Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

tổ chức công tác kiểm toán doanh nghiệp của kiểm toán nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.43 MB, 108 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

LÊ XUÂN ĐẠT

TỔ CHỨC CÔNG TÁC KIỂM TOÁN DOANH NGHIỆP
CỦA KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC

CHUYÊN NGÀNH: QUẢN TRỊ KINH DOANH
MÃ SỐ: 60.34.01.02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. ĐỖ VĂN VIỆN

HÀ NỘI, NĂM 2015


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong đề tài là trung thực và
chưa từng được sử dụng, công bố trong bất kì nghiên cứu nào.
Tôi xin can đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện khóa luận này đã được
cảm ơn và thông tin trích dẫn trong đề tài đều được ghi rõ nguồn gốc.
Hà Nội, tháng 09 năm 2015
Học viên

Lê Xuân Đạt

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế



Page ii


LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ và
động viên từ các Thầy, Cô giáo, các cơ quan, tổ chức cùng toàn thể cán bộ, công
chức của Kiểm toán nhà nước, nơi tôi chọn làm địa bàn nghiên cứu.
Trước tiên, tôi xin trân trọng cảm ơn các Thầy, Cô giáo trong khoa Kế toán
và Quản trị kinh doanh - Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã truyền đạt cho tôi
những kiến thức cơ bản và tạo điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới thầy giáo PGS. TS. Đỗ Văn
Viện, thầy đã giúp đỡ tận tình và trực tiếp hướng dẫn tôi trong suốt thời gian thực
hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn lãnh đạo các đơn vị trực thuộc Kiểm toán nhà
nước, các doanh nghiệp trong thời gian tôi thực tế nghiên cứu đã tạo điều kiện thuận
lợi cho tôi tiếp cận và thu thập thông tin cần thiết cho đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn./.

Hà Nội, tháng 09 năm 2015
Học viên

Lê Xuân Đạt

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page iii



MỤC LỤC
Lời cam đoan

i

Lời cảm ơn

iii

Mục lục

iv

Danh mục các từ viết tắt

vii

Danh mục bảng

viii

Danh mục sơ đồ

ix

1

MỞ ĐẦU

1


1.1

Tính cấp thiết của đề tài

1

1.2

Mục tiêu nghiên cứu

2

1.3

Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

3

2

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TỔ CHỨC CÔNG TÁC
KIỂM TOÁN DOANH NGHIỆP CỦA KTNN

4

2.1

Cở sở lý luận


4

2.1.1

Những vấn đề cơ bản về kiểm toán và Kiểm toán nhà nước

4

2.1.2

Những vấn đề cơ bản về doanh nghiệp nhà nước

2.1.3

Những vấn đề cơ bản về tổ chức công tác kiểm toán doanh nghiệp của

13

Kiểm toán nhà nước.

16

2.1.4

Yếu tố ảnh hưởng đến công tác kiểm toán doanh nghiệp của KTNN

23

2.2


Kinh nghiệm tổ chức công tác kiểm toán doanh nghiệp của các nước
trên thế giới và của Việt Nam

2.2.1

25

Kinh nghiệm tổ chức công tác kiểm toán doanh nghiệp của một số
nước trên thế giới

2.2.2

25

Tổ chức công tác kiểm toán doanh nghiệp của các công ty kiểm toán
độc lập tại Việt Nam

27

2.2.3

Bài học kinh nghiệm cho kiểm toán doanh nghiệp của KTNN Việt Nam

28

2.2.4

Công trình nghiên cứu liên quan

28


3

ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

30

3.1

Giới thiệu về Kiểm toán nhà nước

30

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page iv


3.1.1

Khái quát quá trình hình thành và phát triển của Kiểm toán nhà nước
Việt Nam

30

3.1.2

Chức năng, nhiệm vụ của Kiểm toán nhà nước

31


3.1.3

Cơ cấu tổ chức của KTNN và chức năng, nhiệm vụ từng bộ phận
thuộc KTNN

32

3.1.4

Tình hình nhân sự của KTNN

35

3.1.5

Kết quả công tác kiểm toán thời gian qua

38

3.2

Phương pháp nghiên cứu

40

3.2.1

Thu thập và xử lý số liệu


40

3.2.2

Phương pháp phân tích

41

3.3

Hệ thống chỉ tiêu sử dụng trong nghiên cứu

42

4

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

43

4.1

Thực trạng tổ chức công tác kiểm toán doanh nghiệp của KTNN

43

4.1.1

Thực trạng lập kế hoạch kiểm toán năm và bố trí nhân sự kiểm toán
doanh nghiệp của KTNN


43

4.1.2

Thực trạng công tác chuẩn bị kiểm toán

46

4.1.3

Thực trạng thực hiện kiểm toán

52

4.1.4

Thực trạng công tác lập, xét duyệt và gửi báo cáo kiểm toán

59

4.1.5

Thực trạng công tác kiểm tra việc thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm
toán

4.2

63


Yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức công tác kiểm toán doanh nghiệp của
KTNN

65

4.2.1

Yếu tố khách quan

65

4.2.2

Yếu tố chủ quan

65

4.3

Đánh giá về tổ chức công tác kiểm toán doanh nghiệp của KTNN

66

4.3.1

Đánh giá của doanh nghiệp đối với tổ chức công tác kiểm toán doanh
nghiệp của KTNN

4.3.2
4.3.3


66

Tự đánh giá của cán bộ, công chức KTNN đối với tổ chức công tác
kiểm toán doanh nghiệp của KTNN

68

Tồn tại trong tổ chức công tác kiểm toán doanh nghiệp của KTNN

69

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page v


4.4

Định hướng và giải pháp hoàn thiện tổ chức công tác kiểm toán doanh
nghiệp

72

4.4.1

Định hướng

72


4.4.2

Mục tiêu kiểm toán doanh nghiệp của KTNN những năm tới

74

4.4.3

Giải pháp hoàn thiện tổ chức công tác kiểm toán doanh nghiệp của
KTNN trong những năm tới

75

5

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

87

5.1

Kết luận

87

5.2

Kiến nghị

88


TÀI LIỆU THAM KHẢO

91

Phụ lục

93

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page vi


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Viết tắt

Giải nghĩa

BCKT

Báo cáo kiểm toán

BBXNSL

Biên bản xác nhận số liệu

BBKT

Biên bản kiểm toán


DN

Doanh nghiệp

DNNN

Doanh nghiệp nhà nước

KHKT

Kế hoạch kiểm toán

KTNN

Kiểm toán nhà nước

KTNN CN

Kiểm toán nhà nước chuyên ngành

KTNN KV

Kiểm toán nhà nước khu vực

KTV

Kiểm toán viên

NSNN


Ngân sách nhà nước

KSNB

Kiểm soát nội bộ

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page vii


DANH MỤC BẢNG
Số bảng

Tên bảng

Trang

3.1.

Tình hình nhân sự của kiểm toán nhà nước trong 3 năm

36

3.2.

Cơ cấu công chức của KTNN

37


3.3.

Số doanh nghiệp thuộc thẩm quyền kiểm toán của KTNN

38

3.4.

Tình hình kiến nghị xử lý tài chính của KTNN qua các năm

39

3.5.

Số mẫu dự kiến điều tra

41

4.1

Số cuộc kiểm toán doanh nghiệp hàng năm của KTNN

44

4.2

Tình hình bố trị nhân sự để kiểm toán doanh nghiệp của KTNN

45


4.3.

Số doanh nghiệp được thực hiện kiểm toán qua các năm

47

4.4

Số doanh nghiệp được kiểm toán phân theo loại doanh nghiệp

48

4.5.

Số người tham gia kiểm toán doanh nghiệp từ 2012-2014

50

4.6.

Số ý kiến thẩm định dự thảo kế hoạch kiểm toán

51

4.7.

Tình hình xác nhận số liệu kiểm toán của kiểm toán viên

54


4.8.

Kết quả kiến nghị xử lý tài chính đối với các doanh nghiệp của KTNN

56

4.9.

Kết quả kiểm toán của KTNN phân theo loại doanh nghiệp

57

4.10.

Kiến nghị của KTNN về sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ các văn bản qua
58

các năm
4.11.

Kiến nghị của KTNN về xử lý trách nhiệm, tập thể, cá nhân có sai
phạm qua các năm

59

4.12.

Tình hình thẩm định BCKT của Vụ Tổng hợp, KTNN


61

4.13.

Tình hình thẩm định dự thảo BCKT của Vụ Pháp chế

62

4.14.

Tình hình kiểm tra thực hiện kiểm nghị kiểm toán

64

4.15.

Kết quả thực hiện kiến nghị kiểm toán qua các năm

64

4.16.

Đánh giá của doanh nghiệp về tổ chức công tác kiểm toán doanh
nghiệp của KTNN

66

4.17.

Đánh giá của doanh nghiệp về cán bộ kiểm toán


67

4.18.

Tự đánh giá của cán bộ KTNN trong tổ chức công tác kiểm toán
doanh nghiệp

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

68
Page viii


DANH MỤC SƠ ĐỒ
STT

Tên sơ đồ

Trang

3.1

Cơ cấu tổ chức của KTNN

33

4.1

Các bước tổ chức công tác kiểm toán doanh nghiệp


46

4.2

Cơ cấu tổ chức đoàn KTNN

49

4.3

Trình tự thực hiện kiểm toán doanh nghiệp của KTNN

55

4.4

Quy trình lập, xét duyệt và gửi báo cáo kiểm toán của KTNN

60

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page ix


1. MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Kiểm toán ra đời, phát triển do yêu cầu quản lý và phục vụ cho quản lý. Xã hội
càng phát triển, nền kinh tế thị trường càng phức tạp, thông tin kinh tế càng có nguy

cơ chứa đựng nhiều rủi ro, sai lệch, thiếu tin cậy. Để hạn chế rủi ro thông tin, một
phương cách tốt nhất là các thông tin trước khi công bố cho bên thứ ba sẽ có một cơ
quan, tổ chức kiểm toán để xác nhận mức độ tin cậy. Các tổ chức kiểm toán sẽ thực
hiện kiểm toán các thông tin, xác nhận mức độ tin cậy và cung cấp cho người sử
dụng. Nếu chủ thể sử dụng thông tin là Nhà nước (Chính phủ, Quốc hội) thì sẽ
thành lập cơ quan kiểm toán thuộc cơ cấu nhà nước. Nếu là các tổ chức khác, các
doanh nghiệp sẽ phải sử dụng các dịch vụ kiểm toán được cung cấp bởi các doanh
nghiệp kiểm toán. Các doanh nghiệp kiểm toán sẽ thực hiện kiểm toán theo yêu cầu
của khách hàng và cung cấp thông tin xác thực phục vụ khác hàng. Với các cơ quan,
đơn vị hay tổ chức kinh doanh có quy mô lớn, để phục vụ quản lý nội bộ sẽ thành
lập bộ phận kiểm toán nội bộ trực thuộc ban lãnh đạo để kiểm toán các thông tin
phục vụ cho việc ra quyết định quản trị nội bộ.
Trên thế giới Kiểm toán nhà nước có lịch sử hình thành và phát trển hàng trăm
năm, Kiểm toán nhà nước được khẳng định như một bộ phận không thể thiếu của hệ
thống quyền lực nhà nước hiện đại. Ở nước ta viêc hình thành và hoạt động của
Kiểm toán nhà nước là đòi hỏi khách quan xuất phát từ chính nhu cầu của nền kinh
tế khi chuyển từ kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Kiểm toán nhà nước đã trở thành công cụ vĩ mô của nhà nước có
vai trò quan trọng trong việc kiểm tra, kiểm soát, tăng cường việc sử dụng hợp lý,
đúng mục đích hiệu quả nguồn lực tài chính, tài nguyên đất nước tại các cơ quan, tổ
chức, doanh nghiệp.
Kiểm toán doanh nghiệp của kiểm toán nhà nước là việc kiểm tra, đánh giá và
xác nhận tính đúng đắn, trung thực của báo cáo tài chính của doanh nghiệp; kiểm tra
việc tuân thủ pháp luật; tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong quản lý, sử dụng
vốn, tài sản của Nhà nước tại doanh nghiệp. Hoạt động kiểm toán doanh nghiệp của

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 1



Kiểm toán nhà nước đã mang lại những ý nghĩa quan trọng, góp phần tích cực vào
việc nâng cao chất lượng quản lý, điều hành, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp; đáp ứng một phần yêu cầu về quản lý và điều hành nền kinh
tế của Đảng và Nhà nước.
Qua 20 năm hoạt động, chất lượng tổ chức kiểm toán doanh nghiệp của
Kiểm toán nhà nước đã dần được nâng cao. Tuy nhiên, công tác này vẫn chưa đáp
ứng được sự kỳ vọng của Đảng, Nhà nước và công chúng mà nguyên nhân một
phần do tổ chức công tác kiểm toán doanh nghiệp của Kiểm toán nhà nước chưa
thực sự phù hợp và hiệu quả. Mặt khác trước những tác động trong việc đổi mới
kinh tế và chủ trương của Đảng và Nhà nước trong quản lý, điều hành các doanh
nghiệp có vốn nhà nước, nên sẽ có những ảnh hưởng lớn đến tổ chức công tác kiểm
toán doanh nghiệp của Kiểm toán nhà nước. Nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới,
công tác kiểm toán doanh nghiệp phải được đổi mới toàn diện, góp phần tăng cường
vai trò của Kiểm toán nhà nước trong việc giúp Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan
chức năng trong việc giám sát, quản lý, điều hành các doanh nghiệp có vốn của nhà
nước, đặc biệt là các doanh nghiệp mà nhà nước giữ cổ phần chi phối. Với thực tế
đó, việc nghiên cứu để hoàn thiện tổ chức công tác kiểm toán doanh nghiệp của
Kiểm toán nhà nước có ý nghĩa hết sức quan trọng và là yêu cầu cấp bách.
Xuất phát từ lý do trên, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Tổ chức công tác kiểm
toán doanh nghiệp của Kiểm toán nhà nước”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu chung
Trên cơ sở phân tích thực trạng tổ chức công tác kiểm toán doanh nghiệp của
Kiểm toán nhà nước những năm gần đây và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến tổ
chức công tác kiểm toán doanh nghiệp của kiểm toán nhà nước, luận văn đề xuất
giải pháp hoàn thiện công tác kiểm toán doanh nghiệp cho Kiểm toán nhà nước
những năm tới.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về kiểm toán và tổ chức công tác

kiểm toán doanh nghiệp của Kiểm toán nhà nước.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 2


- Đánh giá thực trạng tổ chức công tác kiểm toán doanh nghiệp của Kiểm toán
nhà nước những năm qua, tìm ra các yếu tố ảnh hưởng làm hạn chế công tác kiểm
toán doanh nghiệp của Kiểm toán nhà nước.
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện tổ chức công tác kiểm toán doanh nghiệp của
Kiểm toán nhà nước thời gian tới.
1.3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Các nội dung liên quan đến tổ chức công tác kiểm toán doanh nghiệp của Kiểm
toán nhà nước.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Đề tài nghiên cứu tại Kiểm toán nhà nước, Cầu Giấy, Hà Nội.
Các số liệu phục vụ nghiên cứu được thu thập trong 3 năm từ năm 2012-2014;
số liệu điều tra năm 2015.
- Về thời gian: Đề tài được thực hiện nghiên cứu từ tháng 12 năm 2014 đến
tháng 8 năm 2015.
- Về nội dung nghiên cứu: Tổ chức công tác kiểm toán doanh nghiệp của Kiểm
toán nhà nước bao gồm: chuẩn bị kiểm toán, thực hiện kiểm toán, lập báo cáo kiểm
toán, kiểm tra việc thực hiện kiến nghị kiểm toán đối với các doanh nghiệp nhà
nước.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 3



2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TỔ CHỨC CÔNG TÁC
KIỂM TOÁN DOANH NGHIỆP CỦA KTNN
2.1. Cở sở lý luận
2.1.1. Những vấn đề cơ bản về kiểm toán và Kiểm toán nhà nước
2.1.1.1. Khái niệm kiểm toán
Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử cho rằng kiểm toán ra đời từ thời La Mã cổ đại
vào thế kỷ thứ III trước Công Nguyên. Chính vì vậy, kiểm toán có gốc từ La
tinh"Audit", nguyên bản là "Audire", gắn liền với nền văn minh của Ai Cập và La
Mã cổ đại. Từ "Audire" có nghĩa là nghe. Hình ảnh kiểm toán cổ điển thường được
tiến hành bằng cách người ghi chép về tài sản đọc to lên cho một bên độc lập
"nghe" rồi sau đó chấp nhận thông qua việc chứng thực. Tuy kiểm toán ra đời đã
hơn 2000 năm qua, nhưng nó cũng chỉ phát triển mạnh mẽ từ giữa thế kỷ XIX và
cho đến nay vẫn còn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về kiểm toán (Nguyễn Quang
Quỳnh, 2003).

Ở Vương quốc Anh đã đưa ra khái niệm: “Kiểm toán là sự kiểm tra độc lập và
là sự bày tỏ ý kiến về những bản khai tài chính của một xí nghiệp do một kiểm toán
viên được bổ nhiệm để thực hiện những công việc đó theo đúng với bất kỳ nghĩa vụ
pháp định có liên quan” (Nguyễn Quang Quỳnh, 2003). Theo khái niệm này, kiểm
toán là sự kiểm tra độc lập và là sự bày tỏ ý kiến về những bản khai tài chính của
kiểm toán viên theo nghĩa vụ pháp định.
Các chuyên gia Hợp chủng quốc Hoa Kỳ cho rằng: “Kiểm toán là một quá trình
mà qua đó một người độc lập, có nghiệp vụ, tập hợp và đánh giá rõ ràng về một
thông tin có thể lượng hoá có liên quan đến một thực thể kinh tế riêng biệt nhằm
mục đích xác định và báo cáo mức độ phù hợp giữa thông tin có thể lượng hoá với
những tiêu chuẩn đã được thiết lập” (Nguyễn Quang Quỳnh, 2003). Như vậy, các nhà
nghiên cứu về kiểm toán Hoa Kỳ cũng khẳng định sự kiểm tra mang tính độc lập
của KTV và nhấn mạnh hơn đến khía cạnh chuyên môn tức là các KTV không chỉ

độc lập mà còn phải “có nghiệp vụ”. Khái niệm này cũng đề cập đến sự phù hợp
giữa thông tin với các tiêu chuẩn đã được thiết lập.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 4


Trong giáo dục và đào tạo kiểm toán ở Cộng hoà Pháp, kiểm toán được quan
niệm như sau: “Kiểm toán là việc nghiên cứu và kiểm tra các tài khoản niên độ của
một tổ chức do một người độc lập, đủ danh nghĩa gọi là một kiểm toán viên tiến
hành để khẳng định rằng những tài khoản đó phản ánh đúng tình hình tài chính thực
tế, không che đậy sự gian lận và chúng được trình bày theo mẫu chính thức của luật
định” (Nguyễn Quang Quỳnh, 2003).
Từ các khái niệm trên có thể rút ra những đặc trưng cơ bản thể hiện bản chất
của kiểm toán là:
Thứ nhất, kiểm toán là sự phát triển độc lập của chức năng kiểm tra kế toán,
một chức năng của bản thân quá trình kế toán. Với đặc trưng này, kiểm toán là quá
trình kiểm tra, rà soát các thông tin kế toán từ chứng từ kế toán đến kế toán tổng
hợp và cân đối kế toán.
Thứ hai, hoạt động kiểm toán được thực hiện bởi người độc lập, có chuyên
môn nghiệp vụ. Với đặc trưng này, kiểm toán là hoạt động mang tính độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật, trung thực, khách quan.
Thứ ba, kiểm toán là sự bày tỏ ý kiến về những bản khai tài chính của một đơn
vị, một tổ chức kinh tế so với các tiêu chuẩn đã được thiết lập và kết quả kiểm toán
được trình bày theo một cách thức nhất định. Với đặc trưng này, kiểm toán là sự xác
minh và bày tỏ ý kiến về những nội dung đã kiểm toán. Đối tượng cụ thể của kiểm
toán là các bản khai tài chính.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các loại hình kiểm toán, khái
niệm kiểm toán đã được mở rộng và phát triển vượt ra ngoài khuôn khổ quan niệm

truyền thống nêu trên. Kiểm toán không chỉ là việc kiểm tra, đánh giá và xác nhận
tính đúng đắn, trung thực của các tài liệu, số liệu, báo cáo tài chính mà còn kiểm tra,
đánh giá tính tuân thủ pháp luật, thể lệ, quy định của các đơn vị được kiểm toán và
rộng hơn nữa là kiểm tra, đánh giá tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong việc quản
lý, sử dụng các nguồn lực tài chính. Ở một số quốc gia, hoạt động kiểm toán của
Kiểm toán nhà nước còn bao gồm cả kiểm toán nguồn nhân lực, kiểm toán môi
trường, kiểm toán trách nhiệm kinh tế của cán bộ lãnh đạo trong nhiệm kỳ...Điều đó
cho thấy, đối tượng, loại hình và nội dung kiểm toán ngày càng phát triển sâu, rộng

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 5


tuỳ thuộc và yêu cầu quản lý và nhu cầu thông tin được chứng thực.
Ở Việt Nam, thuật ngữ "Kiểm toán" xuất hiện trở lại và được sử dụng nhiều từ
những năm đầu của thập kỷ 90. Trước năm 1975, ở miền Nam Việt Nam đã có hoạt
động của các công ty kiểm toán nước ngoài. Do ra đời muộn hơn so với đa số các
nước trên thế giới nên ở Việt Nam, kiểm toán nói chung và khái niệm kiểm toán nói
riêng đã có sự kế thừa và phát triển của kiểm toán trên thế giới. Tuy nhiên, cho đến
nay ở Việt Nam cũng còn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về kiểm toán.
Giáo trình Lý thuyết Kiểm toán của Trường Đại học Kinh tế Quốc dân quan
niệm: “Kiểm toán là xác minh và bày tỏ ý kiến về thực trạng hoạt động được kiểm
toán bằng hệ thống phương pháp kỹ thuật của kiểm toán chứng từ và ngoài chứng
từ do các kiểm toán viên có trình độ nghiệp vụ tương xứng thực hiện trên cơ sở hệ
thống pháp lý có hiệu lực” (Nguyễn Quang Quỳnh, 2003). Khái niệm này đã cho rằng
kiểm toán không chỉ là kiểm tra các bản khai tài chính mà còn xác minh và bày tỏ ý
kiến về thực trạng hoạt động; đồng thời, còn đề cập đến việc sử dụng hệ thống
phương pháp kỹ thuật của kiểm toán và yêu cầu hoạt động kiểm toán phải được
thực hiện trên cơ sở hệ thống pháp lý có hiệu lực.

Luật Kiểm toán nhà nước của Việt Nam đưa ra khái niệm: Hoạt động kiểm toán
của KTNN là việc kiểm tra, đánh giá và xác nhận tính đúng đắn, trung thực của báo
cáo tài chính; việc tuân thủ pháp luật; tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong quản
lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước
Qua nghiên cứu các khái niệm kiểm toán nêu trên và từ thực tiễn hoạt động
kiểm toán, có thể hiểu khái niệm về kiểm toán như sau: Kiểm toán là việc kiểm tra,
đánh giá và xác nhận tính đúng đắn, trung thực của báo cáo tài chính, việc tuân thủ
pháp luật; kiểm tra, đánh giá tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong quản lý, sử
dụng các nguồn lực do một chủ thể độc lập, có thẩm quyền, có năng lực chuyên
môn thực hiện theo quy định của pháp luật và các chuẩn mực chuyên môn.
2.1.1.2. Phân loại kiểm toán
Việc phân loại kiểm toán thường được thực hiện theo hai cách cơ bản sau đây:
Một là: Theo mục mục đích của kiểm toán (hay theo đối tượng trực tiếp của
kiểm toán)

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 6


Căn cứ vào mục đích cụ thể (hay đối tượng trực tiếp) của kiểm toán, người ta
thường chia kiểm toán thành ba loại là: kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ và
kiểm toán báo cáo tài chính.
- Kiểm toán hoạt động
Kiểm toán hoạt động là loại kiểm toán nhằm để xem xét và đánh giá về tính
kinh tế, tính hiệu lực và hiệu quả của các hoạt động được kiểm toán.
Tính kinh tế là sự tiết kiệm các nguồn lực. Hay đây còn gọi là nguyên tắc tối
thiểu, nghĩa là để đạt được mục tiêu nhất định cần dùng một lượng nguồn lực ít
nhất.
Tính hiệu lực là khả năng về mức độ hoàn thành các nhiệm vụ và mục tiêu đã

xác định của đơn vị.
Tính hiệu quả là việc đạt được kết quả cao nhất với một lượng nguồn lực nhất
định, hay đây còn gọi là nguyên tắc tối đa.
- Kiểm toán tuân thủ
Kiểm toán tuân thủ là loại kiểm toán nhằm để xem xét đơn vị được kiểm toán
có tuân thủ các quy định mà các cơ quan có thẩm quyền cấp trên hoặc cơ quan chức
năng của Nhà nước hoặc cơ quan chuyên môn đề ra hay không.
Đối tượng của kiểm toán tuân thủ cũng khá linh hoạt. Nó có thể là việc tuân
thủ các quy tắc do các cơ quan nhà nước cấp trên đề ra, như kiểm tra đánh giá về
việc tuân thủ các quy định về thuế giá trị gia tăng, hay các quy định về bảo vệ môi
trường, bảo vệ người lao động ..., hoặc việc tuân thủ những quy định do người quản
lý cấp trên trong đơn vị đề ra, hoặc nó còn là việc tuân thủ những quy định của cơ
quan chuyên môn đề ra như việc tuân thủ các quy trình và thủ tục giải ngân của kho
bạc nhà nước, việc tuân thủ các điều kiện và thủ tục vay vốn của ngân hàng ... Các
tiêu chuẩn, chuẩn mực để đánh giá thông tin ở loại kiểm toán này không phức tạp
như kiểm toán hoạt động, chúng thường được xác định một cách dễ dàng gắn liền
với các thủ tục, quy tắc được kiểm toán. Thông thường loại kiểm toán này được
thực hiện để phục vụ cho nhu cầu của bản thân các đơn vị, hoặc nhu cầu của cơ
quản lý cấp trên nên kết quả của kiểm toán tuân thủ nói chung được báo cáo cho
người có trách nhiệm trong đơn vị được kiểm toán hoặc cơ quan quản lý cấp trên

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 7


hơn là cho một phạm vi rộng người sử dụng.
- Kiểm toán báo cáo tài chính là loại kiểm toán nhằm kiểm tra và xác nhận về
tính trung thực, hợp lý của các báo cáo tài chính được kiểm toán.
Báo cáo tài chính được kiểm toán thường là bảng cân đối kế toán, báo cáo kết

quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ và bản thuyết minh báo cáo tài chính của
các đơn vị tổ chức kinh doanh. Ngoài ra, các báo cáo tài chính của các đơn vị khác
như bảng cân đối kế toán, báo cáo quyết toán vốn, ngân sách của các đơn vị hành
chính, sự nghiệp, của các dự án đầu tư ... cũng là những đối tượng thông tin của kiểm
toán báo cáo tài chính. Tiêu chuẩn, chuẩn mực cho việc đánh giá thông tin của loại
kiểm toán này thường là các chuẩn mực kế toán, các quy định pháp lý về kế toán và
những quy định khác có liên quan.
Hai là: Theo loại hình tổ chức kiểm toán (theo chủ thể thực hiện kiểm toán)
Theo cách phân loại này, kiểm toán được chia làm ba loại là Kiểm toán nhà
nước, kiểm toán độc lập và kiểm toán nội bộ.
- Kiểm toán nhà nước: là cơ quan kiểm tra tài chính tối cao của quốc gia, thực
hiện việc kiểm tra và báo cáo về việc quản lý và sử dụng các nguồn lực của Nhà
nước ở các đơn vị.
- Kiểm toán độc lập: được tổ chức dưới dạng doanh nghiệp kiểm toán (công ty
hay hãng kiểm toán) nhằm cung cấp dịch vụ kiểm toán và các dịch vụ khác có tính
chuyên môn cho xã hội.
- Kiểm toán nội bộ: được tổ chức bên trong mỗi đơn vị, thực hiện kiểm tra và
cho ý kiến về các đối tượng được kiểm toán nhằm giúp đơn vị thực hiện tốt các
chức năng và nhiệm vụ của mình.
2.1.1.3. Chức năng của kiểm toán
Thứ nhất: Chức năng xác nhận (hay còn gọi là chức năng xác minh)
Đây là chức năng được hình thành đầu tiên gắn liền với sự ra đời, hình thành và
phát triển của kiểm toán. Bản thân chức năng này không ngừng phát triển mạnh mẽ
cùng với sự phát triển của xã hội loài người nói chung và kiểm toán nói riêng, đồng
thời chức năng này luôn thể hiện ở các mức độ khác nhau trong từng giai đoạn lịch
sử nhất định. Ngay từ thời kỳ đầu, khi kiểm toán ra đời, chức năng kiểm tra và xác

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 8



nhận được thể hiện dưới dạng chứng thực báo cáo tài chính (kiểm toán cổ điển), về
sau chức năng này phát triển mạnh mẽ và được thể hiện cao hơn dưới dạng báo cáo
kiểm toán.
Thứ hai: Chức năng tư vấn (hay còn gọi là chức năng trình bày ý kiến)
Đây là chức năng phát sinh và hình thành sau chức năng xác nhận. Chức năng
tư vấn cũng có quá trình phát sinh và phát triển riêng của nó. Cùng với quá trình
phát triển của kiểm toán, chỉ một chức năng xác nhận, kiểm toán không thể đáp ứng
được yêu cầu của nhà quản lý. Chính từ yêu cầu thực tiễn quản lý đặt ra, đã xuất
hiện chức năng tư vấn. Ở thời kỳ ban đầu khi mới hình thành, chức năng này biểu
hiện dưới dạng thư quản lý. Trong quá trình phát triển, sự biểu hiện của tư vấn cũng
rất khác nhau theo từng giai đoạn lịch sử nhất định. Thực tế chức năng này chỉ phát
triển mạnh mẽ vào giữa thế kỷ XX, nhưng lại giữ một vị trí đặc biệt quan trọng
trong một nền kinh tế thị trường phát triển cao như hiện nay.
Qua hai chức năng của kiểm toán ta thấy kiểm toán nhìn nhận đánh giá một
cách toàn diện cả về quá khứ và tương lai. Về quá khứ, đối với các sự kiện đã nảy
sinh, kiểm toán với tư cách là người kiểm tra xác nhận sự việc đã hoàn thành nhằm
đáp ứng yêu cầu của người sử dụng thông tin. Như vậy, chức năng kiểm toán xác
nhận hay xác minh là chức năng hướng về quá khứ. Mặt khác, để đáp ứng yêu cầu
của người sử dụng thông tin trong tương lai, kiểm toán lại có thêm chức năng thứ
hai đó là chức năng tư vấn hay chức năng trình bày ý kiến, chức năng này hướng về
tương lai. Hai chức năng của kiểm toán hình thành và phát triển hoàn toàn khác
nhau tuỳ theo từng giai đoạn lịch sử nhất định. Ở thời kỳ đầu, người ta thường chỉ
tập trung quan tâm đến chức năng kiểm tra xác nhận. Nhưng khi xã hội càng phát
triển, người ta càng quan tâm nhiều hơn đến chức năng tư vấn của kiểm toán, đó là
việc nhìn nhận, định hướng cho một tương lai đúng đắn để có những quyết định tối
ưu và giành được thắng lợi trong cạnh tranh.
2.1.1.4. Khái niệm, đặc trưng của Kiểm toán nhà nước
* Khái niệm: Theo quy định tại Điều 118 Hiến pháp năm 2013: Kiểm toán nhà

nước là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật, thực hiện việc kiểm toán tài chính, tài sản công (Hiến pháp, 2013).

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 9


Hoạt động kiểm toán của KTNN có thể phân thành 3 lĩnh vực gồm:
- Lĩnh vực kiểm toán ngân sách nhà nước;
- Lĩnh vực kiểm toán dự án đầu tư;
- Lĩnh vực kiểm toán doanh nghiệp.
* Đặc trưng của Kiểm toán nhà nước
So với các hoạt động kiểm tra, kiểm soát khác của Nhà nước và so với các loại
hình hoạt động kiểm toán khác (kiểm toán nội bộ, kiểm toán độc lập), hoạt động
kiểm toán của KTNN có những đặc điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, hoạt động kiểm toán của KTNN là hoạt động kiểm tra tài chính
ngoại vi.
Hoạt động kiểm toán của Kiểm toán nhà nước là hoạt động kiểm tra tài chính từ
bên ngoài (kiểm tra ngoại vi). Cơ quan Kiểm toán nhà nước là một tổ chức kiểm tra
từ bên ngoài, nằm ở bên ngoài các hoạt động tài chính - ngân sách và nằm ngoài các
đơn vị được kiểm toán. Điều này đảm bảo cho người kiểm tra và người bị kiểm tra
không đồng nhất với nhau và giữ được một khoảng cách tối thiểu nhất định giữa họ
với nhau, nhằm bảo đảm tính độc lập về mặt nghiệp vụ và thiết chế của Kiểm toán
nhà nước. Đây là đặc điểm nổi bật phân biệt giữa hoạt động Kiểm toán nhà nước
với hoạt động thanh tra nhà nước, thanh tra tài chính, kiểm toán nội bộ.
Thứ hai, hoạt động kiểm toán của KTNN mang tính độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật; trung thực, khách quan. Đây là đặc điểm cơ bản nhất, yếu tố quan trọng
nhất trong hoạt động kiểm toán của KTNN. Vấn đề này được quy định thành
nguyên tắc và được cụ thể hoá trong các điều, khoản của Luật Kiểm toán nhà nước

và các quy chế liên quan đến tổ chức và hoạt động của KTNN, phù hợp với chuẩn
mực và thông lệ quốc tế.
Thứ ba, đối tượng kiểm toán của Kiểm toán nhà nước là việc quản lý, sử dụng
ngân sách, tiền và tài sản nhà nước ở tất cả các cơ quan, đơn vị, tổ chức có liên quan
với phạm vi rộng lớn trên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Với tư cách
là chủ sở hữu các nguồn lực tài chính và tài sản quốc gia, Nhà nước thành lập cơ
quan Kiểm toán nhà nước để kiểm soát việc quản lý, sử dụng các nguồn lực đó của
các chủ thể có liên quan, bảo đảm phục vụ cho mục tiêu phát triển chung của đất

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 10


nước. Do vậy, về nguyên tắc ở đâu có quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản
nhà nước thì ở đó có hoạt động Kiểm toán nhà nước.
Thứ tư, chức năng của KTNN là xác nhận, kết luận và kiến nghị, trong đó xác
nhận độ tin cậy của báo cáo tài chính, báo cáo quyết toán là chức năng đặc trưng
riêng có của kiểm toán nói chung và KTNN nói riêng. Đồng thời, KTNN cũng có
chức năng kiểm toán việc tuân thủ pháp luật và đánh giá tính kinh tế, hiệu lực và
hiệu quả trong quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước. KTNN đưa ra
các kết luân, kiến nghị nhưng việc xử lý các kết luận, kiến nghị kiểm toán lại do các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền và bản thân các đơn vị được kiểm toán thực hiện.
Điều này đòi hỏi phải có sự phối hợp rất chặt chẽ giữa KTNN với các cơ quan có
liên quan thì hiệu lực kiểm toán mới được xác lập trên thực tế.
Thứ năm, hoạt động Kiểm toán nhà nước mang tính chuyên môn, chuyên
nghiệp rất cao.
- Tuân theo chuẩn mực, quy trình, quy chế một cách chặt chẽ;
- Sản phẩm của KTNN - Báo cáo kiểm toán có nội dung chuyên môn rất cao
đòi hỏi phải có sự hiểu biết ở mức độ nhất định của người sử dụng (Đại biểu Quốc

hội, các cơ quan của Quốc hội, các cơ quan chức năng của Nhà nước, báo chí và
công luận nói chung);
- Đòi hỏi phải được trang bị sử dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại, đồng bộ
(hệ thống dữ liệu, công nghệ thông tin, các phương tiện đặc chủng trong lĩnh vực
đầu tư - dự án...).
2.1.1.5. Vai trò của Kiểm toán nhà nước
Với chức năng xác nhận tính đúng đắn, trung thực của báo cáo tài chính, báo
cáo quyết toán ngân sách; đánh giá tính tuân thủ pháp luật, tính kinh tế, hiệu lực và
hiệu quả trong quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước, vai trò của
KTNN thể hiện qua các mặt sau:
Một là, KTNN góp phần quan trọng vào việc phân bổ, sử dụng tiết kiệm, có
hiệu quả các nguồn lực quốc gia; hỗ trợ Quốc hội, Chính phủ thực hiện giám sát và
quản lý tài chính nhà nước.
Hai là, KTNN tham gia với Quốc hội trong việc quyết định các chính sách về

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 11


tài chính ngân sách, trong việc ban hành các văn bản pháp luật liên quan đến tài chính,
ngân sách. Đây chính là hoạt động tư vấn của cơ quan KTNN với Quốc hội. Bằng kinh
nghiệm kiểm toán, KTNN phát hiện những bất cập trong bản thân các văn bản pháp
luật, phát hiện những hiện tượng thực tế phát sinh mà pháp luật chưa điều chỉnh. Thông
qua đó, kiến nghị với cơ quan lập pháp trong việc ban hành các văn bản pháp luật.
Trong quyết định các chính sách về tài chính ngân sách của quốc gia, cơ quan KTNN
với kinh nghiệm chuyên môn, tư vấn cho Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội để quyết
định chính xác, đảm bảo tính khả thi. Các ý kiến tham gia của KTNN sẽ tạo nên luồng
thông tin đa chiều, làm cơ sở cho việc thảo luận và quyết định.
Ba là, KTNN cung cấp các thông tin dữ liệu cho các cơ quan quản lý phục vụ

tốt hơn công tác quản lý NSNN. Thông qua kết quả kiểm toán, ngoài việc cung cấp
thông tin cho Quốc hội, Chính phủ, KTNN còn cung cấp cho các cơ quan quản lý
những yếu kém bất cập trong quản lý NSNN; những đơn vị vi phạm chính sách, chế
độ quản lý NSNN. Trên cơ sở đó, các cơ quan quản lý đề ra các biện pháp quản lý
thích hợp nhằm quản lý NSNN tốt hơn. Đối với những trường hợp vi phạm chính
sách, chế độ quản lý NSNN như các khoản trốn lậu thuế, các khoản chi sai chế độ
mà KTNN đã phát hiện, các cơ quan quản lý có biện pháp thu hồi cho NSNN, duy
trì trật tự, kỷ cương trong quản lý NSNN.
Bốn là, KTNN góp phần cải cách và nâng cao hiệu lực, hiệu quả của tài chính
công. Với vị trí và vai trò là cơ quan kiểm tra tài chính nhà nước, hoạt động độc lập,
KTNN có thể có những đóng góp nhiều mặt trong quá trình cải cách tài chính công
như: Tham gia ý kiến vào các dự án luật và các văn bản pháp quy về quản lý tài
chính nhà nước; tổ chức thực hiện kiểm toán nhằm đảm bảo tính tuân thủ pháp luật
và các quy định trước hết là về tài chính công để đảm bảo tính hiệu lực của pháp
luật; mặt khác thông qua đó cũng góp phần đánh giá hiệu lực, hiệu quả của các
chính sách, chế độ, giải pháp trong cải cách tài chính công; phát hiện và đề xuất
kiến nghị với Nhà nước các giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý tài
chính công; đồng thời, phát hiện những quy định, những giải pháp kém hiệu lực
hoặc bất hợp lý để kiến nghị với Nhà nước hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính công
cho phù hợp.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 12


2.1.1.6. Phạm vi đối tượng của Kiểm toán nhà nước
Là công cụ giúp cơ quan quyền lực nhà nước thực hiện việc kiểm soát nền tài
chính nhà nước, đối tượng của Kiểm toán nhà nước trước hết và đương nhiên là các
hoạt động của các cơ quan, đơn vị, tổ chức liên quan tới thu - chi ngân sách và các

công quỹ nhà nước, quản lý và sử dụng các nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước,
tiền và tài sản nhà nước. Nói một cách khác, ở đâu có hoạt động liên quan đến thu,
chi quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước, các công quỹ và tài sản nhà nước thì ở
đó phải thực hiện kiểm tra nhà nước. Về nguyên tắc, phạm vi của các hoạt động
thuộc đối tượng của Kiểm toán nhà nước không bị giới hạn, không có vùng cấm.
Tuy nhiên, do phạm vi của các hoạt động đó rất rộng lớn và đa dạng, mặt khác do
một số yếu tố đặc thù về chính trị - xã hội, pháp luật, ở nhiều nước phạm vi đối
tượng của Kiểm toán nhà nước có những giới hạn nhất định, đặc biệt là ở các lĩnh
vực nhạy cảm và lĩnh vực tối mật quốc gia (an ninh, quốc phòng).
Điều 5, Luật Kiểm toán nhà nước năm 2005, quy định: “Đối tượng kiểm toán
của Kiểm toán nhà nước là hoạt động có liên quan đến quản lý, sử dụng ngân
sách, tiền và tài sản nhà nước” ( Luật Kiểm toán nhà nước 2005). bao gồm các đơn
vị được kiểm toán sau: các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các
cơ quan khác ở trung ương; các cơ quan được giao nhiệm vụ thu, chi ngân sách
nhà nước các cấp; Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp, cơ quan khác ở
địa phương; các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân; các đơn vị quản lý quỹ
dự trữ của Nhà nước; các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức xã
hội nghề nghiệp có sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước; các đơn vị sự nghiệp
công lập; các ban quản lý dự án đầu tư có nguồn kinh phí ngân sách nhà nước
hoặc có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước; doanh nghiệp nhà nước.
2.1.2. Những vấn đề cơ bản về doanh nghiệp nhà nước
2.1.2.1. Khái niệm doanh nghiệp, doanh nghiêp nhà nước
Doanh nghiệp (DN) là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch
ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực
hiện các hoạt động kinh doanh (Luật doanh nghiệp, 2005).
Dựa theo hình thức sở hữu và cơ cấu tổ chức chia doanh nghiệp thành các loại

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 13



sau: Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, Công ty hợp danh, Doanh
nghiệp tư nhân. Ngoài ra trong thực tế còn xuất hiện một số loại nhóm công ty liên kết
thành các tập đoàn kinh tế, tổng công ty. Theo đó: Tập đoàn kinh tế, tổng công ty là
nhóm công ty có mối quan hệ với nhau thông qua sở hữu cổ phần, phần vốn góp hoặc
liên kết khác. Tập đoàn kinh tế, tổng công ty không phải là một loại hình doanh nghiệp,
không có tư cách pháp nhân, không phải đăng ký thành lập theo quy định của Luật.
Tập đoàn kinh tế, tổng công ty có công ty mẹ, công ty con và các công ty thành viên
khác. Công ty mẹ, công ty con và mỗi công ty thành viên trong tập đoàn kinh tế, tổng
công ty có quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp độc lập theo quy định của pháp luật.
Theo Luật doanh nghiệp năm 2005 thì “Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp
trong đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ” (Luật doanh nghiệp, 2005). Doanh
nghiệp nhà nước (DNNN) có thể hoạt động theo loại hình công ty trách nhiệm hữu
hạn, công ty cổ phần. Nhiều doanh nghiệp nhà nước có thể liên kết với nhau thành
tập đoàn, tổng công ty. Theo quy định của Luật KTNN năm 2005 thì doanh nghiệp
nhà nước là đối tượng kiểm toán của KTNN.
2.1.2.2. Đặc điểm của doanh nghiệp nhà nước
Theo thống kê tại thời điểm ngày 31/12/2011 toàn quốc có 3.265 doanh
nghiệp nhà nước, sử dụng 1,66 triệu lao động với tiền lương bình quân
7,53trđ/tháng, 84,2% số doanh nghiệp hoạt động có lãi [20]. Bên cạnh các đặc
điểm của một doanh nghiệp, doanh nghiệp nhà nước còn có những đặc điểm sau:
* Là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn và trực tiếp thành lập
+ Doanh nghiệp Nhà nước đều do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trực tiếp ký
quyết định thành lập khi thấy việc thành lập Doanh nghiệp là cần thiết. Việc thành lập
doanh nghiệp Nhà nước dựa trên nguyên tắc chỉ thành lập theo những ngành, lĩnh vực
then chốt, xương sống của nền kinh tế dựa trên những đòi hỏi thực tiễn của nền kinh tế
thời điểm đó và chủ trương của Đảng và ngành nghề lĩnh vực đó.
+ Doanh nghiệp Nhà nước do Nhà nước đầu từ vốn nên nó thuộc sở hữu Nhà
nước, tài sản của doanh nghiệp Nhà nước là một bộ phận của tài sản Nhà nước.

Doanh nghiệp Nhà nước sau khi được thành lập là một chủ thể kinh doanh, tuy
nhiên chủ thể kinh doanh này không có quyền sở hữu đối với tài sản trong doanh

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 14


nghiệp mà chỉ là người quản lý tài sản và kinh doanh trên cơ sở sở hữu của Nhà
nước. Nhà nước giao vốn cho doanh nghiệp, doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm
trước Nhà nước về việc bảo toàn và phát triển vốn mà Nhà nước giao.
* Do Nhà nước tổ chức quản lý và hoạt động theo mục tiêu kinh tế xã hội do
Nhà nước giao.
- Nhà nước quản lý doanh nghiệp Nhà nước thông qua cơ quan quản lý Nhà
nước có thẩm quyền theo phân cấp của Chính phủ. Bao gồm những nội dung sau:
+ Nhà nước quy định mô hình cơ cấu tổ chức quản lý trong từng loại doanh
nghiệp Nhà nước phù hợp với quy mô của nó.
+ Những quy định chức năng nhiệm vụ quyền hạn của các cơ cấu tổ chức trong
doanh nghiệp Nhà nước như hội đồng quản trị, Tổng giám đốc...
+ Những quy định thẩm quyền trình tự thủ tục của việc bổ nhiệm miễn nhiệm
khen thưởng kỷ luật các chức vụ quan trọng của doanh nghiệp như chủ tịch Hội
đồng quản trị.
+ Hoạt động của doanh nghiệp chịu sự chi phối của nhà nước về mục tiêu kinh
tế xã hội do nhà nước giao.
Nếu Nhà nước giao cho doanh nghiệp Nhà nước nào thực hiện hoạt động công
ích thì doanh nghiệp Nhà nước đó phải thực hiện hoạt động công ích nhằm đạt được
các mục tiêu kinh tế xã hội.
2.1.2.3. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước
Trong những năm qua, thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khoá X (2001) và
các Nghị quyết của Đảng Chính phủ về doanh nghiệp nhà nước, khu vực doanh

nghiệp nhà nước đang được đổi mới, có vai trò chi phối nhiều ngành kinh tế then
chốt và tập trung hơn vào lĩnh vực then chốt, thiết yếu, địa bàn quan trọng. Hệ
thống DNNN đã và đang được đổi mới, sắp xếp lại, góp phần phát triển và nâng cao
hiệu quả kinh doanh.
DNNN, nhất là các tập đoàn, tổng công ty, đã có đóng góp quan trọng thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội, hình thành các ngành công nghiệp, ngành kinh tế quan
trọng, then chốt của nền kinh tế, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nhiều tập
đoàn, tổng công ty, có vai trò quan trọng góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tham gia
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 15


nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, kết hợp phát triển kinh tế với đảm bảo quốc phòng,
an ninh, chủ quyền quốc gia, thực hiện chính sách an sinh xã hội, khắc phục hậu
quả thiên tai. Những năm gần đây, chỉ tính riêng các tập đoàn, tổng công ty trong
khối Doanh nghiệp Trung ương nộp NSNN gần 300 nghìn tỷ đồng, chiếm hơn 30%
tổng thu NSNN (Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam, 2015).
* Xuất phát từ vị trí, tầm quan trong của DNNN đối với nền kinh tế, để nhà
nước nắm được thông tin cần thiết về doanh nghiệp, trên cơ sở đó tạo điều kiện cho
doanh nghiệp phát triển đúng hướng thì việc thực hiện kiểm toán với DNNN là
quan trọng và rất cần thiết.
2.1.3. Những vấn đề cơ bản về tổ chức công tác kiểm toán doanh nghiệp của
Kiểm toán nhà nước.
2.1.3.1. Khái niệm, vai trò của tổ chức công tác kiểm toán doanh nghiệp
Kiểm toán là hoạt động xác minh và bày tỏ ý kiến về đối tượng kiểm toán do
các kiểm toán viên có trình độ nghiệp vụ tương xứng thực hiện trên cơ sở hệ thống
pháp lý có hiệu lực. Các yếu tố của xác minh và bày tỏ ý kiến là đối chiếu logic, đối
chiếu trực tiếp, kiểm kê, thực nghiệm và điều tra... Các yếu tố này cần được kết hợp
theo một trình tự khoa học phù hợp với đối tượng cụ thể ở một đơn vị được kiểm

toán nhất định nhằm đảm bảo thực hiện mục tiêu kiểm toán. Tổ chức công tác kiểm
toán doanh nghiệp là cách kết hợp theo các trình tự khoa học chung giữa các yếu tố
trong thực tiễn kiểm toán như quản lý điều hành công tác kiểm toán và tổ chức bộ
máy kiểm toán với mục tiêu phát huy hết chức năng xác minh và bày tỏ ý kiến về
thực trạng doanh nghiệp hoặc về sự kiện, thông tin liên quan đến quản lý, điều hành
doanh nghiệp...do các kiểm toán viên có kỹ năng phù hợp thực hiện trên cơ sở luật
pháp hiện hành. Mục tiêu này hướng tới việc tạo ra mối liên hệ giữa các phương
pháp kỹ thuật kiểm toán dùng để xác minh và bày tỏ ý kiến về đối tượng kiểm toán.
Trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên phải hiểu biết đầy đủ về các phương
pháp kỹ thuật kiểm toán để áp dụng trong từng trường hợp cụ thể và được thực hiện
theo quy trình nhất định.
Tổ chức tốt công tác kiểm toán là một trong những vấn đề cơ bản quyết định sự
thành công và tính hiệu quả đối với từng cuộc kiểm toán doanh nghiệp do kiểm toán
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 16


×