Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

đánh giá hiệu quả sử dụng đất sau dồn điền đổi thửa tại huyện thạch thất, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.67 MB, 106 trang )

MỤC LỤC
Lời cam đoan

I

Lời cảm ơn

II

Mục lục

III

Danh mục các chữ viết tắt

VI

Danh mục bảng

VII

Danh mục hình

IX

MỞ ĐẦU

1

1 Tính cấp thiết của đề tài


1

2 Mục đích nghiên cứu

2

3 Yêu cầu của đề tài

3

CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU

4

1.1 Tổng quan về chính sách quản lý và sử dụng đất nông nghiệp

4

1.1.1 Giai đoạn 1945-1981

4

1.1.2 Giai đoạn 1981-1988

5

1.1.3 Sự phát triển của quản lý ruộng đất sau đổi mới

6


1.2 Tổng quan về dồn điền đổi thửa

7

1.2.1 Vấn đề manh mún đất đai

7

1.2.2 Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài

9

1.2.3 Tình hình nghiên cứu dồn điền đổi thửa ở Việt Nam

11

1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp

25

1.3.1 Nhóm các yếu tố về điều kiện tự nhiên

25

1.3.2 Nhóm các yếu tố kinh tế - xã hội

25

1.4 Tình hình phân bố và sử dụng đất Nông nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội.


27

1.4.1 Tình hình manh mún sử dụng đất Nông nghiệp trên địa bàn.

27

1.4.2 Những lợi thế của công tác dồn điền đổi thửa ở thành phố Hà Nội.

28

CHƯƠNG 2 NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

29

2.1 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

29

2.1.1 Đối tượng nghiên cứu

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

29

Page iii


2.2 Nội dung nghiên cứu

29


2.2.1 Điều kiện tự nhiên - kinh tế xã hội huyện Thạch Thất

29

2.2.2 Thực trạng và quá trình tiến hành dồn điền đổi thửa huyện Thạch Thất

29

2.2.3 Ảnh hưởng của công tác dồn điền đổi thửa đến sử dụng đất sản xuất
nông nghiệp trên địa bàn nghiên cứu

29

2.3 Phương pháp nghiên cứu

30

2.3.1 Phương pháp chọn điểm nghiên cứu

30

2.3.2 Phương pháp thu thập thông tin số liệu thứ cấp

30

2.3.3 Phương pháp thu thập thông tin số liệu sơ cấp

30


2.3.4 Phương pháp xử lý số liệu

30

2.3.5 Phương pháp phân tích và so sánh số liệu

30

CHƯƠNG 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

31

3.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện Thạch Thất

31

3.1.1 Điều kiện tự nhiên

31

3.1.2 Điều kiện kinh tế - xã hội

36

3.2 Hiện trạng sử dụng đất trên địa bàn huyện

42

3.2.1 Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp


42

3.2.2 Hiện trạng sử dụng đất phi nông nghiệp

43

3.2.3 Đất chưa sử dụng

45

3.3 Tình hình thực hiện chính sách dồn điền đổi thửa trên địa bàn huyện
Thạch Thất

45

3.3.1 Cơ sở pháp lý của việc dồn điền đổi thửa

45

3.3.2 Tổ chức thực hiện công tác dồn điền, đổi thửa

47

3.3.3 Kết quả thực hiện dồn điền đổi thửa ở huyện Thạch Thất

50

3.3.4 Kết quả dồn điền đổi thửa tại các xã nghiên cứu

53


3.3.5 Những tác động cơ bản sau dồn điền đổi thửa tại địa bàn nghiên cứu

54

3.3.6 Dồn đổi ruộng đất góp phần làm nâng cao hiệu quả xã hội

78

3.3.7 Dồn đổi ruộng đất góp phần bảo vệ môi trường

79

3.3.8 Những khó khăn vướng mắc trong quá trình dồn điền đổi thửa

79

3.4 Quan điểm và một số giải pháp nhằm khuyến khích dồn điền đổi thửa để

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page iv


nâng cao hiệu quả sử dụng đất Nông nghiệp

81

3.4.1 Những quan điểm chủ yếu:


81

3.4.2 Những giải pháp chính:

82

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

86

Kết luận

86

Kiến nghị

88

TÀI LIỆU THAM KHẢO

90

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page v


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Ký hiệu
BCĐ


Chú giải
: Ban chỉ đạo

CHN

: Cây hàng năm

CLN

: Cây lâu năm

CNH-HĐH

: Công nghiệp hoá- hiện đại hoá

ĐBSH

: Đồng bằng sông Hồng

DĐĐT

: Dồn điền đổi thửa

DĐRĐ

: Dồn đổi ruộng đất

DT


: Diện tích

ĐVT

: Đơn vị tính

GO

: Giá trị sản xuất

HTX

: Hợp tác xã

IC

: Chi phí trung gian

KHSDĐ

: Kế hoạch sử dụng đất

KHTS

: Khấu hao tài sản

LM

: Lúa mùa


LX

: Lúa xuân

MI

: Thu nhập hỗn hợp

NN

: Nông nghiệp

NTTS

: Nuôi trồng thuỷ sản

QH

: Quy hoạch

SL

: Sản lượng

TBKT

: Tiến bộ kỹ thuật

UBND


: Uỷ ban nhân dân

VA

: Giá trị gia tăng

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page vi


DANH MỤC BẢNG
STT

Tên bảng

1.1

Mức độ manh mún ruộng đất ở các vùng trong cả nước

1.2

Số hộ sử dụng đất sản xuất nông nghiệp phân theo quy mô sử dụng

Trang
14

của một số tỉnh thuộc vùng ĐBSH

15


1.3

Mức độ manh mún ruộng đất ở một số tỉnh vùng ĐBSH

16

1.4

Đặc điểm manh mún ruộng đất của các kiểu hộ

17

1.5.

Tình hình dồn điền đổi thửa ở một số địa phương

22

3.1

Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp

42

3.2

Hiện trạng đất chuyên dùng năm 2013

44


3.3

Thực trạng ruộng đất nông nghiệp huyện Thạch Thất trước và sau
dồn điền đổi thửa

52

3.4

Một số kết quả chính trước và sau dồn điền đổi thửa ở các xã nghiên cứu

53

3.5

Đất công ích trước và sau dồn điền đổi thửa của các xã thuộc địa bàn
nghiên cứu

55

3.6

Giá thầu đất công ích thực tế trước và sau dồn điền đổi thửa

56

3.7

Bình quân diện tích đất nông nghiệp/ khẩu trước và sau dồn điền đổi thửa


56

3.8

Diện tích đất giao thông, thuỷ lợi trước và sau dồn điền đổi thửa

58

3.9

Diện tích lúa bình quân/ khẩu tại 3 xã điều tra

60

3.10

Sự thay đổi của cơ cấu thu nhập trước và sau dồn điền đổi thửa

61

3.11

Tổng hợp tình hình thực hiện chuyển đổi mô hình canh tác

63

3.12

Hiệu quả kinh tế sử dụng đất/1ha đất nông nghiệp tại 3 xã điều tra


66

3.13

Mức chi phí bình quân cho 1 ha lúa/năm trước và sau dồn điền đổi
thửa tại các xã nghiên cứu

3.14

68

Hiệu quả kinh tế bình quân của mô hình Lúa - Cá - Vịt tại 3 xã nghiên
cứu tính trên 1 ha/năm

71

3.15

Hiệu quả kinh tế của mô hình chuyên thả cá

72

3.16

So sánh hiệu quả sử dụng đất của các mô hình trước và sau dồn điền

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page vii



đổi thửa

74

3.17

Số lượng trang trại tại 3 xã địa bàn nghiên cứu

76

3.18

Mức tăng thu nhập bình quân của các loại hộ trước và sau dồn điền
đổi thửa

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

78

Page viii


DANH MỤC HÌNH
STT

Tên hình

Trang


3.1

Đồng đất huyện Thạch Thất sau khi đã DĐĐT

3.2

Người dân xã Dị Nậu tự nguyện phá bỏ bờ vùng, bờ thửa để chia lại

51

ruộng đất

57

3.3

Hệ thống giao thông, thuỷ lợi nội đồng sau DĐĐT tại Dị Nậu

59

3.4

Những thửa ruộng xã Hương Ngải sau DĐĐT thuận tiện cho sản xuất
của nông dân

69

3.5


Nuôi vịt tại xã Dị Nậu – huyện Thạch Thất

72

3.6

Kiểm tra cá rô phi giống của hộ anh Đỗ Đăng Tự, xã Dị Nậu, huyện
Thạch Thất

3.7

73

Mô hình trang trại chăn nuôi lợn theo hướng công nghiệp tại xã Đại
Đồng, huyện Thạch Thất

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

77

Page ix


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tư liệu sản xuất quan trọng và có giá trị nhất trong sản xuất
nông nghiệp. Trong lịch sử phát triển nông nghiệp, cải cách ruộng đất luôn là
khâu bứt phá quyết định mọi quan hệ sản xuất và ảnh hưởng rõ rệt đến quá
trình phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia.
Trong công cuộc cải cách kinh tế nông nghiệp nông thôn những năm

trước đây, Đảng và Nhà nước ta đã có hàng loạt những chính sách mới về đất
đai nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, giải quyết vấn đề an ninh lương thực
của cả nước, trong đó điển hình là Luật đất đai năm 1993. Theo đó ruộng đất
được chia đến tận tay người nông dân. Có thể nói rằng, với chính sách mới về
quyền sử dụng đất như vậy đã làm thay đổi hoàn toàn quan hệ sản xuất ở nông
thôn, người nông dân đã thực sự trở thành người chủ mảnh đất của riêng mình đó là động lực cho sự phát triển vượt bậc của nền nông nghiệp nước ta sau giải
phóng miền Nam.
Vai trò to lớn của sự phân chia ruộng đất cho hộ nông dân như nói trên
là không thể phủ nhận. Song với bối cảnh ngày nay, đất nước đang trên đà
phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trong môi trường hội
nhập kinh tế quốc tế, ngành nông nghiệp không những có nhiệm vụ quan
trọng là đảm bảo an ninh lương thực quốc gia mà còn phải đảm bảo tối đa
nguyên liệu cho ngành công nghiệp, tăng khối lượng nông sản xuất khẩu.
Nhưng trên thực tế, khi chia ruộng đất cho nông dân theo tinh thần của Nghị
định 64/CP ngày 27 tháng 9 năm 1993 của Chính Phủ, chúng ta đã thực hiện
phương châm công bằng xã hội: ruộng tốt cũng như ruộng xấu, ruộng xa cũng
như ruộng gần được chia đều tính trên một nhân khẩu cho các hộ gia đình,
dẫn đến tình trạng ruộng đất bị phân tán manh mún không đáp ứng được nhu
cầu phát triển của nền nông nghịêp trong thời kỳ đổi mới.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 1


Sự manh mún ruộng đất đã dẫn đến tình trạng chung là hiệu quả sản
xuất thấp, hạn chế khả năng đổi mới và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ
thuật vào sản xuất. Mặt khác ruộng đất manh mún, ô thửa nhỏ còn gây khó
khăn cho việc lập hồ sơ địa chính, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quản lý đất đai…

Để khắc phục tình trạng manh mún ruộng đất như đã nói trên, thì việc dồn
đổi ruộng đất từ nhiều ô thửa nhỏ thành ô thửa lớn, liền khu, liền khoảnh là việc
làm hết sức cần thiết, đáp ứng được đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới, xây dựng một
nền sản xuất nông nghiệp hàng hoá, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào đồng
ruộng; đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân, tạo điều kiện cho các hộ nông
dân yên tâm sử dụng và khai thác đất nông nghiệp lâu dài và hiệu quả, đồng thời
nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý Nhà nước về đất đai.
Nắm bắt được tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra chủ trương
“Dồn điền đổi thửa” để việc sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả hơn.
Huyện Thạch Thất nằm phía Tây Bắc thành phố Hà Nội, là vùng bán
sơn địa, cách trung tâm thành phố Hà Nội khoảng 25 km. Huyện Thạch Thất
cũng đã có những mô hình sử dụng đất nông nghiệp hiệu quả, đem lại nguồn
thu đáp ứng yêu cầu phát triển của toàn huyện. Tuy nhiên việc sử dụng đất
nông nghiệp còn manh mún, nhỏ lẻ, bình quân là 6-8 thửa/hộ dẫn đến không
thể đầu tư thâm canh, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, không đưa được
cơ giới hóa vào sản xuất nông nghiệp gây lãng phí công lao động rất lớn.
Với tất cả những lý do trên, tôi tiến hành đề tài nghiên cứu: “Đánh giá
hiệu quả sử dụng đất sau dồn điền đổi thửa tại huyện Thạch Thât, thành
phố Hà Nội”.
2. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá hiệu quả sử dụng đất sau dồn điền đổi thửa trên địa bàn
huyện Thạch Thất
Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất trong
Nông nghiệp.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 2


3. Yêu cầu của đề tài

Nghiên cứu các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội liên quan đến công
tác quản lý đất Nông nghiệp
Phản ánh đúng thực trạng bước đầu công tác dồn điền đổi thửa trên địa bàn
huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội, làm cơ sở cho việc đề xuất sử dụng đất
trong những năm tiếp theo.
Đề xuất được các giải pháp hợp lý và có tính khả thi nhằm hiệu quả sử
dụng đất sau dồn điền đổi thửa trên địa bàn huyện Thạch Thất, thành phố
Hà Nội.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 3


Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tổng quan về chính sách quản lý và sử dụng đất nông nghiệp
1.1.1. Giai đoạn 1945-1981
Lịch sử cách mạng giải phóng dân tộc và lịch sử phát triển kinh tế của
Việt Nam có mối quan hệ chặt chẽ với các vấn đề về sử dụng đất đai. Những
mâu thuẫn trong chính sách đất đai (vấn đề tiếp cận đất đai, sở hữu và sử dụng
đất đai) đã diễn ra trong suốt thời kỳ thuộc địa của thực dân Pháp; trong thời
kỳ chiến tranh chống Mỹ và các chính sách của Chính phủ từ sau ngày thống
nhất đất nước năm 1975.
Trước năm 1945, đất nông nghiệp được phân chia thành 2 loại chính:
đất sở hữu cộng đồng và đất tư hữu. Khu vực nông thôn được phân chia làm 2
tầng lớp dựa trên tính chất sở hữu của đất đai: địa chủ và tá điền. Tầng lớp địa
chủ chiếm khoảng 2% tổng dân số nhưng chiếm hữu trên 50% tổng diện tích
đất, trong khi đó 59% hộ nông dân là tá điền không có đất và đi làm thuê cho
tầng lớp địa chủ. Sau năm 1945, Chính phủ đã thực hiện phân chia lại ruộng
đất và giảm bớt thuế cho nông dân nghèo và tá điền. Sau khi kết thúc chiến

tranh với thực dân Pháp (năm 1954), miền Bắc thực hiện chương trình cải
cách ruộng đất cơ bản. Mục đích là để công hữu hoá ruộng đất của địa chủ
người Việt và người Pháp, tiến hành phân chia lại cho hộ nông dân ít đất hoặc
không có đất với khẩu hiệu “Người cày có ruộng”. Giai đoạn tiếp theo của
chính sách cải cách ruộng đất đó là miền Bắc bước sang giai đoạn sở hữu tập
thể đất nông nghiệp dưới hình thức hợp tác xã từng khâu (bậc thấp) và hợp tác
xã toàn phần (bậc cao). Đến năm 1960, khoảng 86% hộ nông dân và 68%
tổng diện tích đất nông nghiệp đã vào hợp tác xã bậc thấp. Trong hợp tác xã
này người nông dân vẫn sở hữu đất đai và tư liệu sản xuất. Ở hình thức hợp
tác xã bậc cao, nông dân góp chung đất đai và các tư liệu sản xuất khác (trâu,
bò, gia súc và các công cụ khác) vào hợp tác xã dưới sự quản lý chung.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 4


Sau năm 1975, nền kinh tế Việt Nam nói chung và nông nghiệp nói
riêng phải gánh chịu những hậu quả nặng nề của cuộc chiến tranh để lại và
những hậu quả từ những chính sách trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập
trung và thời kỳ kinh tế tập thể trong nông nghiệp. Trong thời kỳ sở hữu tập
thể trong nông nghiệp, sản xuất giảm do người nông dân thiếu động cơ làm
việc, sản lượng nông nghiệp tăng hàng năm ở mức rất thấp 2%. Cùng thời
điểm này dân số tăng rất nhanh (2,2-2,35%/ năm) đã dẫn đến việc phải nhập
khẩu bình quân hơn một triệu tấn lương thực mỗi năm trong suốt thời kỳ sau
chiến tranh. Điều đó đã dẫn đến một bộ phận lớn dân số sống trong tình trạng
nghèo và đói (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 2003).
1.1.2. Giai đoạn 1981-1988
Sự thay đổi cơ chế quản lý và sử dụng đất trong lĩnh vực nông nghiệp
bắt đầu bằng Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng hay còn gọi là

Khoán 100. Dưới chính sách Khoán 100, các HTX giao đất nông nghiệp đến
nhóm và người lao động. Những người này có trách nhiệm trong ba khâu của
quá trình sản xuất. Sản xuất vẫn dưới sự quản lý của HTX, cuối vụ hộ nông
dân được trả thu nhập bằng thóc dựa trên sản lượng sản xuất ra và ngày công
đóng góp trong 3 khâu của quá trình sản xuất. Đất đai vẫn thuộc sở hữu của
Nhà nước và dưới sự quản lý của HTX. Mặc dù còn đơn giản nhưng Khoán
100 đã trở thành bước đột phá trong quá trình hướng tới nền kinh tế thị
trường. Sự ra đời của Khoán 100 đã có những ảnh hưởng đáng kể đến sản
xuất nông nghiệp, đặc biệt đối với sản xuất lúa gạo, tăng 6,3%/ năm trong
suốt giai đoạn 1981-1985. Tuy nhiên, sau năm 1985, tăng trưởng trong sản
xuất nông nghiệp bắt đầu giảm, cụ thể tốc độ tăng trưởng của tổng sản lượng
nông nghiệp trong giai đoạn 1986-1988 chỉ là 2,2%/ năm. Đầu năm 1988, sản
xuất lương thực không đáp ứng được nhu cầu dẫn đến sự thiếu ăn ở 21 tỉnh,
thành trên miền Bắc. Ở miền Nam một loạt các mâu thuẫn cũng gia tăng trong
khu vực nông thôn, đặc biệt là mối quan hệ đất đai bởi sự “cào bằng” về phân
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 5


chia và điều chỉnh đất đai. Điều này hiển nhiên đặt ra yêu cầu một cuộc cải
cách mới trong chính sách đất đai.
Để giải quyết các vấn đề trên, chính sách đổi mới trong nông nghiệp đã
được thực hiện theo tinh thần Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị vào tháng 4
năm 1988. Với sự ra đời của Nghị quyết 10 thường được biết đến với tên
Khoán 10, người nông dân được giao đất nông nghiệp sử dụng từ 10-15 năm
và lần đầu tiên hộ nông dân được thừa nhận như một đơn vị kinh tế tự chủ
trong nông nghiệp. Bắt đầu từ thời kỳ này, các tư liệu sản xuất (máy móc, trâu,
bò, gia súc và công cụ khác) được sở hữu dưới hình thức cá thể. Một khía cạnh
khác của chính sách này đó là người nông dân ở miền Nam được giao lại đất họ

đã sở hữu trước năm 1975 (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 2003).
Tuy nhiên, cùng với Khoán 10 chưa có luật tương ứng dẫn đến một số
quyền sử dụng đất như cho tặng hoặc thừa kế chưa được luật pháp hóa và
thừa nhận. Một loạt các vấn đề khác nảy sinh liên quan đến sản xuất chẳng
hạn như trạm điện, hệ thống giao thông nông thôn, thị trường,… mà trước đây
thuộc trách nhiệm quản lý của các HTX nông nghiệp. Để giải quyết các vấn
đề này Luật Đất đai năm 1993 đã ra đời.
1.1.3. Sự phát triển của quản lý ruộng đất sau đổi mới
Trong suốt thời kỳ đổi mới, một loạt các chính sách và văn bản luật trong
lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn, đặc biệt liên quan đến sử dụng đất đai đã ra
đời. Những chính sách quan trọng nhất đó là Luật Đất đai năm 1993, sau đó là
Luật Đất đai sửa đổi, bổ sung năm 1998 và 2001; Luật Đất đai mới năm 2003;
Nghị định 64/CP năm 1993 và Nghị định 02/CP năm 1994 về quy định việc giao
đất lâm nghiệp và đất nông nghiệp. Bên cạnh đó cũng có một loạt các chính sách
liên quan trực tiếp hoặc hỗ trợ gián tiếp đến vấn đề về đất đai.
Theo Luật Đất đai 1993, hộ nông dân được giao quyền sử dụng ruộng
đất lâu dài với 5 quyền: quyền chuyển nhượng, quyền chuyển đổi, quyền cho
thuê, quyền thừa kế và quyền thế chấp. Người có nhu cầu sử dụng được giao
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 6


đất trong thời hạn 20 năm đối với cây hàng năm, 50 năm đối với cây lâu năm.
Việc giao đất sẽ được tiến hành lại tại thời điểm cuối chu kỳ giao đất nếu như
người sử dụng đất vẫn có nhu cầu sử dụng. Luật Đất đai cũng quy định mức
hạn điền đối với hộ nông dân, cụ thể đối với cây hàng năm là 2ha ở miền Bắc
và các tỉnh miền Trung; 3ha đối với các tỉnh phía Nam; đối với cây lâu năm
quy định tối đa là 10ha đối với các xã vùng đồng bằng và 30ha đối với vùng
trung du và miền núi (Luật đất đai, 1993). Cùng với việc giao đất cho các hộ

nông dân thì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng được các cơ quan chức
năng xem xét và cấp cho các nông hộ. Đến năm 1998, giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất đã được cấp cho 71% hộ nông dân, cuối năm 2000 con số này là
trên 90% (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 1998). Đối với đất rừng ở khu vực
trung du và miền núi nơi có rất nhiều phong tục tập quán thì việc giao đất
phức tạp hơn, quá trình cấp giấy chứng nhận diễn ra chậm hơn và quá trình
này vẫn đang được tiếp tục thực hiện. Vào năm 1998, người nông dân được
giao thêm 2 quyền sử dụng nữa đó là quyền cho thuê lại và quyền được góp
vốn đầu tư kinh doanh bằng đất đai (Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, 1998).
Những thay đổi trong chính sách đất đai của Việt Nam từ năm 1981
đến nay đã góp phần đáng kể trong việc tăng nhanh sản lượng nông nghiệp và
phát triển khu vực nông thôn. Tổng sản lượng nông nghiệp tăng 6,7%/năm
trong suốt giai đoạn 1994-1999 và khoảng 4,6% trong giai đoạn 2000-2003.
An toàn lương thực quốc gia không còn là vấn đề nghiêm trọng nữa và nghèo
đói đang từng bước được đẩy lùi (Ban Kinh tế, 2004).
1.2. Tổng quan về dồn điền đổi thửa
1.2.1. Vấn đề manh mún đất đai
Khái niệm manh mún ruộng đất được hiểu trên hai khía cạnh: một là sự
manh mún về mặt ô thửa, trong đó một đơn vị sản xuất (thường là nông hộ) có
quá nhiều mảnh ruộng với kích thứơc quá nhỏ và bị phân tán ở nhiều xứ đồng.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 7


Hai là sự manh mún thể hiện trên quy mô đất đai của các đơn vị sản xuất, số
lượng ruộng đất quá nhỏ không tương thích với số lượng lao động và các yếu
tố sản xuất khác (Tập huấn phát triển Nông thôn, 1998).
Cả hai kiểu manh mún trên đều dẫn đến tình trạng là hiệu quả sản xuất

thấp, khả năng đổi mới và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhất là vấn
đề cơ giới hoá, thuỷ lợi hoá trong nông nghiệp,...dẫn đến tình trạng sử dụng
đất kém hiệu quả. Vì thế người ta luôn tìm cánh khắc phục tình trạng này.
Manh mún đất đai xẩy ra ở nhiều nơi, nhiều nước khác nhau trên thế
giới và ở nhiều thời kỳ của lịch sử phát triển. Những nguyên nhân dẫn đến
tình trạng này rất đa dạng: có thể là do đặc điểm bề mặt phân bố địa lý, do sức
ép dân số,...nhưng cũng có thể là do ý thức của con người như tính chất tiểu
nông của nền sản xuất còn kém phát triển, đặc điểm tâm lý của cộng đồng dân
cư nông thôn, hệ quả của một hay nhiều chính sách ruộng đất, kinh tế xã hội
hay sự quản lý lỏng lẻo kém hiệu quả của công tác địa chính,...
Tình trạng manh mún đất đai là một trong những nhược điểm của nền
nông nghiệp nhiều nước, nhất là các nước đang phát triển. ở Việt Nam, manh
mún đất đai rất phổ biến, đặc biệt là ở miền Bắc. Theo con số ước tính, toàn
quốc có khoảng 75 triệu thửa, trung bình một hộ nông dân có khoảng 7-8
thửa. Manh mún đất đai được coi là một trong những rào cản của phát triển
sản xuất hàng hoá trong lĩnh vực nông nghiệp, nhất là trồng trọt, cho nên rất
nhiều nước đã và đang thực hiện chính sách khuyến khích tập trung đất đai.
Việt Nam cũng đang thực hiện chính sách này trong mấy năm gần đây. Dưới
quan điểm kinh tế nếu manh mún đất đai làm cho lao động và các nguồn lực
khác phải chi phí nhiều hơn thì việc giảm mức độ manh mún đất đai sẽ tạo
điều kiện để các nguồn lực này được sử dụng ở các ngành khác hiệu quả hơn.
Như vậy, trên tổng thể nền kinh tế sẽ đạt được lợi ích khi ta giảm mức độ
manh mún đất đai.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 8


1.2.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài

Tình trạng manh mún ruộng đất xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới. Để
khắc phục tình trạng này, từ nhiều năm nay người ta đã tiến hành dồn điển đổi
thửa, tích tụ đất đai,... để việc sử dụng đất được hiệu quả hơn.
* Nhật Bản: Để chấn hưng nền nông nghiệp, năm 1961 Chính phủ
Nhật Bản đã ban hành chính sách nông nghiệp là đưa nông nghiệp từ quy mô
nhỏ lên quy mô lớn. Để thực hiện mục tiêu này Bộ nông nghiệp đề ra "sự
nghiệp xây dựng ruộng đất với ba mục tiêu: rộng, chắc chắn, sâu".
- Rộng: nâng kích thước thửa ruộng lên 0,3ha.
- Chắc chắn: cải tạo nền đất yếu, nhiều bùn, hay lún trên cơ sở thiết kế
xây dựng thoát nước cho từng thửa ruộng và từng khu vực để có thể sử dụng
máy móc cho thuận lợi.
- Sâu: cải tạo tầng canh tác ruộng đất đảm bảo độ dầy khoảng 1m.
Để làm được các yêu cầu nêu trên cần phải làm được hai việc:
+ Về mặt hành chính: xử lý chuyển đổi từ các ô thửa nhỏ thành ô
thửa lớn.
+ Về mặt kỹ thuật: gắn liền với việc xử lý kích thước thửa ruộng là việc
xây dựng hệ thống tưới tiêu và san ủi mặt bằng.
Công tác dồn điền đổi thửa, xử lý ruộng đất như nêu trên là khó khăn
phức tạp vì đất đai thuộc sở hữu tư nhân và việc chuyển đổi phải tiến hành với
một số biện pháp như công tác quy hoạch sử dụng đất...mới phát huy hiệu quả
trong sử dụng đất. Kết quả là khoảng 2 triệu ha trong 2,7 triệu ha đất trồng lúa
nước ở Nhật Bản đã được chuyển đổi. Trước chuyển đổi, bình quân có 3,4
thửa /hộ, sau chuyển đổi bình quân có khoảng 1,8 thửa /hộ. Việc chuyển đổi,
xử lý đất nông nghiệp đã tăng sức sản xuất của đất đai, tăng năng suất lao
động của người nông dân; việc áp dụng máy móc vào sản xuất được thuận
tiện và hiệu quả,...tạo điều kiện để phát triển nông nghiệp hàng hoá, nâng cao
sức cạnh tranh trong nông nghiệp. Vì vậy cùng với các yếu tố khác, việc
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 9



chuyển đổi và xử lý đất nông nghiệp đã góp phần quan trọng đưa năng suất
lúa từ 3.000kg gạo/ha/năm năm 1960 lên 6.000kg gạo/ha/năm năm 1992
(Nguyễn Khắc Bộ, 2004).
* Đài Loan: Sau năm 1949 dân số tăng đột ngột do sự di dân từ lục địa
ra. Lúc đầu chính quyền Tưởng Giới Thạch thực hiện cải cách ruộng đất theo
nguyên tắc phân phối đồng đều ruộng đất cho nông dân. Ruộng đất đã được
trưng thu, tịch thu, mua lại của các địa chủ rồi bán chịu, bán trả dần cho nông
dân, tạo điều kiện ra đời các trang trại gia đình quy mô nhỏ. Năm 1953, hòn
đảo này đã có đến 679.000 trang trại với quy mô bình quân là 1,29ha/trang
trại. Đến năm 1991 số trang trại đã lên đến 823.256 với quy mô bình quân chỉ
còn 1,08ha/trang trại. Tuy nhiên, quá trình công nghiệp hoá nông nghiệp nông
thôn sau này đòi hỏi phải mở rộng quy mô của các trang trại gia đình nhằm
ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản
phẩm,… nhưng do người Đài Loan coi ruộng đất là tiêu chí đánh giá vị trí của
họ trong xã hội nên mặc dù có thị trường nhưng ruộng đất vẫn không được
tích tụ (có nhiều người tuy là chủ đất nhưng đã chuyển sang làm những nghề
phi nông nghiệp). Để giải quyết tình trạng này, năm 1983 Đài Loan công bố
Luật Phát triển nông nghiệp trong đó công nhận phương thức sản xuất uỷ thác
của các hộ nông dân, có nghĩa là nhà nước công nhận việc chuyển quyền sở
hữu đất đai. ước tính đã có trên 75% số trang trại áp dụng phương thức này để
mở rộng quy mô ruộng đất sản xuất. Ngoài ra để mở rộng quy mô, các trang
trại trong cùng thôn xóm còn tiến hành các hoạt động hợp tác như làm đất,
mua bán chung một số vật tư, sản phẩm nông nghiệp, nhưng không chấp nhận
phương thức tập trung ruộng đất, lao động để sản xuất (Quốc hội nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 1998).
* Indonesia: Đồng bằng Java của Indonesia, ruộng đất cũng bị manh
mún. Năm 1963, số trang trại có diện tích đất nhỏ hơn 0,5ha chiếm trên 52%
trong tổng số 7,9 triệu nông hộ; trang trại có từ 0,5 đến 1,0 ha chiếm 27%, chỉ

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 10


có 0,4% loại trang trại có 4 đến 5ha. Trong khi đó, 40% số trang trại do
người làm công quản lý chứ không do chủ đất quản lý. Tình trạng này đã ảnh
hưởng nhiều đến việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật của cuộc cách mạng xanh
thời đó. ở Indonesia nói riêng và Đông Nam Á nói chung có sự gia tăng áp
lực dân số trên ruộng đất nhưng ít xẩy ra phân cực giữa các loại nông hộ, các
trang trại quy mô lớn đến hàng chục ha chỉ là cá biệt, mặc dù số nông dân
không có ruộng đất vẫn tăng lên. Như vậy, ruộng đất vẫn không tập trung
được vào một số trang trại lớn mà chỉ được trao đổi giữa các chủ nhỏ. Thậm
chí, quy mô ruộng đi thuê ở tất cả các nhóm hộ đều giảm xuống. Giá ruộng
đất (địa tô) vẫn tăng lên, nhưng lãi từ việc đầu tư thêm lao động giảm xuống,
làm thay đổi một loạt các thể chế nông thôn, chủ yếu là gia tăng số hộ cho
thuê đất. Như vậy thị trường ruộng đất đã không vận hành hoàn toàn theo
nguyên lý kinh tế (Chu Mạnh Tuấn, 2007).
* Châu Âu và các nước phát triển khác: kể từ sau cách mạng nông
nghiệp lần thứ 2 (cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX), một loạt các trang trại nhỏ,
manh mún năng suất thấp đã bị loại thải, thay vào đó là các trang trại quy mô
vừa, năng suất lao động cao. Ví dụ ở Pháp năm 1955 có xấp xỉ 2,3 triệu nông
hộ có quy mô 14 ha/hộ, đến năm 1993 chỉ còn 800 ngàn nông hộ với quy mô
35 ha/hộ. Ở Mỹ, năm 1950 cả nước có 5,65 triệu nông hộ với quy mô bình
quân 86 ha/hộ, đến năm 1992 chỉ còn 1,92 triệu nông hộ với quy mô 198,9
ha/hộ. Nhìn chung, tiến trình tích tụ ruộng đất và vốn nhanh chóng của các
nông hộ ở Châu Âu chủ yếu là nhờ thành tựu khoa học công nghệ phát triển
trong quá trình cơ giới hoá nông nghiệp của cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ 2 (Chu Mạnh Tuấn, 2007).
1.2.3. Tình hình nghiên cứu dồn điền đổi thửa ở Việt Nam

1.2.3.1. Nguyên nhân tiến hành dồn điền đổi thửa
Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta là tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp
đổi mới cơ chế kinh tế nông nghiệp nông thôn, thừa nhận hộ nông dân là đơn
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 11


vị kinh tế tự chủ trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên trước nhu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, nền nông nghiệp và đặc biệt
là vấn đề ruộng đất trong nông nghiệp đã bộc lộ những tồn tại, nảy sinh mới
cần phải được quan tâm giải quyết, đó chính là tình trạng ruộng đất quá manh
mún về diện tích và ô thửa. Chuyển đổi ruộng đất chống manh mún, phân tán
tạo ra ô thửa lớn là việc làm cần thiết, tạo tiền đề cho việc thực hiện công
nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn (Tổng cục Địa chính, 1998).
Mặt khác, khi thực hiện giao đất còn nhiều sai sót, tùy tiện dẫn đến tình
trạng khiếu kiện kéo dài gây mất ổn định ở cơ sở; quy hoạch sử dụng đất, quy
hoạch kiến thiết lại ruộng đồng thiếu khoa học, thiếu tầm nhìn chiến lược
đang gây trở ngại lớn cho việc đổi mới quản lý, tổ chức lại sản xuất nhất là
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế (Tổng cục Địa chính, 1997).
Để khắc phục tình trạng trên, giải pháp có hiệu quả nhất là phải tiến
hành dồn đổi ruộng đất. Để hiểu rõ hơn tại sao phải nhanh chóng tiến hành
công tác dồn đổi ruộng đất. Chúng ta cần tìm hiểu nguyên nhân và những hạn
chế do tình trạng manh mún ruộng đất gây trở ngại cho sản xuất, công tác
quản lý Nhà nước về đất đai như thế nào?
* Tình trạng manh mún ruộng đất do các nguyên nhân sau:
- Nguyên nhân đầu tiên và là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng
manh mún ruộng đất là sự phức tạp của địa hình, nhất là các vùng đồi núi,
trung du. Do địa hình bị chia cắt nên đất đai ở đa số các địa phương hầu như
đều có 3 loại đất: đất cao, đất vàn và đất thấp, trũng.

- Nguyên nhân thứ 2 là chế độ thừa kế chia đều ruộng đất cho tất cả con
cái. ở Việt Nam ruộng đất của cha mẹ thường được chia đều cho tất cả các
con sau khi ra ở riêng. Vì thế tình trạng phân tán ruộng đất gắn liền với chu
kỳ phát triển của nông hộ.
- Nguyên nhân thứ 3 là tâm lý tiểu nông của các hộ sản xuất nhỏ. Do
quy mô sản xuất nhỏ lẻ, các hộ nông dân ngại thay đổi, nhất là những thay đổi
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 12


liên quan đến ruộng đất.
- Nguyên nhân thứ tư liên quan đến phương pháp chia ruộng bình quân
theo nguyên tắc có tốt, có xấu, có xa, có gần khi thực hiện Nghị định 64 CP
năm 1994. Việc chia nhỏ các thửa ruộng để có sự công bằng giữa các hộ đã
góp phần không nhỏ làm tăng tình trạng manh mún ruộng đất. Quan điểm
muốn bảo vệ sự công bằng cho những người dân được chia ruộng và nhiều lý
do sau đây khiến đa số các địa phương chia nhỏ ruộng cho nông dân, đó là:
+ Tất cả các hộ đều phải có ruộng gần, xa, tốt, xấu, cao, thấp. Có như
vậy mới thể hiện tính công bằng.
+ Độ phì tự nhiên của đất ở các khu khác nhau phải chia đều cho các hộ.
+ Do hiệu quả kinh tế của các loại hình sử dụng đất khác nhau nên phải
chia đều đất cho các hộ.
+ Các chân đất thường không an toàn do các vấn đề như úng, hạn,
chua... do đó việc chia đều rủi ro cho các hộ cũng là chỉ tiêu quan trọng trong
khi chia ruộng.
+ Ngoài ra, giá đất luôn biến động, tăng cao đặc biệt là các khu đất gần
các trục đường chính hoặc trong tương lai sẽ nằm trong quy hoạch khu đô thị,
khu công nghiệp... vì thế đất ở đó phải được chia đều cho các hộ để mọi người
đều có thể hưởng "thành quả" đền bù đất hay cùng chịu "rủi ro"nếu đất đai bị

chuyển mục đích sử dụng.
* Mức độ manh mún ruộng đất hiện nay thể hiện ở một số điểm:
- Tình trạng manh mún hiện nay tập trung vào đất cây hàng năm như:
đất trồng lúa, đất trồng màu, đất trồng cây công nghiệp ngắn ngày và các loại
đất trồng cây hàng năm khác. Loại đất càng tốt, có điều kiện thâm canh càng
cao thì càng bị phân tán manh mún.
- Biểu hiện đặc trưng của sự manh mún là ruộng đất bị "chia nhỏ" để
chia đều theo nguyên tắc "tốt có, xấu có, xa có, gần có" cho các hộ gia đình.
Vì vậy một hộ sử dụng rất nhiều thửa đất nằm rải rác trên tất cả các xứ đồng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 13


của mỗi thôn xóm, làng bản..., kích thước rất đa dạng, diện tích bình quân
/thửa đất lúa phổ biến là từ 200-400m2; diện tích đất trồng màu và cây công
nghiệp ngắn ngày bình quân/thửa phổ biến từ 100-300m2. Riêng các tỉnh Nam
Bộ bình quân/thửa phổ biến đất lúa là từ 2000-4000m2; đất trồng màu và cây
công nghiệp ngắn ngày bình quân lên đến hàng nghìn m2.
- Mức độ manh mún các vùng miền có sự khác nhau, số liệu minh hoạ
được thể hiện trong Bảng 1.1 dưới đây.
Bảng 1.1. Mức độ manh mún ruộng đất ở các vùng trong cả nước
Tổng số thửa/hộ
TT

Vùng sinh thái

Diện tích bình quân/thửa
(m2)


1

Trung du miền núi Bắc Bộ

Trung
bình
10 – 20


biệt
150

Đất lúa

Đất rau

150 – 300

100 – 150

2

Đồng bằng sông Hồng

7- 10

47

300 – 400


100 – 150

3

Duyên hải Bắc Trung Bộ

7 – 10

30

300 – 500

200 – 300

4

Duyên hải Nam Trung Bộ

5 – 10

30

300- 1000

200 - 1000

5

Tây Nguyên


5

25

200 – 500

1000- 5000

6

Đông Nam Bộ

4 -5

15

1000- 3000

1000- 5000

7

Đồng bằng sông Cửu Long

3

10

3000 – 5000 500 - 1000


(Nguồn: Tổng cục Địa chính, 1998)

1.2.3.2. Thực trạng về manh mún ruộng đất tại Đồng bằng sông Hồng
- Tình trạng manh mún ruộng đất ở cấp nông hộ ở Đồng bằng sông Hồng
hiện nay sự manh mún ruộng đất ở cấp nông hộ thể hiện ở các đặc điểm sau:
+ Diện tích canh tác bình quân trên hộ hay trên lao động rất thấp
(khoảng 0,25 ha/hộ).
+ Số lượng các hộ có diện tích từ 02 ha trở lên không đáng kể (khoảng
2116 hộ) đa số có diện tích nhỏ hơn 0,20 ha (1.731533 hộ).
+ Bình quân diện tích canh tác trên hộ và trên khẩu có xu thế giảm do
mất đất nông nghiệp và sự gia tăng của dân số nông thôn.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 14


Bảng 1.2. Số hộ sử dụng đất sản xuất nông nghiệp phân theo quy mô sử
dụng của một số tỉnh thuộc vùng ĐBSH
(ĐVT: hộ)

Tên địa danh

Tổng số

ĐBSH

3054770

Phân theo quy mô sử dụng

Từ 0,2 ha
Từ 0,5 ha
Từ 2 ha
dưới 0,2
đến dưới
đến dưới 2
ha
trở lên
0,5 ha
ha
1731533
1223905
97216
2116

1

Hà Nội (cũ)

174537

123610

48121

2718

88

2


Vĩnh Phúc (cũ)

212851

109564

94017

9057

213

3

Bắc Ninh

187569

109037

73951

4539

42

4

Hà Tây (cũ)


457290

279625

160362

16955

348

5

Hà Nội

348086

187579

151986

8335

186

6

Hải Phòng

242419


139110

89842

13340

127

7

Hưng Yên

228183

127289

94950

5837

107

8

Thái Bình

457669

266379


187376

3843

71

9

Hà Nam

172615

94132

72196

6165

122

10 Nam Định

396281

221735

165630

8814


102

11 Ninh Bình

177270

73473

85474

17613

710

TT

(Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2006 )

- Tình trạng manh mún về số ô thửa
+ Diện tích/thửa: Với cây lúa, diện tích/thửa có thể diễn biến từ 200 đến
400m2, với cây rau thì rất nhỏ chỉ từ 20 - 50m2, tỷ lệ thửa có diện tích < 100m2
chiếm đến 5 - 10% tổng số thửa, đặc biệt có những thửa đất mạ < 10m2 hoặc có
những thửa chiều dài vài chục m nhưng chiều rộng chỉ từ 30 - 50cm (Tổng cục
Địa chính, 1997).
+ Số thửa/hộ: Số liệu ở Bảng 1.3 cho thấy mức độ manh mún ruộng đất
thuộc 1 số tỉnh Đồng Bằng sông Hồng rất khác nhau, các tỉnh đông dân, diện
tích đất nông nghiệp ít thì mức độ manh mún càng cao; trung bình số thửa/hộ
thấp nhất 5,7 thửa (Nam Định) và cao nhất là 11 thửa/hộ (Hà Nội), cá biệt có hộ


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 15


quản lý 47 thửa/ hộ (Vĩnh Phúc); về diện tích sử dụng cũng có sự khác nhau,
diện tích thửa lớn nhất là 5968m2 (Vĩnh Phúc), thửa nhỏ nhất là 5m2 (Ninh Bình)
đây cũng là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến sản lượng các loại cây trồng.
Bảng 1.3. Mức độ manh mún ruộng đất ở một số tỉnh vùng ĐBSH
TT

Tỉnh

Tổng số thửa/hộ
Nhiều
Trung
ít nhất
nhất
bình
9,5

Diện tích bình quân/thửa (m2)
Lớn
Nhỏ nhất
Trung bình
nhất
20
700
216


1

Hà Tây (cũ)

2

Hải Phòng

5,0

18

6-8

20

-

-

3

Hà Nội

9,0

17

11,0


10

-

-

4

Vĩnh Phúc (cũ)

7,1

47

9,0

10

5968

228

5

Nam Định

3,1

19


5,7

10

1000

288

6

Hà Nam

7,0

37

8,2

14

1265

-

7

Ninh Bình

3,3


24

8,0

5

3224

-

(Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 2003)

* Các đặc điểm manh mún ruộng đất ở ĐBSH
Hàng thế kỷ trước đây, tình trạng manh mún ruộng đất ở ĐBSH đã
được miêu tả khá cụ thể, với những đặc điểm như sau:
Thứ nhất: sự manh mún ruộng đất không có mối quan hệ nào với mật độ
dân số. Nói cách khác, không phải ở đâu đông dân thì ở đó ruộng đất manh mún.
Thứ hai: sự manh mún ruộng đất thể hiện sự khác biệt giữa các vùng.
Dường như ở các vùng có độ chênh cao so với mực nước biển thấp thì địa
hình ít bị chia cắt nên đất đai ít bị xé nhỏ. Các vùng có độ chênh cao so với
mực nước biển lớn hơn, địa hình bị chia cắt nhiều hơn thì ruộng đất lại manh
mún hơn, hoặc càng ra gần biển, các ô thửa của ruộng càng lớn hơn.
Thứ ba: ngay trong cùng một vùng, hiện tượng manh mún cũng không
giống nhau; đất trũng bị ngập nước thường xuyên hay các ruộng ngoài đê, ô
thửa ít bị xé nhỏ hơn là ruộng đất cao được đê che chắn.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 16



Thứ tư: sự manh mún ruộng đất còn phụ thuộc vào đối tượng quản lý
ruộng đất. Những nơi tỷ lệ diện tích đất công điền thấp thì mức độ manh mún
càng cao. Nói cách khác, là đất đai càng bị tư hữu triệt để thì tình trạng manh
mún ô thửa càng lớn.
Hiện nay, sự manh mún ruộng đất ở Đồng bằng sông Hồng không khác
biệt nhiều theo quy mô thu nhập của hộ. Số thửa/hộ của các loại hộ trung bình
chỉ cao hơn đôi chút so với hộ nghèo và giàu (Bảng 1.4). Sự khác biệt không
nhiều một phần là do chính sách chia đều ruộng đất/ khẩu khi chia ruộng năm
1993, phần khác là do thị trường trao đổi mua bán ruộng đất nông nghiệp hoạt
động còn hạn chế.
Bảng 1.4. Đặc điểm manh mún ruộng đất của các kiểu hộ
Loại hộ

Số thửa/hộ

Diện tích thửa (m2)

Nghèo

7,2

381

Trung bình

9,2

412


Khá, giầu

8,0

492

(Nguồn:Tổng cục địa chính, 1997)
1.2.3.3. Những hạn chế của tình trạng manh mún ruộng đất đối với sản xuất
nông nghiệp và quản lý Nhà nước về đất đai ở địa phương
- Hạn chế khả năng áp dụng cơ giới hoá nông nghiệp, không giảm được
chi phí lao động đầu vào.
- Thửa ruộng quá nhỏ khiến nông dân ít khi nghĩ đến việc đầu tư tiến
bộ kỹ thuật (TBKT) để tăng năng suất. Theo họ, đầu tư TBKT có thể giúp
tăng năng suất nhưng trên diện tích quá nhỏ thì sản lượng tăng không đáng kể.
- Thửa ruộng đã nhỏ, nhiều thửa lại phân tán làm tăng rất nhiều công
thăm đồng, vận chuyển phân bón và thu hoạch, mặt khác nông dân không
muốn trồng cây hàng hoá do phải tăng công bảo vệ.
- Quy mô ruộng đất nhỏ làm giảm lợi thế cạnh tranh của một số sản phẩm
nông nghiệp trong bối cảnh giá nông sản luôn có sự biến động bất ổn định.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 17


- Nhiều thửa ruộng dẫn tới lãng phí đất canh tác do phải làm nhiều bờ
ngăn, tính trung bình vùng ĐBSH mất khoảng 2,4% - 4% đất canh tác dùng
để đắp bờ vùng, bờ thửa.
- Nhà nước cũng tiết kiệm được một khoản tiền khá lớn cho quá trình
lập hồ sơ ruộng đất (ruộng đất manh mún như trước đây chỉ tăng 30 - 50%).

1.2.3.4. Cơ sở thực tiễn của việc dồn điền đổi thửa
Việt Nam bắt đầu con đường đổi mới kinh tế của mình vào năm 1986.
Mục tiêu của chính sách đổi mới là chuyển nền kinh tế Việt Nam từ mô hình
kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị năm 1988
là bước ngoặt cơ bản. Nội dung chính của chính sách này là công nhận hộ
nông dân là một đơn vị kinh tế tự chủ, tự do hoá thị trường đầu vào và đầu ra
của sản xuất cũng như các tư liệu sản xuất khác (ngoại trừ đất đai) và giao đất
sử dụng ổn định, lâu dài cho người dân. Chính sách mới này đã dẫn đến xoá
bỏ hợp tác hoá trong nông nghiệp.
Cũng theo chính sách này, nông dân được giao đất nông nghiệp trong
15 năm và ký hợp đồng sử dụng các đầu vào, sử dụng lao động và sản phẩm
mà họ sản xuất ra. Các chỉ tiêu trong hợp đồng được ổn định trong 5 năm.
Hơn nữa, hầu hết các tư liệu sản xuất (máy móc, trâu bò và các công cụ khác)
được coi là sở hữu tư nhân. Từ đó, nông nghiệp Việt Nam bước vào một giai
đoạn mới tương đối ổn định.
Tuy nhiên, thời gian giao đất còn quá ngắn và một số quyền sử dụng
đất khác chưa được luật pháp hoá. Điều này dẫn đến nông dân có thể ít có
động cơ đầu tư dài hạn trên đất. Luật Đất đai năm 1993 ra đời đã giải quyết
được những vấn đề nêu trên. Theo đó nông dân được giao đất ổn định và lâu
dài. Họ được giao 5 quyền sử dụng đất bao gồm: quyền chuyển nhượng, trao
đổi, cho thuê, thừa kế và thế chấp. Nguyên tắc quan trọng nhất trong việc giao
đất là duy trì sự công bằng.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 18



×