Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

TIỂU LUẬN mối quan hệ GIỮA ĐẢNG LÃNH ĐẠO, NHÀ NUỚC QUẢN LÝ, NHÂN DÂN LÀM CHỦ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.74 KB, 27 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảng - Nhà nước - Nhân dân là ba bộ phận cơ bản, ba chủ thể chủ yếu tạo nên
chế độ xã hội và hệ thống chính trị ở Việt Nam. Mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và
Nhân dân luôn được Đảng ta quan tâm xây dựng phát triển và củng cố. Trải qua 30
năm đổi mới và phát triển, xử lý mối quan hệ này, Đảng giữ vững được vai trò lãnh
đạo đối với Nhà nước, thông qua Nhà nước, Nhân dân thực hiện và phát huy quyền
làm chủ của mình tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội ngày càng tốt hơn. Với
sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta đã phát huy tốt hơn vai trò quản lý của mình, có
chính sách đúng, động viên và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trong sự nghiệp
đổi mới. Theo đó, đã giải quyết ngày càng tốt hơn quan hệ giữa Đảng với Nhà nước
và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị: Tình trạng Đảng bao biện,
làm thay Nhà nước đã giảm dần ở nhiều cấp; đã nâng cao vai trò chủ động và phát huy
hiệu lực quản lý của Nhà nước, tính chủ động, tự giác của các tổ chức chính trị - xã
hội.
Mặc dù vậy, trong mối quan hệ Đảng - Nhà nước - Nhân dân còn nhiều khuyết
điểm, hạn chế. Sự lãnh đạo của Đảng chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của quá trình đổi
mới tổ chức, hoạt động của Nhà nước; còn có tình trạng bao biện, chồng chéo và
buông lỏng nên chưa phát huy tốt vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực điều hành của
bộ máy nhà nước. Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và
xã hội chưa phát huy đúng mức vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và
quyền làm chủ của Nhân dân. Chưa phân rõ, còn lẫn lộn chức năng, quyền hạn giữa
Đảng lãnh đạo với Nhà nước quản lý, bộ máy Đảng bị "Nhà nước hóa", cồng kềnh,
không rõ chức năng lãnh đạo. Cơ chế Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - Nhân dân
làm chủ đã được xác định từ lâu, nhưng chưa được nghiên cứu để cụ thể hóa đầy đủ.
Do đó, mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ cần
được nhận thức rõ ràng hơn để bước vào thời kỳ mới đất nước ta sẽ phát triển tốt hơn,
1


như Dự thảo cương lĩnh (bổ sung và phát triển 2011) đã nêu rõ, trong quá trình thực


hiện phương hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội phải chú trọng nắm vững và
giải quyết tốt mối quan hệ giữa “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ”.
Với tất cả lý do trên, việc tìm hiểu “Mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, Nhân dân làm chủ” là việc làm cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ là vấn
đề nóng bỏng cả về lý luận và thực tiễn. Vì vậy, nó đã thu hút sự quan tâm của rất
nhiều tổ chức và cá nhân. Liên quan đến đề tài ở nhiều mức độ khác nhau từ trực tiếp
tới gián tiếp, đã có rất nhiều công trình và các bài viết. Đây cùng chính là nguồn tài
liệu thiết thực để hình thành tiểu luận này, tiêu biểu là:
Nguyễn Phú Trọng (chủ biên): Về các mối quan hệ lớn cần được giải quyết tốt
trong quá trình đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2013.
Nguyễn Viết Thông: Giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ, Báo Nhân dân điện tử, ngày 05/10/2010.
Vũ Trọng Kim: Tăng cường mối quan hệ hữu cơ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt
trận và các đoàn thể nhân dân tạo cơ sở để thực hiện tốt quyền làm chủ của nhân dân,
Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 30/6/2014.
Mạch Quan Thắng: Một số vấn đề đặt ra về cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ” ở nước ta, Báo điện tử Quân đội nhân dân, ngày
12/8/2010.
Nguyễn Văn Hiền: Quyền lực của nhân dân, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt
Nam, ngày 01/01/2014.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục tiêu
2


Làm rõ một số vấn đề về giải quyết mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước

quản lý, Nhân dân làm chủ ở nước ta hiện nay; trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp
đẩy mạnh hơn nữa mối quan hệ của vấn đề này.
3.2. Nhiệm vụ
- Hệ thống lại một số quan điểm Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân
làm chủ và mối quan hệ của chúng.
- Xem xét thực trạng mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân
dân làm chủ ở nước ta thời gian qua.
- Đề xuất một số giải pháp giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, Nhân dân làm chủ ở nước ta.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Tiểu luận nghiên cứu Đảng, Nhà nước, Nhân dân với tư cách là ba chủ thể của
hệ thống chính trị ở Việt Nam, và mối quan hệ giữa các chủ thể này trong thời kỳ đổi
mới ở nước ta.
Tiểu luận tập trung nghiên cứu các quan điểm cơ bản về quan hệ giữa Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ ở nước ta từ khi đổi mới đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng ta về Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm
chủ.
Ngoài ra đề tài còn dựa vào các phương pháp như: lịch sử, phân tích tài liệu,
tổng hợp, logic…
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận được
chia thành 3 chương.

3


NỘI DUNG
Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ ĐẢNG LÃNH ĐẠO,
NHÀ NƯỚC QUẢN LÝ, NHÂN DÂN LÀM CHỦ
1. Khái niệm
Lãnh đạo là việc đề ra chủ trương, đường lối, chiến lược, sách lược, gắn với
những vấn đề tổng quát, mang tính định hướng; còn quản lý là việc tổ chức thực hiện,
xử lý những vấn đề cụ thể. Lãnh đạo thiên về hoạch định đường lối chính trị; người
lãnh đạo là nhà chính trị. Quản lý thiên về cai quản, điều hành; người làm quản lý là
những “nhà cai quản” hay những “nhà hành chính”. Làm chủ trên phạm vi toàn xã hội
là thái độ của nhân dân trong chế độ xã hội chủ nghĩa, coi tài sản, công việc là của
mình; mình có trách nhiệm trông nom và bảo vệ, do đó tự nguyện làm.
Về phương thức tác động, lãnh đạo sử dụng chủ yếu là phương pháp động viên,
thuyết phục, gây ảnh hưởng. Quản lý dựa vào pháp luật và các thể chế, quy chế. Làm
chủ được thực hiện qua việc sử dụng các quyền chủ động của mình phù hợp với quy
định của pháp luật.
Về hiệu lực, lãnh đạo giúp cho các tổ chức, cá nhân tự tổ chức, thực hiện được
mục đích, tôn chỉ mà lực lượng lãnh đạo đặt ra một cách đầy đủ, nghiêm túc, đồng
thời tham gia giám sát các tổ chức, cá nhân thực hiện đầy đủ, nghiêm túc. Quản lý
thông qua hoạt động của chính quyền, có tác động trực tiếp đến dân, bảo đảm hiệu
lực, hiệu quả trực tiếp. Làm chủ được đánh giá ở mức độ thực hiện Hiến pháp, pháp
luật, ở hiệu quả thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân; đồng thời được thể
hiện ở mức độ tham gia kiểm soát, giám sát các tổ chức, cá nhân thực hiện nghĩa vụ,
trách nhiệm trước pháp luật.
Về nội dung, lãnh đạo gồm có: xác định phương hướng, mục tiêu lâu dài, lựa
chọn chủ trương, chiến lược, điều hoà phối hợp các mối quan hệ và phân công, giao
quyền lãnh đạo, quản lý, tổ chức thực hiện cho đội ngũ cán bộ, đảng viên; động viên
4


thuyết phục toàn xã hội cùng thực hiện. Nội dung quản lý bao gồm: xây dựng kế
hoạch, sắp xếp tổ chức, chỉ đạo điều hành và kiểm soát tiến trình hoạt động. Tuy

nhiên, lãnh đạo và quản lý có nhiều chỗ tương đồng, đều phục vụ chung một mục
đích, gần như bổ sung cho nhau, đan xen nhau mà không cản trở nhau. Làm chủ bao
gồm: chủ động sử dụng quyền năng của mình (hoặc uỷ quyền cho ngưòi khác) thực
hiện các công việc thuộc phạm vi mà mình chi phối; kiểm tra, kiểm soát (hoặc uỷ
quyền) quá trình vận hành công việc.
Khái niệm Đảng lãnh đạo là để chỉ vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi
thành lập đến nay, tức là vai trò lãnh đạo trong toàn bộ tiến trình cách mạng Việt
Nam.
Cầm quyền là nắm giữ chính quyền. Khái niệm Đảng cầm quyền là để chỉ vai
trò của Đảng khi đã giành được chính quyền; cũng có nghĩa là Đảng lãnh đạo khi đã
có chính quyền, lãnh đạo bằng chính quyền, thông qua chính quyền và các đoàn thể
nhân dân để lãnh đạo toàn xã hội. Nói cách khác, Đảng cầm quyền là Đảng nắm giữ
và sử dụng quyền lực nhà nước, lãnh đạo Nhà nước và toàn dân thực hiện mục tiêu
của Đảng.
Đảng cầm quyền có nghĩa là Đảng lãnh đạo chính quyền thực hiện đường lối,
chủ trương của Đảng thông qua Hiến pháp, pháp luật, bằng cách giới thiệu cán bộ của
Đảng để dân bầu (thực hiện quyền làm chủ), nắm giữ các vị trí lãnh đạo, quản lý bộ
máy nhà nước từ Trung ương đến cơ sở.
Khái niệm Đảng cầm quyền không đồng nhất với khái niệm Đảng lãnh đạo,
nhưng nó có những nội dung giống với khái niệm Đảng lãnh đạo. Khái niệm Đảng
lãnh đạo có nội hàm rộng hơn, Đảng lãnh đạo ngay cả khi chưa giành được chính
quyền, chưa nắm được chính quyền.
Bất kỳ nhà nước nào cũng thực hiện chức năng quản lý xã hội, quản lý dân
chúng của mình. Nhà nước không có quyền lực tự thân, quyền lực nhà nước chẳng
qua là quyền lực được nhân dân uỷ nhiệm. Trong xã hội hiện đại, để có thể thực hiện
5


chức năng quản lý xã hội của mình, Nhà nước phải được tổ chức thành các cơ quan
lập pháp, hành pháp và tư pháp để bảo đảm quyền lực được phân công và phối hợp

thực hiện có hiệu quả.
Nhân dân làm chủ tức là đề cập đến quyền lực của Nhân dân. Nhân dân thực
hiện quyền làm chủ của mình không chỉ thông qua bộ máy nhà nước, mà họ còn tự
mình thực hiện quyền ấy.
Để thực hiện quyền làm chủ của mình, Nhân dân có nghĩa vụ và trách nhiệm tối
cao là quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm tham gia xây dựng Hiến pháp, pháp luật (dưới
các hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp) và thực hiện quy định của Hiến pháp và pháp
luật. Nhân dân có quyền đòi hỏi Đảng, Nhà nước và các tổ chức, cá nhân thực hiện
đúng theo Hiến pháp, pháp luật.
2. Bản chất của mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân
dân làm chủ
Trong mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước: Đảng thực hiện sự lãnh đạo về
chính trị đối với tổ chức và hoạt động của Nhà nước, không nhà nước hoá, hành chính
hoá, không bao biện, làm thay những công việc của Nhà nước. Đảng hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Chính hệ thống luật pháp do Đảng lãnh đạo xây
dựng nên đã thể hiện ý chí, mục tiêu chính trị của Đảng, ý chí, nguyện vọng của nhân
dân, vì Đảng ta không có mục đích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân. Do vậy, để
thực hiện quyền lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, quyền làm chủ của nhân
dân thì không có gì tốt hơn là xây dựng cho tốt, thực hiện cho nghiêm Hiến pháp và
pháp luật. Đảng không hoà vào trong Nhà nước, hành chính hoá, làm thay Nhà nước.
Nhưng Đảng cũng không thể đứng ngoài Nhà nước. Đảng đề ra chủ trương, đường lối
theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nhà nước cụ thể hoá, thể chế hoá các nhiệm vụ do
Đảng đề ra.
Trong mối quan hệ giữa Đảng và Nhân dân: Đảng thực hiện sự lãnh đạo và tổ
chức để người dân làm chủ, bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân. Để làm được điều
6


đó, Đảng phải thực sự là tinh hoa trí tuệ trong Nhân dân, giúp dân thực hiện quyền
làm chủ của mình. Chỉ khi thấu rõ lòng dân, Đảng mới nắm bắt được ý nguyện của

nhân dân và những xét đoán của Nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và đảng viên.
Có như vậy, Nhân dân mới thừa nhận và tôn vinh sự lãnh đạo của Đảng và đi theo con
đường mà Đảng vạch ra.
Trong mối quan hệ giữa Nhà nước và Nhân dân: Nhà nước là một bộ máy do
Nhân dân lập ra để thực hiện quyền lực nhà nước, do Nhân dân uỷ quyền vì lợi ích
của Nhân dân và xã hội. Bộ máy nhà nước được sự uỷ thác của Nhân dân, thay mặt
Nhân dân để quản lý xã hội, quan hệ với Nhân dân là giữa “công bộc” và chủ nhân.
Xét trên bình diện quyền lực xã hội, thì Nhân dân là chủ thể có vị trí quan trọng
nhất; quyền quản lý của Nhà nước là quyền do Nhân dân uỷ thác. Xét trên mối quan
hệ giữa ba chức năng lãnh đạo, quản lý, làm chủ, thì vai trò làm chủ của Nhân dân giữ
vị trí tiền đề cho cả ba chức năng. Nếu không phát huy được vai trò làm chủ của Nhân
dân thì sự lãnh đạo và quản lý cũng không phản ánh đúng bản chất của nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa. Nhà nước quản lý giữ vai trò làm phương tiện hay điều kiện để thực
hiện quyền làm chủ của Nhân dân trong công việc quản lý đất nước và xã hội. Sự lãnh
đạo của Đảng giữ vai trò quyết định trong việc tổ chức và phát huy quyền làm chủ của
Nhân dân và lãnh đạo chính quyền nhà nước quản lý, điều hành mọi mặt của đời sống
xã hội.
Mối quan hệ biện chứng giữa ba nhân tố (Đảng - Nhà nước - Nhân dân) trong
cơ chế tổng thể “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”, là: Nhân dân
làm chủ với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước; và sự lãnh đạo, quản lý
đó phải xuất phát từ quan điểm “dân là gốc”, “dân là chủ và dân làm chủ”. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều
của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân... Nói tóm lại, quyền
hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Nhân dân làm chủ vừa là một thành tố không tách
rời trong cơ chế tổng thể trên, vừa là mục tiêu cao nhất khi triển khai thực hiện cơ chế
7


đó trong thực tiễn. Nhân dân tin tưởng và trao quyền lãnh đạo xã hội cho Đảng để
Đảng thực hiện khát vọng tự do, dân chủ, quyền làm chủ của Nhân dân. Nhân dân lập

ra Nhà nước thông qua cơ chế bầu cử dân chủ và tự do, từ đó Nhân dân uỷ quyền, uỷ
nhiệm cho cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước, thay mặt mình thực thi
quyền lực nhà nước. Do đó, tất yếu là Nhà nước, với tư cách là của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân, phải có trách nhiệm bảo đảm để mọi công dân thực hiện tốt
nhất các quyền cơ bản của mình theo quy định của luật pháp. Như vậy, hiệu quả thực
sự của sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước chính là bảo đảm quyền làm chủ
của Nhân dân, là xây dựng, thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng thông qua
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật. Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ đều nhằm mục tiêu chung xây dựng một
nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

8


Chương 2
MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG LÃNH ĐẠO, NHÀ NƯỚC QUẢN LÝ, NHÂN
DÂN LÀM CHỦ TRONG THỜI GIAN VỪA QUA
2.1 Quá trình phát triển nhận thức về mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ từ Cương lĩnh 1991 đến nay
2.1.1. Sự khẳng định bản chất, nội dung của mối quan hệ giữa Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ trong Cương lĩnh 1991
Về bản chất mối quan hệ, Cương lĩnh năm 1991 đã khẳng định: “Toàn bộ tổ
chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây
dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực
thuộc về nhân dân”. Điều đó có nghĩa là toàn bộ hệ thống chính trị: Đảng, Nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội được tổ chức, hoạt động nhằm
mục tiêu bảo đảm cho nhân dân làm chủ.
Về nội dung của mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân
làm chủ. Mối quan hệ của Đảng với Nhà nước và Nhân dân, Cương lĩnh chỉ rõ:
“Đảng lănh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và

chủ trương công tác; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức kiểm
tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng giới thiệu những đảng viên
ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính
quyền và các đoàn thể. Đảng không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ
thống chính trị.
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy.
Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Mối quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân, Cương lĩnh xác định: “Là tổ chức
thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, Nhà nước ta

9


phải có đủ quyển lực và đủ khả năng định ra luật pháp và tổ chức, quản lý mọi mặt
đời sống xã hội bằng pháp luật...
Nhà nưóc có mối liên hệ thường xuyên và chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và
lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân”.
Qua các văn kiện đã nêu, có thể đưa ra quan niệm về nội dung mối quan hệ giữa
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ như sau: Đảng lãnh đạo Nhà
nước và xã hội bằng chủ trương, đường lối và mục tiêu chính trị của mình, trong đó
mục tiêu chính trị cao nhất của Đảng là vì lợi ích của nhân dân, do vậy Đảng được
nhân dân suy tôn, uỷ thác quyền lãnh đạo xã hội. Để cụ thể hoá, thực thi đường lối
chính trị, Đảng cần có bộ máy nhà nước do Đảng lãnh đạo, cử cán bộ, đảng viên để
bầu vào các vị trí lãnh đạo. Nhân dân làm chủ thông qua đại diện của mình (do Đảng
giới thiệu để nhân dân lựa chọn, bầu ra) bằng hệ thống luật pháp, về phần mình, nhân
dân có nghĩa vụ, trách nhiệm, quyền hạn ở chỗ tham gia xây dựng luật pháp; thực hiện
và giám sát các tổ chức, cá nhân của Đảng, Nhà nước thực hiện các quy định của luật
pháp. Hiệu quả công tác lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, làm chủ của nhân
dân, xét cho cùng là hiệu quả thực hiện ý chí, nguyện vọng của Đảng và nhân dân.

2.1.2. Sự phát triển nhận thức của Đảng ta về mối quan hệ giữa Đảng lãnh
dạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ từ Cương lĩnh 1991 đến nay
Phương hướng cơ bản để thực hiện cơ chế tổng thể Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, Nhân dân làm chủ là mở rộng và thực thi dân chủ, bảo đảm quyền lực thuộc
về Nhân dân, mở rộng và bảo đảm sự tham gia của Nhân dân vào xây dựng Đảng,
quản lý các công việc của Nhà nước và xã hội; tăng cường sự kiểm tra, giám sát của
Nhân dân đối với tổ chức đảng, Nhà nước và cán bộ; hoàn thiện bộ máy nhà nước.
Đối với mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo với Nhà nước quản lý, Nhân dân làm
chủ. Đảng ta nhận thức rõ Đảng Cộng sản cầm quyền là Đảng lãnh đạo Nhà nựớc và
toàn xã hội, quy tụ sức mạnh của toàn dân tộc để làm cho đường lối, quan điểm của
Đảng giữ vai trò chủ đạo đối với sự phát triển xã hội, thông qua hệ thống tổ chức của
10


Đảng và đảng viên để lãnh đạo xây dựng, hoàn thiện bộ máy nhà nước. Đồng thời,
Đảng và Nhà nước lãnh đạo nhân dân thường xuyên tham gia ý kiến, kiểm tra, giám
sát hoạt động của Nhà nước, nhờ vậy mục tiêu của Đảng được thực hiện trong phạm
vi quốc gia, dân tộc. Đảng lãnh đạo xã hội chủ yếu thông qua Nhà nước và bằng Nhà
nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước, nhưng không làm thay công việc của Nhà nước. Đảng
quan tâm xây dựng, củng cố Nhà nước, phát huy vai trò của Nhà nước trong quản lý,
điều hành đất nước.
Đảng lãnh đạo trước hết là để phát huy vai trò và hiệu lực, hiệu quả quản lý của
Nhà nước, làm cho Nhà nước thật sự xứng đáng là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đảng lãnh đạo là để nhân dân phát
huy vai trò làm chủ đất nước và làm chủ xã hội. Việc phát huy vai trò và hiệu lực,
hiệu quả của quản lý nhà nước và làm chủ của nhân dân luôn đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng, bảo đảm cho Đảng thật sự là người lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo Nhà nước và
lãnh đạo xã hội.
Trong việc xử lý mối quan hệ ấy, Đảng ta luôn coi trọng việc đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể

nhân dân trên cơ sở tiếp tục khẳng định những nguyên tắc đã được xác định trong
Cương lĩnh năm 1991 như: Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị nhưng không làm thay
công việc của các tổ chức khác trong hệ thông chính trị; Đảng lãnh đạo Nhà nước
nhưng không làm thay công việc của Nhà nước; Đảng tôn trọng tính tự chủ, ủng hộ
mọi hoạt động tích cực, sáng tạo và chân thành lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân...
Trong nhiều văn kiện, Đảng ta chỉ rõ, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
phải gắn liền vói đổi mới tư duy về Đảng cầm quyền, về nội dung lãnh đạo của Đảng
và về mối quan hệ của Đảng với các tổ chức của hệ thống chính trị trong tình hình
mới. Chẳng hạn, Nghị quyết Trung ương 5 khoá X (năm 2007) về tiếp tục đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị đã chỉ rõ:
11


“Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống
chính trị nhằm giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo, nâng cao tính khoa học,
năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội, sự gắn bó
mật thiết giữa Đảng với nhân dân; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà
nước, chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội;
phát huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân; tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong
Đảng và trong xã hội; để nước ta phát triển nhanh và bền vững theo định hướng xã
hội chủ nghĩa”.
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định rõ hơn phương thức
lãnh đạo của Đảng: “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà
nước và xã hội. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính
sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức,
kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng thống nhất
lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú
có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống
chính trị. Đảng lãnh đạo thống qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ

chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người
đứng đầu”.
Đảng ta luôn chú trọng lãnh đạo xây dựng và hoàn thiện Nhà nước nhằm giữ
vững vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; luôn kiên định mục tiêu, lý tưởng của
mình là phục vụ nhân dân. Đảng, Nhà nước đã xây dựng các thiết chế nhằm bảo đảm
vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, làm chủ của nhân dân. Tuy nhiên,
đến nay, trên thực tế vẫn còn nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn cần được tiếp tục
làm sáng tỏ và cụ thể hoá để nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà
nước, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân.
Đối với mối quan hệ giữa Nhà nước quản lý với Đảng lãnh đạo, Nhân dân làm
chủ. Lần đầu tiên, thuật ngữ “Xây dựng Nhà nước pháp quyền” được đề cập tại Hội
12


nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khoá VII (năm 1991). Đến Hội nghị đại
biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (năm 1994), Đảng ta khẳng định: “Tiếp tục
xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là Nhà nước
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp
luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Nhà nước phải bằng
mọi nỗ lực xây dựng được các thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của nhân
dân. Chính sách, pháp luật, cơ cấu tổ chức nhà nước được nhân dân góp ý xây dựng;
nhân dân giám sát các hoạt động của Nhà nước.
Mối quan hệ giữa Nhà nước quản lý với Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ được
thể hiện rất rõ trong năm quan điểm cơ bản về xây dựng Nhà nước pháp quyền là:
+ Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân; lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí
thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo;
+ Thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội,
chuyên chính với mọi hoạt động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân dân;
+ Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ

quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp;
+ Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà
nước;
+ Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Đảng ta khẳng định cần thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân trong xây dựng và quản lý nhà nước; nâng cao chất lượng hoạt
động và kiện toàn tổ chức Quốc hội; tiếp tục cải cách nền hành chính nhà nước; cải
cách tư pháp; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Đến Đại hội IX và X, Đảng ta tiếp tục khẳng định nhiệm vụ xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng, bảo đảm
nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là
13


thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Đối với mối quan hệ giữa nhân dân làm chủ với Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý. Đến Đại hội X, Đảng ta đã nhận thức đầy đủ hơn, rõ ràng hơn, sâu sắc hơn,
khi khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động lực của công
cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng,
Nhà nước và nhân dân”. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) một lần nữa
khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của sự phát triển đất nước”. Đồng thời đã xác định xã hội chúng ta
đang xây dựng là “do nhân dân làm chủ” chứ không chỉ là “nhân dân lao động làm
chủ”.
Đại hội X có bước tiến mới về nhận thức quyền làm chủ của nhân dân: xây
dựng một xã hội dân chủ, trong đó cán bộ, đảng viên và công chức phải thật sự là
công bộc của nhân dân. Nhà nước là đại diện quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời
là người tổ chức và thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Mọi đường lối của Đảng,
chính sách và pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, có sự tham gia ý

kiến của nhân dân. Xác định các hình thức tổ chức và có cơ chế để nhân dân thực hiện
quyền làm chủ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Đại hội X cũng đã chỉ rõ các hình thức để nhân dân làm chủ: thực hiện các cơ
chế cụ thể để thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối
với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước; dân chủ trong quá trình
chuẩn bị ra các quyết định và tổ chức thực hiện các quyết định; làm chủ thông qua các
cơ quan dân cử, các tổ chức, đoàn thể chính trị, xã hội, nghề nghiệp; làm chủ trực tiếp
ở cơ sở, bằng các hình thức nhân dân tự quản, bằng các quy ước, hương ước tại cơ sở
phù hợp với luật pháp của Nhà nước, tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý xã
hội, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng; khắc phục mọi biểu hiện dân
chủ hình thức. Chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi
14


người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam
đã ký kết hoặc tham gia.
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Nhà nước tôn trọng và
bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự
do của mỗi người.
Quyền và nghĩa vụ công dân do Hiến pháp và pháp luật quy định. Quyền của
công dân không tách rời nghĩa vụ công dân.
Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả
hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện”.
Qua các kỳ đại hội, mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân
dân làm chủ đã ngày càng được cụ thể hoá. Tuy nhiên, trong thực tế còn không ít vấn
đề về phương thức lãnh đạo của Đảng, phương thức vận hành của bộ máy nhà nước và
quy định cụ thể về quyền làm chủ của nhân dân còn bất cập, cần được tiếp tục làm rõ.
2.2. Tình hình giải quyết mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, Nhân dân làm chủ trong thời gian qua
2.2.1. Những thành tựu đạt được

Thứ nhất, Đảng giữ vững được vai trò lãnh đạo đối với Nhà nước; thông qua
Nhà nước, nhân dân thực hiện và phát huy quyền làm chủ của mình tham gia quản lý
nhà nước, quản lý xã hội ngày càng tốt hơn.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta đã phát huy tốt hơn vai trò quản lý của
mình, có chính sách đúng, động viên và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong
sự nghiệp đổi mới. Trong lãnh đạo xây dựng Nhà nước, đã quán triệt nguyên tắc tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, thực hành dân chủ, phát huy tính sáng tạo của
nhân dân, tham khảo và vận dụng có chọn lọc lý luận xây dựng Nhà nước pháp quyền
của nhân loại vào điều kiện cụ thể của Việt Nam sao cho phù hợp với dân tộc, thời đại
và hoàn cảnh thực tiễn của đất nưóc. Cụ thể là, đã từng bước phát triển hệ thống quan
điểm, nguyên tắc cơ bản xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Dân,
15


do Dân, vì Dân; quyền làm chủ của Dhân dân tiếp tục được phát huy trên nhiều lĩnh
vực; tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, trước hết là của cơ quan
hành chính nhà nước, đã có một bước điều chỉnh theo yêu cầu của quá trình chuyển từ
cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp sang quản lý nền kinh tế nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa; nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước bước
đầu đã có đổi mới theo hướng vừa bảo đảm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa
phát huy trách nhiệm, tính chủ động của các cơ quan nhà nước.
Thứ hai, giải quyết ngày càng tốt hơn quan hệ giữa Đảng với Nhà nước và các
tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị. Tình trạng Đảng bao biện, làm thay
Nhà nước đã giảm dần ở nhiều cấp; đã từng bước nâng cao vai trò chủ động và phát
huy hiệu lực quản lý của Nhà nước, tính chủ động, sáng tạo của các tổ chức chính trị xã hội. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ngày càng phát huy được vai
trò của mình trong việc tập hợp, đoàn kết, động viện các tầng lớp nhân dân tham gia
các phong trào cách mạng, tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước và nâng cao
tính tự quản của các cộng đồng dân cư. Nhận thức ngày càng sâu sắc hơn vai trò và
nội dung của dân chủ trong đời sống xã hội, xác lập và phát triển nền dân chủ xã hội

chủ nghĩa; từng bước làm rõ mối quan hệ giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và vai trò
lãnh đạo của Đảng; giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền, yêu cầu
và tác động của phát triển kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế tới việc phát huy
dân chủ ở nước ta. Đã có nhiều chủ trương, biện pháp để đẩy mạnh quá trình dân chủ
hoá xã hội. Việc ban hành và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Pháp lệnh thực hiện
dân chủ ở xã, phường, thị trấn đã góp phần tích cực vào quá trình phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, làm cho dân chủ trong xã hội có bước phát triển toàn diện hơn.
Quyền ứng cử, lựa chọn trong bầu cử, giám sát đại biểu được thực hiện có hiệu quả
hơn. Quyền của công dân tham gia vào các công việc của Nhà nước và xã hội, xây

16


dựng các quyết định chính trị quan trọng của Đảng và Nhà nước được mở rộng và
thực chất hơn. Trình độ và năng lực làm chủ của nhân dân từng bước được nâng lên.
Những bước tiến trên đây trong đổi mới từng bộ phận của hệ thống chính trị và
quan hệ qua lại giữa các bộ phận đó đã góp phần quan trọng làm cho dân chủ trong xã
hội có bước phát triển toàn diện.
2.2.2. Những bất cập, hạn chế và nguyên nhân
Thứ nhất, sự lãnh đạo của Đảng chưa đáp ứng yêu cầu của quá trình đổi mới tổ
chức, hoạt động của Nhà nước; còn có tình trạng bao biện, chồng chéo và buông lỏng
nên chưa phát huy tốt vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực điều hành của bộ máy nhà
nước. Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội còn
chậm, chưa phát huy đầy đủ vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và
quyền làm chủ của nhân dân.
Thứ hai, chưa phân định thật rõ chức năng, quyền hạn giữa Đảng lãnh đạo với
Nhà nước quản lý; càng xuống dưới càng khó phân biệt chức năng lãnh đạo và chức
năng quản lý. Hệ thống tổ chức đảng - nhà nước - đoàn thể còn cồng kềnh, chồng
chéo, kém hiệu lực, hiệu quả.
Thứ ba, cơ chế Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - nhân dân làm chủ đã được

xác định từ lâu, nhưng chưa được nghiên cứu để cụ thể hoá đầy đủ.
Thứ tư, bộ máy hành chính còn nhiều tầng, nấc làm cho việc quản lý quá trình
phát triển kinh tế - xã hội chưa thật nhanh, nhạy và có hiệu quả. Tình trạng quan liêu,
cửa quyền, nhũng nhiễu của một bộ phận cán bộ, công chức nhà nước chưa được khắc
phục; kỷ cương, phép nước bị xem thường, thậm chí còn có những hành vi lợi dụng
dân chủ để phá hoại kỷ cương, phép nước, trái với lợi ích của nhân dân.
Thứ năm, phương thức tổ chức, phong cách hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân không ít nơi vẫn chưa thoát khỏi tình trạng hành chính hoá, xơ
cứng, chậm đổi mới; một số cán bộ đoàn thể bị “công chức hoá”, chưa thật gần với
quần chúng. Một số hoạt động không đúng chức năng, nhiệm vụ, tính chất của Mặt
17


trận. Có nơi, có lúc, quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm một cách nghiêm
trọng. Trong giao dịch với các cấp chính quyền người dân chưa thực sự là người được
thụ hưởng các dịch vụ từ các cơ quan nhà nưóc...
Những bất cập và hạn chế trong mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, nhân dân làm chủ” là hệ quả của những nguyên nhân sau:
Một là, chưa có những nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn đầy đủ và hệ
thống vế mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Do
vậy, chưa thật sự làm rõ cả trên phương diện lý luận và thực tiễn về bản chất, nội dung
cơ bản và những hình thức, biện pháp để thực hiện mối quan hệ tổng thể này.
Hai là, chậm đổi mới tư duy và nhận thức về mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ, nên chưa tạo được một hệ thống nhận thức mới đầy
đủ vế mối quan hệ này trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân và hội nhập quốc tế.
Ba là, cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ chưa được
thể chế hoá, cụ thể hoá đầy đủ và đồng bộ thành một hệ thống các quy định, thể chế
thích hợp. Mối quan hệ giữa các cấp uỷ đảng ở cả trung ương và địa phương với các

cơ quan nhà nước các cấp, các ngành chưa được cụ thể hoá bằng một hệ thống quy
chế quan hệ đầy đủ và đồng bộ.
Bà là, công tác xây dựng Đảng, đổi mới, cải cách tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ phát triển của đất nước. Năng
lực lãnh đạo, sức chiến đấu của không ít tổ chức đảng còn nhiều bất cập; phương thức
lãnh đạo của Đảng chậm đổi mới; hiệu quả, hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước
chưa cao; công tác cải cách hành chính vẫn chưa đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra.
Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân chưa sâu sát các tầng lớp
nhân dân và cơ sở. Đạo đức công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức còn nhiều bất cập.

18


Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT TỐT HƠN MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG
LÃNH ĐẠO, NHÀ NƯỚC QUẢN LÝ, NHÂN DÂN LÀM CHỦ
3.1. Nâng cao hơn nữa nhận thức về mối quan hệ giữa Đãng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ phù hợp với đặc điểm của thời kỳ mới ở nước ta
Cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ được hình thành
và vận hành từ trước thời kỳ đổi mới, xuất phát từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung,
bao cấp và quan điểm về chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa. Bước vào thời kỳ
mới, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân cần có những nhận thức mới.
Về Nhân dân làm chủ, Nhân dân làm chủ là yếu tố trung tâm của mối quan hệ
giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, bởi vì mọi hoạt động của
Đảng và Nhà nước đều từ Nhân dân và vì Nhân dân.
Người dân không chỉ thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua các đại biểu
do mình bầu ra, mà họ còn tự mình thực hiện những quyền đó. Người dân còn tự
thành lập ra các tổ chức, các hội đoàn theo quy định của pháp luật để thoả mãn những
nhu cầu chính đáng của mình. Cũng thông qua các tổ chức của mình, người dân sẽ
thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của bộ máy nhà nước, xem bộ máy đó có

thực hiện đúng những “cam kết” đã thoả thuận với nhân dân hay không. Như vậy,
điều cần nhấn mạnh ở đây là, người dân thực hiện quyền làm chủ của mình không chỉ
thông qua bộ máy nhà nước, mà họ còn tự mình thực hiện quyền ấy trên cơ sở các tiêu
chí, yêu cầu mà luật pháp đã quy định. Bất kỳ ai lợi dụng quyền làm chủ của nhân dân
để chống đối, làm trái pháp luật, đều phải bị xử lý. Hoạt động lãnh đạo, quản lý cũng
phải theo quy định pháp luật; nếu cơ quan, tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật trong
thi hành công vụ, người dân có quyền phản đối hoặc khiếu kiện theo luật định.
Về Đảng lãnh đạo, Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng cương lĩnh, chiến lược, các
định hướng về chính sách, chủ trương lớn. Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng,
chủ trương lớn này của Đảng cần được sự đồng thuận của nhân dân. Nhân dân có
19


quyền và nghĩa vụ tham gia góp ý vào nội dung dự thảo các văn bản, văn kiện của
Đảng trước khi ban hành.
Đảng lãnh đạo thông qua việc giới thiệu những đảng viên ưu tú của mình để
nhân dân lựa chọn bầu vào các cơ quan quyền lực nhà nước. Với tư cách là chủ thể
của quyền lực nhà nước, khi người dân nhận thấy cương lĩnh, đường lối của Đảng là
đáng tin cậy, có thể đem lại lợi ích cho bản thân mình và cho toàn xã hội, thì chắc
chắn họ sẽ bỏ phiếu cho những ứng cử viên là người của Đảng và sẽ tự giác hơn trong
việc chấp hành các chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Sự lãnh đạo của Đảng chủ yếu phải thông qua Nhà nước chứ không phải lãnh
đạo với tư cách là một chủ thể độc lập đứng bên ngoài hay đứng trên Nhà nước, bằng
mệnh lệnh, quyền uy chỉ đạo cụ thể đối với các cơ quan nhà nước; phù hợp với sự
phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa nói chung và việc xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta nói riêng. Đảng phải phát huy vai trò và trách
nhiệm cá nhân của từng đảng viên ưu tú của Đảng, được nhân dân tín nhiệm bầu, nhân
dân chính thức giao quyền. Cần thực hiện tốt phương thức lãnh đạo thông qua đảng
viên nắm giữ các cương vị chủ chốt của Nhà nước ở các cấp, được bầu cử dân chủ với
các quy chế pháp lý chặt chẽ, ràng buộc trách nhiệm của những người này trước Đảng

và trước nhân dân.
Đảng lãnh đạo nhân dân bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục và chứng
minh cho nhân dân thấy tính đúng đắn và tinh khoa học trong đường lối, quyết sách
của mình. Sự chứng minh ấy không gì khác hơn là thông qua các nghiên cứu, thử
nghiệm, phản biện và tranh luận rộng rãi ở cả trong và ngoài Đảng. Nếu như không có
sự trao đổi, thảo luận rộng rãi về đường lối, chính sách thì sự thuyết phục đối với
người dân sẽ khó có thể đạt được hoặc không tạo được sự đồng thuận cao trong xã
hội.
Đảng tăng cường công tác tổ chức, kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của
đảng viên.
20


Về Nhà nước quản lý, để có thể thực hiện chức năng quản lý nhà nước của
mình, Nhà nước phải được tổ chức thành các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp
để bảo đảm “lao động” quyền lực được phân công và phối hợp thực hiện một cách
khoa học, chặt chẽ, hiệu quả. Nguyên tắc ở đây là Nhà nước sinh ra để phục vụ nhân
dân. Trong một xã hội dân chủ thì Nhà nước phải là người bảo vệ quyền công dân,
quyền con người. Mức độ dân chủ của một xã hội có thể được đo lường bằng số lượng
những quyền công dân, quyền con người mà một công dân bình thường có thể thực
hiện được trên thực tế.
Như vậy, Đảng và Nhà nước không có lợi ích tự thân, sứ mệnh của Đảng và
Nhà nước là phục vụ nhân dân; cán bộ, công chức là công bộc của nhân dân. Do vậy,
phài luôn luôn nhận thức và đặt “nhân dân” vào trung tâm của mối quan hệ này; sự
lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đều xuất phát từ nhu cầu dân chủ của người
dân, phục vụ lợi ích của nhân dân và là những bảo đảm quan trọng để nhân dân thật sự
là chủ và thật sự làm chủ.
3.2. Nhận thức rõ hơn mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền và Nhà nước
pháp quyền trong việc thực hiện quyền lực của Nhân dân
Đảng và Nhà nước đều là những tổ chức thực hiện các uỷ quyền quyền lực của

Nhân dân. Nhân dân uỷ quyền cho Đảng quyền lãnh đạo chính trị với ba thẩm quyền
cơ bản:
Thứ nhất, xây dựng và quyết định đường lối chính trị cho sự phát triển của đất
nước; quyết định những vấn đề liên quan đến vận mệnh quốc gia.
Thứ hai, Đảng giới thiệu các đảng viên ưu tú đủ tiêu chuẩn để Nhân dân lựa
chọn bầu vào các cơ quan đại diện và quyền lực nhà nước; giới thiệu để các cơ quan
nhà nước bầu hoặc bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo.
Thứ ba, thực hiện việc kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên và các cơ quan nhà
nước, các đoàn thể Nhân dân trong việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng.

21


Nhân dân uỷ quyền cho bộ máy nhà nước thực hiện quyền quản lý, điều hành
đất nước với ba thẩm quyền cơ bản:
Một là, xây dựng và ban hành luật pháp (quyền lập pháp).
Hai là, tổ chức thực hiện luật pháp để duy trì và thúc đẩy tự do, dân chủ, an
ninh của mỗi người dân và toàn bộ xã hội (quyền hành pháp).
Ba là, bảo đảm trật tự, kỷ cương và duy trì công lý (quyền tư pháp).
Như vậy, tính chất, nội dung, phạm vi quyền lực, trách nhiệm của Đảng và Nhà
nước được xác định là không trùng lặp, phù hợp với vai trò, vị trí và tính chất của mỗi
tổ chức. Dĩ nhiên, xuất phát từ nguyên lý về tính thống nhất của quyền lực Nhân dân,
quyền lực của Đảng và quyền lực của Nhà nước liên hệ chặt chẽ và tác động lẫn nhau
trong mối quan hệ phức hợp. Chính sự tác động tương hỗ lẫn nhau trong mối quan hệ
mật thiết này thường dễ tạo nên tình trạng lẫn lộn chức năng và phương thức hoạt
động giữa các cơ quan đảng và các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Do vậy, việc
phân định quyền lực của Đảng với ba thẩm quyền phổ biến nêu trên là cơ sở quan
trọng để phân định sự lãnh đạo chính trị của Đảng và quyền quản lý, điều hành đất
nước của bộ máy nhà nước.
3.3. Tiếp tục thể chế hoá, cụ thể hoá mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà

nước quản lý, nhân dân làm chủ
Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” chỉ có thể vận
hành và đưa lại kết quả thiết thực khi các quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Nhân dân
được phân định rành mạch về quyền và trách nhiệm của mỗi chủ thể thông qua một hệ
thống thể chế và quy chế.
Về nguyên tắc, quyền hạn phải luôn gắn với trách nhiệm và cùng với nó là các
biện pháp kiểm soát quyền hạn. Quyền hạn được trao càng cao, càng quan trọng thì
trách nhiệm của chủ thể được trao quyền phải càng lớn và các biện pháp kiểm soát
càng phải được thiết kế một cách cụ thể. Đối với mỗi chức danh quyền lực trong hệ
thống chính trị đều phải thiết kế một cơ chế trách nhiệm và cơ chế kiểm soát quyền
22


lực khả thi và cụ thể để có thể xác định được trách nhiệm trước những thành công và
thất bại của các chính sách.
Hiện nay, đất nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa với nhiều thuận lợi và cũng không ít
khó khăn, thách thức. Để tiếp tục vận hành có hiệu quả cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ”, Đảng và Nhà nước cần tập trung thực hiện tốt
những vấn đề cơ bản sau đây:
Trước hết, cần thể chế hoá bằng pháp luật mọi chủ trương, đường lối của Đảng,
tạo cơ sở để thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm
chủ”. Theo hiến pháp, Đảng là thành viên và đồng thời là hạt nhân của hệ thống chính
trị, Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội; Đảng hoạt động trong khuôn khổ
của Hiến pháp và pháp luật... Theo đó, trong các văn bản quy phạm pháp luật, cần quy
định rõ ràng, cụ thể chức năng, nhiệm vụ của Đảng cầm quyền cũng như của từng
chức danh cán bộ của Đảng trong xã hội. Điều này cũng phù hợp với việc Đảng đề ra
Điều lệ và các quy định của tổ chức đảng và mọi đảng viên; tất nhiên những quy định
đó phải phù hợp với Hiến pháp và pháp luật. Cùng với đó, Đảng cần phải làm tốt công
tác quản lý tổ chức Đảng và đảng viên; mọi đảng viên, bất kể giữ chức vụ, cương vị gì

trong bộ máy của hệ thống chính trị đều phải thực hiện nghiêm pháp luật. Chỉ có như
vậy, mới bảo đảm cho Đảng vừa không buông lỏng lãnh đạo, vừa không lạm quyền,
bao biện, làm thay chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, của Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị-xã hội khác.
Thứ hai, phải tạo mọi điều kiện để Nhân dân trực tiếp thể hiện quyền làm chủ
trong hoạt động của Đảng và Nhà nước. Chúng ta đang xây dựng một xã hội do Nhân
dân làm chủ, để thực hiện được điều đó, cần tạo ra nhiều “kênh” để Nhân dân thực
hiện quyền làm chủ trực tiếp của mình, như: góp ý vào các quyết sách của Đảng, vào
công tác cán bộ... Cùng với đó, Đảng cần tổ chức nhiều đợt lấy ý kiến của Nhân dân;
qua đó, làm cho Nhân dân ta giác ngộ hơn nữa về chính trị, phát huy quyền làm chủ
23


về chính trị của mình đối với các vấn đề trọng đại của đất nước. Có thể thí điểm, dần
dần và tiến tới đại trà, việc quy định để nhân dân trực tiếp bầu các chức danh lãnh đạo
của Nhà nước. Dân có quyền bãi miễn (theo thủ tục đơn giản nhất) những đại biểu do
mình bầu ra khi thấy đại biểu đó không còn đủ tư cách và không hoàn thành nhiệm vụ.
Đó cũng chính là cách thức để thực hiện có hiệu quả phương châm Dân biết, Dân bàn,
Dân làm, Dân kiểm tra, giám sát và quản lý mọi hoạt động của xã hội.
Thứ ba, cần xác định thật rõ những đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN
của Dân, do Dân, vì Dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Có thể nêu lên ở đây một số nội
dung cơ bản cần phải quy định rõ, như: Nhà nước quản lý xã hội dựa trên cơ sở Hiến
pháp và pháp luật; mọi hoạt động của các tổ chức chính trị-xã hội (kể cả tổ chức đảng)
đều phải tuân thủ theo Hiến pháp và pháp luật; Nhà nước phải chịu sự lãnh đạo của
Đảng và sự lãnh đạo ấy phải được thể chế bằng luật định. Cấu tạo quyền lực của Nhà
nước cũng như hoạt động của nó phải bảo đảm tất cả mọi quyền lực đều thuộc về
Nhân dân; Nhân dân có quyền kiểm soát Nhà nước, có quyền bãi miễn những đại biểu
do mình bầu ra, nếu đại biểu đó mất tư cách và không làm tròn nhiệm vụ; Nhà nước
tôn trọng và khuyến khích sự hoạt động của các tổ chức chính trị-xã hội theo đúng
luật định; Nhà nước có chức năng quản lý xã hội; đồng thời, có chức năng tổ chức các

dịch vụ xã hội nhằm đáp ứng, chăm lo tất cả mọi yêu cầu của Nhân dân. Đây chính là
sự biểu hiện rõ ràng nhất vai trò: “Nhà nước của Dân, do Dân, vì Dân”; đồng thời,
cũng là điểm biểu hiện rõ ràng tư cách “Nhân dân làm chủ” trong cơ chế “Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”.

24


KẾT LUẬN
Mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” là sản
phẩm tất yếu của lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam, đảm bảo cho sự thành công
của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Xây dựng,
hoàn thiện và phát huy đầy đủ cơ chế đó là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và
của toàn dân, mà trước hết là của cấp uỷ, chính quyền các cấp.
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) cũng chỉ rõ phải đặc biệt chú trọng
nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn, trong đó có mối quan hệ giữa Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ.
Tuy nhiên, còn nhiều nơi, nhiều lúc chúng ta đã không giải quyết tốt mối quan
hệ này, từ đó xảy ra tình trạng lẫn lộn, nhập cục Đảng với Nhà nước. Hiện tượng đảng
“đảng trị” đảng “ôm quyền”, lấn át chính quyền nhà nước. Từ chỗ là lãnh đạo, Đảng
rơi vào tình trạng bị “nhà nước hóa” thành cơ quan quyền lực, trực tiếp làm thay chức
năng của Nhà nước. Sự lẫn lộn một cách chủ quan giữa chức năng của Đảng với chức
năng của Nhà nước làm cho cả Đảng và Nhà nước đều yếu đi. Đảng không phát huy
được chức năng vốn có của mình, còn Nhà nước rơi vào tình trạng thụ động, quan
liêu, xa rời thực tế, quyền lực của nhân dân trở thành hình thức.
Vì vậy, đòi hỏi phải phân định rõ chức năng Đảng và Nhà nước, đồng thời
Đảng phải lãnh đạo Nhà nước bằng phương pháp dân chủ. Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý đều biểu hiện ra trong đời sống xã hội như những chủ thể thực hiện sự uỷ
quyền của dân. Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý để nhân dân làm chủ. Phát huy dân
chủ là phương thức tốt nhất không để quyền lực của nhân dân, của giai cấp biến thành

quyền lực riêng của một nhóm người có đặc quyền, đặc lợi. Đảng vừa phải giữ vững,
tăng cường sự lãnh đạo của mình đối với Nhà nước, vừa phải lãnh đạo nhà nước bằng
phương thức dân chủ là yêu cầu của thực tiễn đặt ra.

25


×