Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng đất của các tổ chức được nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất tại huyện lục ngạn, tỉnh bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (936.8 KB, 85 trang )

MỤC LỤC
Lời cam đoan

ii

Lời cảm ơn

iii

Mục lục

iv

Danh mục viết tắt

vii

Danh mục bảng

viii

Danh mục hình

ix

MỞ ĐẦU

1

1 Sự cần thiết của đề tài


1

2 Mục đích nghiên cứu

2

3 Yêu cầu của đề tài

2

Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU

4

1.1 Cơ sở khoa học của công tác quản lý Nhà Nước về đất đai

4

1.1.1 Cơ sở lý luận

4

1.1.2 Tình hình quản lý đất đai của các tổ chức ở Việt Nam

7

1.1.3 Tình hình sử dụng đất đai của cả nước

12


1.1.4 Đánh giá thực trạng quản lý, sử dụng đất của các tổ chức

17

1.1.5 Khái quát tình hình quản lý và sử dụng đất của các tổ chức trên địa
bàn tỉnh Bắc Giang

22

1.1.6 Tình hình quản lý, sử dụng đất của các tổ chức
1.2 Đánh giá chung về công tác quản lý, sử dụng
Chương 2 NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

25
27
29

2.1 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

29

2.2 Nội dung nghiên cứu

29

2.2.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc
Giang

29


2.2.2 Đánh giá tình hình quản lý, sử dụng đất trên địa bàn huyện Lục Ngạn

iv

29


2.2.3 Đánh giá hiện trạng quản lý, sử dụng đất của các tổ chức được Nhà
nước giao đất, công nhận quyền sử dụng đất trên địa bàn huyện
Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang

29

2.2.4 Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng đất của
các tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền, công nhận
quyền sử dụng đất trên địa bàn huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang
2.3 Phương pháp nghiên cứu

29
30

2.3.1 Phương pháp điều tra thu thập thông tin, tài liệu, số liệu

30

2.3.2 Phương pháp thống kê, so sánh

31

2.3.3 Phương pháp xử lý số liệu sử dụng phần mềm vi tính


31

Chương 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

32

3.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội huyện Lục Ngạn

32

3.1.1 Điều kiện tự nhiên

32

3.1.2 Tình hình phát triển kinh tế - xã hội

37

3.1.3 Đánh giá chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội và môi
trường

42

3.2 Đánh giá tình hình quản lý, sử dụng đất trên địa bàn huyện Lục Ngạn

43

3.2.1 Đánh giá tình hình quản lý đất đai huyện Lục Ngạn


43

3.2.2 Hiện trạng sử dụng đất năm 2014 huyện Lục Ngạn

47

3.3 Đánh giá thực trạng việc quản lý, sử dụng đất của các tổ chức được
giao đất không thu tiền sử dụng đất trên địa bàn huyện Lục Ngạn

48

3.3.1 Hiện trạng sử dụng đất năm 2014 của các tổ chức

48

3.3.2 Giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

53

3.3.3 Mục đích sử dụng đất được giao của các tổ chức

57

3.3.5 Đánh giá chung tình hình quản lý, sử dụng đất của các tổ chức

62

3.3.6 Nguyên nhân

64


3.4 Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng đất
của các tổ chức được giao đất không thu tiền sử dụng đất trên địa
bàn huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang
3.4.1 Giải pháp về chính sách pháp luật
v

65
65


3.4.2 Giải pháp về kinh tế

65

3.4.3 Giải pháp về khoa học công nghệ

66

3.4.4 Giải pháp về tăng cường quản lý, sử dụng đất của các tổ chức
trong thời gian tới

66

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

69

Kết luận


69

Đề nghị

70

TÀI LIỆU THAM KHẢO

71

PHỤ LỤC

71

vi


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
UBND: Ủy ban nhân dân.
GCNQSDĐ: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
HTX: Hợp tác xã.
DTNT: Dân tộc nội trú
THPT: Trung học phổ thông
TTYT: Trung tâm y tế
THCS: Trung học cơ sở

vii


DANH MỤC BẢNG

TT bảng

Tên bảng

Trang

3.1

Hiện trạng sử dụng đất tỉnh Bắc Giang năm 2014

23

3.2

Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất của huyện Lục Ngạn qua một số năm

38

3.3

Cơ cấu các ngành kinh tế của huyện Lục Ngạn qua một số năm

38

3.4

Hiện trạng sử dụng đất huyện Lục Ngạn năm 2014

48


3.5

Thống kê diện tích sử dụng các tổ chức theo đơn vị hành chính năm
2014

3.6

49

Hiện trạng sử dụng đất của các tổ chức theo mục đích sử dụng năm
2014

3.7

50

Tổng số tổ chức, khu đất, diện tích sử dụng đất của các tổ chức phân
theo loại hình sử dụng năm 2014

52

3.8

Kết quả cấp giấy chứng nhận QSD đất của các tổ chức năm 2014

53

3.9

Kết quả cấp GCNQSD đất cho các tổ chức theo nguồn gốc sử dụng


55

3.10 Phân loại tổ chức chưa được cấp GCNQSDĐ

56

3.11 Thống kê diện tích sử dụng đúng mục đích của các tổ chức

58

3.12 Tình hình cho thuê, cho mượn, chuyển nhượng trái phép của các tổ
chức

60

3.13 Tình hình tranh chấp, bị lấn chiếm diện tích do tổ chức sử dụng năm
61

2014

viii


DANH MỤC HÌNH
TT hình
Hình 3.1

Tên hình
Sơ đồ vị trí địa lý của huyện Lục Ngạn


ix

Trang
32


MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, thành phần quan trọng hàng đầu của môi
trường sống, địa bàn xây dựng và phát triển dân sinh, kinh tế - xã hội, quốc phòng
và an ninh. Chính vì tầm quan trọng của đất đai đối với cuộc sống con người do vậy
rất cần thiết phải sử dụng vốn đất một cách tiết kiệm, hợp lý và hiệu quả. Một quốc
gia muốn phát triển kinh tế thì trước hết phải sử dụng nguồn tài nguyên này hợp lý,
hiệu quả và bền vững.
Ở nước ta trong thời kỳ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, đất đai mới chỉ
được coi trọng về mặt hiện vật, các nguồn lực tài chính từ đất đai chưa được quan
tâm nhiều, việc khai thác sử dụng chưa thực sự có hiệu quả, kết quả thu được cho
Nhà nước, xã hội từ đất đai chưa lớn. Kể từ khi đổi mới, với sự hình thành và phát
triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế ngày càng phát
triển dẫn đến sự đa dạng hóa các thành phần kinh tế và các hình thức sản xuất. Từ
chỗ kinh tế quốc doanh chiếm đa số thì đến nay kinh tế tư nhân, liên doanh liên kết
phát triển đóng vai trò không thể thiếu trong nền kinh tế quốc dân. Từ đó, vai trò đại
diện chủ sở hữu về đất đai của Nhà nước không những thể hiện qua sự quản lý, khai
thác, sử dụng đất đai với tư cách là tư liệu sản xuất mà còn thể hiện qua việc khai
thác, sử dụng các nguồn lực tài chính quan trọng từ đất đai phục vụ sự nghiệp phát
triển kinh tế của đất nước. Nhờ có chính sách đổi mới đó mà đời sống người dân
ngày càng cải thiện, kinh tế đất nước ngày càng phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh
những mặt tích cực đó thì vấn đề đặt ra với cơ quan quản lý đất đai là làm thế nào
để đáp ứng được nhu cầu sử dụng đất ngày càng gia tăng của các thành phần kinh

tế, trên tổng quỹ đất nhất định của đất nước. Đây là vấn đề được Đảng và Nhà nước
hết sức quan tâm, chú trọng giải quyết. Sự quan tâm đó được thể hiện qua Luật Đất
đai và hàng loạt các văn bản của Chính phủ và các Bộ, Ngành có liên quan với mục
đích là quản lý, sử dụng hợp lý, hiệu quả và bền vững tài nguyên đất.
Do vậy việc quản lý, sử dụng đất của các tổ chức được Nhà nước giao đất
không thu tiền sử dụng đất là nội dung quan trọng trong quản lý Nhà nước về đất
1


đai và được quy định cụ thể tại các điều 166, 170, 173 của Luật đất đai 2013 (NXB
Tài nguyên- Môi trường và Bản đồ Việt Nam, 2013). Quản lý, sử dụng đất của các
tổ chức để quản lý đối tượng tổ chức sử dụng đất hợp lý, có hiệu quả.
Hiện nay diện tích đất các tổ chức đang quản lý, sử dụng chưa chặt chẽ, hiệu
quả thấp, xảy ra nhiều tiêu cực: sử dụng không đúng diện tích, sử dụng không đúng
mục đích, bị lấn chiếm, chuyển nhượng, cho thuê, cho mượn trái phép...
Nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn khách quan, việc đánh giá thực trạng quản
lý, sử dụng đất của các tổ chức là việc làm có ý nghĩa thiết thực trong việc tăng
cường vai trò quản lý Nhà nước đối với nguồn tài nguyên đặc biệt quan trọng là đất
đai nói chung và đối với diện tích mà các tổ chức đang quản lý sử dụng nói riêng.
Vì vậy việc đánh giá thực trạng quản lý, sử dụng đất của các tổ chức để kịp thời
đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao việc sử dụng đất, tránh lãng phí là việc làm
hết sức cần thiết.
Xuất phát từ tình hình thực tiễn trên, tôi xin tiến hành nghiên cứu đề tài
“Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng đất của các tổ
chức được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất tại huyện Lục Ngạn,
tỉnh Bắc Giang”.
2. Mục đích nghiên cứu
- Đánh giá thực trạng quản lý sử dụng đất của các tổ chức được Nhà nước
giao đất không thu tiền sử dụng đất trên địa bàn huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý sử dụng đất của

các tổ chức được giao đất không thu tiền sử dụng đất trên địa bàn huyện Lục Ngạn,
tỉnh Bắc Giang.
3. Yêu cầu của đề tài
- Điều tra đầy đủ các số liệu về giao đất và sử dụng đất của các tổ chức sử
dụng đất được nhà nước giao đất không thu tiền.
- Chọn các điểm điều tra, khảo sát để phục vụ công tác nghiên cứu có tính
điển hình, nổi bật.
- Đánh giá đúng thực trạng tình hình sử dụng đất của các tổ chức được giao
đất không thu tiền sử dụng đất trên địa bàn huyện tại thời điểm nghiên cứu làm cơ
2


sở cho việc đề xuất các giải pháp sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên này theo Luật
Đất đai năm 2013.
- Những giải pháp đề xuất phải dựa trên cơ sở tuân thủ quy định của Luật
Đất đai và phù hợp với đặc điểm của địa phương nhằm nâng cao hiệu quả quản lý,
sử dụng đất đai của các tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất
trên địa bàn huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang.

3


Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học của công tác quản lý Nhà Nước về đất đai
1.1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1.1. Khái quát về đất đai
Đất đai là tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt,
là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn để phân bố dân
cư, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng. Tại Điều 53, 54 Chương III Hiến pháp

Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (NXB Chính trị Quốc gia Hà
Nội, 2013) quy định “Điều 53: Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản,

nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà
nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện
chủ sở hữu và thống nhất quản lý; Điều 54: 1. Đất đai là tài nguyên đặc biệt của
quốc gia, nguồn lực quan trọng phát triển đất nước, được quản lý theo pháp luật; 2.
Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng
đất. Người sử dụng đất được chuyển quyền sử dụng đất, thực hiện các quyền và
nghĩa vụ theo quy định của luật. Quyền sử dụng đất được pháp luật bảo hộ; 3. Nhà
nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết
do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích
quốc gia, công cộng. Việc thu hồi đất phải công khai, minh bạch và được bồi
thường theo quy định của pháp luật; 4. Nhà nước trưng dụng đất trong trường hợp
thật cần thiết do luật định để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh hoặc trong
tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai”.
Việc quản lý, sử dụng nguồn tài nguyên đất đai đúng mục đích, hợp lý, có
hiệu quả, bảo vệ cảnh quan và môi trường sinh thái sẽ phát huy tối đa nguồn lực của
đất đai, góp phần thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.

4


1.1.1.2. Khái quát về đất tổ chức và tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền
sử dụng đất
Tổ chức sử dụng đất, quản lý đất (còn gọi là đối tượng sử dụng, quản lý đất)
là tổ chức được Nhà nước giao đất, cho thuê đất để sử dụng hoặc được Nhà nước
công nhận quyền sử dụng đất đối với đất đang được sử dụng, được Nhà nước giao
đất để quản lý, quy định trong Luật Đất đai năm 2013 (NXB Chính trị Quốc gia Hà

Nội, 2013), gồm:
Các tổ chức trong nước được nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất
hoặc được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất bao gồm: Cơ quan nhà nước, tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ
chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân và các tổ chức
khác theo quy định của Chính phủ.
1.1.1.3. Ý nghĩa của công tác quản lý Nhà nước về đất đai đối với các tổ chức được
Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất
Đất đai là nguồn tài nguyên đặc biệt và có hạn, mọi hoạt động của con người
đều trực tiếp hoặc gián tiếp gắn bó với đất đai. Tổng diện tích tự nhiên của một phạm
vi lãnh thổ nhất định là không đổi. Nhưng khi sản xuất phát triển, dân số tăng, quá
trình đô thị hóa diễn ra với tốc độ nhanh thì nhu cầu của con người đối với đất đai
cũng ngày càng gia tăng. Có nghĩa cung là cố định, cầu thì luôn có xu hướng tăng.
Điều này dẫn đến những mâu thuẫn gay gắt giữa những người sử dụng đất và giữa
các mục đích sử dụng đất khác nhau. Vì vậy để sử dụng đất có hiệu quả và bền vững,
quản lý đất đai được đặt ra như một nhu cầu cấp bách và cần thiết. Quản lý đất đai
đảm bảo nguyên tắc tập trung thống nhất trong cả nước. Việc quản lý nhằm kết hợp
hiệu quả giữa sở hữu và sử dụng đất trong điều kiện hệ thống pháp luật nước ta quy
định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và Nhà nước
thống nhất quản lý về đất đai. Mặt khác, quản lý đất đai còn có vai trò quan trọng
trong việc kết hợp hài hòa các nhóm lợi ích của Nhà nước, tập thể và các cá nhân
nhằm hướng tới mục tiêu phát triển. Công tác quản lý đất đai dựa trên nguyên tắc
quan trọng nhất là sử dụng và tiết kiệm, hiệu quả và bền vững. Do đó quản lý, sử
dụng đất đai là một trong những hoạt động quan trọng nhất của công tác quản lý hành
chính Nhà nước nói chung và quản lý, sử dụng đất của các tổ chức nói riêng.
5


1.1.1.4. Cơ sở pháp lý của công tác giao đất, công nhận quyền sử dụng đất đối với
các tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất

Căn cứ Luật Đất đai năm 2013;
Căn cứ Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính
phủ Quy định chi tiết một số điều của Luật Đất đai;
Căn cứ Thông tư số 23/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 của Bộ Tài nguyên
và Môi trường Quy định về cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khách gắn liền với đất;
Căn cứ Thông tư số 24/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2015 của Bộ Tài nguyên
và Môi trường Quy định về hồ sơ địa chính;
Căn cứ Quyết định số 124/QĐ-UBND ngày 08/12/2012 của UBND tỉnh Bắc
Giang Về việc đề phê duyệt quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2011- 2020, kế hoạch
sử dụng đất kỳ đầu 2011- 2015 huyện Lục Ngạn.

1.1.2. Tình hình quản lý đất đai ở một số nước trên thế giới:
Hiện nay trên thế giới ngoài ý thức và tính pháp chế thực thi pháp luật của
chính quyền nhà nước và mọi công dân, chính sách pháp luật về lĩnh vực đất đai của
các quốc gia đang ngày càng được hoàn thiện. Trên cơ sở chế độ sở hữu về đất đai,
ở quốc gia nào cũng vậy, nhà nước đều có những chính sách, nguyên tắc nhất định
trong việc thống nhất chế độ quản lý, sử dụng đất đai. Một trong những chính sách
lớn được thực hiện tại nhiều quốc gia là chính sách giao đất cho người sử dụng đất
nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bình ổn chính trị, tạo sự công
bằng trong xã hội.
Mục tiêu chính trong các chính sách về giao đất cho người sử dụng đất ở bất
kỳ quốc gia nào giúp chính quyền nắm chắc, quản chặt và sử dụng hợp lý nguồn tài
nguyên đất. Hiện nay trên thế giới tồn tại chủ yếu 3 hình thức sở hữu về đất đai là
sở hữu tư nhân, sở hữu tập thể và sở hữu nhà nước. Ở đa số các quốc gia đều có các
hình thức sở hữu về đất đai ở trên , hiện tại còn có 1 số quốc gia như Lào, Triều
Tiên, Việt Nam và Cu Ba chỉ tồn tại duy nhất một hình thực sở hữu về đất đai là sở
hữu Nhà nước (hay sở hữu toàn dân ở Việt Nam) và ở các nước này việc giao đất
cho người sử dụng đất thông qua 3 hình thức như: giao đất có thu tiền sử dụng đất,


6


giao đất không thu tiền sử dụng đất và cho thuê đất. Tuy nhiên, phụ thuộc vào chính
sách quản lý đất đai và tốc độ phát triển kinh tế mà lựa chọn các loại hình thức trên
cho phù hợp. Trung Quốc là quốc gia có 2 hình thức sở hữu đất đai là sở hữu nhà
nước và sở hữu tập thể, trong chính sách giao đất cũng áp dụng hai hình thực là giao
đất không thu tiền sử dụng đất và giao đất có thu tiền sử dụng đất. Đối với các nước
có hình thức sở hữu tư nhân về đất đai thì việc giao đất không thu tiền sử dụng đất
không còn phổ biến.
1.1.3. Tình hình quản lý đất đai ở Việt Nam
1.1.3.1. Khái quát chung qua một số thời kỳ
Trước thế kỷ XV ở Việt Nam chưa có hệ thống địa chính theo đúng nghĩa.
Tính chất hành chính của quản lý đất đai thể hiện qua việc chính quyền thu các loại
thuế bằng hình thức cống nạp. Hệ thống địa chính sơ khai thời phong kiến chỉ được
thiết lập vào đầu thế kỷ XV (Nhà hậu Lê) và được hoàn chỉnh vào đầu thế kỷ XIX
(Nhà Nguyễn), (Đặng Hùng Võ, Nguyễn Đức Khả, 2007).
Các hệ thống địa chính hiện đại được hình thành dần trong nhiều giai đoạn, bị
xáo trộn phức tạp qua nhiều cuộc chiến tranh ở Việt Nam (Đặng Hùng Võ, Nguyễn
Đức Khả, 2007).
1.1.3.2. Hệ thống địa chính sơ khai
Trong thời kỳ Nhà Trần, Nhà nước phong kiến đã có tư tưởng thành lập hệ
thống địa bạ để quản lý đất đai. Vào cuối nhà Trần và đầu thời kỳ nhà Hồ (13981402) nhà nước đã có những cải cách táo bạo của Hồ Quý Ly về “hạn danh diền”;
“hạn nô” và đo đạc lập số ruộng đất. Hệ thống địa chính đầu tiên được thiết lập
chính thức có quy mô toàn quốc do vua Lê Thái Tổ khởi xướng (năm 1428) và được
hoàn chỉnh dưới thời vua Lê Thánh Tông (năm 1460-1491) cùng với việc ban hành
luật Hồng Đức. Hệ thống này bao gồm một số nội dung chủ yếu như sau:
- Đo đạc các thửa đất, làm số ruộng đất toàn quốc vào năm 1428.
- Ban hành “Quốc triều hình luật” hay còn gọi là Luật Hồng Đức năm 1483
gồm 722 điều, trong đó 59 điều quy định về ruộng đất.

- Thực hiện phép “Quân điền” (bắt đầu từ năm 1429) theo đó các làng xã phải
thực hiện việc chia cấp ruộng công cho các dân định sử dụng theo thời gian, nhân

7


khẩu và quy chế của Nhà nước.
- Có chính sách cự thể về xác định quyền sở hữu tư nhân đối với đất đai.
Hệ thống địa chính thời Hậu Lê đã góp phần tăng cường quyền lực cho nhà
nước phong kiến, tăng cường quyền lực cho bộ máy hành chính, điều chỉnh được
mối quan hệ giữa đất đai của nhà vua và đất đai tập thể của làng xã và đất đai tư
nhân của giai cấp địa chủ, gia tăng thuế cho quốc gia, phát triển kinh tế và sức sản
xuất phong kiến (Đặng Hùng Võ, Nguyễn Đức Khả, 2007).
1.1.3.3. Hệ thống địa chính của Nhà Nguyễn
Bắt đầu từ Gia Long (1802-1820) và hoàn chỉnh vào thời Minh Mạng (18201840) là sự tiếp nối và nâng cao hệ thống thời Hậu Lê, nội dung chính bao gồm:
Ban hành “Hoàng Việt luật lệ” hay còn gọi là “Luật Gia Long” vào năm 1815
gồm 398 điều trong đó có 14 điều về ruộng đất.
- Thực hiện phép “Quân điền” mới vào năm 1804, trong đó có chính sách thu
hẹp quỹ đất công, quan lại từ nhất phẩm trở xuống cũng được phân cấp đất công
theo định kỳ và nhân khẩu do nhà nước quy định.
- Thực hiện cải cách ruộng đất vào thời Minh Mạng với nội dung xác lập
quyền sở hữu tuyệt đối của Nhà vua về đất đai, thiết lập chế độ hạn điền, giảm bớt
quyền lực kinh tế của địa chủ (nhưng chỉ được thực hiện ở tỉnh Bình Định, không
triển khai được ra quy mô rộng do trở ngại ở tầng lớp địa chủ, quan lại).
- Phát triển mạnh mẽ quỹ đất đai toàn quốc thông qua khai khẩn đất hoang, tổ
chức dồn điền và dinh điền (Đặng Hùng Võ, Nguyễn Đức Khả, 2007).
1.1.3.4. Thời kỳ thực dân Pháp
Người Pháp điều chỉnh mối quan hệ đất đai ở Việt Nam theo 3 chế độ cai trị
cho Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ.
Ở Nam Kỳ, dưới chế độ thuộc địa trực trị (colonie), Thực dân Pháp điều

chỉnh trực tiếp các mối quan hệ đất đai theo Luật Napoleon công nhận và bảo hộ
quyền sở hữu tư nhân tuyệt đối.
i. Về đất đai, khuyến khích sở hữu tư bản tư nhân trong sản xuất nông nghiệp.
p. Người Pháp đánh thuế thổ canh rất cao song thổ cư lại rất thấp.
Ở Bắc Kỳ, Pháp áp dụng chế độ bảo hộ (Protectorat).
8


Từ năm 1925 cả Nam Kỳ và Bắc Kỳ đều thành lập hệ thống địa chính theo
sắc lệnh năm 1925 với chế độ điền thổ và bảo thủ điền thổ mà theo đó các chủ sở
hữu đất sau khi đăng ký được cấp bằng khoán điền thổ.
Ở Trung Kỳ, Pháp áp dụng chế độ cai trị nửa bảo hộ, từ năm 1930 hoạt động địa
chính là công tác “Bảo tồn điền trạch” (Đặng Hùng Võ, Nguyễn Đức Khả, 2007).
1.1.3.5. Quá trình hình thành phát triển Chính sách đất đai từ 1945 đến Luật Đất
đai năm 2013
Năm 1945 Cách mạng tháng Tám thành công thành lập Nhà nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa. Hiến pháp lần thứ nhất năm 1946 được ban hành. Quyền sở hữu
đất đai tư nhân vẫn được thừa nhận và bảo hộ.
Năm 1946, Nhà nước tập trung chủ yếu vào việc ban hành chính sách tận dụng
đất để phát triển sản xuất nông nghiệp cứu đói. Trong 9 năm kháng chiến chống Thực
dân Pháp, chính sách đất đai tập trung vào phát triển sản xuất nông nghiệp, giao đất
vô chủ cho người có điều kiện sử dụng, tịch thu ruộng đất thuộc quyền sở hữu của
người Pháp, khuyến khích đóng thuế nông nghiệp.
Năm 1953, Quốc hội thông qua Luật cải cách ruộng đất nhằm đánh đổ giai
cấp địa chủ, thực hiện chính sách “người cày có ruộng” mặc dù có những sai lầm
nhất định nhưng cuộc cải cách ruộng đất đã hoàn thành, ruộng đất được chia đến tay
nông dân.
Cuối năm 1958, cuộc vận động thành lập tổ đổi công và xây dựng hợp tác xã
nông nghiệp. Một số ruộng đất thuộc đồn điền cũ hoặc đất chuyên canh được tổ
chức thành các nông trường quốc doanh thuộc sở hữu nhà nước. Đất rừng sản xuất

được tổ chức thành các lâm trường quốc doanh thuộc sở hữu Nhà nước.
Năm 1959, Hiến pháp lần thứ hai đươc ban hành đã xác nhận 3 hình thức sở hữu
đất đai: Sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân. Sở hữu nhà nước được ưu
tiên, sở hữu tập thể được bảo hộ và khuyến khích, sở hữu tư nhân bị hạn chế.
Đất nước thống nhất năm 1975, Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
được thành lập, hiến pháp lần thứ 3 được ban hành vào năm 1980, theo hiến pháp
này quyền sở hữu tập thể và quyền sở hữu tư nhân về đất đai bị xóa bỏ, toàn bộ đất
đai thuộc sở hữu toàn dân.
9


Đồng thời vào năm 1980, Theo Chỉ thị 100-CT/TW ngày 13/01/1980 của Ban
bí thư Trung ương Đảng, sản xuất hợp tác xã và nông lâm trường quốc doanh dần
không hiệu quả đã thể hiện rõ rệt. Trung ương Đảng đã ban hành chính sách khoán
sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp.
Vào năm 1980, Tổng cục Quản lý ruộng đất được thành lập đã đẩy mạnh việc
điều tra lập bản đồ giải thửa để nắm chắc quỹ đất đai toàn quốc, được thể hiện thông
qua Chỉ thị 299/TTg (Thủ tướng Chính phủ, 1980).
Tư duy đổi mới được bắt đầu từ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng khóa VI
(1986) đã đưa vấn đề lương thực- thực phẩm trở thành một trong ba chương trình
muc tiêu để đổi mới kinh tế.
Nghị quyết 10-NQ/TW ngày 05/4/1988 của Bộ Chính trị là văn kiện quyết
định nhằm đổi mới chế độ sử dụng đất nông nghiệp, khẳng định việc chuyển nền
nông nghiệp tự cung tự cấp theo hướng sản xuất hàng hóa.
Năm 1987, Quốc hội thông qua Luật Đất đai lần thứ nhất (gọi là luật đất đai
1987) với nội dung chủ yếu là thực hiện chính sách giao đất của hợp tác xã cho hộ
gia đình cá nhân để sử dụng ổn định lâu dài, người không sử dụng đất phải trả lại
nhà nước để giao cho người khác sử dụng, các chủ sử dụng đất chưa được chuyển
quyền sử dụng đất đai, đất không có giá.
Năm 1992, Hiến pháp lần thứ tư được ban hành trong đó tiếp tục khẳng định

chế độ sở hữu toàn dân về đất đai. Nhà nước thống nhất quản lý đất đai bằng pháp
luật và quy hoạch, Nhà nước giao đất cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định và
lâu dài.
Năm 1993, Quốc hội thông qua Luật Đất đai lần thứ hai (gọi là Luật Đất đai
1993) trong đó người sử dụng đất nông nghiệp, lâm nghiệp và đất ở được thực hiện 5
quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp. Đất có giá và giá đất do
nhà nước quy định, từ đây như một làn gió mới thổi vào người dân được yên tâm đầu
tư trên mảnh đất của mình đồng thời được thực hiện các quyền giao dịch trên mảnh đất
của mình đã được nhà nước thừa nhận, (Đặng Hùng Võ, Nguyễn Đức Khả, 2007).
Năm 2003, Luật Đất đai được Quốc hội thông qua ngày 26/11/2003 nhằm đổi
mới chính sách đất đai cho phù hợp với thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
10


nước. Luật Đất đai năm 2003 định hướng tốt hơn cho quá trình chuyển dịch cơ cấu
sử dụng đất, phù hợp với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế động và cơ cấu đầu
tư, tạo hiệu quả thực sự trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nền kinh tế nông nghiệp
sang nền kinh tế công nghiệp, dịch vụ.
Năm 2013, Hiến pháp Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam lần thứ
năm được thông qua, trong đó vẫn khẳng định đất đai là tài sản công thuộc sở hữu
toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý, Nhà nước trao
quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật. Đồng thời Luật
Đất đai năm 2013 cũng được thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2014.
Kế thừa các quy định của Luật Đất đai năm 2003, Luật đất đai năm 2013 tiếp tục
quy định người sử dụng đất gồm 7 nhóm chủ thể, tuy nhiên có một số sửa đổi như
sau (Quốc hội nước CHXHCNVN, 2013):
Thứ nhất, đối với nhóm chủ thể là tổ chức trong nước sửa đổi “tổ chức khác
theo quy định của Chính phủ” thành “tổ chức khác theo quy định của pháp luật dân
sự” để phù hợp với quy định của pháp luật dân sự về các tổ chức.
Thứ hai, đối với nhóm chủ thể là cộng đồng dân cư bổ sung thêm “tổ dân

phố”.
Thứ ba, đối với chủ thể là cơ sở tôn giáo bổ sung thêm cơ sở “nhà nguyện”
và “niệm phật đường”.
Thứ tư, đối với chủ thể là người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sửa đổi
theo hướng bỏ quy định điều kiện là phải “về đầu tư, hoạt động văn hóa, hoạt động
khoa học thường xuyên hoặc về sống ổn định tại Việt Nam được Nhà nước Việt
Nam giao đất, cho thuê đất, được mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở” mà
dẫn chiếu đến quy định của pháp luật về quốc tịch để xác định.
Thứ năm, đối với chủ thể là tổ chức, cá nhân nước ngoài, trước đây quy định
các chủ thể này đầu tư vào Việt Nam theo pháp luật về đầu tư nhưng trên thực tế khi
các chủ thể này vào Việt Nam phải có dự án đầu tư và thành lập doanh nghiệp theo
quy định của pháp luật về đầu tư. Vì vậy, chủ thể này được sửa đổi lại tên gọi trong
Luật Đất đai năm 2013 là “Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài”. Doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài bao gồm doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài,
11


doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp Việt Nam mà nhà đầu tư nước ngoài mua cổ
phần, sáp nhập, mua lại theo quy định của pháp luật về đầu tư.
1.1.4. Tình hình sử dụng đất đai ở nước ta
1.1.4.1. Hiện trạng sử dụng đất
Theo số liệu thống kê đất đai năm 2014 (Tổng cục Thống kê, 2014), diện tích
đất tự nhiên của nước ta (bao gồm cả đất liền và các đảo nổi) là 33.115.052 ha.
Với tổng diện tích đất tự nhiên trên 33,11 triệu ha, nước ta có ¾ diện tích
lãnh thổ là đồi núi, được phân bố ở các tỉnh phía Bắc 15,80 triệu ha, (2,30 triệu ha ở
đồng bằng, tập trung tại hạ lưu các dòng song, các dải đất ven biển). Các tỉnh phía
Nam có 17,20 triệu ha diện tích đất tự nhiên với 6,70 triệu ha đất bằng chủ yếu ở
Đồng bằng sông Cửu Long.
Trên địa bàn cả nước, diện tích đất đang được khai thác sử dụng vào các mục
đích nông nghiệp và phi nông nghiệp là 28.592.216 ha, chiếm 86,34% diện tích đất

tự nhiên; đất chưa sử dụng còn 4.522.836 ha, chiếm 13,66% tổng quỹ đất. Khoảng
36% diện tích đất đang sử dụng của cả nước tập trung ở 2 vùng Đông Bắc (với
5.221.914 ha, chiếm 18,26%) và Tây Nguyên (với 5.075.746 ha, chiếm 17,75%);
khoảng 42% tập trung ở vùng Bắc Trung Bộ (4.331.820 ha, chiếm 15,15%); vùng
Đồng bằng sông Cửu Long (4.015.123 ha, chiếm 14,04%) và vùng Duyên hải Nam
Trung Bộ (với 3.640.395 ha, chiếm 12,73%); còn lại 3 vùng chiếm tỷ lệ 22% (trong
đó, vùng có tỷ lệ thấp nhất là Đồng bằng sông Hồng (chiếm 5,09%). Diện tích các
loại đất đang được sử dụng vào các mục đích chính như sau:
* Đất nông nghiệp: có 25.129.243 ha, chiếm 75,88% diện tích tự nhiên, bình
quân đạt 0,29 ha/người và đạt 0,97 ha/lao động nông nghiệp. Trong đó:
- Đất sản xuất nông nghiệp: có 9.592.742 ha, chiếm 28,97% diện tích đất tự
nhiên và chiếm 33,55% diện tích đất đang sử dụng, trong đó:
+ Đất trồng cây hàng năm: có 6.280.520 ha, chiếm 65,47% diện tích đất sản
xuất nông nghiệp và bằng 18,97% diện tích đất tự nhiên của cả nước. Trong đó,
vùng Đồng bằng sông Cửu Long có diện tích lớn nhất (chiếm tới 31,98%), còn lại
các vùng khác chỉ chiếm bình quân khoảng 9,72%;
+ Đất trồng lúa: có 4.084.914 ha (trong đó, đất chuyên trồng lúa nước có
12


3.279.229 ha, còn lại 805.685 ha là đất trồng lúa nước còn lại và đất trồng lúa
nương), chiếm 65,04% diện tích đất trồng cây hàng năm, 42,58% đất sản xuất nông
nghiệp, 16,26% đất nông nghiệp và 12,34% diện tích đất tự nhiên của cả nước. Đất
trồng lúa tập trung chủ yếu ở hai vùng là Đồng bằng sông Hồng (14,88%) và Đồng
bằng sông Cửu Long (45,78%).
+ Đất cỏ dùng vào chăn nuôi: có 58.734 ha, chiếm 0,94% diện tích đất trồng
cây hàng năm, tập trung chủ yếu ở 2 vùng Đông Bắc (31,289 ha) và Bắc Trung Bộ
(6.770 ha). Diện tích đất cỏ dùng vào chăn nuôi liên tục tăng qua các giai đoạn, tăng
mạnh nhất tại 2 vùng Đông Bắc (15.574 ha) và Tây Bắc (2.039 ha).
+ Đất trồng cây hàng năm khác: 2.136.872 ha, chiếm 34,02% đất trồng cây

hàng năm và bằng 22,28% diện tích đất sản xuất nông nghiệp của cả nước; tập trung
chủ yếu ở vùng Tây Nguyên (599.892 ha), Duyên hải Nam Trung Bộ (375.720 ha).
+ Đất trồng cây lâu năm: có 3.312.221 ha, chiếm 34,53% đất sản xuất nông
nghiệp của cả nước, phân bổ tập trung ở 3 vùng: Đông Nam Bộ (1.009.128 ha), Tây
Nguyên (900.031 ha) và Đồng bằng sông Cửu Long (537.453 ha).
- Đất lâm nghiệp: có 14.767.106 ha đất lâm nghiệp, chiếm 44,59% diện tích
đất tự nhiên và 58,76% diện tích đất nông nghiệp. Vùng có diện tích đất lâm nghiệp
lớn nhất là Đông Bắc với 3.704.964 ha, chiếm 25,09% đất lâm nghiệp cả nước, tiếp
đó là Tây Nguyên có 3.081.781 ha chiếm 20,87%, vùng Bắc Trung Bộ 2.955.395 ha
chiếm 20,01% … Trong tổng diện tích đất lâm nghiệp, có 12.514.066 ha đất có
rừng đủ tiêu chuẩn và tạo độ che phủ của rừng đạt 37,79%, diện tích mới được
khoanh nuôi tái sinh và đất trồng rừng có 2.253.040 ha (trong đó khoanh nuôi phục
hồi rừng chiếm 51,51%).
- Đất nuôi trồng thủy sản: có 737.553 ha, chiếm 2,94% diện tích đất nông
nghiệp và 2,23% diện tích đất tự nhiên; trong đó diện tích đất nuôi trồng thủy sản
nước lợ, mặn chiếm phần lớn với 591.563 ha. Diện tích đất nuôi trồng thủy sản tăng
369.707 ha so với năm 2000, bình quân mỗi năm tăng 46 nghìn ha;
- Đất làm muối: có 13.699 ha, tập trung chủ yếu ở vùng Đồng bằng sông Cửu
Long với 4.469 ha và Duyên hải Nam Trung Bộ với 3.592 ha;
- Đất nông nghiệp khác: có 18.144 ha, chiếm 0,07% diện tích đất nông
13


nghiệp; trong đó tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng sông Cửu Long với 6.693 ha,
Duyên hải Nam Trung Bộ với 2.832 ha.
* Đất phi nông nghiệp: có 3.462.973 ha, chiếm 10,46% tổng diện tích đất tự
nhiên, tăng 621.675 ha so với năm 2000, bình quân mỗi năm tăng 76,6 nghìn ha.
Các vùng có diện tích đất phi nông nghiệp lớn như: Vùng Đồng bằng sông Cửu
Long (589.606 ha, chiếm 17,02% diện tích đất phi nông nghiệp của cả nước), Bắc
Trung Bộ (522.090 ha chiếm 15,08%), Bắc Trung Bộ (504.250 ha, chiếm 14,56%),

Đông Bắc (495.835 ha, chiếm 14,32%), Đông Nam Bộ (417.360 ha, chiếm
12,05%), cụ thể các loại đất:
- Đất ở: có 633.120 ha, chiếm 1,91% tổng diện tích đất tự nhiên và chiếm
18,28% tổng diện tích đất phi nông nghiệp, gồm:
+ Đất ở tại nông thôn 514.791 ha, tăng 143.771 ha so với năm 2000, bình
quân mỗi năm tăng 17.971 ha;
+ Đất ở tại đô thị 118.329 ha, tăng 46.171 ha so với năm 2000, bình quân mỗi
năm tăng 5.771 ha.
- Đất chuyên dùng: có 1.623.703 ha (chiếm 4,09% tổng diện tích đất tự nhiên),
tăng 551.501 ha so với năm 2000, bình quân tăng 68.938 ha/năm, trong đó các vùng có
biến động lớn như: Đồng bằng sông Hồng tăng 71.432 ha, Đông Nam Bộ tăng 94.916
ha, vùng Duyên hải Nam Trung Bộ 86.458 ha, gồm:
+ Đất quốc phòng: có 269.952 ha, tăng 16.929 ha so với năm 2005, bình quân
tăng 5.643 ha/năm
+ Đất an ninh có 34.474 ha, tăng 5.314 ha so với năm 2005, bình quân tăng
1.771 ha/năm;
+ Đất có mục đích công cộng: có 220.630 ha, chiếm 0,67% diện tích đất tự
nhiên, tăng 282.242 ha so với năm 2000, tốc độ tăng bình quân 35.280 ha/năm;
+ Các loại đất phi nông nghiệp còn lại: có 1.476.093 ha (chiếm 4,46% diện
tích tự nhiên, tăng 220.298 ha so với năm 2000, bình quân tăng 27.537 ha/năm.
* Đất chưa sử dụng: năm 2014 trên địa bàn cả nước còn 4.4963.631 ha, giảm
4.215.873 ha so với năm 2000 (giảm 48,24 %), trong đó:
- Đất bằng chưa sử dụng 317.134 ha, giảm 422.516 nghìn ha so với năm 2000
14


(giảm 57,12%).
- Đất đồi núi chưa sử dụng 3.833.711 ha, giảm 3.545.933 ha (giảm 48,05%);
thời kỳ 2001- 2008 đất đồi núi chưa sử dụng được khai thác đưa vào sử dụng với
tốc độ nhanh, bình quân mỗi năm giảm 443.242 ha.

- Núi đá không có rừng cây 371.994 ha, giảm 247.423 ha so với năm 2000
(giảm 39,94 ha), bình quân giảm 30.928 ha/năm.
1.1.4.2. Hiện trạng sử dụng đất theo các mục đích sử dụng của các tổ chức
Tổng diện tích đất của các tổ chức dang quản lý, sử dụng trên toàn quốc là
7.833.142,70 ha, trong đó chủ yếu là diện tích đất sử dụng vào mục đích nông
nghiệp 6.687.695,59 ha (chiếm 85,38%), sử dụng mục đích phi nông nghiệp
845.727,62 ha (chiếm 10,80%), diện tích đất chưa sử dụng 299.719,49 ha (chiếm
3,83%), đất mặt nước ven biển được giao, cho thuê là 0,23%, cụ thể (Bộ Tài nguyên
và Môi trường, 2009):
* Đất nông nghiệp
Diện tích 6.687.695,59 ha, trong đó hầu hết các loại hình tổ chức đều có diện
tích đất sử dụng vào mục đích nông nghiệp (trừ các tổ chức ngoại giao), loại hình tổ
chức sử dụng đất nông nghiệp chủ yếu là: Các nông – lâm trường (chiếm 86,62%
tổng diện tích đất nông nghiệp), tổ chức sự nghiệp công (chiếm 5,12%), tổ chức
kinh tế (chiếm 4,13%), UBND cấp xã (chiếm 3,12%), các loại hình còn lại chiếm
diện tích đất nông nghiệp rất nhỏ; đối với diện tích đất nông nghiệp do UBND cấp
xã quản lý, sử dụng chủ yếu là đất sản xuất nông nghiệp (chiếm đến 66,43% tổng
diện tích đất nông nghiệp do UBND câp xã quản lý, sử dụng) phần lớn đây là diện
tích đất công ích, đất sản xuất nông nghiệp khó giao, …
* Đất phi nông nghiệp
Tổng số diện tích đất phi nông nghiệp của các tổ chức đang quản lý, sử dụng
là 845.727,62 ha, các loại hình tổ chức đều có diện tích đất phi nông nghiệp, tập
trung nhiều nhất là các tổ chức sử dụng vào mục đích quốc phòng an ninh (34,92%),
tổ chức kinh tế (24,79%), nông - lâm trường (18,13%), UBND cấp xã (13,79%), tổ
chức sự nghiệp công (6,62%), …
Diện tích đất phi nông nghiệp do các tổ chức quản lý, sử dụng như sau:
15


- Đất ở có 15.850,30 ha chiếm 1,87% tổng diện tích đất phi nông nghiệp của

các tổ chức, trong đó chủ yếu là tổ chức kinh tế (44,05% tổng diện tích đất ở) nông,
lâm trường (43,62%), tổ chức sự nghiệp công (7,45%), UBND cấp xã (2,49%), các
loại hình tổ chức còn lại có tỷ lệ diện tích đất ở thấp.
- Đất trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp có 24.341,73 ha, chiếm 2,88% tổng
diện tích đất phi nông nghiệp của các tổ chức, hầu hết các loại hình tổ chức đều có
đất trụ sở cơ quan. Trong đó chủ yếu diện tích của các tổ chức sự nghiệp công
(25,44%), UBND cấp xã (23,50%), nông, lâm trường (20,33%), cơ quan nhà nước
16,66%, tổ chức kinh tế 7,28%.
- Đất quốc phòng, an ninh có 263.393,51 ha chiếm 31,14% tổng diện tích đất
phi nông nghiệp. Trong đó đất quốc phòng là 255.707,09 ha và đất an ninh là
7.686,42 ha.
- Đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp có 159.601,44 ha chiếm 18,87%
tổng diện tích đất phi nông nghiệp của các tổ chức gồm: chủ yếu là các tổ chức kinh
tế đang hoạt động sản xuất kinh doanh (90,73%) nông, lâ, trường (4,95%), tổ chức
sự nghiệp công (1.84%), cơ quan nhà nước (1,77%), UBND cấp xã (0,37%).
- Đất có mục đích công cộng 119.216,89 ha, chiếm 14,10% tổng diện tích đất
phi nông nghiệp của các tổ chức quản lý, sử dụng, chủ yếu là các công trình y tế, văn
hóa, giáo dục cấp xã, đất giao thông trong các khu công nghiệp, các khu dân cư đang
trong quá trình kinh doanh hạ tầng… Trong đó diện tích đất công cộng của các tổ
chức sự nghiệp chiếm 31,54%, tổ chức kinh tế chiếm 28,88%, UBND cấp xã chiếm
14,32%, cơ quan nhà nước chiếm 1,83%.
- Đất nghĩa trang, nghĩa địa có 60.267,76 ha chiếm 7,13% tổng số diện tích
đất phi nông nghiệp, phần lớn diện tích là các nghĩa địa, nghĩa trang nhân dân do
UBND cấp xã quản lý chiếm 96,42% diện tích đất nghĩa trang, nghĩa địa, một số
nghĩa trang, nghĩa địa lớn: như nghĩa trang Trường Sơn, nghĩa trang liệt sĩ của tỉnh,
… do các tổ chức khác quản lý.
- Đất mặt nước chuyên dùng có 44.834,35 ha, chiếm 5,30% tổng số diện tích đất
phi nông nghiệp, chủ yếu là diện tích đất mặt nước chuyên dùng, sông suối trong khu
vực đất của nông- lâm trường (55,30%), đất của tổ chức kinh tế (27,49%), đất của
16



UBND cấp xã (9,59%), và đất quốc phòng, an ninh (5,72%).
- Đất phi nông nghiệp khác có 158.221,64 ha, chiếm 18,71% gồm: nônglâm trường (51,61%), UBND cấp xã (19,23%), quốc phòng, an ninh (18,22%),
tổ chức kinh tế (5,38%); tổ chức sự nghiệp công (4,22%), các loại hình tổ chức
còn lại (1,35%).
* Đất chưa sử dụng
Diện tích đất chưa sử dụng của các tổ chức có 299.719,46 ha, chiếm 3,83%
diện tích đất của các tổ chức đang quản lý, sử dụng, chủ yếu là diện tích của nông,
lâm trường (51,36%), tổ chức sự nghiệp công (40,15%), các tổ chức kinh tế
(6,88%), UBND cấp xã (0,87%).
1.1.5. Đánh giá thực trạng quản lý, sử dụng đất của các tổ chức
1.1.5.1. Tình hình sử dụng theo mục đích được giao, được thuê, được công nhận
Năm 2010, cả nước có 146.912 tổ chức sử dụng đúng mục đích được giao,
được thuê với diện tích 7.148.536,47 ha, chiếm 91,26%. Trường hợp tổ chức sử
dụng đất để cho thuê trái phép, cho mượn hoặc sử dụng sai mục đích, đất bị lấn
chiếm tỷ lệ 2,47% (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2009).
- Cơ quan nhà nước có 15.189 tổ chức, diện tích sử dụng đúng mục đích là
33.838,42 ha, đạt 95,63% so với tổng diện tích quản lý, sử dụng; diện tích đất cho
thuê trái pháp luật, cho mượn, chuyển nhượng trái phép đối với các cơ quan nhà nước
không nhiều nhưng vẫn có tình trạng xảy ra (cả nước có 235 cơ quan nhà nước cho
thuê trái pháp luật, cho mượn, chuyển nhượng trái phép với diện tích là 190,42 ha,
trong đó chủ yếu là diện tích cho thuê trái pháp luật).
- Tổ chức chính trị có 1.439 tổ chức, diện tích sử dụng đúng mục đích
2.390,00 ha, đạt 75,30% so với tổng diện tích đang quản lý, sử dụng; các tổ chức
chính trị có số lượng tổ chức có diện tích đất cho thuê trái pháp luật, cho mượn,
chuyển nhượng trái phép không nhiều 42/1.439 tổ chức, nhưng diện tích vi phạm
tương đối nhiều (306,40 ha), chiếm 9,65% tổng số diện tích đang quản lý, sử dụng.
- Tổ chức xã hội có 952 tổ chức, diện tích sử dụng đúng mục đích 1.373,87 ha, đạt
96,47% so với tổng diện tích đang quản lý, sử dụng; các tổ chức xã hội có 15 tổ chức cho

thuê trái pháp luật, cho mượn, chuyển nhượng trái phép với diện tích là 1,12 ha.
17


- Tổ chức chính trị - xã hội có 1.131 tổ chức, diện tích sử dụng đúng mục
đích 3.687,04 ha, đạt 75,40% so với tổng diện tích đang quản lý, sử dụng; các tổ
chức chính trị - xã hội có 26 tổ chức cho thuê trái pháp luật, cho mượn, chuyển
nhượng trái phép với diện tích là 74,91 ha.
- Tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp có 610 tổ chức, diện tích sử dụng đúng
mục đích là 697,99 ha, đạt 96,78% so với tổng diện tích đang quản lý, sử dụng; các
tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp có 13 tổ chức cho thuê trái pháp luật, cho
mượn, chuyển nhượng trái phép với diện tích là 0,42 ha.
- Tổ chức sự nghiệp công có 55.456 tổ chức, diện tích sử dụng đúng mục đích
là 394.201,53 ha, đạt 75,94% so với tổng diện tích đang quản lý, sử dụng; các tổ
chức sự nghiệp công có 810 tổ chức cho thuê trái pháp luật, cho mượn, chuyển
nhượng trái phép với diện tích 247,27 ha, trong đó chủ yếu là diện tích đất cho
mượn (chiếm 88,36%).
- Tổ chức ngoại giao có 41 tổ chức, diện tích sử dụng đúng mục đích là 16,74
ha đạt 78,41% so với tổng diện tích đang quản lý, sử dụng; các tổ chức ngoại giao
có 01 tổ chức cho thuê trái pháp luật với diện tích 0,07ha.
- Tổ chức kinh tế có 49.723 tổ chức, diện tích đang quản lý, sử dụng đúng mục
đích là 458.179,32 ha, đạt 90,42% so với tổng diện tích đang quản lý, sử dụng; các tổ
chức kinh tế có 992 tổ chức cho thuê trái pháp luật, cho mượn, chuyển nhượng trái
phép với diện tích 1.608,56 ha, trong đó chủ yếu là diện tích cho thuê và cho mượn trái
pháp luật (diện tích đất cho thuê trái pháp luật chiếm chiếm 21,60% tổng diện tích cho
thuê trái pháp luật của cả nước, diện tích đất cho mượn chiếm 12,31% tổng số diện tích
đất cho mượn của cả nước).
- Ủy ban nhân dân cấp xã quản lý, sử dụng có 10.970 tổ chức, diện tích sử
dụng đúng mục đích là 319.042,97 ha, đạt 97,40% so với tổng diện tích đang quản
lý, sử dụng; tuy nhiên UBND cấp xã của nhiều địa phương vẫn để xảy ra tình trạng

cho thuê, cho mượn thậm chí chuyển nhượng trái pháp luật, đặc biệt là tình trạng
cho thuê trái pháp luật của khối tổ chức UBND cấp xã chiếm đến 50,72% tổng số
diện tích cho thuê trái pháp luật của nhà nước. Đối với những tổ chức cho thuê đất
trái phép ở các tổ chức là UBND xã, phường, thị trấn thường xảy ra tình trạng lấy
18


đất nông nghiệp (sử dụng vào mục đích công ích), đất phi nông nghiệp (đã giao cho
UBND xã, phường, thị trấn sử dụng vào mục đích công cộng của địa phương) cho
hộ gia đình, cá nhân thuê nhưng không làm thủ tục thuê đất theo đúng quy định
pháp luật đất đai. Hoặc cho hộ gia đình, cá nhân thuê phần diện tích đất của đơn vị
không có nhu cầu sử dụng, hay chưa sử dụng để sản xuất kinh doanh.
- Nông, lâm trường có 653 tổ chức với diện tích sử dụng đúng mục đích là
5.615.419,13 ha, đạt 92,05% so với tổng diện tích đang quản lý, sử dụng; các nông
lâm trường có 42 tổ chức cho thuê trái pháp luật, cho mượn, chuyển nhượng trái
phép với diện tích 5.006,21 ha, trong đó chủ yếu là diện tích đất cho mượn chiếm
66,26% tổng số diện tích đất cho mượn của cả nước (tập trung chủ yếu ở các nông –
lâm trường của các tỉnh Tuyên Quang, Tây Ninh, Bắc Giang, Lai Châu, … ), diện
tích đất cho thuê trái pháp luật chiếm 13,49% tổng diện tích cho thuê trái pháp luật
của cả nước (phần lớn tập trung ở các nông – lâm trường thuộc tỉnh Phú Thọ, Hải
Phòng, Đồng Nai và thành phố Hồ Chí Minh, … ).
- Quốc phòng, an ninh có 8.118 tổ chức với diện tích sử dụng đúng mục đích
là 319.689,47 ha, đạt 95,78% so với tổng diện tích đang quản lý, sử dụng. Các tổ
chức sử dụng đất vào mục đích quốc phòng, an ninh có 13 tổ chức cho mượn trái
phép với diện tích là 8,68 ha.
1.1.5.2. Sử dụng vào mục đích khác
Tình trạng sử dụng sai mục đích được giao, được thuê xảy ra ở đầu hết các
loại hình tổ chức, cả nước có 3.311 tổ chức sử dụng không đúng mục đích được
giao, được thuê với diện tích là 25.587,82 ha (Bộ Tài nguyên và Môi trường năm
2009), trong đó chủ yếu là các tổ chức sử dụng vào mục đích sản xuất kinh doanh

phi nông nghiệp (1.527 tổ chức với diện tích 21.499,68 ha, chiếm 84,02%), số tổ
chức sử dụng sử dụng vào mục đích làm nhà ở là 1.828 tổ chức với diện tích
4.088,24 ha. Trong số diện tích sử dụng vào mục đích làm nhà ở chủ yếu xây dựng
nhà ở cho cán bộ công nhân viên của tổ chức kinh tế (57,98%), các nông- lâm
trường (32,67%), tổ chức sự nghiệp công (5,34%), riêng đối với UBND cấp xã
(2,73%) phần lớn là diện tích đất của một số địa phương chia cho dân xây dựng nhà
ở không đúng thẩm quyền; diện tích đất sử dụng vào mục đích kinh doanh phi nông
19


×