MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Luận bàn minh triết và minh triết Việt, cố giáo sư Hoàng Ngọc Hiến có khẳng
định “… trong nền minh triết Việt có nhiều nguồn, có minh triết lục giáo, có minh
triết đạo thờ cúng tổ tiên… có minh triết văn hóa các dân tộc anh em. Trong thời
đại Hồ Chí Minh, minh triết Hồ Chí Minh với sức thấm sâu và lan tỏa rộng trong
lòng dân là nguồn trung tâm trong đa nguồn minh triết Việt”. Ông nhấn mạnh
“minh triết chính trị của Hồ Chí Minh là một kho báu vô giá”. Đặc trưng của minh
triết Hồ Chí Minh nói chung, đạo đức Hồ Chí Minh nói riêng là Người gộp bội
thành công nhiều ý tưởng tinh hoa của nhân loại, đặc biệt của các vị tiền nhân
phương Đông mà dân tộc ngưỡng mộ, cô đúc thành thông điệp mang tâm thức Việt
để giáo dục cho nhân dân Việt Nam. Vì thế, đạo đức Hồ Chí Minh là điểm nhấn,
trung tâm phát ra năng lượng, định hướng giá trị đạo đức trong thời đại mới.
Nhận thức được vị trí, vai trò của đạo đức Hồ Chí Minh đối với cách mạng
Việt Nam, ngay từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II, Đảng ta đã đặt ra nhiệm
vụ học tập tư tưởng đạo đức và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Mục
đích cuộc vận động là làm cho toàn Đảng, toàn dân nhận thức sâu sắc về những nội
dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng đạo đức và tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh, từ đó chuyển sang hành động, làm theo tấm gương đạo đức của Người, tạo
sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tu dưỡng, rèn luyện trong mỗi người dân Việt
Nam; đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống và các tệ nạn xã
hội, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội của Đảng và tạo đà cho
những năm tiếp theo.
Đối với sinh viên trường Đại học Tây Bắc, đặc thù sinh sống trên một địa bàn
tương đối phức tạp với vị trí địa chính trị quan trọng của Tổ quốc, trong thời gian gần
đây, do tác động của KTTT và cả sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch
nên công tác giáo dục phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống luôn được các cấp ủy
Đảng, các cấp chính quyền, các cấp giáo dục quan tâm. Một trong những việc làm
đó là giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh để sinh viên rèn luyện bản thân, tu dưỡng đạo
đức, hun đúc lòng tự hào, bản sắc văn hóa dân tộc, quyết tâm chiến thắng đói
1
nghèo, xây dựng khối đại đoàn kết, phòng chống diễn biến hòa bình và góp phần
thực hiện cuộc vận động “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
Giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho SV có thể thực hiện ở nhiều nội dung, với
nhiều hình thức, thông qua chương trình, giáo trình học tập; thông qua vai trò của tổ
chức Đảng, Đoàn thanh niên và Hội SV trong nhà trường; thông qua việc phối
hợp với gia đình và toàn xã hội… trong đó có vai trò đặc biệt quan trọng của môn tư
tưởng Hồ Chí Minh. Điều này được lý giải từ vị trí môn tư tưởng Hồ Chí Minh với
việc giáo dục đạo đức cách mạng, lối sống mới văn minh, lành mạnh cho SV, vị trí
này các môn khác không thể thay thế được. Tuy nhiên, trong giảng dạy, nhiều GV
còn thiên về truyền đạt nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh mà ít quan tâm liên hệ thực
tế, chưa sử dụng nhiều tấm gương người thật, việc thật trong học tập và làm theo
đạo đức Hồ Chí Minh, chưa chú ý đúng mức đến giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh
cũng như chưa hướng đến những biện pháp dạy học phù hợp để giáo dục đạo đức,
lý tưởng sống cho người học.
Vì vậy, đề tài “Nghiên cứu các biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục đạo
đức Hồ Chí Minh cho sinh viên Trường Đại học Tây Bắc trong dạy học môn tư
tưởng Hồ Chí Minh” là một hướng nghiên cứu vừa có ý nghĩa lí luận, vừa mang
tính thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ năm học 2005, môn tư tưởng Hồ Chí Minh được đưa vào giảng dạy đại trà
trong các trường ĐH, CĐ Việt Nam. So với các môn LLCT khác, tư tưởng Hồ Chí
Minh là một môn học mới, tích hợp tri thức tổng hợp, khó đối với cả người dạy và
người học để lĩnh hội sát, đúng các quan điểm gốc của Hồ Chí Minh. Để dạy tốt
môn học, liên quan đến rất nhiều vấn đề như sự quan tâm của Đảng và Nhà nước,
lòng yêu nghề, kĩ năng, PP dạy học phù hợp từ phía GV, thái độ và tinh thần tự học
của SV… tuy nhiên theo chúng tôi, một trong những điều kiện cơ bản là hệ thống
tài liệu phục vụ môn học. Trong đó, liên quan trực tiếp đến giảng dạy môn học,
phải là bộ giáo trình quốc gia về “Tư tưởng Hồ Chí Minh” của Hội đồng lí luận
trung ương biên soạn, Nxb CTQG xuất bản năm 2003. Từ đó cho đến nay, giáo
trình môn tư tưởng Hồ Chí Minh đã được Bộ GD&ĐT phối hợp với Nxb CTQG
xuất bản năm 2005, lần lượt chỉnh sửa và tái bản cho phù hợp với tình hình mới
2
vào các năm 2009, 2011, 2013. Trong giáo trình quốc gia, đạo đức Hồ Chí Minh
được thể hiện trong chương VII, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, đạo đức và xây
dựng con người mới.
Trên cơ sở giáo trình quốc gia, Nguyễn Khánh Bật đã biên soạn “Những bài
giảng về môn tư tưởng Hồ Chí Minh”, góp thêm những tư liệu để nghiên cứu, học
tập tốt môn học. Trong bài 11, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, tác giả luận giải sự
quan tâm của lãnh tụ Hồ Chí Minh về đạo đức; nguồn gốc hình thành; vị trí, vai trò
của đạo đức; những chuẩn mực đạo đức cơ bản và những nguyên tắc xây dựng đạo
đức mới [8].
Còn có thể kể đến tài liệu “Tìm hiểu thân thế - sự nghiệp và tư tưởng Hồ
Chí Minh (hỏi và đáp)” do Hoàng Trang và Nguyễn Khánh Bật đồng chủ biên.
Tài liệu đưa ra hình thức hỏi - đáp, dựa trên cơ sở những công trình nghiên cứu
về Hồ Chí Minh đã công bố và được thừa nhận rộng rãi, nội dung những câu hỏi
và đáp trong cuốn sách đã cung cấp cho người đọc những nét cơ bản về thân thế
và những hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đồng thời, nội dung
cuốn sách còn phản ánh được những vấn đề cơ bản về quá trình hình thành và
nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh. Đặc biệt, cuốn sách còn có những câu hỏi bàn
về vị trí, vai trò, chuẩn mực, yêu cầu đạo đức Hồ Chí Minh, vận dụng trong giai
đoạn hiện nay [81].
Trong năm 2007, vào tháng 3, Bộ GD&ĐT đã xuất bản Kỷ yếu hội thảo
khoa học “Giảm tải, nâng cao chất lượng dạy và học các môn khoa học Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”. Về cơ bản, các nhà khoa học đều tập trung bàn
vấn đề giảm tải, tích hợp các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
để đảm bảo tính hiện đại, tính quốc tế nhưng đồng thời vẫn giữ được tính dân tộc
và bổ sung trách nhiệm của lớp trẻ trong thời đại mới [12]. Nhằm góp phần đổi
mới kết cấu, nội dung chương trình, giáo trình và PP giảng dạy các môn lí luận
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ở các trưởng ĐH, Trung tâm đào tạo, bồi
dưỡng giảng viên LLCT đã tổ chức hội thảo “Giảng dạy các môn LLCT ở các
trường ĐH Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế”. Liên quan đến môn tư
tưởng Hồ Chí Minh, các tác giả đã luận bàn về giá trị của môn học, về kết cấu,
nội dung, về đổi mới PP giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường ĐH,
3
CĐ hiện nay; những yêu cầu đặt ra đối với việc giảng dạy, học tập môn tư tưởng
Hồ Chí Minh cho SV trong bối cảnh Việt Nam hội nhập quốc tế [19]. Đây là
những tư liệu quan trọng định hướng cho việc giảng dạy, học tập môn tư tưởng
Hồ Chí Minh góp phần giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho SV.
Trong cuốn “Tư tưởng Hồ Chí Minh, tài liệu phục vụ dạy và học chương
trình các môn LLCT trong các trường ĐH, CĐ”, nhóm tác giả chia tài liệu thành
các chuyên đề theo cấu trúc tổng thể chương trình môn học, nhằm tạo lập thêm
nguồn tư liệu tham khảo cho quá trình GV biên soạn bài giảng và tự học của SV.
Vì vậy, so với giáo trình môn học, một mặt tập tài liệu này không đề cập hết mọi
nội dung mà chỉ đi sâu hơn một số nội dung cơ bản; mặt khác, tập tư liệu này cũng
mở rộng một số nội dung có liên quan và có thể giới thiệu một số cách diễn giải
khác nhau đối với cùng một vấn đề nhằm gợi ý những suy nghĩ, tìm tòi của GV và
SV trong thực tế dạy và học. Trong tài liệu, nhóm tác giả đã dành chuyên đề thứ 7:
SV học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh nhằm giúp SV
hiểu được tại sao Bác Hồ đặc biệt quan tâm tới đạo đức và giáo dục đạo đức cho
SV; giúp họ hiểu được những phẩm chất cơ bản của con người Việt Nam theo quan
điểm Hồ Chí Minh và cả những nội dung đạo đức cần học tập và làm theo cũng
như nội dung trái với đạo đức Hồ Chí Minh cần chống [13].
Cuốn sách “Tư tưởng Hồ Chí Minh (hỏi và đáp)”, Bùi Đình Phong chủ biên
được biên soạn dưới dạng câu hỏi và trả lời về những vấn đề cơ bản nhất của tư
tưởng Hồ Chí Minh. Với 24 câu hỏi và trả lời, các tác giả đã chắt lọc những vấn đề
cơ bản nhất, những PP thực hiện và những vận dụng có ý nghĩa thời sự hiện nay,
qua đó góp phần khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng bộc lộ sức sống
trường tồn. Về đạo đức Hồ Chí Minh, tác giả bàn đến vai trò và các PP thực hành
đạo đức cách mạng; các giải pháp nâng cao hiệu quả học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh [74].
Đó còn là “Tài liệu nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh” của Võ Văn
Lộc biên soạn, tuyển chọn và giới thiệu. Cuốn sách là kết quả của một quá trình
sưu tầm, tích lũy tư liệu, thể hiện tâm huyết, tình cảm của nhà khoa học đối với vị
lãnh tụ kính yêu của dân tộc, mong muốn làm điều thiết thực, có ích, nhằm đưa tư
tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống, đến với mọi người, nhất là thế hệ trẻ, HS, SV.
4
Trong cuốn sách, tác giả đã chọn lọc kỹ lưỡng những tài liệu gốc của Hồ Chí
Minh, các bài viết tiêu biểu của 30 nhà nghiên cứu trong nước, kể cả công trình tập
thể và 16 học giả nước ngoài, sắp xếp theo từng chương của giáo trình tư tưởng Hồ
Chí Minh. Các tài liệu này đảm bảo tính chân xác lịch sử, lôgic, hệ thống, cập nhật
và thời sự, giúp cho người đọc từ những giá trị lí luận và thực tiễn các quan điểm
của Hồ Chí Minh mà suy ngẫm về những vấn đề, khía cạnh khác nhau của cuộc
sống đương đại. Sau mỗi tài liệu, người viết có những lời bình, nhận xét sắc sảo,
gợi mở những vấn đề cần thảo luận, tiếp tục nghiên cứu sâu thêm, kích thích sự tìm
tòi sáng tạo của người học, không áp đặt khiên cưỡng tư duy một chiều của nhà
nghiên cứu. Về đạo đức Hồ Chí Minh, có thể tham khảo nhiều tư liệu trong chương
1, chương 3, chương 4, chương 5, chương 7 [50].
Như vậy, để giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho thanh niên - SV, các nhà
nghiên cứu đã bàn đến dưới các góc độ khác nhau, tuy nhiên, về giáo dục đạo đức
Hồ Chí Minh trong dạy học môn tư tưởng Hồ Chí Minh thì hầu như chưa có công
trình nào bàn đến một cách chi tiết: cần giáo dục cho SV như thế nào? môn tư
tưởng Hồ Chí Minh có ưu thế ra sao, biện pháp dạy học nào là phù hợp, phát huy
hiệu quả... mà chỉ lồng ghép nội dung đạo đức Hồ Chí Minh qua tài liệu. Vì vậy,
đề tài nghiên cứu “Giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho SV Trường Đại học Tây
Bắc trong dạy học môn tư tưởng Hồ Chí Minh”, là một hướng nghiên cứu mới, vừa
có ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Tiếp tục làm sáng tỏ một số vấn đề về giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh,
thực trạng giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh và đề xuất biện pháp nhằm nâng cao
chất lượng, hiệu quả giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên trường Đại
học Tây Bắc trong dạy học môn tư tưởng Hồ Chí Minh.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh trong dạy
học môn tư tưởng Hồ Chí Minh
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Địa bàn nghiên cứu: sinh viên Trường Đại học Tây Bắc.
5
Thời gian nghiên cứu: từ 12 năm 2015 đến tháng 12 năm 2016.
5. Cách tiếp cận, phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cách tiếp cận:
Đề tài dựa trên cơ sở quan điểm của Đảng và Nhà nước về giáo dục đạo đức
Hồ Chí Minh cho sinh viên; kết quả nghiên cứu của những công trình khoa học đã
công bố và thực trạng giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên trường Đại học
Tây Bắc.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử
- Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ
thống hóa, điều tra, khảo sát nhằm thu thập thông tin liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Với kết quả đạt được, đề tài có ý nghĩa sâu sắc cả về mặt lý luận và thực
tiễn, cung cấp những luận cứ và cơ sở khoa học góp phần vào việc giáo dục đạo
đức cho sinh viên nói chung và nâng cao chất lượng của công tác giáo dục đạo đức
Hồ Chí Minh cho sinh viên trường Đại học Tây Bắc nói riêng.
- Đề tài có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng
dạy, nhất là trong công tác giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống cho sinh viên.
- Kết quả của đề tài chỉ ra được thực trạng đạo đức sinh viên và thực trạng
giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên trường Đại học Tây Bắc, đánh giá
được nội dung, hình thức và phương pháp, chất lượng và hiệu quả giáo dục chính
trị tư tưởng, rèn luyện đạo đức lối sống cho sinh viên trường Đại học Tây Bắc.
- Đề tài đề xuất được các biện pháp khả thi góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên trường Đại học Tây Bắc đáp ứng yêu
cầu thực tiễn về mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ vừa hồng, vừa chuyên góp phần phục
vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, cấu trức của đề
tài gồm 3 chương, 10 tiết:
6
Chương 1: Lý luận về giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên trong
dạy học môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
Chương 2: Thực trạng giáo dục đạo đức đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên
Trường Đại học Tây Bắc trong dạy học môn tư tưởng Hồ Chí Minh
Chương 3: Một số biện pháp giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên
trường Đại học Tây Bắc trong dạy học môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
7
CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH CHO SINH VIÊN
TRONG DẠY HỌC MÔN TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH
1.1. Lý luận chung về đạo đức và giáo dục đạo đức
1.1.1. Đạo đức
Đạo đức là một trong những hình thái sớm nhất của ý thức xã hội, nó ra đời
và tồn tại một cách khách quan trong cuộc sống nhằm điều chỉnh ý thức và hành vi
của con người. Đạo đức bao gồm những chuẩn mực, quy tắc ứng xử mang tính tự
nguyện, ra đời và phát triển là do nhu cầu của xã hội phải điều tiết mối quan hệ và
hoạt động chung của con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đạo đức
biểu hiện bản chất xã hội của con người, là nết cơ bản trong tính người. Vì vậy, sự
tiến bộ của ý thức đạo đức là một trong những tiêu chí căn bản để đánh giá sự tiến
bộ chung của xã hội.
Ở phương Tây, danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng Latinh là mos, morris,
nghĩa là phong tục, tập quán. Đạo đức còn có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp là
ethicos, cũng có nghĩa là thói quen, tập quán. Như vậy, theo phần gốc của khái
niệm, khi nói đến đạo đức là nói đến những thói quen, tập quán sinh hoạt và ứng
xử của con người trong cộng đồng, trong xã hội.
Ở phương Đông, theo các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ
đại, đạo có nghĩa là con đường, đường đi, là đường sống của con người trong xã
hội. Đức dùng để nói đến nhân đức, đức tính và nhìn chung đức là biểu hiện của
đạo, là đạo nghĩa, là nguyên tắc luân lý. Theo đó, đạo đức chính là những yêu cầu,
những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà con người phải tuân theo.
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, đạo đức xét đến cùng là
sự phản ánh các quan hệ xã hội. Giá trị đạo đức được xác định ở chỗ nó phục vụ
cho tiến bộ xã hội vì hạnh phúc của con người. “Đạo đức giúp cho xã hội loài
người tiến lên trình độ cao hơn, thoát khỏi ách áp bức bóc lột lao động” [46; 371].
Bàn về đạo đức CSCN, Lênin cho rằng: “đó là những gì góp phần phá hủy xã hội
cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những người lao động chung quanh
giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới của những người cộng sản” [47; 214].
8
Đây là một quan niệm mang tính cách mạng và khoa học về đạo đức mà quan niệm
của các tôn giáo và các nền đạo đức khác không thể đạt tới.
Vậy là, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, đạo đức không phải nảy
sinh bên ngoài xã hội. Sự xuất hiện của ý thức đạo đức là do nhu cầu khách quan
của sự phát triển nhận thức, của đời sống xã hội, mà trước hết là do nhu cầu phối
hợp hành động trong lao động sản xuất, trong việc phân phối sản phẩm xã hội,
trong đấu tranh.
Theo Từ điển tiếng Việt, đạo đức là: “1. Những tiêu chuẩn, nguyên tắc được
dư luận xã hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ của con người đối với nhau và
đối với xã hội (nói tổng quát). 2. Phẩm chất tốt đẹp của con người do tu dưỡng
theo những tiêu chuẩn đạo đức mà có” [72; 290].
Trong cuốn “Giáo trình đạo đức học” của Trần Hậu Kiêm xuất bản năm
1997, đạo đức được định nghĩa là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, bao gồm
một hệ thống những quan điểm, quan niệm, những quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực
xã hội. Nó ra đời, tồn tại và biến đổi từ nhu cầu của xã hội. Nhờ đó, con người tự
giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người
và sự tiến bộ của xã hội trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá
nhân với xã hội.
Theo chúng tôi, đạo đức là một phương thức điều chỉnh các quan hệ xã hội,
bao gồm một hệ thống các qui tắc, các chuẩn mực nhằm điều chỉnh hành vi và
đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội
để bảo vệ lợi ích của cá nhân và của cộng đồng, chúng được đảm bảo thực hiện
bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống, tập quán và sức mạnh của dư luận xã hội.
Như vậy, đạo đức không phải có sẵn ở đâu đó, nó được hình thành từ khi có
xã hội loài người và tồn tại vĩnh viễn cùng loài người. Tuy nhiên, hệ thống các
nguyên tắc, quy tắc và chuẩn mực đạo đức lại có tính lịch sử vì với tư cách là một
hình thái ý thức xã hội, đạo đức cũng phản ánh tồn tại xã hội, mà tồn tại xã hội lại
không bất biến. Hình thái ý thức xã hội đạo đức giúp con người điều chỉnh hành vi
của mình, hướng con người tới cái tốt, cái thiện.
1.1.2. Giáo dục đạo đức
9
Giáo dục - hiểu theo nghĩa rộng - là quá trình trao đổi và chuyển giao tri
thức, là sự đạt được những giá trị và hành vi theo một mục đích, yêu cầu định sẵn.
Hiểu theo nghĩa hẹp, giáo dục là một quá trình hình thành nhân cách con
người dưới ảnh hưởng của các hoạt động có mục đích của nhà giáo dục trong hệ
thống các cơ quan giáo dục và DH.
Trong Từ điển tiếng Việt, giáo dục được định nghĩa là “hoạt động nhằm tác
động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng
nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực như
yêu cầu đề ra” [72; 394].
Về bản chất, giáo dục là quá trình tổ chức cuộc sống, hoạt động và giao lưu cho
đối tượng giáo dục, nhằm giúp họ nhận thức đúng, tạo lập tình cảm và thái độ đúng,
hình thành những thói quen hành vi văn minh trong cuộc sống, phù hợp với chuẩn
mực xã hội [88; 137].
Như vậy, giáo dục có vai trò rất lớn trong việc hình thành phẩm chất, nhân
cách, định hướng phát triển cho mỗi người. Sự phát triển và hoàn thiện con người
có nhiều yếu tố tác động, song có thể khẳng định yếu tố giáo dục đóng vai trò chủ
yếu. Nếu không có giáo dục, con người không thể tiếp cận và tiếp thu được nền
văn hóa, văn minh của nhân loại; và do đó, các thế hệ sau cũng không thể tiếp thu,
kế thừa và bảo tồn được những di sản truyền thống dân tộc. Vì vậy, Chủ tịch Hồ
Chí Minh khẳng định: không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì
đến kinh tế, văn hóa cả.
Vấn đề giáo dục đạo đức cũng được loài người bàn đến từ rất sớm. Ngay từ
thời cổ đại, người phương Tây đã coi giáo dục đạo đức là yếu tố đóng vai trò chi
phối quá trình giáo dục tri thức. Còn ở phương Đông, xu hướng coi giáo dục đạo
đức như là quá trình giáo dục nhân cách, đồng nhất với giáo dục nhân cách, là quá
trình giáo dục cách xử thế ở đời và đạo lý làm người.
Giáo dục đạo đức góp phần to lớn trong việc chuyển các quan niệm đạo đức
từ tự phát sang tự giác, từ bị động sang chủ động, không ngừng nâng cao trình độ
nhận thức các giá trị đạo đức cho mỗi người. Qua giáo dục đạo đức, nội dung các
phạm trù, các quy tắc đạo đức được nhận thức một cách đầy đủ, đúng đắn hơn, góp
phần điều chỉnh hành vi phù hợp với những chuẩn mực đạo đức xã hội.
10
Cùng với việc nâng cao nhận thức các giá trị đạo đức, giáo dục đạo đức còn
góp phần tạo ra những giá trị đạo đức mới; xây dựng những quan điểm, phẩm chất
đạo đức mới, quan niệm sống tích cực cho mỗi đối tượng giáo dục. Đồng thời, giáo
dục đạo đức cũng góp phần khắc phục những quan điểm đạo đức lạc hậu, sự lệch
chuẩn các giá trị nhân cách, chống lại các hiện tượng phi đạo đức, tạo ra cơ chế
phòng ngừa các phản giá trị đạo đức, phản giá trị văn hóa trong mỗi một nhân
cách, có như vậy giáo dục đạo đức mới thực hiện được nhiệm vụ “dạy người” của
nó. Hơn hai nghìn năm trước, Arixtốt (384 - 322), một trong những triết gia lớn
nhất “trong suốt nhiều thế kỷ là người thầy của tất cả các nhà triết học” đã nói
rằng: chúng ta bàn về đạo đức không phải để biết đức hạnh là gì mà là để trở thành
con người có đức hạnh.
Giáo dục đạo đức góp phần to lớn vào việc truyền lại cho thế hệ sau những giá
trị đạo đức truyền thống mà từ đời này qua đời khác chúng ta đã dày công gìn giữ và
xây dựng. Thông qua việc giáo dục sẽ giúp họ nhận thức đầy đủ chân giá trị của
truyền thống đạo đức dân tộc, ý nghĩa lớn lao của chúng trong đời sống hiện thực,
lòng nhân ái và tính nhân văn sâu sắc đã được lưu giữ, bảo tồn và lắng đọng trong cốt
cách con người và nền văn hóa Việt Nam.
Như vậy, một trong những nội dung quan trọng nhất của quá trình giáo dục
là giáo dục đạo đức, sẽ là duy tâm nếu chúng ta cho rằng tư tưởng quyết định tất
cả, và giáo dục đạo đức có thể làm thay đổi toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội.
Nhưng cũng sẽ là sai lầm khi chúng ta xem nhẹ vai trò của đạo đức trong đời sống
xã hội, tự tước bỏ vũ khí tinh thần của mình bằng sự hoài nghi, dao động về lý
tưởng đạo đức.
Giáo dục đạo đức có thể được thực hiện qua nhiều hình thức khác nhau như tổ
chức lao động, tổ chức hoạt động xã hội, hoạt động vui chơi giải trí, văn hóa, thể
dục thể thao, hoạt động tập thể… trong đó, dạy học là con đường giáo dục có bài
bản nhất, tích cực, chủ động và ngắn nhất, có hiệu quả nhất làm cho thế hệ trẻ lĩnh
hội một cách có hệ thống những kho tàng văn hóa của loài người trong một thời
gian nhất định. Điều này được lý giải từ vai trò của nhà trường, đây là cơ sở
chuyên thực hiện chức năng giáo dục, do một đội ngũ các nhà sư phạm đã được
đào tạo và có đầy đủ kinh nghiệm thực hiện các chương trình giáo dục có mục
11
đích, nội dung và phương pháp theo một kế hoạch nhất định. Thông qua nội dung
các môn học, người học lĩnh hội được một khối lượng kiến thức hệ thống, xây
dựng kĩ năng lao động, tiếp thu những tri thức, phẩm chất chính trị, nhờ đó nhân
cách được hình thành và phát triển. Con đường dạy học được tổ chức theo hình
thức nội khóa và ngoại khóa. Dạy học nội khóa được tiến hành theo tiết, theo bài,
theo môn, theo thời khóa biểu đã định sẵn. Còn hình thức ngoại khóa được nhà
trường, GV tổ chức cho SV vào thời gian ngoài giờ lên lớp. Thông qua việc tổ
chức cho SV được tiếp xúc với thực tiễn cuộc sống xã hội phong phú, tham gia các
hoạt động đa dạng, giúp củng cố, khắc sâu, mở rộng những tri thức được giáo dục
trong hình thức nội khóa và qua đó, hình thành ở các em thái độ đúng đắn và kĩ
năng cần thiết theo mục tiêu môn học.
Sự kết hợp giữa nội và ngoại khóa tạo sự gắn kết giữa lý thuyết với thực
hành, giữa nhận thức với hành động, mang lại hiệu quả tích cực, bổ ích, phát huy
được tính năng động sáng tạo, khơi gợi niềm hứng thú, qua đó, giúp SV mở rộng
nhận thức, phát triển tình cảm, rèn luyện thói quen đạo đức tích cực. Từ những vấn
đề trên, có thể khái quát: giáo dục đạo đức là quá trình tác động đến đối tượng giáo
dục để hình thành trong họ ý thức, tình cảm, niềm tin, lý tưởng... đạo đức và được
thể hiện ở hành vi đạo đức.
1.2. Giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên
1.2.1. Đạo đức Hồ Chí Minh
1.2.1.1. Nguồn gốc hình thành đạo đức Hồ Chí Minh
Đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt
Nam đã được hình thành, phát triển trong suốt quá trình đấu tranh dựng nước và
giữ nước. Quá trình đó dân tộc ta đã tạo lập cho mình một nền văn hóa riêng,
phong phú và bền vững với những truyền thống tốt đẹp và cao quý. Trong những
truyền thống đó, truyền thống đạo đức là nổi trội hơn cả.
Trước hết, đó là truyền thống yêu nước. Từ văn hóa dân gian đến văn hóa
bác học, từ những nhân vật trong truyền thuyết đến các tên tuổi sáng ngời trong
lịch sử như: Hai Bà Trưng, Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi... đều đã
phản ánh chân lý đó là một cách hùng hồn. Chủ nghĩa yêu nước là dòng chủ lưu
chảy xuyên suốt trường kỳ lịch sử Việt Nam, là chuẩn mực cao nhất, đứng đầu
12
bảng giá trị văn hóa - tinh thần Việt Nam. Mọi học thuyết đạo đức, tôn giáo từ
nước ngoài khi du nhập vào Việt Nam đều được người Việt Nam tiếp nhận qua
lăng kính của tư tưởng yêu nước đó.
Truyền thống nhân nghĩa đoàn kết, tương thân, tương ái, “lá lành đùm lá
rách” trong những hoạn nạn, khó khăn. Truyền thống này cũng hình thành cùng
một lúc với sự hình thành dân tộc, xuất phát từ hoàn cảnh và nhu cầu đấu tranh
quyết liệt với thiên nhiên và với giặc ngoại xâm. Người Việt Nam quen sống với
nhau trong tình làng nghĩa xóm, tắt lửa tối đèn có nhau. Bước sang thế kỉ XX, mặc
dù xã hội Việt Nam đã có sự phân hóa về giai cấp, truyền thống này vẫn còn rất
bền vững. Hồ Chí Minh đã chú ý kế thừa, phát huy sức mạnh của truyền thống
nhân nghĩa, Người nhấn mạnh bốn chữ “đồng”: đồng tình, đồng sức, đồng lòng,
đồng minh.
Truyền thống cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo trong sản xuất và
chiến đấu là cơ sở tạo nên một dân tộc ham học hỏi, không ngừng mở rộng cửa đón
nhận tinh hoa văn hóa của nhân loại. Trên cơ sở giữ vững bản sắc của dân tộc,
nhân dân ta đã biết chọn lọc, tiếp thu, cải biến những cái hay, cái tốt, cái đẹp của
người thành những giá trị riêng của mình. Hồ Chí Minh là hình ảnh sinh động và
trọn vẹn của truyền thống đó.
Truyền thống tôn sư trọng đạo. Truyền thống này đã thấm vào nhận thức,
tình cảm, trở thành triết lý sống từ đó định hướng cho những hành vi cụ thể của
người Việt Nam qua các thế hệ. Tôn vinh người thầy giáo, nhân dân ta nhận thức
một cách sâu sắc rằng để trở thành những người có ích, đóng góp cho quê hương
đất nước thì phải được dạy dỗ học hành. Lịch sử Việt Nam còn mãi mãi ghi ơn
những người thầy đã có công đào tạo cho đất nước nhiều trí thức. Người thầy được
xã hội tôn vinh ở hàng quan trọng thứ nhì trong xã hội, trước hết là vua, rồi đến
thầy giáo, sau mới đến cha mẹ.
Truyền thống lạc quan, yêu đời trong muôn nguy, ngàn khó, người lao động
vẫn động viên nhau “chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo”. Tinh thần lạc quan đó có
cơ sở từ niềm tin vào sức mạnh của bản thân mình, tin vào sự tất thắng của chân lý,
chính nghĩa, dù trước mặt còn đầy gian truân, khổ ải phải chịu đựng, vượt qua.
13
Đạo đức Hồ Chí Minh còn bắt nguồn từ sự tiếp thu có chọn lọc và phát triển
những tinh hoa văn hóa, đạo đức của nhân loại, cả phương Đông và phương Tây.
Xuất thân trong gia đình khoa bảng, ngay từ nhỏ Hồ Chí Minh đã được tiếp thu
một nền Hán học khá vững vàng. Khi ra nước ngoài, Người đã không ngừng làm
giàu trí tuệ mình bằng ý chí vượt lên trên mọi khó khăn để tiếp thu tinh hoa văn
hóa của nhân loại. Vì vậy, trong lúc đấu tranh Hồ Chí Minh vẫn có thể viết văn
bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, sắc sảo như một nhà báo phương Tây thực thụ, nhưng
khi có nhu cầu “tự bạch” thì Người lại làm thơ bằng chữ Hán. Chính điều đó làm
nên nét đặc sắc của Hồ Chí Minh, con người tượng trưng cho sự kết hợp hài hòa
của văn hóa, đạo đức Đông - Tây.
Khi ra đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Tất Thành đã được dân tộc, quê
hương và gia đình trang bị cho một vốn học vấn chắc chắn, một năng lực trí tuệ sắc
sảo, giúp Người phân tích, tổng kết các phong trào yêu nước chống Pháp từ cuối
thế kỷ XIX sang đầu thế kỷ XX ở Việt Nam một cách khoa học. Nhờ tư duy độc
lập, tự chủ, sáng tạo cộng với đầu óc phê phán tinh tường, sáng suốt trong việc
nghiên cứu tìm hiểu các cuộc cách mạng tư sản hiện đại đã giúp cho Nguyễn Ái
Quốc đến được với chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là sự khổ công học tập nhằm chiếm
lĩnh vốn tri thức phong phú của thời đại. Cuối cùng, đó là tâm hồn của một nhà yêu
nước, một chiến sĩ nhiệt thành cách mạng, một trái tim yêu nước, thương dân,
thương yêu những người cùng khổ, sẵn sàng chịu đựng những hy sinh cao nhất vì
độc lập của Tổ quốc, vì tự do, hạnh phúc của đồng bào.
Tác động biện chứng của mối quan hệ giữa cá nhân với dân tộc và thời đại
đã đưa Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Nhờ có thế giới quan và
PP luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu và chuyển hoá
được những nhân tố tích cực và tiến bộ của truyền thống đạo đức dân tộc cũng như
của văn hoá và đạo đức tiến bộ của nhân loại để hình thành đạo đức cách mạng Hồ
Chí Minh.
1.2.1.2. Khái niệm
Luận bàn minh triết và minh triết Việt, cố giáo sư Hoàng Ngọc Hiến có khẳng
định “… trong nền minh triết Việt có nhiều nguồn, có minh triết lục giáo, có minh
triết đạo thờ cúng tổ tiên… có minh triết văn hóa các dân tộc anh em. Trong thời
14
đại Hồ Chí Minh, minh triết Hồ Chí Minh với sức thấm sâu và lan tỏa rộng trong
lòng dân là nguồn trung tâm trong đa nguồn minh triết Việt” [36; 49-50]. Ông nhấn
mạnh “minh triết chính trị của Hồ Chí Minh là một kho báu vô [36; 41]. Đặc trưng
của minh triết Hồ Chí Minh nói chung, đạo đức Hồ Chí Minh nói riêng là Người
gộp bội thành công nhiều ý tưởng tinh hoa của nhân loại, đặc biệt của các vị tiền
nhân phương Đông mà dân tộc ngưỡng mộ, cô đúc thành thông điệp mang tâm
thức Việt để giáo dục cho nhân dân Việt Nam. Vì thế, đạo đức Hồ Chí Minh là
điểm nhấn, trung tâm phát ra năng lượng, định hướng giá trị đạo đức trong thời đại mới.
Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức của một người cộng sản mẫu mực, kiên
định trên lập trường, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp giữa chủ nghĩa
yêu nước của dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa quốc tế chân chính của GCCN. Đó
là đạo đức của người chiến sĩ suốt đời đấu tranh, dâng hiến cả cuộc đời và sự nghiệp
của mình cho lý tưởng và mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng
xã hội và giải phóng con người. Do đó, đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức cách mạng,
đạo đức hành động.
Đạo đức cách mạng, đạo đức hành động Hồ Chí Minh là cả một hệ thống lý
thuyết tư tưởng phong phú và tinh tế, nổi bật các đức tính, chuẩn mực “cần,
kiệm, liêm, chính” - bốn đức tính để làm người mà thiếu một đức thì không
thành người.
Đó là, yêu cầu ứng xử chí công vô tư, là bản lĩnh biết quên mình, biết vượt
qua những vướng bận toan tính cá nhân để vì người chứ không vì mình, vị tha chứ
không vị kỷ. Bản lĩnh này là sức mạnh bền bỉ để đánh bại chủ nghĩa cá nhân, chiến
thắng giặc nội xâm, suốt đời tu dưỡng đạo đức cách mạng, coi phục vụ nhân dân là
phục tùng một chân lý lớn nhất, là lẽ sống cao thượng nhất.
Không chỉ nhận rõ chân giá trị ấy mà Hồ Chí Minh còn tự mình thực hiện một
cách triệt để, nhất quán trong cả cuộc đời. Người không chỉ thực hành và nêu
gương mà còn làm hết sức mình, công phu rèn luyện, giáo dục đạo đức cách mạng
cho lớp lớp cán bộ, đảng viên, cho quần chúng nhân dân ở mọi tầng lớp, nghề
nghiệp, lứa tuổi, giới tính. Làm cho cái hay, cái tốt ở mỗi con người nảy nở như
hoa mùa xuân còn cái dở, cái xấu sẽ mất dần đi.
15
Điều này có thể khẳng định Hồ Chí Minh là một nhà đạo đức học. Người
không phải là nhà đạo đức học hàn lâm, kinh viện mà là một nhà đạo đức học thực
hành, thực hành một cách biện chứng, sáng suốt, đầy chất trí tuệ và nhân văn. Lý
thuyết đạo đức Hồ Chí Minh chuyển vào thực tiễn đạo đức xã hội mà đời sống đạo
đức của Người như một tấm gương sáng tiêu biểu. Đó là một nét riêng, tính đặc thù
riêng, in đậm dấu ấn, phong cách riêng của Hồ Chí Minh. Người vẫn thường căn
dặn chúng ta, nói ít làm nhiều, cái chủ yếu là hành động. Chỉ nói và viết khi cần
thiết, lại phải nói và viết ngắn gọn, giản dị sao cho quần chúng dễ hiểu. Hiểu để
làm, để làm đúng và làm tốt. Hơn nữa, để quần chúng noi theo, làm theo thì mỗi
cán bộ, đảng viên phải gương mẫu làm trước, đã nói thì phải làm, lời nói đi đôi với
việc làm.
Vậy là, đạo đức Hồ Chí Minh và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là thống nhất
nhưng không đồng nhất. Tư tưởng đạo đức là phần lí luận, là triết lý của Người.
Ngoài bộ phận cốt yếu ấy, thuộc về nhận thức, đạo đức Hồ Chí Minh còn là đời
sống đạo đức của bản thân Người với tư cách là một con người bình thường giữa
muôn người khác, dù hết sức vĩ đại nhưng lúc nào và ở đâu, Người cũng chỉ coi
mình là một con người bình thường. Cùng với điều đó còn phải chú trọng tìm hiểu
nghiên cứu hoạt động thực tiễn phong phú, đa dạng của Người, sự phong phú của
các mối quan hệ giữa Người với Dân, với Đảng, với các địa phương, vùng, miền
trong cả nước, với các bạn bè quốc tế, tình cảm yêu mến, sự kính trọng và lòng
ngưỡng mộ của nhân dân ta và nhân dân các dân tộc trên thế giới dành cho Người.
Bỏ qua phương diện này trong nghiên cứu sẽ là một thiếu hụt lớn, sẽ không thể
hình dung được sự sâu sắc, phong phú, đa dạng trong tư tưởng và sự nghiệp của
Người, trong thế giới tinh thần, lối sống và nhân cách của Người.
Tổng hợp các phương diện ấy, nhìn nhận từ các chiều cạnh ấy, trong sự
thống nhất tư tưởng với hành động, lí luận với thực tiễn mới có thể nhận thức
đầy đủ đạo đức Hồ Chí Minh.
Như vậy, đạo đức Hồ Chí Minh bao gồm nhiều nội dung cơ bản và toàn diện,
cần được hiểu một cách đầy đủ, đó không chỉ là tư tưởng mà còn là thực tiễn đời
sống đạo đức của Người.
16
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một hệ thống những quan điểm cơ bản và
toàn diện về đạo đức, bao gồm vị trí, vai trò, nội dung; những phẩm chất đạo đức
cơ bản và những yêu cầu xây dựng nền đạo đức mới; yêu cầu rèn luyện đạo đức
đối với người cách mạng.
Sở dĩ đạo đức Hồ Chí Minh trở nên vĩnh hằng, trở thành tài sản tinh thần vô
giá đối với Đảng với nhân dân là bởi tấm gương đạo đức cao đẹp của Người. Tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh được thể hiện qua hoạt động, hành vi và lối sống, qua
các mối quan hệ với con người, với công việc, trong giao tiếp, ứng xử hàng ngày.
Ở đâu, lúc nào, với mọi đối tượng khác nhau, chủ thể đạo đức Hồ Chí Minh cũng
là hiện thân sinh động của tính nhất quán giữa nói và làm, tính trung thực và sự
khiêm tốn; tính kiên định về yêu cầu và niềm tin gắn liền với tính linh hoạt và uyển
chuyển trong phương pháp đối nhân xử thế; lòng dũng cảm, sự sáng suốt, đức hy
sinh và nghị lực phi thường vượt lên mọi khó khăn, thử thách; sự ân cần, chu đáo,
lòng khoan dung độ lượng đầy tính nhân ái, vị tha đối với mỗi con người; sự nhạy
cảm và rất mực tinh tế của Người đối với mỗi con người, mỗi cảnh đời và những
số phận khác nhau. Đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh, đó là tình người mênh
mông, nâng niu giá trị con người, là tình nghĩa thủy chung son sắt. Suốt đời, Người
sống một cuộc sống đạm bạc mà tao nhã vô cùng. Người chỉ viết và nói những lời,
những chữ mộc mạc bình dị không màu mè tô vẽ nhưng đi thẳng vào lòng người.
Với Hồ Chí Minh, đạo đức cốt ở thực hành đạo đức, nêu gương đạo đức trong lao
động, trong đấu tranh cho tình thương và lẽ phải, cho cái hay, cái tốt nảy nở trong
con người, còn cái xấu, cái dở thì dần dần mất đi. Đó là niềm tin vào chiến thắng
của cái thiện đối với cái ác.
Tất cả biểu hiện trên là đạo đức Hồ Chí Minh. Đó là đạo đức của một nhà tư
tưởng lớn mang tầm vóc của thời đại, danh nhân văn hóa thế giới, cốt cách hiền
triết Á Đông, tiêu biểu cho tinh hoa của dân tộc. Vượt qua cái hữu hạn 79 mùa
xuân của cuộc đời một con người để đi vào cõi vĩnh hằng, Hồ Chí Minh đã trở
thành cái vô hạn trong lòng dân tộc Việt Nam để đi vào đời sống của nhân loại.
1.2.1.3. Bản chất, đặc điểm, nội dung đạo đức Hồ Chí Minh
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi, Hồ Chí Minh để lại rất
nhiều tác phẩm, bài nói, bài viết chuyên về đạo đức. Ngay trong tác phẩm lí luận
17
đầu tiên, cuốn “Đường Kách Mệnh”, Người viết để huấn luyện những người yêu
nước Việt Nam trẻ tuổi, vấn đề đầu tiên được đề cập là tư cách người cách mệnh.
Tác phẩm sau cùng bàn sâu về đạo đức được Người viết nhân dịp kỉ niệm 39 năm
ngày thành lập Đảng (3/2/1969), đăng trên báo Nhân Dân là bài “Nâng cao đạo đức
cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”. Trước khi đi xa, trong bản Di chúc cuối
cùng, khi nói về Đảng, Bác cũng căn dặn Đảng phải rất coi trọng giáo dục, rèn
luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, thanh niên. Tư tưởng và thực tiễn
đạo đức sinh động trong cuộc đời của Người đã hình thành nên đạo đức Hồ Chí
Minh.
Bản chất đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức cách mạng, là đạo đức của người
cách mạng trong thời kỳ giải phóng dân tộc đi lên xây dựng CNXH ở Việt Nam, đó
là đạo đức vì dân, vì mọi người. Người khẳng định: đạo đức chỉ có ý nghĩa khi nó
phục vụ cách mạng và trong điều kiện đó nó mới tạo ra một sức mạnh to lớn cho
sự nghiệp của chúng ta.
Đạo đức mới, đạo đức cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề xướng và cùng
với Đảng ta dày công xây dựng, bồi đắp khác với đạo đức cũ về chất. Đó là kết hợp
truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc với đạo đức mang bản chất GCCN và tinh
hoa đạo đức của nhân loại. Người nói: “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống
đất, chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới
đất, đầu ngửng lên trời” [59; 220]. Đạo đức cũ - đạo đức thực dân, phong kiến, là
thứ đạo đức ích kỷ, nó kìm hãm trói buộc con người, tàn phá con người. Còn đạo
đức mới là vì nước, vì dân. Đây là đạo đức vĩ đại. Bởi lẽ, đạo đức đó “... không
phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài
người” [57; 292].
Đặc điểm đạo đức Hồ Chí Minh thể hiện ở tính thực tế, tính toàn diện và tính
thống nhất.
Tính thực tế trong đạo đức Hồ Chí Minh hình thành không phải do sự suy lý
tư biện mà mà do chính sự tổng kết thực tiễn đạo đức xã hội Việt Nam, đạo đức
của con người Việt Nam, nhất là tổng kết kinh nghiệm rèn luyện tu dưỡng đạo đức
của chính bản thân Hồ Chí Minh mà nâng lên tầm lí luận, và qua sự làm gương và
18
nêu gương, qua các gương người tốt, việc tốt hàng ngày mà đúc kết thành luân lý,
thành chuẩn mực điều chỉnh hành vi của người Việt Nam trong hoạt động sống.
Tính toàn diện biểu hiện ở chỗ vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đề cập cho
mọi đối tượng (sĩ, nông, công, thương, chính khách, tu hành, nam, nữ, ấu, phụ), cho
mọi lĩnh vực (lao động, sản xuất, học tập, công tác, chiến đấu), mọi phạm vi (từ gia
đình đến xã hội, từ giai cấp đến dân tộc, từ quốc gia đến quốc tế), mọi quan hệ (với
mình, với người, với việc, với đoàn thể). Không chỉ bàn đến, đề cập đến mà Hồ Chí
Minh còn nêu các tiêu chí, tiêu chuẩn đạo đức để mỗi đối tượng rèn luyện tu dưỡng
theo, như 5 điều Bác Hồ dạy thiếu nhi, 6 lời dạy công an nhân dân...
Đạo đức Hồ Chí Minh thể hiện tính thống nhất: giữa đức với tài, giữa hồng
với chuyên, giữa hành vi đạo đức với ý thức đạo đức, giữa đạo đức với pháp luật,
giữa đạo đức với chính trị, đạo đức đời thường với đạo đức cách mạng... nhất là sự
thống nhất trong văn hóa đạo đức, trong từng nội dung khái niệm, chuẩn mực đạo
đức, trong quan hệ cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Đặc biệt quan trọng là
“nói phải làm” và tấm gương sáng của Hồ Chí Minh là nói đi đôi với làm, nhiều
khi làm nhiều hơn những điều đã nói, luôn làm gương và nêu gương cho mọi người
xung quanh.
Vậy là, đạo đức cách mạng, dù xét ở góc độ nào, cuối cùng đều nhằm đem lại
độc lập - tự do - hạnh phúc cho Tổ quốc, nhằm giải phóng con người một cách toàn
diện và triệt để nhất. Vì vậy đạo đức đó phải là sự thống nhất biện chứng của nhiều
mặt, mang tính toàn diện. Đạo đức Hồ Chí Minh là sự gắn bó giữa dân tộc và nhân
loại, phương Đông và phương Tây, truyền thống và hiện đại.
Về nội dung đạo đức Hồ Chí Minh có thể khái luận ở các vấn đề sau:
Một là, Hồ Chí Minh nhận thức rõ vị trí, vai trò của đạo đức trong xã hội và
trong đời sống của mỗi người. Người cho rằng: đạo đức là gốc của người cách
mạng, là nguồn nuôi dưỡng và phát triển của con người, như gốc của cây, như
ngọn nguồn của sông suối. Người viết: “cũng như sông thì có nguồn mới có nước,
không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người
cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không
lãnh đạo được nhân dân...” [57; 292-293].
19
Hai là, đạo đức Hồ Chí Minh thể hiện ở những phẩm chất đạo đức cơ bản của
con người Việt Nam trong thời đại: trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu
hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì CNXH, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành,
khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng; là suốt đời trau dồi cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; luôn yêu thương quý trọng con người, sống có
tình, có nghĩa; tinh thần quốc tế trong sáng.
Ba là, đạo đức Hồ Chí Minh biểu hiện ở những yêu cầu xây dựng đạo đức
mới trong xã hội và chính Người đã suốt đời không mệt mỏi tự rèn mình, giáo dục,
động viên cán bộ, đảng viên, nhân dân cùng thực hiện. Đó là: nói đi đôi với làm,
phải nêu gương về đạo đức; xây đi đôi với chống; phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.
Bốn là, tấm gương trong sáng, mẫu mực về đạo đức của Người trong đời sống
đạo đức hàng ngày. Người đã thực hiện nhất quán giữa tư tưởng đạo đức và hành
động đạo đức. Suốt một đời tận tụy vì dân, vì nước, Người là biểu tượng cao quý
của đức hy sinh, lo cho dân, sống vì dân, thấu hiểu dân tình, dân sinh, dân ý, trở
thành lãnh tụ của dân, thân dân và chính tâm. Tình thương yêu rộng lớn của Người
đối với nhân dân, đồng bào là không bao giờ thay đổi. Lo trước thiên hạ, vui sau
thiên hạ, đó là phương châm ứng xử và hành động của Người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ nêu lên những nội dung phong phú của đạo
đức cách mạng mà còn gợi mở bao điều quý giá khác về giáo dục, thực hiện đạo
đức cách mạng. Theo Người, PP phải thích hợp, mềm dẻo, linh hoạt, đã đúng lại
còn phải khéo nữa thì mới có sức thuyết phục lòng người. Người đã nâng PP giáo
dục và thực hành đạo đức cách mạng lên tầm PP tư tưởng, lên trình độ khoa học và
nghệ thuật, có sức lôi cuốn, thuyết phục mạnh mẽ lòng người ở mọi đối tượng,
tầng lớp, thế hệ.
1.2.2. Giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên
1.2.2.1. Sự cần thiết giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên
Trong quá trình toàn cầu hóa đời sống kinh tế hiện nay, việc xây dựng nền
kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan. Từ khi đất nước ta chuyển sang cơ
chế thị trường, thực tiễn cho thấy sức sản xuất được giải phóng, năng suất lao động
ngày một tăng, tạo tiền đề vật chất nâng cao đời sống của nhân dân, kích thích tiềm
20
năng sáng tạo của con người khiến họ năng động hơn, mang tính tự chủ cao, luôn
vươn lên để tự khẳng định mình.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong những năm qua, chúng ta cũng
đang phải đối mặt với một thực tế đáng buồn, đó là sự xuống cấp về mặt đạo đức
trong đời sống xã hội. Những hiện tượng băng hoại về đạo đức đang là nỗi nhức
nhối của xã hội. Vấn đề đạo đức xã hội, đạo đức cá nhân đang diễn ra hết sức phức
tạp, đang có sự đấu tranh giữa cái mới, cái tiến bộ, cái thiện với cái cũ, cái lạc hậu,
cái ác; giữa chủ nghĩa vị tha với chủ nghĩa vị kỷ, giữa lối sống trung thực với thói
dối trá chạy theo đồng tiền... dẫn đến tình trạng trong gia đình con cái bất hiếu với
cha mẹ, anh chị em quay lưng lại với nhau... đây là một tình trạng đảo lộn về các
chuẩn mực đạo đức truyền thống dân tộc, làm hoen ố những giá trị đạo đức truyền
thống mà ông cha ta đã đổ biết bao nhiêu mồ hôi, nước mắt, thậm chí cả máu
xương để tạo dựng nên.
Vấn đề tác động của kinh tế thị trường đối với đạo đức đã có nhiều cách lý
giải khác nhau. Có quan điểm cho rằng, kinh tế thị trường và đạo đức là bài xích
lẫn nhau, kinh tế thị trường càng phát triển thì đạo đức càng suy thoái. Có quan
điểm lại cho rằng, kinh tế thị trường tạo khả năng đẩy nhanh sự tiến bộ trong mọi
lĩnh vực của đời sống, nó sẽ nâng cao trình độ luân lý và đạo đức xã hội. Cuộc
sống chứng tỏ rằng kinh tế thị trường đã tác động đến đạo đức theo cả hai hướng:
cả tích cực, lẫn tiêu cực.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sinh viên có điều
kiện để bộc lộ hết khả năng vốn có của mình, đồng thời đây cũng là một thách thức
lớn đối với sinh viên hiện nay, vì kinh tế thị trường là sự cạnh tranh khốc liệt làm
biến dạng mối quan hệ giữa người với người. Trong gia đình, hiện tượng con cái
hắt hủi cha mẹ vì lợi ích kinh tế. Ở nhà trường, trò khinh thầy, đi ngược lại truyền
thống “tôn sư trọng đạo”. Ngoài xã hội, quan hệ giữa người với người theo kiểu
“đèn nhà ai nấy rạng”... là một tầng lớp xã hội đặc thù, do đó sinh viên cũng chịu
tác động từ hai phía của kinh tế thị trường.
Đồng thời, trong tình hình thế giới hiện nay, kẻ thù vẫn chưa từ bỏ âm mưu
thôn tính và phá hoại chúng ta. Với “diễn biến hòa bình”, kẻ thù tấn công chúng
ta chủ yếu trên các lĩnh vực văn hóa để làm xói mòn niềm tin của nhân dân vào
21
sự nghiệp của Đảng, làm băng hoại đạo đức, lối sống của nhân dân. Đối tượng
trực tiếp của chúng là lớp trẻ, trong đó có sinh viên - những chủ nhân tương lai
của đất nước. Dựa trên đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi sinh viên, lợi dụng những
tiến bộ của khoa học, công nghệ hiện đại - nhất là dịch vụ mạng, sách báo, phim
ảnh. Kẻ thù dùng đủ mọi thủ đoạn hòng lôi kéo sinh viên xa rời cội nguồn, sống
quay lưng lại với chế độ, với nhân dân, với dân tộc, khuyến khích sinh viên tìm
đến sự hưởng thụ mà không thiết nghĩ đến tương lai... Về phần mình, có không ít
sinh viên chưa tự ý thức được vai trò, vị trí của họ trong sự nghiệp cách mạng của
dân tộc, sống ỷ lại bố mẹ, không chịu phấn đấu rèn luyện. Trong học tập còn có
hiện tượng thiếu trung thực như: chạy điểm, chạy bằng, thờ ơ với các sinh hoạt
đoàn thể. Vì ngại khó, ngại khổ, nên thực dụng trong việc chọn ngành nghề. Một
số thích lối sống hưởng thụ đua đòi, ăn chơi, sống buông thả, dẫn đến vi phạm
pháp luật và các chuẩn mực xã hội. Đây đó còn xảy ra hiện tượng sinh viên giết
người, cướp của, tự tử... con số nghiện hút trong sinh viên cũng không phải là ít.
Thực trạng đó chứng tỏ giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên trong giai
đoạn hiện nay, là một việc làm cần thiết và hết sức cấp bách vì hơn ai hết, Hồ Chí
Minh là một trong những lãnh tụ viết nhiều, bàn nhiều và thực hiện nhiều nhất về đạo
đức. Bên cạnh đó, Bác cũng rất quan tâm đến sinh viên - những thanh niên có học
thức cao và theo Người cần phải bồi dưỡng, giáo dục đạo đức cho họ để họ trở thành
những chủ nhân tương lai của đất nước vừa “hồng” vừa “chuyên”. Có như vậy, mới
góp phần giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo tồn được bản sắc văn hóa và các
giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc. Mặt khác, tính tất yếu phải giáo dục đạo đức
Hồ Chí Minh cho sinh viên Việt Nam hiện nay, cũng là một đảm bảo cho thành công
của sự nghiệp CNH, HĐH hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.
1.2.2.2. Nội dung giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên
Giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh là quá trình tác động đến đối tượng giáo dục
thông qua tư tưởng và tấm gương đạo đức của Người để hình thành trong họ ý
thức, tình cảm, niềm tin, lý tưởng... đạo đức và được thể hiện ở hành vi đạo đức.
Như trên đã nói, đạo đức Hồ Chí Minh bao gồm nhiều nội dung cơ bản và
toàn diện, cần được hiểu một cách đầy đủ, đó không chỉ là tư tưởng đạo đức mà
22
còn là thực tiễn đời sống đạo đức của Hồ Chí Minh - tấm gương sáng của đạo đức
cách mạng. Do vậy, liên quan đến nội dung giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cần chú
trọng giáo dục về tư tưởng và cả tấm gương đạo đức của Người. Đồng thời, với SV
nên tập trung giáo dục các vấn đề sau đây:
Một là, giáo dục cho sinh viên nắm được vị trí, tầm quan trọng của đạo đức
đối với mỗi người.
Hồ Chí Minh thường nói: đạo đức cách mạng là cái gốc, cái nền tảng, cái
bản chất. Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn.
Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức,
không có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân... Với
thanh niên, Người yêu cầu: “phải có đức, có tài. Có tài mà không có đức ví như
một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi, nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những
không làm được gì ích lợi cho xã hội, mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức
mà không có tài ví như ông bụt không làm hại gì, nhưng cũng không lợi gì cho
loài người” [63; 172].
Như vậy, đạo đức là vấn đề tiên quyết của việc xây dựng con người mới, cần
giáo dục để sinh viên thấy rõ tầm quan trọng của việc tu dưỡng đạo đức và năng
lực để có đủ đức, đủ tài. Có đạo đức làm nền tảng sinh viên mới hoàn thành được
nhiệm vụ học tập, tu dưỡng nhân cách để chuẩn bị cho tương lai. Đạo đức chính là
những phẩm chất đòi hỏi sinh viên cần phải có để tham gia vào công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đạo đức là gốc, là nền tảng bởi vì muốn làm người thì
trước hết sinh viên phải có cái tâm trong sáng, cái đức cao đẹp. Cái tâm, cái đức ấy
phải được thể hiện trong các mối quan hệ hàng ngày với dân với nước, với thầy, cô
giáo, với bạn bè, với mọi người xung quanh.
Hai là, giáo dục phẩm chất trung với nước, hiếu với dân.
Khái niệm trung, hiếu đã có trong tư tưởng đạo đức truyền thống dân tộc
Việt Nam và phương Đông, là chuẩn mực đạo đức phong kiến mà Nho giáo đề ra.
Trung của Nho giáo là trung với vua, bó hẹp trong phạm vi quan hệ vua tôi, phải
hết sức thờ vua trong bất kỳ điều kiện nào. Hiếu là hiếu với cha mẹ, phải kính
trọng thương yêu và hết lòng phụng dưỡng cha mẹ đền đáp công ơn sinh thành,
dưỡng dục. Khái niệm trung, hiếu đó được Hồ Chí Minh nâng cao, phát triển với ý
23
nghĩa mới, mang tính giai cấp công nhân sâu sắc để giáo dục SV. Trung với nước,
hiếu với dân, trước hết phải có tinh thần yêu nước nồng nàn, phấn đấu hy sinh vì
lợi ích của quốc gia, dân tộc, làm sao cho “dân giàu, nước mạnh”.
Đối với SV, trung với nước, hiếu với dân, “trước hết phải yêu Tổ quốc, yêu
nhân dân”. Nói chuyện với nam nữ thanh niên, học sinh các trường Trung học ở Hà
Nội, Hồ Chí Minh căn dặn: yêu Tổ quốc: việc gì trái với quyền lợi của Tổ quốc,
chúng ta kiên quyết chống lại. Yêu nhân dân: việc gì hay người nào phạm đến lợi ích
chung của nhân dân, chúng ta kiên quyết chống lại. Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân không
phải là lý thuyết cao xa mà được thể hiện cụ thể, thiết thực trong học tập, tu dưỡng,
trong mọi hoạt động của cuộc sống thường ngày. Muốn vậy, SV cần: trung thành vô
hạn với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc; quan tâm đến lợi ích của nhân dân; có
ý thức vươn lên học tập tốt đóng góp sức mình cho mục tiêu “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”.
Ba là, giáo dục những phẩm chất cao quý: cần, kiệm, liêm chính, chí công vô
tư.
Cần, kiệm, liêm, chính là những khái niệm đạo đức phương Đông và đạo
đức truyền thống Việt Nam đã được Hồ Chí Minh sử dụng. Người đã giữ lại những
gì tốt đẹp của quá khứ và đưa vào những nội dung mới mà vẫn đúng với những ý
nghĩa ban đầu của các khái niệm đó. Hồ Chí Minh thường xuyên kêu gọi, giáo dục
mọi người thực hiện cần, kiệm, liêm, chính và Người đã giải thích rất rõ, rất cụ thể,
rất dễ hiểu đối với mọi người:
Cần, tức là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có
năng suất cao, lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ
lại, không dựa dẫm...
Đối với SV, giáo dục tinh thần, thái độ siêng năng, chăm chỉ trong học tập;
đồng thời phải có kế hoạch học tập chu đáo, học lý thuyết tốt rồi mới làm bài tập,
thực hành, thí nghiệm. Bài ngày nào phải học xong ngày đó, chớ để đến ngày mai.
Nếu không có kế hoạch, SV sẽ hao tổn thời giờ mà kết quả học tập lại không cao.
Kiệm, là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của dân,
của nước, của bản thân mình, phải tiết kiệm cái to đến cái nhỏ, vì nhiều cái nhỏ
24
cộng lại thành cái to; “không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”, “không liên
hoan chè chén lu bù”.
Với SV, thực hiện chữ “Kiệm” là phải biết tiết kiệm, tiết kiệm mọi mặt
nhưng tiết kiệm không phải là keo kiệt. Tiết kiệm sách vở, giấy bút, tiền bạc... nhất
là thời gian, bởi vì SV thường vung phí thời gian, để thời gian trôi đi vô vị, đáng
tiếc. Nói về điều này, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: của cải nếu hết còn có thể làm
thêm. Khi thời gian qua rồi, không bao giờ kéo nó trở lại được. Có ai kéo lại ngày
hôm qua được không. Do đó, SV phải biết tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí.
Liêm, là “luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân”, “không xâm
phạm một đồng xu, một hạt thóc của nhân dân”. Phải “trong sạch, không tham
lam”. Đối với SV khi đang học tập trên ghế nhà trường phải giữ gìn, bảo vệ bàn
ghế, phòng, học, tài liệu, giáo trình và các trang thiết bị khác. Phải trong sạch; phải
ham học tập để không ngừng nâng cao hiểu biết, chuyên môn nghiệp vụ và cần
phải chống lại tư tưởng sợ khó nhọc, nguy hiểm, ngại gian khổ, khó khăn.
Chính, nghĩa là không tà, thẳng thắn, đúng đắn. Đối với mình, không tự cao
tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay,
sửa đổi điều dở của bản thân mình. Đối với người, không nịnh hót người trên,
không xem khinh người dưới, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết thật
thà; không dối trá, lừa lọc. Đối với việc, để việc công lên trên, lên trước việc tư,
việc nhà. Đã phụ trách việc gì thì quyết làm cho kỳ được, cho đến nơi đến chốn,
không sợ khó khăn, nguy hiểm; việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì dù
nhỏ mấy cũng tránh. Mỗi ngày cố làm một việc lợi cho nước, cho dân. Đối với SV,
nhiệm vụ chính là học tập để nắm vững chuyên môn nghiệp vụ, nắm bắt khoa học
kỹ thuật... vì vậy, mỗi SV phải khắc phục mọi khó khăn, chịu khó học tập, học
thầy, học bạn, học trong sách vở, không tự ý giấu dốt, khiêm tốn học hỏi để không
ngừng tiến bộ.
Cần, kiệm, liêm, chính, là cái gốc quan trọng của đạo đức mới, của con
người Việt Nam mới, cũng là cái gốc đạo đức của SV. Hồ Chí Minh chỉ rõ:
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Đất có bốn phương: Đông, Tây,
Nam, Bắc. Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Thiếu một mùa, thì không
25