng dẫn; Chỉ thị số 99/TTg ngày 16/10/1963 của Hội
đồng Chính phủ về công tác hướng dẫn sinh đẻ; Quyết định số 94/CP ngày
13/5/1970 của Hội đồng Chính phủ về cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch.
Mục tiêu của cuộc vận động là hướng tới quy mô gia đình 3 con, đẻ thưa, đẻ
muộn nhằm bảo vệ sức khỏe bà mẹ, nuôi dạy con cái được chu đáo, bảo đảm hạnh
phúc và sự hòa thuận của gia đình (Trường Cao đẳng Y tế Hà Đông, 2011).
Giai đoạn 1975 - 1991:
Sau ngày thống nhất đất nước, số dân cả nước đã tăng gần gấp đôi. Chính
sách DS-KHHGĐ triển khai thông qua Chỉ thị số 265/CP ngày 19/10/1978 của
Hội đồng Chính phủ về đẩy mạnh cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch trong phạm
vi cả nước; Chỉ thị số 29/HĐBT ngày 12/8/1981 của HĐBT về đẩy mạnh cuộc vận
động sinh đẻ có kế hoạch trong 5 năm (1981 - 1985); Quyết định số 58-HĐBT ngày
11/4/1984 của Hội đồng Bộ trưởng về việc thành lập Uỷ ban quốc gia Dân số và
Sinh đẻ có kế hoạch; Quyết định số 162-HĐBT ngày 18/10/1988 của Hội đồng
Bộ trưởng về một số chính sách DS-KHHGĐ
14
Giai đoạn 1991 - 2000:
Năm 1991 đánh dấu lớn của đất nước, lần đầu tiên Việt Nam có Nghị quyết
chuyên đề của Đảng về chính sách DS-KHHGĐ. Thông qua Quyết định số 315-CT
ngày 24/8/1992 của Thủ tướng Chính phủ về Chiến lược truyền thông DSKHHGĐ; Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư số 04-NQ/HNTW ngày 14/01/1993 của
BCH TƯ Đảng khoá VII về chính sách DS-KHHGĐ; Chỉ thị số 50-CT/TW ngày
6/3/1995 của BBT TƯ Đảng về việc đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 04NQ/HNTW.
Giai đoạn này đánh dấu sự biến đổi cơ bản của công tác DS-KHHGĐ về nội
dung, cách làm, kinh phí và tổ chức bộ máy (Trường Cao đẳng Y tế Hà Đông, 2011).
Giai đoạn 2001 - đến nay:
Khi mức sinh đã tiến gần mức sinh thay thế, tập trung giải quyết toàn diện
vấn đề dân số. Thông qua Quyết định số 147/2000/QĐ - TTg ngày 22/12/2000 của
Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược Dân số Việt Nam giai đoạn
2001 - 2010; Pháp lệnh Dân số số 06/2003/PL - UBTVQH11 ngày 9/1/2003 của
UBTVQH; Nghị quyết số 47 - NQ/TW ngày 22/3/2005 của BCT về tiếp tục đẩy
mạnh thực hiện chính sách DS-KHHGĐ; Quy định số 94 - QĐ/TW ngày
15/10/2007 của BCH TƯ về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm; Chỉ thị số
23/2008/CT - TTg ngày 4/8/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục đẩy
mạnh công tác DS-KHHGĐ; Pháp lệnh số 08/2008/UBTVQH12 của UBTV Quốc
hội về sửa đổi Điều 10 của Pháp lệnh Dân số; Nghị định số 20/2010/NĐ - CP ngày
8/3/2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh sửa đổi Điều 10 của
Pháp lệnh Dân số.
Mục tiêu là “Thực hiện gia đình ít con, khoẻ mạnh, tiến tới ổn định quy mô
dân số ở mức hợp lý để có cuộc sống ấm no, hạnh phúc; nâng cao chất lượng dân
số, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao...”.
Năm 2011 Quốc hội thông qua CTMT Quốc gia DS-KHHGĐ giai đoạn 2012
- 2015; Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2013/QĐ-TTg ngày
14/11/2011 phê duyệt Chiến lược Dân số và SKSS Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020;
Đề án can thiệp giảm thiểu tình trạng mất cân bằng GTKS giai đoạn 2011 - 2020 đã
được trình Chính phủ,... (Trường Cao đẳng Y tế Hà Đông, 2011).
15
2.1.3.1 Mục tiêu của công tác DS-KHHGĐ
Công tác quản lý dân số thực chất là điều tiết mức sinh thông qua các hoạt
động chương trình KHHGĐ để tạo ra quy mô, cơ cấu dân số ổn định phù hợp với
điều kiện địa lý, KT-XH của mỗi quốc gia; là cơ sở quan trọng nâng cao chất lượng
dân số và nguồn nhân lực có chất lượng cao phục vụ nhu cầu phát triển của đất
nước. Đồng thời thực hiện tốt công tác DS-KHHGĐ còn là cơ sở thực hiện các
chính sách xã hội như thực hiện công bằng xã hội, giải quyết các tệ nạn xã hội, ô
nhiễm môi trường, giảm chi phí do hạn chế được mức sinh, tăng tích luỹ cho xã hội,
là nguồn lực đáng kể để đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế, tăng thu nhập cho
dân cư (Tổng cục DS-KHHGĐ, 2011b).
Vì vậy làm tốt công tác DS-KHHGĐ, thực hiện gia đình ít con, giảm nhanh tỷ
lệ phát triển dân số, tiến tới ổn định quy mô dân số là vấn đề rất quan trọng đối với
nước ta. Đảng và Nhà nước ta đã thể hiện rõ những quan điểm chỉ đạo tại Nghị
quyết Hội nghị lần thứ tư, BCH TƯ Đảng (khoá VII): “Công tác DS-KHHGĐ là bộ
phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước, là một trong những vấn đề KTXH hàng đầu của nước ta, là yếu tố cơ bản để nâng cao nâng cao chất lượng cuộc
sống của từng người, từng gia đình và toàn xã hội”.
Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm đến việc hoạch định và thực thi chính
sách dân số quốc gia, nhằm làm giảm mức sinh, mức chết, nâng cao chất lượng dân
số và phân bố dân cư hợp lý. Chính sách dân số hướng tới giảm mức sinh ở nước ta
được đánh dấu bằng Quyết định 216/CP, ngày 26/12/1961 của Hội đồng Chính phủ.
Tại Quyết định này Chính phủ đã sớm thấy được tầm quan trọng của việc kiểm soát
mức sinh và có tầm nhìn chiến lược đối với công tác DS-KHHGĐ, khi xác định mục
tiêu của sinh đẻ có hướng dẫn không chỉ đơn thuần là để hạn chế quy mô dân số, mà
mục đích quan trọng của nó là: "Vì sức khoẻ của người mẹ, vì hạnh phúc và sự hoà
thuận của gia đình, để cho việc nuôi dạy con cái được tốt...”.
Tiếp đó, đến năm 1993 Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư BCH TƯ Đảng (khoá
VII) cũng đã nhận định: "Sự gia tăng dân số quá nhanh là một trong những nguyên
nhân quan trọng cản trở tốc độ phát triển KT-XH, gây khó khăn lớn cho việc cải thiện
đời sống, hạn chế điều kiện phát triển về mặt trí tuệ, văn hoá và thể lực của nòi giống.
16
Nếu xu thế này cứ tiếp tục diễn ra thì trong tương lai không xa nước ta sẽ đứng trước
những khó khăn rất lớn, thậm chí những nguy cơ về nhiều mặt”.. Nghị quyết đã nêu
lên quan điểm về mối quan hệ giữa dân số và phát triển, vị trí của công tác dân số và
KHHGĐ: "Công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình là một bộ phận quan trọng của
chiến lược phát triển đất nước, là một trong những vấn đề kinh tế - xã hội hàng đầu
của từng người, từng gia đình và toàn xã hội”.
Tăng trưởng kinh tế suy cho cùng nhằm đạt mục tiêu phát triển, chỉ tiêu này
được thể hiện qua tỷ lệ tăng thu nhập bình quân đầu người (GDP). Tỷ lệ tăng GDP
đầu người phụ thuộc trực tiếp vào tỷ lệ tăng tổng sản phẩm quốc nội và tỷ lệ tăng
dân số, để tăng được GDP bình quân đầu người thì tổng sản phẩm quốc nội phải
tăng nhanh hơn tỷ lệ tăng dân số. Việc hạ thấp tỷ lệ tăng dân số vừa góp phần làm
tăng GDP thông qua việc tăng số lượng và chất lượng lao động và tăng tiết kiệm chi
tiêu dùng để đầu tư phát triển kinh tế, nhưng được thấy rõ hơn là làm tăng GDP
bình quân đầu người (Nguyễn Đình Cử và Lưu Bích Ngọc, 2012).
Pháp lệnh Dân số được UBTVQH ban hành năm 2003 đã quy định Nhà nước
điều chỉnh quy mô dân số phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội, tài nguyên, môi
trường thông qua các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội, chăm sóc sức
khoẻ sinh sản, kế hoạch hoá gia đình để điều chỉnh mức sinh và ổn định quy mô dân
số ở mức hợp lý. Tỷ suất sinh thô từ 19,0‰ năm 2002 giảm xuống 16,9‰ năm
2012. Mức giảm sinh trong 10 năm 2002 - 2012 là 2,1‰, bình quân mỗi năm giảm
0,21‰. Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên từ 21,5% năm 2003, giảm xuống 14,2% năm
2012. Tỷ lệ phát triển dân số từ 1,17% năm 2003, giảm xuống 1,06% năm 2012. Kết
quả này đã góp phần giảm bớt chi ngân sách nhà nước cho dịch vụ phúc lợi xã hội
như giáo dục, y tế, trực tiếp góp phần xoá đói giảm nghèo, nâng cao mức sống cho
những gia đình thực hiện tốt KHHGĐ (Bộ Y tế, 2013).
Việc thực hiện công tác DS-KHHGĐ ở nước ta đã có tác dụng trực tiếp đối
với việc phát triển kinh tế của đất nước, vì giảm được tỷ lệ gia tăng dân số sẽ góp
phần nâng cao mức tăng trưởng kinh tế. Vì vậy phải tiếp tục nâng cao nhận thức
tiến tới chuyển đổi hành vi của mỗi cặp vợ chồng thực hiện KHHGĐ, xây dựng gia
đình ít con (1 hoặc 2 con) khoẻ mạnh, có cuộc sống ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh
17
phúc tạo điều kiện phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao đáp ứng yêu cầu sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước.
2.1.3.2 Tổ chức đội ngũ cán bộ DS-KHHGĐ
Để triển khai thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
về công tác DS-KHHGĐ đến các tầng lớp nhân dân, nhất là các cặp vợ chồng trong
độ tuổi sinh đẻ, phải nói đến sự đóng góp tích cực của đội ngũ cán bộ làm công tác
DS-KHHGĐ ở cơ sở. Mạng lưới này bao gồm cán bộ chuyên trách và CTV DSKHHGĐ có ở toàn bộ các thôn, xã, thị trấn trong huyện. Họ luôn nhiệt tình, tích cực
đi tuyên truyền, vận động, tư vấn trực tiếp về DS-KHHGĐ, cung cấp bao cao su,
thuốc uống tránh thai đến từng hộ gia đình. Kiểm tra việc duy trì thực hiện các nội
dung DS-KHHGĐ của các hộ gia đình. Thực hiện chế độ ghi chép ban đầu, thu thập
số liệu, lập báo cáo tháng về DS-KHHGĐ theo quy định, lập các sơ đồ và biểu đồ,
quản lý sổ hộ gia đình về DS-KHHGĐ tại địa bàn quản lý (Bộ Y tế, 2008).
Từ nghiên cứu thực tế cho thấy, tổ chức đội ngũ cán bộ cơ sở làm công tác
DS-KHHGĐ là một trong những thành tố không thể thiếu trong công tác tuyên
truyền, vận động các tầng lớp nhân dân, nhất là những người trong độ tuổi sinh
đẻ về chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về DSKHHGĐ. Họ là những người có vai trò rất quan trọng, trực tiếp đến tận hộ gia
đình để tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân thực hiện các quy định của
pháp luật về DS-KHHGĐ, tư vấn vận động các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ
các kiến thức, kỹ năng về SKSS/KHHGĐ; đồng thời thống kê sát, đúng tình trạng
dân số (sinh, chết, kết, ly, đi, đến,…), trong từng thời điểm cụ thể (hàng tháng,
hàng quý), giúp chính quyền các cấp hiểu rõ mức độ tăng dân số, thực trạng vấn
đề dân số ở các địa phương.
Trong những năm qua, tổ chức đội ngũ cán bộ làm công tác DS-KHHGĐ cơ
sở đã được cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp quan tâm củng cố. Nghị quyết số 47
của BCT có ghi rõ: "Củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy và cán bộ làm công tác DSKHHGĐ từ trung ương đến cơ sở đủ mạnh để quản lý và tổ chức thực hiện tốt công
tác...”, (Bộ Chính trị, 2003).
Quan điểm của Đảng và Nhà nước là tuyên truyền, giáo dục, vận động để người
18
dân tự nguyện thực hiện KHHGĐ, coi đây là cuộc vận động lớn đối với mọi người dân,
mọi cá nhân, mọi tầng lớp xã hội trên phạm vi cả nước. Để thực hiện được nhiệm vụ
này, tổ chức bộ máy chuyên trách làm công tác về DS-KHHGĐ được hình thành từ
trung ương, tỉnh, huyện đến xã đã giúp cho chính quyền các cấp có những số liệu tin
cậy, cập nhật kịp thời về DS-KHHGĐ, chăm sóc SKSS. Đồng thời thường xuyên đưa
các thông tin tới người dân, vận động họ có thái độ tích cực làm chuyển đổi nhận thức
và hành vi về DS-KHHGĐ. Chương trình dân số không thể đạt được những kết quả
trong những năm qua nếu như không có hoạt động truyền thông trực tiếp tới từng gia
đình của đội ngũ CTV DS-KHHGĐ (BCH TW, 1993).
Từ thực tế nghiên cứu cho thấy, cán bộ DS-KHHGĐ làm tốt công tác truyền
thông, giáo dục tuyên truyền về DS-KHHGĐ, công tác tuyên truyền, vận động về dân
số được đẩy mạnh, triển khai toàn diện, đồng bộ trên các kênh truyền thông, mở rộng
về phạm vi và đối tượng; nâng cao một bước về chất lượng, đổi mới về cách làm đã
có tác dụng nâng cao nhận thức và tạo sự đồng thuận của toàn xã hội về dân số, làm
tăng số người chấp nhận các dịch vụ KHHGĐ. Các chủ trương của Đảng, chính sách
và pháp luật của Nhà nước về dân số được tuyên truyền kịp thời hơn, thường xuyên
đăng tải các thông tin về dân số, nêu gương người tốt, việc tốt, các điển hình tiên tiến
và phê phán yếu kém, các vi phạm về DS-KHHGĐ đã thu hút được sự chú ý và tạo
được dư luận xã hội quan tâm.
Vai trò của đội ngũ CTV DS-KHHGĐ không chỉ cung cấp cho đối tượng
những kiến thức cơ bản, cần thiết về DS-KHHGĐ mà còn theo dõi, giúp đỡ các đối
tượng chuyển đổi hành vi, lựa chọn và áp dụng một BPTT phù hợp, đi khám và
chữa trị các bệnh lây truyền qua đường tình dục, kỹ năng phòng chống HIV/AIDS...
Có thể thấy CTV DS-KHHGĐ thôn là người sinh sống cùng địa bàn thôn, có quan
hệ gần gũi với nhân dân nên có điều kiện để tuyên truyền, vận động trực tiếp, góp
phần quyết định vào việc chuyển đổi hành vi DS-KHHGĐ của các nhóm đối tượng
ở trong cộng đồng.
Như vậy, tổ chức đội ngũ cán bộ làm công tác DS-KHHGĐ ở cơ sở là một
trong những thành tố quyết định sự thành công trong công tác DS-KHHGĐ, là
người đầu tiên ở gần dân nhất giúp cho mọi người và toàn xã hội nhận thức rõ về
19
công tác DS-KHHGĐ, quy mô gia đình có 1 - 2 con được chấp nhận rộng rãi, thực
hiện mục tiêu giảm sinh, tiến tới ổn định quy mô, cơ cấu dân số ở mức hợp lý, nâng
cao chất lượng dân số, góp phần phát triển KT-XH...
2.1.4 Đặc điểm hoạt động của cán bộ DS-KHHGĐ cơ sở
2.1.4.1 Về cơ cấu tổ chức
Ngày 14/5/2008 Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 05/2008/TT-BYT hướng
dẫn chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức bộ máy DS-KHHGĐ ở địa phương.
Theo đó Trung tâm DS-KHHGĐ huyện là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Chi cục DSKHHGĐ đặt tại huyện, có chức năng triển khai thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn
kỹ thuật, truyền thông giáo dục về DS-KHHGĐ trên địa bàn huyện. Biên chế tại
Trung tâm huyện là các Viên chức Dân số làm việc theo Luật Lao động, Luật Viên
chức, quy chế làm việc của đơn vị và các quy định hiện hành đối với Viên chức.
Hình 2.1 Sơ đồ tổ chức bộ máy công tác DS-KHHGĐ các cấp
Nguồn: Tổng cục Dân số, 2009
20