Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

ảnh hưởng của việc bổ sung monosodium glutamate vào khẩu phần ăn cho lợn từ 7 – 40 ngày tuổi tại công ty tnhh lợn giống dabaco

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (922.2 KB, 73 trang )

MỤC LỤC
Lời cam đoan

i

Lời cảm ơn

ii

Mục lục

iii

Danh mục chữ viết tắt

vi

Danh mục bảng

vii

Danh mục biểu đồ

viii

PHẦN 1. MỞ ĐẦU

1

1.1.


Đặt vấn đề

1

1.2.

Mục đích – yêu cầu

2

PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

3

Đặc điểm sinh lý của lợn con

3

2.1.

2.1.1. Một số đặc điểm sinh trưởng của lợn con

3

2.1.2. Khả năng điều tiết thân nhiệt của lợn con

3

2.1.3. Đặc điểm tiêu hóa của lợn con


4

2.1.4. Khả năng tiêu hóa và hấp thụ chất dinh dưỡng

6

2.1.5. Đặc điểm về khả năng miễn dịch

7

2.1.6. Tập cho lợn con ăn sớm

7

2.1.7. Ảnh hưởng của cai sữa đến sự thay đổi hình thái học của niêm mạc ruột
2.2.

non ở lợn con

8

Năng suất sinh sản của lợn nái

9

2.2.1. Khả năng sinh sản

9

2.2.2. Khả năng tiết sữa


9

2.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới năng suất sinh sản của lợn nái

9

2.3.

Nhu cầu dinh dưỡng của lợn con

11

2.3.1. Lượng thức ăn hàng ngày và số lần cho ăn trong ngày

11

2.3.2. Nhu cầu về năng lượng

12

2.3.3. Nhu cầu protein và axit amin

12

2.3.4. Nhu cầu khoáng chất

13

2.3.5. Nhu cầu vitamin


14

2.3.6. Nhu cầu nước của lợn

15

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page iii


2.4.

Hội chứng tiêu chảy ở lợn con

15

2.4.1. Khái niệm chung về hội chứng tiêu chảy

15

2.4.2. Một số nguyên nhân gây tiêu chảy

16

2.4.3. Tình hình tiêu chảy của lợn con

17


1.4.4. Một số biện pháp phòng và trị tiêu chảy cho lợn con

17

2.5.

Chất điều vị

18

2.5.1. Khái niệm

18

2.5.2. Một số chất điều vị thường dùng

18

2.5.3. Phản ứng sinh lý của chất điều vị đến quá trình tiêu hóa

22

2.5.4. Một số chức năng sinh học khác của chất điều vị

22

2.6.

Giới thiệu chế phẩm monosodium glutamate


23

2.7.

Tình hình nghiên cứu trong nước và nước ngoài

24

2.7.1. Tình hình nghiên cứu trong nước

24

2.7.2. Tình hình nghiên cứu nước ngoài

24

PHẦN 3. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

26

Đối tượng, vật liệu, địa điểm và thời gian nghiên cứu

26

3.1.

3.1.1. Đối tượng và vật liệu nghiên cứu

26


3.1.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu

26

3.2.

Nội dung nghiên cứu

26

3.3.

Phương pháp nghiên cứu

27

3.3.1. Phương pháp phân tích thành phần hoá học của thức ăn thí nghiệm

27

2.3.2. Phương pháp xây dựng công thức thức ăn hỗn hợp

27

2.3.3. Bố trí thí nghiệm

27

3.3.4. Các chỉ tiêu theo dõi


29

3.3.5. Phương pháp theo dõi các chỉ tiêu

29

3.3.6. Phương pháp xử lý số liệu

31

PHẦN 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

32

4.1.

Thành phần hóa học của một số loại nguyên liệu thức ăn

32

4.2.

Thức ăn hỗn hợp cho lợn con giai đoạn 7 – 40 ngày tuổi

37

4.2.1. Công thức thức ăn hỗn hợp cho lợn con giai đoạn 7 - 40 ngày tuổi

37


4.2.2. Thành phần hoá học của công thức thức ăn cho lợn con giai đoạn 7 – 40
ngày tuổi

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

38

Page iv


4.2.3. Thành phần hoá học và giá trị dinh dưỡng của thức thí nghiệm
4.3.

38

Ảnh hưởng của việc bổ sung chế phẩm monosodium glutamate vào khẩu
phần ăn đối với lợn con giai đoạn từ 7 – 21 ngày tuổi

39

4.3.1. Khối lượng cơ thể của lợn con thí nghiệm giai đoạn từ 7 - 21 ngày tuổi

39

4.3.2. Sinh trưởng tuyệt đối của lợn con thí nghiệm giai đoạn 7 – 21 ngày tuổi

43

4.3.3. Sinh trưởng tương đối của lợn con thí nghiệm giai đoạn 7 – 21 ngày tuổi


46

4.3.4. Lượng thức ăn thu nhận của lợn con thí nghiệm giai đoạn 7 – 21 ngày tuổi

48

4.3.5. Ảnh hưởng của việc bổ sung chế phẩm Monosodium glutamate đến tỷ lệ
mắc tiêu chảy ở lợn con giai đoạn 7 - 21 ngày tuổi
4.4.

50

Ảnh hưởng của bổ sung chế phẩm mmonosodium glutamate vào khẩu phần
ăn cho lợn con giai đoạn 21 – 40 ngày tuổi

51

4.4.1. Khối lượng cơ thể lợn con thí nghiệm giai đoạn 21 - 40 ngày tuổi

51

4.4.2. Sinh trưởng tuyệt đối của lợn con thí nghiệm giai đoạn 21 – 40 ngày tuổi

53

4.4.3. Sinh trưởng tương đối của lợn con thí nghiệm giai đoạn từ 21 – 40 ngày tuổi

54

4.4.4. Lượng thức ăn thu nhận và hiệu quả sử dụng thức ăn của lợn con giai đoạn

21 - 40 ngày tuổi

55

4.4.5. Ảnh hưởng của việc bổ sung chế phẩm Monosodium glutamate đến tỷ lệ
tiêu chảy ở lợn con giai đoạn 21 - 40 ngày tuổi
4.5.

58

Hiệu quả của việc bổ sung chế phẩm monosodium glutamate vào khẩu
phần ăn cho lợn con giai đoạn 21 - 40 ngày tuổi

59

PHẦN 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

62

5.1.

Kết luận

62

5.2.

Kiến nghị

63


TÀI LIỆU THAM KHẢO

64

TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT

64

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page v


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CPTĂ

Chi phí thức ăn

CS

Cộng sự

ĐC

Đối chứng

FCR

Feed Conversion Ratio (Hệ số chuyển đổi giữa kg thức ăn/kg

tăng trọng) hay tiêu tốn thức ăn/kg tăng trọng

KL

Khối lượng

KPCS

Khẩu phần cơ sở

LxY

Landrace x Yorkshire

ME

Metabolizable energy (Năng lượng trao đổi)

MSG

Monosodium glutamate

TB

Trung bình

TN

Thí nghiệm


VNĐ

Việt Nam đồng

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page vi


DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1.

Axit glutamic và muối của nó

18

Bảng 2.2.

Axit guanylic và muối của nó

20

Bảng 2.3.

Axit inosinic và muối của nó


21

Bảng 3.1

Sơ đồ bố trí thí nghiệm lợn con giai đoạn 7 – 21 ngày tuổi

28

Bảng 3.2.

Sơ đồ bố trí thí nghiệm lợn con giai đoạn từ 21 - 40 ngày tuổi

28

Bảng 4.1a.

Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của các nguyên liệu phối
hợp khẩu phần

33

Bảng 4.1b. Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của các nguyên liệu phối
hợp khẩu phần

33

Bảng 4.2.

Công thức thức ăn hỗn hợp cho lợn con giai đoạn 7 – 40 ngày tuổi


37

Bảng 4.3.

Thành phần dinh dưỡng của thức ăn hỗn hợp

38

Bảng 4.4.

Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của thức ăn thí nghiệm

39

Bảng 4.5.

Khối lượng lợn con thí nghiệm giai đoạn 7 - 21 ngày tuổi (n = 120)

41

Bảng 4.6.

Sinh trưởng tuyệt đối của lợn con giai đoạn 7 – 21 ngày tuổi (n = 120)

44

Bảng 4.7.

Sinh trưởng tương đối của lợn con giai đoạn 7 – 21 ngày tuổi (n = 120)


47

Bảng 4.8.

Lượng thức ăn thu nhận của lợn con giai đoạn 7 - 21 ngày tuổi

49

Bảng 4.9.

Tỷ lệ tiêu chảy của lợn con thí nghiệm giai đoạn 7 - 21 ngày tuổi

50

Bảng 4.10. Khối lượng cơ thể lợn con thí nghiệm giai đoạn 21 - 40 ngày tuổi (n = 90)

52

Bảng 4.11. Sinh trưởng tuyệt đối của lợn con thí nghiệm giai đoạn 21 - 40 ngày
tuổi (n = 90)

53

Bảng 4.12. Sinh trưởng tương đối của lợn con thí nghiệm giai đoạn từ 21 - 40
ngày tuổi (n = 90)

54

Bảng 4.13. Lượng thức ăn thu nhận và hiệu quả sử dụng thức ăn của lợn con giai

đoạn 21 - 40 ngày tuổi

57

Bảng 4.14. Tỷ lệ tiêu chảy ở lợn con thí nghiệm giai đoạn 21 - 40 ngày tuổi

58

Bảng 4.15. Hiệu quả của việc bổ sung chế phẩm MSG vào khẩu phần ăn cho
lợn con giai đoạn 21 – 40 ngày tuổi

60

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page vii


DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 4.1. Khối lượng cơ thể lợn con giai đoạn 7 – 21 ngày tuổi

42

Biểu đồ 4.2. Sinh trưởng tuyệt đối của lợn con giai đoạn 7 – 21 ngày tuổi

45

Biểu đồ 4.3. Khối lượng lợn con giai đoạn 21 - 40 ngày tuổi


52

Biểu đồ 4.4. Sinh trưởng tuyệt đối của lợn con giai đoạn 21 – 40 ngày tuổi

54

Biểu đồ 4.5. Sinh trưởng tương đối của lợn con giai đoạn 21 – 40 ngày tuổi

55

Biểu đồ 4.6. Hiệu quả của việc bổ sung chế phẩm MSG vào khẩu phần ăn cho lợn
con giai đoạn 21 - 40 ngày tuổi

61

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page viii


PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trên thế giới, chăn nuôi lợn là một bộ phận rất quan trọng trong công nghiệp
chăn nuôi gia súc, trong đó thịt lợn chiếm 40% tổng các loại thịt (Vũ Đình
Tôn và Nguyễn Thị Thuận, 2005). Ở nước ta, chăn nuôi lợn chiếm vị trí hàng đầu
trong ngành chăn nuôi và có vai trò quan trọng trong hệ thống sản xuất nông
nghiệp. Cùng với nghề trồng lúa nước, nghề chăn nuôi lợn là một trong hai hợp
phần quan trọng và xuất hiện sớm nhất trong sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam.
Hiện nay, chăn nuôi lợn ở nước ta đang chiếm tỷ phần lớn trong ngành
chăn nuôi và là nguồn cung cấp lớn nhất thực phẩm cho người tiêu dùng trong

nước và xuất khẩu. Bởi vậy, nâng cao năng suất trong chăn nuôi lợn giúp đáp
ứng nhu cầu thực phẩm và nâng cao thu nhập cho người chăn nuôi.
Trong chăn nuôi lợn, nuôi dưỡng và chăm sóc lợn con giai đoạn theo mẹ và
cai sữa đóng vai trò rất quan trọng. Nếu lợn con được chăm sóc tốt sẽ giúp lợn
có sức đề kháng cao, ít bệnh tật và tăng trọng nhanh trong suốt thời gian tiếp
theo của quá trình chăn nuôi. Để nâng cao sự thích nghi cho lợn con với thức ăn
trước giai đoạn chuyển sang ăn hoàn toàn thức ăn ngoài nguồn sữa mẹ, lợn con
từ 4 -7 ngày tuổi đã được làm quen với thức ăn tập ăn. Thức ăn hỗn hợp cho lợn
con tập ăn trước và cai sữa không những đòi hỏi đủ chất dinh dưỡng, khả năng
tiêu hóa hấp thu cao mà còn cần kích thích được tính thèm ăn. Do đó, lựa chọn
nguyên liệu để sản xuất thức ăn hỗn hợp cho lợn con tập ăn và sau cai sữa phải
đáp ứng được các yêu cầu trên.
Sử dụng các chất bổ sung để kích thích tính thèm ăn của lợn con đã được
nghiên cứu ở nhiều nước trên thế giới. Một số nghiên cứu cho thấy có rất nhiều
chất bổ sung làm tăng tính thèm ăn của lợn con, giúp lợn con biết ăn nhanh, ăn
được nhiều hơn, hỗ trợ phòng ngừa bệnh tiêu chảy, nâng cao năng suất của lợn
con đã có mặt trên thị trường phụ gia thức ăn chăn nuôi Việt Nam như: vedafeed
(Vedan, Việt Nam), lean start (Kenpal Farm Products Inc., Canada), chocolate
(Pigcare Chocolate, ANCO) … Gần đây, chế phẩm Monosodium glutamate được
khuyến cáo có tác dụng kích thích tính thèm ăn và nâng cao hiệu quả chăn nuôi
lợn trong các giai đoạn. Để hiểu rõ tác dụng của chế phẩm trên, chúng tôi tiến
hành nghiên cứu đề tài: “Ảnh hưởng của việc bổ sung Monosodium Glutamate

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 1


vào khẩu phần ăn cho lợn từ 7 - 40 ngày tuổi tại công ty TNHH lợn giống
DaBaCo”.

1.2. MỤC ĐÍCH – YÊU CẦU
* Mục đích
- Xác định hiệu quả của việc bổ sung Monosodium glutamate trên lợn con
lai tập ăn 7 - 40 ngày tuổi.
- Xác định hiệu quả kinh tế của việc bổ sung Monosodium glutamate.
* Yêu cầu
- Theo dõi, ghi chép số liệu đầy đủ, đảm bảo tính khách quan, trung thực.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 2


PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. ĐẶC ĐIỂM SINH LÝ CỦA LỢN CON
2.1.1. Một số đặc điểm sinh trưởng của lợn con
Lợn con sau sinh có tốc độ sinh trưởng rất nhanh, thể hiện thông qua sự
tăng về khối lượng cơ thể. Thông thường khối lượng lợn con lúc 7 - 10 ngày tuổi
tăng gấp 2 lần so với lúc sơ sinh, 21 ngày tuổi tăng gấp 4 lần khối lượng sơ sinh
và 30 ngày tuổi tăng gấp 5 lần.
Khối lượng lợn con đạt được ở các thời điểm sơ sinh, cai sữa, xuất chuồng
có mối tương quan thuận với nhau khá chặt chẽ, có nghĩa là khối lượng lúc sơ
sinh càng cao thì có khả năng khối lượng lúc cai sữa cao (Vũ Đình Tôn và Trần
Thị Nhuận, 2005). Nếu lợn sơ sinh hơn nhau 0,5kg thì tương đương với 1kg hơn
nhau ở thời điểm cai sữa và nếu khối lượng ở thời điểm cai sữa hơn nhau 0,1kg
thì ở thời điểm đạt khối lượng giết thịt sẽ sớm hơn 1 ngày. Lợn con nuôi trong
giai đoạn cai sữa nếu tăng trọng bình quân mỗi ngày thêm 5g thì thời điểm đạt
khối lượng giết thịt sẽ sớm hơn 1 ngày.
2.1.2. Khả năng điều tiết thân nhiệt của lợn con
Khả năng điều tiết thân nhiệt của gia súc non rất kém; do đó, lợn con rất nhạy

cảm với sự thay đổi của khí hậu bên ngoài, nhất là nhiệt độ lạnh dễ làm lợn con bị
bệnh. Gia súc non từ 15 – 20 ngày tuổi thân nhiệt mới ổn định (Trần Thị Dân, 2006).
Nước ta tuy là xứ nóng nhưng phải chống lạnh cho lợn con mới sinh đến cai
sữa vì nhiệt độ ban đêm thường dưới 300C. Cơ thể lợn con chống lạnh bằng cách
nâng cao chuyển hóa cơ bản, tăng sinh nhiệt nhưng không kéo dài được. Nhiệt độ
cơ thể của lợn con sau khi đẻ giảm xuống phụ thuộc vào khối lượng sơ sinh, số
lượng, chất dinh dưỡng thu được và nhiệt độ môi trường.
Khi còn trong cơ thể mẹ, sự cân bằng nhiệt của bào thai được xác định do
thân nhiệt của lợn mẹ. Sau khi sinh, cơ thể lợn con chưa thể bù đắp được lượng
nhiệt bị mất đi nên cơ thể dễ bị lạnh và phát sinh bệnh tật, nhất là bệnh phân trắng
lợn con. Trong tuần lễ đầu, thân nhiệt của lợn con hoàn toàn phụ thuộc vào nhiệt
độ của môi trường. Ở hai ngày đầu, nếu nhiệt độ môi trường từ 5 – 60C, lợn con có
thể chết do lạnh và mất nhiệt. Khả năng điều tiết nhiệt ở lợn con trong 3 tuần tuổi
đầu còn rất kém do thân nhiệt chưa ổn định. Nguyên nhân chủ yếu do lớp mỡ dưới
da còn mỏng, lượng mỡ và glycogen được dự trữ trong cơ thể còn ít nên khả năng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 3


cung cấp năng lượng để chống rét bị hạn chế. Mặt khác, trên cơ thể lợn con lông
mao đang còn thưa nên khả năng giữ nhiệt còn kém. Do đó, khi nuôi lợn con
trong chuồng có nhiệt độ thấp, ẩm độ cao, thân nhiệt của lợn con sẽ giảm nhanh
làm cho lợn con dễ bị cảm lạnh, hay bị ỉa chảy và ỉa phân trắng. Sau 3 tuần tuổi
thân nhiệt lợn con mới tương đối ổn định (39,0 - 39,50C), khả năng điều hòa thân
nhiệt tốt dần lên để đáp ứng với môi trường bên ngoài. Nhiệt độ môi trường thích
hợp đối với lợn con lúc sơ sinh là 340C; 2 ngày tuổi là 300C; 14 ngày tuổi là 200C
với độ ẩm không khí khoảng 60%, riêng nhiệt độ dưới chụp sưởi của lợn con
phải đạt 32 – 350C.
Thân nhiệt của lợn con sau khi đẻ khoảng 380C, sau 10 ngày tăng lên 39,5 39,70C và giữ ở mức đó. Trong thời gian này thân nhiệt lợn con có thể biến động

trên dưới 10C. Chuồng lạnh là nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp làm lợn mẹ đè
chết con do đó tỷ lệ chết của lợn con cao. Lợn chết trong 48 giờ là 12,1% khi nhiệt
độ chuồng nuôi là 20 - 250C, trong khi đó tỷ lệ chết là 7,7% khi nhiệt độ chuồng
nuôi lớn hơn 250C (Vũ Duy Giảng, 2001).
Lợn con dưới 3 tuần tuổi, nếu nuôi ở nhiệt độ chuồng nuôi là 180C thì thân
nhiệt của lợn con giảm xuống 20C so với thân nhiệt ban đầu. Khi nhiệt độ chuồng
nuôi giảm xuống 00C thì thân nhiệt lợn con giảm xuống 40C. Khi khối lượng sơ sinh
trung bình của lợn con là 1,13kg được nuôi ở trong chuồng nuôi có nhiệt độ 16 –
210C thì sau 30 phút thân nhiệt lợn con bị giảm xuống 1,60C nhưng lợn con có khối
lượng trung bình 2,4kg nuôi trong điều kiện là – 40C thì thân nhiệt giảm tới 16,60C.
Điều này chứng tỏ khả năng điều tiết thân nhiệt của lợn con ít phụ thuộc vào khối
lượng sơ sinh mà chủ yếu phụ thuộc và nhiệt độ chuồng nuôi và tuổi lợn con.
2.1.3. Đặc điểm tiêu hóa của lợn con
Đặc điểm nổi bật của cơ quan tiêu hóa của lợn con đó chính là sự phát triển
rất nhanh song chưa hoàn thiện. Sự phát triển nhanh thể hiện ở sự tăng về dung
tích và khối lượng của bộ máy tiêu hóa. Cơ quan tiêu hóa của lợn con chưa hoàn
thiện thể hiện ở số lượng cũng như hoạt lực của một số enzyme trong đường tiêu
hóa lợn con bị hạn chế. Sự phát triển nhanh về dung tích bộ máy tiêu hóa được
thể hiện cụ thể là ở dạ dày lợn sơ sinh đạt 2,5ml nhưng đã tăng lên 1815ml ở lợn
70 ngày tuổi và tăng hơn 70 lần. Ruột non lợn lúc sơ sinh với dung tích 100ml thì
ở lợn 70 ngày tuổi là 6000ml và tăng 60 lần. Đối với ruột già, lợn sơ sinh có
dung tích 40ml nhưng đã tăng lên hơn 50 lần và ở lợn 70 ngày tuổi đạt 2100ml
(Nguyễn Thiện và Võ Trọng Hốt, 2007).
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 4


* Tiêu hóa ở miệng
Amylase nước bọt có hoạt tính cao ở lợn con cho đến 21 ngày tuổi. Tùy

theo lượng thức ăn và lượng sữa tiết ra khác nhau, thức ăn có phản ứng axít yếu
và khô thì nước bọt chủ yếu để tẩm ướt và làm mềm thức ăn.
* Tiêu hóa ở dạ dày
Lợn con mới sinh ra sống nhờ sữa mẹ, sau khi cai sữa thì sống tự lập nên
phải trải qua một quá trình thay đổi không ngừng về hình thái cấu tạo và hoạt
động sinh lý của ống tiêu hóa để thích ứng với điều kiện mới. Dung tích dạ dày
của lợn con lúc 10 ngày tuổi gấp 3 lần lúc sơ sinh, 20 ngày gấp 8 lần và 60 ngày
tuổi gấp 60 lần trong khi dung tích dạ dày lúc sơ sinh khoảng 0,03 lít và sau đó
tăng chậm đến tuổi trưởng thành đạt 3,5 – 4 lít.
Cơ quan tiêu hóa của lợn con chưa được hoàn thiện do một số enzyme
tiêu hóa thức ăn chưa có hoạt tính mạnh, đặc biệt là ở 3 tuần đầu. Khoảng 25
ngày đầu sau khi đẻ enzyme pepsin trong dạ dày lợn con chưa có khả năng
tiêu hóa protein của thức ăn. Sau 25 ngày tuổi trong dịch vị lợn con mới có
HCl ở dạng tự do và enzyme pepsinogen không hoạt động mới được HCl hoạt
hóa thành pepsin hoạt động và mới có khả năng tiêu hóa. Do thiếu HCl ở dạng
tự do nên lợn con dưới 25 ngày tuổi rất dễ bị vi khuẩn có hại xâm nhập vào
đường tiêu hoá. Chúng ta có thể kích thích tế bào vách dạ dày lợn con tiết ra
HCl ở dạng tự do sớm hơn bằng cách bổ sung thức ăn sớm cho lợn con. Nếu
tập cho lợn con ăn sớm từ 7 - 10 ngày tuổi thì HCl ở dạng tự do có thể được
tiết ra từ 14 ngày tuổi (Võ Trọng Hốt và cs., 2000).
* Tiêu hóa ở ruột
Dung tích ruột non của lợn con lúc 10 ngày tuổi tăng gấp 3 lần lúc sơ sinh,
lúc 20 ngày tuổi gấp 6 lần và lúc 60 ngày tuổi gấp 50 lần (dung tích ruột non lúc
sơ sinh khoảng 0,111 lít). Dung tích ruột già của lợn con lúc 10 ngày tuổi gấp 1,5
lần lúc sơ sinh, 20 ngày tuổi gấp 2,5 lần và 60 ngày tuổi gấp 50 lần (dung tích
ruột già lúc sơ sinh khoảng 0,04 lít). Hoạt tính của các enzyme thay đổi từ sơ
sinh đến trưởng thành.
+ Amylase và maltase: Hai enzyme này có trong dịch tụy từ khi lợn con
mới đẻ ra nhưng dưới 3 tuần hoạt tính còn thấp, do đó khả năng tiêu hoá tinh bột
còn kém. Sau 3 tuần tuổi enzyme amylase và maltase mới có hoạt tính mạnh nên

khả năng tiêu hoá tinh bột của lợn con tốt hơn.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 5


+ Saccharase: Đối với lợn con dưới 2 tuần tuổi enzyme saccharase hoạt tính
còn thấp; vì vậy, nếu cho lợn con ăn đường saccharose thì rất dễ bị ỉa chảy.
Lợn con dưới 3 tuần tuổi chỉ có một số enzyme tiêu hóa có hoạt tính mạnh
như trypsin, cathepsin, lactase, lipase và chymotrypsin.
+ Trypsin: Là enzyme tiêu hóa protein của thức ăn. Ở thai lợn 2 tháng tuổi
trong chất chiết đã có enzyme trypsin, thai càng lớn hoạt tính của enzyme trypsin
càng cao. Khi lợn con mới đẻ ra hoạt tính của enzyme trypsin dịch tụy rất cao để
bù đắp lại khả năng tiêu hoá kém của enzyme pepsin dạ dày.
+ Cathepsin là enzyme tiêu hoá protein trong sữa. Đối với lợn con ở 3 tuần
tuổi đầu, cathepsin có hoạt tính mạnh sau đó giảm dần.
+ Lactase: Có tác dụng tiêu hoá đường lactose trong sữa. Enzyme này có
hoạt tính mạnh ngay từ khi lợn con mới đẻ ra và tăng cao nhất ở tuần tuổi thứ 2,
sau đó hoạt tính của enzyme giảm dần.
+ Lipase và chymotrypsin: Đây là hai enzyme có hoạt tính mạnh trong 3
tuần đầu và sau đó hoạt tính giảm dần (Võ Trọng Hốt và cs, 2000).
Như vậy, từ khi sơ sinh đến 5 tuần tuổi hàm lượng và hoạt tính của enzyme
tiêu hóa ở lợn con khác nhiều với lợn trưởng thành. Vì vậy, khi nuôi lợn con cần
chú ý cho lợn con tập ăn sớm nhằm cai sữa sớm.
2.1.4. Khả năng tiêu hóa và hấp thụ chất dinh dưỡng
Tiêu hóa thức ăn ở lợn là quá trình làm nhỏ các chất hữu cơ trong đường
tiêu hóa như: protein, carbohydrate, lipid để cơ thể có thể hấp thu được. Tiêu hóa
có thể diễn ra theo các quá trình: (1) Quá trình cơ học: nhai nuốt hoặc sự co bóp
của cơ trong đường tiêu hóa dể nghiền nhỏ thức ăn. (2) Quá trình hóa học: là quá
trình tiêu hóa nhờ các enzyme tiết ra từ các tuyến trong đường tiêu hóa. (3) Quá

trình vi sinh vật: đây là quá trình tiêu hóa nhờ bacteria và protozoa.
Tiêu hóa và hấp thu chất dinh dưỡng tiến hành chủ yếu ở dạ dày, ruột non.
Trong một ngày đêm, dạ dày phân giải 45% carbohydrate, 50% protein, 20 - 25%
đường. Dạ dày và ruột non phân giải và hấp thu 85% đường và 87% protein, ruột
già chỉ còn không quá 10 - 15% (Trương Lăng, 2003).
Như vậy, lợn con sinh trưởng và phát dục nhanh song những tuần đầu bị
hạn chế do chức năng cơ quan tiêu hóa chưa thành thục.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 6


2.1.5. Đặc điểm về khả năng miễn dịch
Lợn con mới đẻ ra trong máu hầu như chưa có kháng thể. Lượng kháng thể
tăng rất nhanh sau khi lợn con được bú sữa đầu. Vì vậy, khả năng miễn dịch của
lợn con là hoàn toàn thụ động và phụ thuộc vào lượng kháng thể hấp thụ được
nhiều hay ít từ sữa mẹ. Trong sữa đầu của lợn nái hàm lượng protein rất cao.
Những ngày đầu mới đẻ hàm lượng protein sữa chiếm tới 18 - 19%, trong đó
lượng γ-globulin chiếm số lượng khá lớn (34 - 45%). γ-globulin có tác dụng tạo
sức đề kháng cho nên sữa đầu có tác dụng quan trọng đối với khả năng miễn dịch
của lợn con.
Lợn con hấp thu γ-globulin bằng con đường ẩm bào. Quá trình hấp thu
nguyên vẹn phân tử γ-globulin giảm đi rất nhanh theo thời gian. Phân tử γglobulin chỉ có khả năng thấm qua thành ruột lợn con tốt nhất trong 24 giờ đầu
sau khi đẻ ra nhờ trong sữa đầu có kháng enzyme trypsin (anti-trypsin) làm mất
hoạt lực của enzyme trypsin tuyến tuỵ và nhờ khoảng cách giữa các tế bào vách
ruột của lợn con khá rộng. Vì vậy, 24 giờ sau khi được bú sữa đầu hàm lượng γglobulin trong máu lợn con đạt tới 20,3 mg/100ml máu. Sau 24 giờ lượng kháng
thể trong sữa giảm dần và khoảng cách giữa các tế bào vách ruột của lợn con hẹp
dần lại nên sự hấp thu γ-globulin kém hơn, hàm lượng γ-globulin trong máu lợn
con tăng lên chậm hơn. Ở 3 tuần tuổi, hàm lượng γ-globulin trong máu của lợn

con chỉ đạt khoảng 24mg/100ml máu (máu bình thường của lợn có khoảng 65mg
γ-globulin/100ml); vì vậy, lợn con cần được bú sữa đầu càng sớm càng tốt. Nếu
lợn con không được bú sữa đầu thì từ 20 - 25 ngày tuổi mới có khả năng tự tổng
hợp kháng thể. Do đó, những lợn con không được bú sữa đầu thì sức đề kháng rất
kém, tỷ lệ chết rất cao (Võ Trọng Hốt và cs, 2000).
2.1.6. Tập cho lợn con ăn sớm
Trong chăn nuôi lợn, đặc biệt là nuôi lợn công nghiệp, lợn con thường được
tách mẹ rất sớm. Thông thường, lợn con ngoài 20 ngày tuổi mới tự biết ăn. Tuy
nhiên, trong chăn nuôi lợn hiện nay, người ta thường cai sữa cho lợn con ngay khi
lợn được 21 - 23 ngày tuổi. Do đó, việc tập cho lợn ăn sớm có rất nhiều tác dụng:
Tăng cường sự phát triển của bộ máy tiêu hoá do kích thích đường tiêu hoá của lợn
con tiết enzyme "làm quen" với thức ăn từ bên ngoài, giảm hao mòn ở lợn nái do lợn
con được bù đắp thêm dinh dưỡng từ thức ăn, và lợn con sẽ ít bị hao hụt sau cai sữa.
Lợn con được 4 - 5 ngày tuổi sau khi bú mẹ no, chúng đi theo đàn quan sát

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 7


những vật có trong chuồng. Mùi thơm của cám sẽ kích thích lợn con nếm thử. Vì
vậy, tập cho lợn con ăn sớm là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất. Nhiều
công trình nghiên cứu chứng minh rằng cho lợn con tập ăn sớm, ăn thêm trong giai
đoạn bú sữa sẽ làm tăng khả năng thu nhận thức ăn và tỷ lệ tiêu hoá các chất dinh
dưỡng trong giai đoạn cai sữa, đặc biệt khi năng suất sữa của lợn mẹ thấp
(Flower,1985). Tập cho lợn con ăn sớm còn làm giảm tỷ lệ hao hụt của lợn nái,
thúc đẩy bộ máy tiêu hoá của lợn con phát triển nhanh, sớm hoàn thiện và tạo
tiền đề cho giai đoạn sau cai sữa. Hoạt tính của các enzyme saccharase, maltase,
trypsin, amylase tuyến tụy tăng lên đáng kể ở những lợn con được cho ăn thêm
thức ăn trong giai đoạn bú sữa.Việc tập ăn cho lợn con ăn được nhiều thức ăn

trong thời gian bú sữa không những không làm giảm sự teo lông nhung mà còn
làm giảm khả năng nhiễm E.coli và tỉ lệ tiêu chảy của lợn con giai đoạn sau cai
sữa (Sonaco, 1996).
Newby et al. (1985) cho rằng nếu tập ăn cho lợn con chậm và số lượng thức
ăn tiêu thụ ít (<100g/con/trước khi cai sữa) có thể làm cho lợn con mẫn cảm hơn
với mầm bệnh trong một vài loại thức ăn.
Tiêu chảy sau cai sữa có thể do rối loạn hấp thu và mất các chất điện giải
kết hợp với giảm tính thèm ăn dẫn đến năng suất lợn sau cai sữa bị giảm. Vì vậy,
cho lợn con tập ăn sớm trong giai đoạn bú sữa và lượng thức ăn thu được có thể
sẽ làm tăng khả năng chống chịu với mầm bệnh.
2.1.7. Ảnh hưởng của cai sữa đến sự thay đổi hình thái học của niêm mạc ruột
non ở lợn con
Cấu trúc đặc trưng nhất của niêm mạc ruột non ở động vật có vú nói chung
và của lợn nói riêng là sự tồn tại của các lông nhung (đơn vị hấp thu nhỏ nhất của
cơ quan tiêu hóa). Vùng niêm mạc giữa các lông nhung tồn tại các hốc nhỏ, nơi
mà từ đó dịch ruột và các chất lỏng khác được tiết vào khoang ruột. Ở những lợn
con khỏe mạnh, chiều cao của lông nhung dài gấp 3 - 4 lần so với chiều sâu của
các hốc giữa chúng. Tương quan giữa chiều cao lông nhung và độ sâu của các
hốc phản ánh tình trạng và khả năng hấp thu của niêm mạc ruột non. Nhiều công
trình nghiên cứu đã chứng tỏ giữa chiều cao lông nhung và tốc độ sinh trưởng
của lợn con giai đoạn sau cai sữa có tương quan rất chặt chẽ. Theo Li et al.
(1990), hệ số tương quan giữa tốc độ sinh trưởng và chiều cao của lông nhung là:
r = 0,63; P<0,05. Trong một công trình nghiên cứu khác của Pluske et al. (1996)
cho thấy hệ số tương quan này là: r = 0,78; P<0,05. Nếu giảm chiều cao của lông

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 8



nhung sẽ dẫn đến giảm diện tích bề mặt hấp thu, giảm hàm lượng enzyme trong
mỗi tế bào niêm mạc ruột. Nhiều công trình nghiên cứu đã khẳng định cai sữa
làm giảm chiều cao của lông nhung và tăng độ sâu của các hốc niêm mạc ruột ở
lợn con trong những ngày đầu cai sữa (Kenworthy, 1976; Smith, 1984; Hamspon,
1986; Dunsford et al., 1989). Chiều cao của các lông nhung và tăng độ sâu của
các hốc nhỏ giữa chúng trong niêm mạc ruột non, giải thích cho hiện tượng giảm
khả năng tiêu thụ thức ăn, giảm khả năng hấp thu các chất dinh dưỡng, tăng tỉ lệ
mắc bệnh tiêu chảy sau cai sữa và dẫn đến giảm thậm chí ngừng tốc độ sinh
trưởng của lợn con trong giai đoạn sau cai sữa (hiện tượng ức chế sau cai sữa)
(Pluske et al., 1996).
2.2. NĂNG SUẤT SINH SẢN CỦA LỢN NÁI
Năng suất sinh sản của lợn nái chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố. Nó
không chỉ được quyết định bởi lợn nái mà còn bị tác động rất lớn bởi các yếu tố
bên ngoài. Những yếu tố bên ngoài vừa liên quan trực tiếp đến lợn nái lại vừa
liên quan đến lợn con.
2.2.1. Khả năng sinh sản
Khả năng sinh sản của lợn nái là chỉ tiêu kỹ thuật, kinh tế hết sức quan
trọng. Nó phản ánh phẩm chất giống của con nái và kỹ thuật chăn nuôi. Khả năng
sinh sản của lợn nái được đánh giá theo các chỉ tiêu: số con sơ sinh/ổ, số lợn con
cai sữa/lứa, số con cai sữa/nái/năm, chất lượng đàn con,...
2.2.2. Khả năng tiết sữa
Khả năng tiết sữa của lợn mẹ là chỉ tiêu nói lên khả năng nuôi con của lợn mẹ,
đặc điểm của giống và kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng lợn nái của cơ sở chăn nuôi.
Lợn không có bể sữa, do đó không thể đo lượng sữa của lợn mẹ bằng cách vắt
sữa mà chỉ có thể đo lượng sữa thông qua khối lượng của đàn con. Khi so sánh đàn
lợn con nào có khối lượng cao hơn thì khả năng tiết sữa của lợn mẹ tốt hơn.
2.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới năng suất sinh sản của lợn nái
* Yếu tố di truyền
Yếu tố di truyền ở đây là thành tích sinh sản của giống mà cụ thể là con nái.
Thành tích sinh sản của con nái thông thường đặc trưng cho giống và cũng mang

tính cá thể.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 9


* Đực giống
Yếu tố đực giống ảnh hưởng tới năng suất sinh sản của lợn nái thông qua số
lần phối và phương thức phối giống.
Số lần phối giống trong lần động dục ở lợn nái ảnh hưởng tới số con sinh
ra/ổ. Phối đơn trong một chu kì động dục ở lúc động dục cao nhất có thể đạt số
con đẻ ra/ổ cao nhưng phối hai lần trong một chu kì động dục làm tăng số con đẻ
ra/ổ. Khi phối giống cho lợn nái trực tiếp ba lần, mỗi lần cách nhau 24 giờ sẽ
tăng hơn 1,3 con/ổ so với phối 2 lần.
Phối giống kết hợp giữa thụ tinh nhân tạo và nhảy trực tiếp có thể tăng 0,5
lợn con so với phối giống riêng rẽ.
* Nhân tố môi trường
Ngoài các nhân tố tác động do di truyền, các nhân tố tác động do ngoại
cảnh cũng ảnh hưởng rõ ràng và có ý nhĩa đến năng suất sinh sản của lợn nái
như: chế độ nuôi dưỡng, bệnh tật, phương thức nuôi nhốt, mùa vụ, nhiệt độ, thời
gian chiếu sáng đều ảnh hưởng đến các chỉ tiêu năng suất sinh sản của lợn nái.
* Tuổi và lứa đẻ
Tuổi lợn nái liên quan trực tiếp đến số lứa đẻ. Thông thường số con đẻ ra ở
mỗi lứa tăng dần từ lứa 1 – 3, ổn định cho đến lứa 6 – 7 và sau đó có chiều hướng
giảm đi (Richard et al., 2001). Số con bị giảm chủ yếu liên quan đến tỉ lệ chết
phôi tăng ở các lứa về sau, không phải là do số trứng rụng bị giảm. Ngoài ra, số
con đẻ ra còn sống ở lứa đầu còn thấp do lợn nái thường sợ hãi khi đẻ và tỷ lệ thụ
thai thấp, tỷ lệ chết thai cao.
* Thời gian nuôi con

Thời gian nuôi con kéo dài hay ngắn còn ảnh hưởng đến mức độ hao hụt
của con nái, do đó cũng ảnh hưởng đến chất lượng lứa đẻ sau. Nếu phải nuôi con
trong thời gian dài thì sau khi cai sữa con nái cần có thời gian dài hơn để phục
hồi lại trạng thái sức khỏe đảm bảo cho các lứa đẻ tiếp theo.
* Số con để lại nuôi
Lợn nái thường có 12 - 16 vú, phổ biến là 14 vú. Nếu số con sinh ra nhiều
thì người ta thường để lại nhiều nhất là số con bằng số vú. Do khả năng tiết sữa
của lợn mẹ và số con để nuôi có mối tương quan chặt chẽ, khi số con để lại nuôi
càng ít thì khả năng tiết sữa của lợn mẹ càng lớn và ngược lại. Tuy nhiên không

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 10


nên nuôi quá ít lợn con vì hiệu quả kinh tế thấp và không đánh giá hết tiềm năng
sinh sản thực của nái (Phạm Quang Hùng và cs., 2006).
* Mùa vụ
Mùa vụ có ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của lợn nái thông qua số con
đẻ ra. Trong điều kiện nhiệt độ cao của mùa hè sẽ làm giảm khả năng thu nhận
thức ăn của lợn nái. Tỷ lệ hao hụt sẽ tăng từ đó kéo dài thời gian động dục trở lại
sau cai sữa. Khi nuôi lợn nái trong điều kiện nhiệt độ cao còn giảm tỷ lệ thụ thai,
giảm sức sống của bào thai.
2.3. NHU CẦU DINH DƯỠNG CỦA LỢN CON
Lĩnh vực dinh dưỡng cho lợn con còn nhiều thách thức. Một khẩu phần sau
cai sữa cần đảm bảo đầy đủ chất lượng để giảm bớt "shock" và hậu quả của cai
sữa sớm. Giảm giá thành sản phẩm bằng cách giảm chất lượng sẽ kéo dài dấu
hiệu giảm tăng trưởng sau cai sữa do ảnh hưởng tiêu cực trên chỉ tiêu sinh trưởng
và sức khoẻ của lợn con.
Tuy nhiên, lợn con càng lớn, nhu cầu sữa càng nhiều nhưng lượng tiết sữa

của lợn mẹ lại giảm từ tuần thứ 3 và 4 rõ rệt. Tuần thứ 3, do lượng sữa giảm nên
không cung cấp đủ năng lượng cho lợn con, vì vậy nên tập ăn sớm cho lợn con.
2.3.1. Lượng thức ăn hàng ngày và số lần cho ăn trong ngày
Cho ăn với một lượng nhỏ và khoảng cách đều đặn đã nâng cao được năng
suất của lợn con. Phương pháp nuôi dưỡng này người chăn nuôi có thể khắc phục
được 2 vấn đề, một là tránh tồn dư thức ăn lâu trong máng, hai là tăng khả năng
hấp thu của lợn con.
Sau khi cai sữa, lợn con thường bị khủng hoảng, tránh tình trạng đó cần
giảm thức ăn hằng ngày. Cách giảm lượng thức ăn cho ăn hàng ngày như sau:
Ngày đầu cai sữa giảm 1/2 lượng thức ăn so với ngày trước cai sữa;
Ngày tiếp theo cai sữa giảm 1/3 lượng thức ăn so với ngày trước cai sữa;
Ngày tiếp theo sữa giảm 1/4 lượng thức ăn so với ngày trước cai sữa.
Sau đó nếu quan sát thấy lợn không có vấn đề gì về đường tiêu hóa thì cho
lợn ăn bình thường như trước ngày cai sữa rồi tăng dần theo nhu cầu của lợn con.
Theo Pluske et al. (1996), những lợn con được ăn một bữa trong ngày bị ỉa
chảy nhiều hơn so với nhóm lợn được ăn tự do, trái lại những con cho ăn hạn chế
năng suất lại khá nhất. Việc ăn quá nhiều có thể dẫn đến ứ máu trong dạ dày,
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 11


ruột. Vì vậy, cho ăn hạn chế trong thời gian sau cai sữa có hiệu quả rõ rệt đối với
việc phòng tránh bệnh ỉa chảy. Số lần cho ăn ảnh hưởng đến khả năng tiêu hóa
của lợn con. Khi cho ăn được ăn 3 lần/ngày thì sẽ tiêu hóa được 13,5% nhưng khi
cho ăn 5 lần/ngày thì sẽ tiêu hóa được 19,7%.
2.3.2. Nhu cầu về năng lượng
Khi nghiên cứu chế biến và phối trộn thức ăn cho lợn cũng cần chú ý đến
mức năng lượng trong 1kg thức ăn. Nhu cầu năng lượng của lợn tăng lên theo tuần
tuổi nhưng nhu cầu năng lượng tính cho 1kg khối lượng cơ thể giảm theo tuổi.

Nguồn cung cấp năng lượng chủ yếu cho vật nuôi là các loại hạt ngũ cốc
như: ngô, thóc, gạo, cám gạo, cao lương, lúa mì,… Ngô vàng được coi là một loại
thức ăn giàu cấp năng lượng, chứa nhiều axít béo thiết yếu và nhiều carotene (tiền
vitamin A).
Từ khi đẻ ra đến 21 ngày tuổi, nguồn dinh dưỡng chủ yếu của lợn con là do
sữa lợn mẹ cung cấp. Vì thế, số lượng và chất lượng của sữa lợn mẹ ở giai đoạn
này ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của lợn con.
2.3.3. Nhu cầu protein và axit amin
Lợn con bú sữa có tốc độ phát triển mạnh về hệ cơ và khả năng tích lũy
protein lớn do đó đòi hỏi về số lượng và chất lượng protein cao. Trong 2 tuần đầu
lượng sữa của lợn nái đạt đến mức cực thịnh, lợn con hầu như đã nhận được đầy
đủ lượng protein cần thiết cho sự phát triển của cơ thể. Từ tuần tuổi thứ 3 cần bổ
sung thêm protein để không ảnh hưởng đến tốc độ phát triển của lợn con. Trong
khẩu phần ăn của lợn con cần có từ 18 – 20% protein thô, tỷ lệ protein và năng
lượng đảm bảo từ 120 – 130g protein tiêu hóa/2500 kcal ME.
Khi định mức protein cho các loại lợn cần chú ý đến chất lượng protein.
Tuy nhiên, giá trị sinh vật học của protein phụ thuộc vào thành phần các axit
amin của nó. Nếu khẩu phần ăn thiếu một axit amin nào đó nhu cầu về protein
tăng lên rất nhiều. Khẩu phần ăn của gia súc càng hoàn chỉnh, có đủ thành phần
các axit amin sẽ làm giảm mức tiêu tốn thức ăn. Đối với lợn con bú sữa quan
trọng nhất là lysine và methionine, đôi khi còn thêm tryptophan. Trong protein
thô của khẩu phần ăn cho lợn con bú sữa cần có 5 – 5,6% lysine; 3 – 3,2%
methionine và 1,4 – 1,5% tryptophan. Để bổ sung các axit amin thiết yếu cho lợn
con cách tốt nhất là dùng axit amin tổng hợp vì các loại axit amin tổng hợp
thường được tiêu hóa 100% (Võ Trọng Hốt và cs., 2000).

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 12



Như vậy, nhu cầu protein của lợn con chính là nhu cầu về các axit amin
thiết yếu. Nếu bổ sung không đầy đủ các axit amin thiết yếu cho lợn con, cả
về mặt số lượng và tỷ lệ các axit amin sẽ dẫn đến sinh trưởng của lợn con bị
ảnh hưởng, lợn chậm lớn, còi cọc, ảnh hưởng đến khả năng sản xuất của các
giai đoạn tiếp theo.
2.3.4. Nhu cầu khoáng chất
Khoáng ngoài chức năng cấu tạo mô cơ thể, khoáng còn tham gia vào nhiều
quá trình chuyển hoá của mô cơ thể. Trong thành phần cấu tạo của nhiều enzyme
có mặt các nguyên tố khác nhau. Vì thế, thiếu khoáng con vật sẽ bị rối loạn trao
đổi chất, sinh trưởng, sinh sản bị ngừng trệ, sức sản xuất giảm.
Sữa của lợn mẹ có đầy đủ các chất dinh dưỡng nhưng hàm lượng các chất
khoáng trong sữa mẹ thấp, trong đó các chất khoáng như: canxi (Ca); photpho
(P); magie (Mg); iốt (I); sắt (Fe); đồng (Cu); kẽm (Zn).
Ca và P: Hai nguyên tố này có vai trò rất quan trọng trong hình thành xương.
Nếu cung cấp thiếu Ca sẽ có nguy cơ dẫn đến hiện tượng còi xương ở lợn con.
Mức cung cấp trong khẩu phần đối với Ca là 0,8% so với vật chất khô khẩu phần,
đối với P là 0,6% so với vật chất khô khẩu phần. Nguồn Ca và P được thường được
bổ sung trong khẩu phần ăn cho lợn con là bột xương, vôi bột, bột đá,...
Fe và Cu: Hai yếu tố này chủ yếu tham gia vào quá trình tạo máu cho lợn
con và là hai yếu tố bị hạn chế trong quá trình tạo sữa của lợn mẹ; vì vậy cần
phải cung cấp trong khẩu phần đầy đủ cho lợn con. Lượng sắt bổ sung vào khẩu
phần ở mức 80ppm và bổ sung ở dạng FeSO2 (FeSO4. 7H20). Tuy nhiên, hiện
tượng thiếu máu do thiếu sắt thường xảy ra rất sớm trên lợn con, bởi vậy để khắc
phục hiện tượng cần phải thực hiện bổ sung sắt bằng cách tiêm dextran sắt cho
lợn con (Nguyễn Thiện và Võ Trọng Hốt, 2007). Thông thường 1ml dextran sắt
chứa từ 100 đến 150mg sắt. Người chăn nuôi cần tiến hành tiêm lần thứ nhất vào
ngày thứ 3 sau khi đẻ và có thể tiêm lần thứ 2 vào ngày thứ 13. Phương pháp này
rất đơn giản và mang lại hiệu quả cao.
Đồng chỉ cần một lượng rất nhỏ bổ sung vào khẩu phần cho lợn con với

mức từ 6 – 8ppm. Song đối với lợn con bú sữa lượng đồng có thể bổ sung vào
khẩu phần với lượng từ 125 - 250ppm đem lại tốc độ sinh trưởng cao hơn. Dạng
bổ sung đồng vào trong khẩu phần ăn cho lợn con thường là: CuSO4. 5H2O,
CuO, CuCO3 (Nguyễn Thiện và Võ Trọng Hốt, 2007).

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 13


2.3.5. Nhu cầu vitamin
Từ “vitamin” miêu tả một hợp chấp hữu cơ khác với axit amin,
carbohydrate, lipit và cơ thể của vật nuôi chỉ cần một lượng nhỏ cho sự tăng
trưởng và sinh sản bình thường. Một số vitamin có thể được tổng hợp từ các thức
ăn hoặc các chất đồng hoá khác hoặc do các vi khuẩn tạo ra trong đường ruột.
Vitamin tham gia vào hầu hết các quá trình trao đổi chất và hoạt động của
cơ thể như: là chất xúc tác sinh học, xúc tiến việc tổng hợp, phân giải các chất
dinh dưỡng. Trong cơ thể của vật nuôi có tới 850 loại enzyme trong đó có khoảng
120 loại có thành phần của vitamin tham gia. Vitamin còn có trong các tế bào cơ
thể và giúp lợn sinh trưởng phát dục bình thường. Cơ thể lợn thường xuyên nhận
được nguồn vitamin từ thức ăn. Tuy nhiên với đối tượng lợn khác nhau sẽ có nhu
cầu vitamin khác nhau.
Vitamin được chia ra thành 2 nhóm: vitamin hoà tan trong mỡ và vitamin
hoà tan trong nước. Nhóm vitamin hoà tan trong mỡ bao gồm: các vitamin A, D,
E và K. Nhóm vitamin hòa tan trong nước bao gồm: các vitamin nhóm B và
vitamin C.
Vitamin A có tác dụng bảo vệ lớp tế bào biểu mô cũng như hình thành nên lớp
ngoài của màng nhày của nhiều hệ cơ quan hô hấp, cơ quan sinh sản và hệ thần kinh.
Đồng thời, nó có chức năng rất quan trọng đối với hoạt động thị giác; vì vậy, nếu thiếu
vitamin A có thể dẫn đến mù. Nhu cầu của vitamin A ở lợn trong 8 tuần tuổi đầu tiên

cần 75 - 605mg retinol acetate/kg thức ăn (Sheffy et al., 1954; Frape et al., 1959).
Theo NRC (1998), nhu cầu vitamin A của lợn từ 3 - 10kg là 2200 IU/kg khẩu phần).
Vitamin D có nhiều loại song có 2 loại có giá trị đối với lợn đó là vitamin D2
và D3. Vitamin D3 tham gia vào chuyển hoá Ca, P, làm tăng sự hấp thu Ca, P ở vách
ruột thông qua việc tạo pH thích hợp và tổng hợp nên protein vật mang. Nếu thiếu
vitamin D3 dẫn đến chức năng của cơ không bình thường do sự méo mó của các
xương đang phát triển ở lợn con dẫn đến còi xương. Nhu cầu vitamin D3 của lợn
con dùng khẩu phần casein - glucose là 100 IU/kg thức ăn (Miller et al., 1964).
Theo NRC (1998), nhu cầu vitamin D3 ở lợn con là 220 IU/kg khẩu phần.
Vitamin E là một trong những vitamin quan trọng đối với lợn. Chức năng
của vitamin E là chống ôxy hoá màng tế bào. Thiếu vitamin E dẫn đến hàng loạt
các điều kiện bệnh lý như: suy thoái khung xương, cơ tim, tắc nghẽn mạch, sừng
hoá dạ dày, thiếu máu, hoại tử gan và chết bất ngờ.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 14


Nhóm các vitamin hoà tan trong nước có vai trò quan trọng trong sự trao
đổi chất trong cơ thể. Nhiều vitamin thuộc nhóm này có trong nguồn thức ăn tự
nhiên và nồng độ đủ để ngăn ngừa hiện tượng thiếu trong điều kiện bình thường.
Tuy nhiên, nếu thiếu các vitamin nhóm này dẫn đến động vật giảm toàn bộ hoạt
động trao đổi chất, giảm tốc độ sinh trưởng và hiệu quả chuyển hoá thức ăn cũng
như khả năng thu nhận thức ăn.
Vitamin B1 (Thiamin) tham gia vào quá trình trao đổi chất, chống viêm dây
thần kinh, khử carboxyl của axit pyruvic. Miller et al. (1955) ước tính nhu cầu
thiamin của lợn từ 2 - 10kg là 1,5 mg/kg thức ăn. Lợn cai sữa lúc 3 tuần tuổi
nuôi tới 40kg cần khoảng 1,0 mg thiamin/kg thức ăn (Etten et al., 1940). NRC
(1998) đưa ra nhu cầu thiamin cho lợn từ 5 - 10kg là 1,0 mg/kg thức ăn.

Vitamin B2 (Riboflavin) tham gia vào quá trình ôxy hoá hoàn nguyên, sự hô
hấp của mô bào, vận chuyển hyđrô. Ngoài ra, vitamin B2 còn tham gia vào quá
trình tạo hemoglobin để phòng bệnh thiếu máu, tham gia vào sự hình thành axit
chlohydric của dịch vị và muối mật. Thiếu B2 dẫn đến động vật giảm tốc độ sinh
trưởng, viêm da, rụng lông, ỉa chảy, nôn mửa. Nhu cầu vitamin B2 của lợn con từ
3 - 5kg là 4 mg/kg khẩu phần, và 5 - 10kg là 3,5 mg/kg khẩu phần.
Vitamin C (Ascorbic acid) là một chất ôxy hoá tan trong nước, tham gia quá
trình ôxy hoá các axit amin có vòng thơm. Vitamin C tăng cường sự tạo khung
xương và răng. Thiếu vitamin C, vật nuôi sẽ xuất huyết lấm tấm toàn thân.
2.3.6. Nhu cầu nước của lợn
Nước có chức năng chính tạo hình cơ thể thông qua hình thể tế bào và giữ
vai trò tối quan trọng trong việc điều hòa nhiệt độ cơ thể. Mặc dù trong 3 tuần
đầu lợn thường ăn ít thức ăn ăn vào, song lượng thức ăn thu nhận sẽ ít hơn nếu
không cung cấp đủ nước uống (NRC, 2000).
Nước chiếm 50 - 60% trọng lượng cơ thể. Trong máu và sữa, nước chiếm đến
80 - 95%. Vì vậy, nếu cơ thể mất 10% nước sẽ gây rối loạn chức năng trao đổi chất
và nếu mất 20% lượng nước cơ thể, lợn con sẽ chết (Trương Lăng, 2003).
2.4. HỘI CHỨNG TIÊU CHẢY Ở LỢN CON
Trong chăn nuôi lợn con, hội chứng tiêu chảy ở lợn con xuất hiện khá phổ
biến và gây nhiều thiệt hại về kinh tế.
2.4.1. Khái niệm chung về hội chứng tiêu chảy
Tiêu chảy là biểu hiện lâm sàng của quá trình bệnh lý đặc thù ở đường tiêu
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 15


hóa. Biểu hiện lâm sàng này tùy theo đặc điểm, tính chất diễn biến, mức độ tuổi
mắc bệnh. Tùy theo yếu tố được coi là nguyên nhân chính mà nó được gọi theo
nhiều tên bệnh khác nhau như: bệnh xảy ra với gia súc non theo mẹ được gọi là

bệnh phân trắng lợn con, còn ở gia súc sau cai sữa là chứng khó tiêu, chứng rối
loạn tiêu hóa,... Tiêu chảy luôn là triệu chứng phổ biến trong các dạng bệnh của
đường tiêu hóa, xảy ra mọi lúc, mọi nơi và đặc biệt là gia súc non có biểu hiện
triệu chứng là ỉa chảy, mất nước và mất chất điện giải, suy kiệt cơ thể và có thể
dẫn đến trụy tim mạch (Radostits et al., 1994).
Tiêu chảy ở gia súc là một hiện tượng bệnh lý phức tạp gây ra bởi sự tác
động tổng hợp của nhiều yếu tố. Một trong những nguyên nhân quan trọng là sự
tác động của ngoại cảnh bất lợi gây ra các stress cho cơ thể. Mặt khác do quá
trình chăm sóc, nuôi dưỡng kém, chuồng trại không được vệ sinh sạch sẽ thường
xuyên, thức ăn và nước uống bị nhiễm khuẩn,... cũng tạo điều kiện thuận lợi cho
các vi sinh vật gây bệnh xâm nhập vào vật chủ, đặc biệt là các vi sinh vật gây
bệnh đường tiêu hóa dẫn tới sự nhiễm khuẩn và dễ xảy ra loạn khuẩn đường ruột.
Đây là một trong những nguyên nhân đóng vai trò quan trọng trong hội chứng
tiêu chảy ở lợn con. Đặc điểm của sự rối loạn về tiêu hóa thường gây tiêu chảy
nhiều lần trong ngày, trong phân có nhiều nước so với bình thường do tăng tiết
dịch ruột.
2.4.2. Một số nguyên nhân gây tiêu chảy
Có nhiều nguyên nhân gây ra tiêu chảy, tùy từng giai đoạn, lứa tuổi của lợn
mà có các nguyên nhân khác nhau. Xác định được chính xác nguyên nhân gây
bệnh là rất cần thiết, giúp chúng ta đưa ra những biện pháp phòng ngừa và chữa trị
kịp thời.
+ Bộ máy tiêu hóa của lợn con: Lợn con mới sinh bộ máy tiêu hóa phát
triển chưa hoàn chỉnh, khả năng tiết dịch tiêu hóa chưa đầy đủ. Lượng axit
chlohydric (HCl) tự do ít, không đủ để làm giảm độ pH trong ruột non làm ức
chế quá trình xâm nhập và phát triển của vi khuẩn gây tiêu chảy ở lợn con. Các
enzyme tiêu hóa ở dạ dày và ruột non cũng còn quá ít, không đủ để tiêu hóa các
loại thức ăn đơn giản.
+ Chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng kém: Không cho lợn con bú sữa đầu đầy
đủ. Sữa đầu ngoài thành phần dinh dưỡng cao còn có chứa một lượng kháng thể
từ mẹ truyền sang, giúp lợn con phòng chống bệnh trong 3 – 4 tuần lễ đầu. Do

vậy, lợn con phải được bú sữa đầu càng sớm càng tốt. Sau 24 giờ kháng thể trong
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 16


sữa đầu sẽ giảm thấp, đồng thời lúc này enzyme tiêu hóa protein bắt đầu hoạt
động sẽ phá hủy hết kháng thể trong sữa.
Vệ sinh cuống rốn không tốt, lợn con sẽ bị viêm rốn, do đó sẽ rất dễ bị tiêu
chảy. Sắt rất cần cho lợn con để tạo hồng cầu, do trong sữa mẹ rất ít sắt nên phải
cung cấp thêm cho lợn con. Nếu lợn con không được tiêm sắt sẽ gây thiếu sắt dẫn
đến thiếu máu, tiêu chảy. Vì vậy, người chăn nuôi cần tiêm sắt cho lợn con vào
khoảng 3 – 4 ngày tuổi sau khi sinh để phòng thiếu sắt cho lợn con. Do vệ sinh
chuồng trại kém, chuồng trại ẩm ướt, không sạch sẽ đây cũng là nguyên nhân
gián tiếp gây ra tiêu chảy ở lợn con. Ngoài ra, nguyên nhân có thể do thức ăn,
nước uống của lợn mẹ và lợn con không đảm bảo vệ sinh và chất lượng kém
hoặc thức ăn có chứa nấm mốc và độc tố,...
+ Không giữ ấm cho lợn con: Lợn con bị lạnh sẽ dễ bị tiêu chảy do hoạt động
tiết dịch tiêu hóa bị giảm. Do vậy, cần làm chuồng úm đúng cách cho lợn con.
+ Nhiễm trùng đường ruột: Thường do các loài vi khuẩn đường ruột như:
E.coli, Salmonella, Shigella, Proteus, Clostridium, Campylobacter, Treponema
hyodysenteriae,... hoặc do các loại virus như: Rota virus,Corona virus, hoặc
cũng có thể do nhiễm ký sinh trùng như: giun đũa lợn, sán lá ruột lợn,
Sryptosporidium. Chúng sống trong đường ruột của lợn con hoặc nhiễm từ môi
trường bên ngoài vào và sẽ gây bệnh khi cơ thể lợn con không khỏe mạnh.
2.4.3. Tình hình tiêu chảy của lợn con
Lợn con bị tiêu chảy là do nhiều nguyên nhân, thứ nhất lợn mẹ bị viêm vú,
viêm tử cung, mất sữa. Thứ hai là lợn con bị lạnh do độ ẩm, lạnh do không úm
hoặc úm không tốt. Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tiêu chảy ở lợn con.
Thứ ba là chăm sóc lợn mẹ, thức ăn cho lợn mẹ và đỡ đẻ không tốt, và không

cung cấp đủ nước uống. Thứ tư là do chuồng trại bị ô nhiễm.
Cai sữa gây stress trên lợn con làm ảnh hưởng đến sinh trưởng, sinh lý, dịch
bệnh, đặc biệt là tiêu chảy do E.coli. Ngày đầu tiên sau khi tách mẹ, lợn con ăn rất
ít, hiện tượng tiêu chảy gần như chưa có. Ngày tiếp theo lợn con bắt đầu ăn tăng
lượng thức ăn, hiện tượng tiêu chảy xuất hiện và tiêu chảy hàng loạt đạt đỉnh điểm
vào ngày thứ 3 và thứ 4, sau đó bắt đầu giảm dần vào các ngày tiếp theo.
1.4.4. Một số biện pháp phòng và trị tiêu chảy cho lợn con
Tùy theo nguyên nhân gây bệnh, người chăn nuôi có thể đưa ra các phác đồ
phòng và điều trị tiêu chảy ở lợn con khác nhau. Một số biện pháp phòng và điều

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 17


trị chính cho lợn con như sau:
Tập trung giải quyết vấn đề môi trường, tiêu độc để giải quyết mầm bệnh,
đảm bảo nhiệt độ chuồng nuôi 30 – 340C đối với lợn con theo mẹ và 29 – 300C
với lợn con sau cai sữa.
Nâng cao sức đề kháng cho lợn con: Cho lợn con bú sữa đầu, tiêm sắt phòng
thiếu máu, cung cấp protein chất lượng cao, bổ sung chất điện giải, khoáng chất,
vitamin trong khẩu phần ăn hàng ngày,…c ó thể bổ sung thêm enzyme tiêu hóa.
Nếu do vi khuẩn phải điều trị bằng kháng sinh phổ rộng, có thể kết hợp 2 3 loại kháng sinh để nâng cao hiệu quả điều trị.
2.5. CHẤT ĐIỀU VỊ
2.5.1 Khái niệm
Chất điều vị (flavor enhancers/potentiators) là tên gọi chung của một số
phụ gia thực phẩm để làm tăng hương vị hiện có của các thực phẩm mà nó
được thêm vào.
Những năm gần đây, nhờ những phương pháp hiện đại, các nhà khoa học đã
xác định có những vị trí tiếp nhận chất điều vị Monosodium glutamate trên lưỡi

tạo ra sự cãm nhận về vị của chúng. Trong số các chất làm tăng hương vị; acid
glutamic, các muối glutamate và các ribonucleotides là hợp chất có vai trò quan
trọng và được sử dụng rộng rãi nhất trong công nghiệp chế biến thực phẩm.
2.5.2 Một số chất điều vị thường dùng
- Monosodium glutamate (MSG)
Axit glutamic, một trong 20 loại axit amin cấu thành nên protein trong cơ
thể sinh vật, là chất tạo vị ngọt “thịt” cơ bản có trong thịt các loại động vật,
protein thực vật.
Bảng 2.1. Axit glutamic và muối của nó
Tên hợp chất

Mã INS

Ghi chú

Axit glutamic
Monosodium glutamate

620
621

MSG-Bột ngọt

Monopotassium glutamate
Canxi diglutamate
Monoammonium glutamate
Magie diglutamate

622
623

624
625

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 18


Năm 1908, MSG được giáo sư Kikunae Ikeda, trường Đại học Hoàng gia
Tokyo - Nhật Bản phát hiện ra khả năng tạo một loại vị mới và ông đặt tên là vị
umani. MSG được thương mại hóa vào năm 1909 và sản phẩm được dùng trong
công nghiệp thực phẩm ở dạng tinh thể màu trắng không mùi, không hút ẩm.
Chúng có độ hòa tan trong nước cực lớn (74gr/100ml nước, ở 250C) và phân ly ở
dạng ion glutamate và sodium (natri).
Trên thị trường hiện nay có nhiều loại muối glutamate khác nhau nhưng chỉ có
muối sodium (MSG) là loại có độ hòa tan cao nhất, tạo ra vị dễ chịu, thích hợp
cũng như dễ dàng kết tinh trong quá trình sản xuất; do đó, chúng được sử dụng
chủ yếu trong chế biến thực phẩm gia đình cũng như trong công nghiệp. MSG
bền nhiệt trong điều kiện chế biến thông thường. Tuy nhiên, ở nhiệt độ cao,
giống như các axit amin khác, chúng cũng tham gia vào phản ứng Maillard khi
có mặt các phân tử đường.
Glutamate không bị phân hủy trong quá trình chế biến thực phẩm bình
thường hoặc trong nấu nướng. Glutamate sẽ bị biến đổi và mất khả năng tạo vị
umani khi bị đốt cháy liên tục ở nhiệt độ 3000C trong 2 giờ (nhiệt độ cao nhất đạt
được trong quá trình nấu thông thường là khoảng 2600C – đây là nhiệt độ sôi cao
nhất của dầu ăn). Trong môi trường rất axit (pH 2,2 - 4,4) ở nhiệt độ rất cao, một
phần của glutamate mất nước và bị chuyển đổi thành 5-pyrolidone-2carboxylate.
Ở nhiệt độ rất cao, glutamate chuyển thành DL-glutamate trong môi trường axit
mạnh hoặc kiềm mạnh, đặc biệt là môi trường kiềm. Phản ứng Maillard (hay
Brown reaction: phản ứng màu nâu) xảy ra khi glutamate kết hợp với đường khử

các axit amin khác (Yoshida, 1978).
Công thức phân tử của MSG là C5H8NO4Na hoặc ở dạng ngậm một phân tử
nước C5H8NO4Na.H2O, trọng lượng phân tử là 169gr/mol (dạng khan).

Công thức cấu tạo MSG
Trước đây, MSG được cho là có vị hơi giống thịt và vị này là một yếu tố
làm tăng cường vị của các thực phẩm khác, đặc biệt là thực phẩm giàu protein

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 19


×