Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Xử phạt hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ từ thực tiễn tỉnh Đăk Lăk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 109 trang )

BỘ NỘI VỤ

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

PHẠM QUANG HƯNG

Xử phạt hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường bộ
từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

ĐẮK LẮK – NĂM 2016

1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

PHẠM QUANG HƯNG

Xử phạt hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường bộ
từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH


Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.
Mã số: 60 38 01 02.
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Minh Sản

ĐẮK LẮK – NĂM 2016

2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn này do chính tôi thực hiện dưới sự hướng
dẫn khoa học của TS. Nguyễn Minh Sản.
Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa
hề được công bố hoặc sử dụng để bảo vệ một học hàm nào.
Các thông tin trích dẫn trong luận văn này đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Nếu sai tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm./.

Đắk Lắk, tháng 8 năm 2016
Học viên

Phạm Quang Hưng

3


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa.
Lời cam đoan.
Mục lục.

Danh mục các chữ viết tắt.
Danh mục các bảng.
PHẦN MỞ ĐẦU.....................................................................................

1

1. Tính cấp thiết của đề tài……………………………………………..

1

2. Tình hình nghiên cứu………………………………………………..

4

3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài………………………………………

7

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu…………………………………..

8

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu…………………….

8

6. Ý nghĩa của luận văn………………………………………………..

9


7. Kết cấu của luận văn………………………………………………..

9

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ XỬ PHẠT
VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƯỜNG
BỘ………………………………..................................................

10

1.1. Vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ...............

10

1.2. Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường
bộ............................................................................................................

22

1.3. Điều chỉnh pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh

4


vực giao thông đường bộ........................................................................

29

Chương 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH
CHÍNH TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ Ở TỈNH ĐĂK

LẮK THỜI GIAN QUA

........................................................

54

2.1. Tổng quan về tỉnh Đắk Lắk……………………………….............

54

2.2. Tình hình trật tự an toàn giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh
Đắk Lắk trong thời gian qua…...............................................................

57

2.3. Tình hình xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông
đường bộ trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk giai đoạn từ 2011 đến tháng
6/2016………………………................................................................
2.4. Nguyên nhân của các hạn chế, vướng mắc....................................

63
76

Chương 3. GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH

CHÍNH TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TỪ
THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK LẮK …………………………….….........

79


3.1. Quan điểm nhằm nâng cao hiệu quả xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở tỉnh Đắk Lắk hiện nay...............
79
3.2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xử phạt vi phạm hành chính

81

trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở Đắk Lắk hiện nay……………..

KẾT LUẬN…………………………………………………………………

96

Tài liệu tham khảo……………………………………………………

99

5


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

Từ đầy đủ

CSGT

Cảnh sát giao thông


GTĐB

Giao thông đường bộ

TTATGT

Trật tự an toàn giao thông

TTKS-XLVP

Tuần tra kiểm soát – xử lý vi phạm

6


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng

Tên bảng

Bảng
2.1

Số vụ vi phạm hành chính giao thông đường bộ đã được xử
lý trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk (từ năm 2011đến tháng 6/2016)

Bảng
2.2


Tổng hợp số liệu về số vụ tai nạn giao thông đường bộ do vi
phạm hành chính gây nên ở tỉnh Đắk Lắk (từ năm 2011 đến
tháng 6/2016)

Bảng
2.3

Tổng hợp số vụ lái xe ô tô bị xử lý vi phạm hành chính về
quy tắc giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk (từ
năm 2011 đến tháng 6/2016)

Bảng
2.4

Bảng
2.5

Bảng
2.6

Bảng
2.7

Tổng hợp số vụ lái xe mô tô bị xử lý vi phạm hành chính về
quy tắc giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk (từ
năm 2011 đến tháng 6/2016)

Trang

58


59

65

65

Tổng hợp số vụ phương tiện cơ giới không đảm bảo an toàn
kỹ thuật khi tham gia giao thông trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
(từ năm 2011 đến tháng 6/2016)
Tổng hợp số vụ người điều khiển phương tiện cơ giới không
giấy phép khi tham gia giao thông trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
(từ năm 2011 đến tháng 6/2016)
Tổng hợp số vụ vi phạm quy định vận tải đường bộ bị xử lý
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk (từ năm 2011 đến tháng 6/2016)

7

67-68

69

70


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Thực tiễn cho chúng ta thây, trong nền kinh tế - xã hội của mỗi quốc
gia thì giao thông đường bộ được coi là một lĩnh vực quan trọng, là một bộ
phận trong kết cấu hạ tầng quốc gia; cùng với đường sắt, đường thủy, đường

không, chúng tạo thành mạch máu của sự phát triển đất nước. Ở phạm vi hẹp,
giao thông đường bộ đáp ứng nhu cầu dịch chuyển, giao dịch giữa các chủ thể
khác nhau của nền kinh tế. Còn ở tầm vĩ mô, hoạt động giao thông đường bộ
có liên quan trực tiếp đến an ninh, trật tự an toàn xã hội cũng như sự phát
triển kinh tế - xã hội – văn hóa của mỗi quốc gia dân tộc, đẩy mạnh giao lưu,
hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới. Do tầm quan trọng của
giao thông đường bộ, nên việc đầu tư phát triển lĩnh vực này đã trở thành điều
kiện tiền đề tiên quyết cho sự phát triển quốc gia. Trong xu thế mang tính quy
luật đó, Việt Nam không phải là ngoại lệ.
Những năm qua, cùng với việc đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông đường
bộ nhằm tạo tiền đề, động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đáp ứng tiến trình hội nhập
kinh tế khu vực và quốc tế, góp phần đảm bảo quốc phòng, an ninh quốc gia,
trật tự an toàn xã hội, Việt Nam cũng không ngừng hoàn thiện pháp luật về
giao thông đường bộ, trong đó có nội dung quan trọng là xử phạt vi phạm
hành chính.
Dưới góc độ luật học, xử phạt vi phạm hành chính là một chế định quan
trọng của hệ thống pháp luật mỗi quốc gia, để điều chỉnh hoạt động xử phạt
các vi phạm hành chính. Dưới góc độ quản lý, xử phạt vi phạm hành chính là
một hoạt động để thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước. Hoạt
động xử phạt vi phạm hành chính nói chung, trong lĩnh vực giao thông đường
bộ nói riêng hướng tới mục phòng ngừa và chống vi phạm hành chính, góp
8


phần giữ vững an ninh, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước.
Vấn đề xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ
ở Việt Nam hiện nay được điều chỉnh bởi hai “dọc” pháp lý là pháp luật về xử

phạt vi phạm hành chính và pháp luật về giao thông đường bộ. Trong những
năm qua, hai hệ thống quy phạm này đã ngày càng được hoàn thiện, tiêu biểu
là sự ra đời của Luật xử phạt vi phạm hành chính năm 2012 (tiền thân là Pháp
lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 2002, sửa đổi bổ sung năm các năm
2007, 2008), Luật Giao thông đường bộ năm 2008 (thay thế Luật giao
thông đường bộ ngày 29 tháng 6 năm 2001), cùng với chúng là sự ra đời các
văn bản hướng dẫn thi hành của khối các cơ quan hành chính nhà nước có
thẩm quyền. Điều này đã tạo nên những chuyển biến tích cực trong đời sống
xã hội: Tổ chức giao thông đã có những chuyển biến rõ rệt; ý thức chấp hành
luật giao thông đường bộ được nâng lên, trật tự lòng đường, vỉa hè thông
thoáng hơn, hạn chế ùn tắc giao thông; công tác quản lý của Nhà nước về trật
tự an toàn giao thông đường bộ được tăng cường, trang bị các phương tiện kỹ
thuật thuận lợi cho sự chỉ huy thống nhất và nhanh chóng ở các đô thị. Công
tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật đã được quan tâm, đa dạng hóa với nhiều
hình thức, nội dung phong phú, thiết thực. Công tác tuần tra kiểm soát, xử
phạt vi phạm có tác dụng răn đe, phòng ngừa tội phạm.
Tuy nhiên, trong những năm qua, tình hình vi phạm hành chính về
TTATGT đường bộ ở nước ta diễn biến rất phức tạp, vi phạm hành chính
về TTATGT đường bộ còn mang tính phổ biến. Chỉ tính trong thời gian từ
2008 đến 2013, lực lượng CSGT phát hiện hơn 33 triệu trường hợp vi phạm
TTATGT, xử phạt trên 9.676 tỉ đồng. Trung bình mỗi năm, lực lượng CSGT
phát hiện và xử phạt trên 6 triệu trường hợp vi phạm, với tổng số tiền xử phạt
vi phạm hành chính trên 1.600 tỉ đồng, số vụ vi phạm và số tiền phạt năm sau
9


cao hơn năm trước. Chỉ tính riêng trong 6 tháng đầu năm 2014, lực
lượng CSGT toàn quốc đã kiểm tra, lập biên bản 2.584.905 trường hợp vi
phạm TTATGT đường bộ; phạt tiền 1.470 tỷ đồng (so với cùng kỳ năm trước
số xử lý vi phạm giảm 314.188 trường hợp (-10,8%), tiền phạt tăng 57,2 tỷ

(+4,04%); tước giấy phép lái xe 138.675 trường hợp; tạm giữ 313.473 phương
tiện các loại [39].
Trước tình hình này, đã có nhiều nguyên nhân được được chỉ ra, trong
đó có nguyên nhân thuộc về công tác phòng chống vi phạm của cơ quan công
quyền có liên quan tới sự khiếm khuyết của hệ thống thi hành pháp luật như:
triển khai thực hiện luật chưa quyết liệt, chậm phát hiện vi phạm, xử phạt
thiếu tính răn đe, xử phạt thiếu nghiêm túc. Do vậy, việc nghiên cứu vấn đề
xử phạt vi phạm hành chính là cần thiết, không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận,
mà còn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, đặc biệt là đối với những người làm công
tác quản lý nhà nước về giao thông đường bộ hay những người nghiên cứu về
khoa học luật, khoa học hành chính công.
Ở bình diện địa phương, tình trạng vi phạm hành chính giao thông
đường bộ cũng diễn ra ngày cảng nhiều, trong đó có tỉnh Đắk Lắk. Đắk Lắk là
tỉnh có hệ thống giao thông khá đa dạng. Tỉnh Đắk Lắk có Sân bay Buôn Ma
Thuột tuyến từ Buôn Ma Thuột đến các thành phố lớn như Thành phố Hồ Chí
Minh, thành phố Hà Nội, thành phố Đà Nẵng…. Ngoài ra, 14 tỉnh lộ với tổng
chiều dài 460 km, có quốc lộ 14 chạy qua nối với thành phố Đà Nẵng qua
các tỉnh Gia Lai, Kon Tum và nối với Thành phố Hồ Chí Minh qua Đắk
Nông, Bình Phước và Bình Dương... Song song với biên giới Campuchia có
quốc lộ 14C; Quốc lộ 27 nối thành phố Buôn Ma Thuột với tỉnh Lâm
Đồng. Quốc lộ 26 từ Đắk Lắk đi tỉnh Khánh Hòa, nối với quốc lộ 1A tại thị
trấn Ninh Hoà, huyện Ninh Hoà, tỉnh Khánh Hòa. Những tuyến quốc lộ này là
mạch máu trung gian quan trọng của vùng. Chính vì thế, tình hình vi phạm và
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ của tỉnh là
10


một vấn đề quan trọng. Làm tốt được hoạt động này, có nghĩa là huyết mạch
giao thông của tỉnh Đắk Lắk sẽ được thông suốt, góp phần lớn vào mục tiêu
phát triển kinh tế xã hội của Đắk Lắk nói riêng và của kinh tế miền Tây

Nguyên nói chung.
Trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk hiện nay, tình hình vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giao thông đường bộ còn diễn biến phức tạp và liên tục có xu hướng
tăng lên. Có nhiều nguyên nhân được đề cập, trong đó có ý kiến cho rằng do
cơ sở hạ tầng giao thông chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiều nơi còn xuống
cấp nghiêm trọng trong khi lượng phương tiện giao thông đặc biệt là phương
tiện giao thông cá nhân (chủ yếu là ô tô và xe máy) không ngừng tăng lên; hệ
thống pháp luật giao thông đường bộ và xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giao thông đường bộ còn nhiều hạn chế, chưa nghiêm khắc và mang
tính răn đe, giáo dục cao; năng lực và đạo đức nghề nghiệp của một bộ phận
đội ngũ cảnh sát giao thông chưa cao; ý thức tham gia giao thông của người
dân còn kém… Hiện thực này đã thôi thúc tôi mong muốn tìm hiểu một cách
khoa học và có hệ thống về vấn đề xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thông đường bộ ở tỉnh Đắk Lắk. Đây là một vấn đề chưa từng được
nghiên cứu đối với trường hợp Đắk Lắk.
Vì tất cả những lý do trên, tác giả quyết định chọn đề tài: “Xử phạt hành
chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ - từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk” làm đề
tài luận văn tốt nghiệp hệ cao học chuyên ngành Luật Hiến pháp - Hành chính
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Vấn đề xử phạt hành chính nói chung, trong lĩnh vực giao thông đường
bộ nói riêng luôn nhận được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và giới nghiên
cứu khoa học. Một số công trình khoa học tiêu biểu có thể kể đến là:
- Viện Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp (1980), Xử phạt vi phạm hành
chính, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ (mã số 85 98 008), Hà Nội;
11


Đề tài lần đầu tiên đề cập đến một cách toàn diện về việc xây dựng một
hệ thống khoa học của việc xử phạt vi phạm hành chính. Từ đó, đề tài làm nền

tảng pháp lý nghiên cứu áp dụng cho việc xử phạt vi phạm hành chính trên
nhiều lĩnh vực khác nhau trong đó có cả lĩnh vực giao thông đường bộ.
- TS. Vũ Thư (1996), Chế tài hành chính – Lý luận và thực tiễn,
Chuyên đề hội thảo khoa học về giao thông, Hà Nội;
Tác giả đã đề cập sâu về nội dung chế tài hành chính cả trên phương
diện lý luận và thực tiễn. Công trình nghiên cứu đã làm tài liệu tham khảo
hiệu quả cho nhiều tác giả của các trường Đại học trong cả nước khi hoàn
thành giáo trình Luật Hành chính như Học viện Hành chính quốc gia, Đại học
Luật Hà Nội…
- Nguyễn Văn Thạch (1997), Trách nhiệm hành chính – Lý luận và
thực tiễn, Chuyên đề Hội thảo về giao thông, Hà Nội;
- PGS.TS Bùi Xuân Đức (2006), Về vi phạm hành chính và hình thức
xử phạt vi phạm hành chính: Những hạn chế và giải pháp đổi mới, Tạp chí
Nhà nước và pháp luật. Tác giả nhìn nhận thực tế sâu sắc và đưa ra những hạn
chế về cách phân loại vi phạm hành chính và những điểm còn tồn tại, bất hợp
lý của hình thức xử phạt vi phạm hành chính được quy định trong Pháp lệnh
xử phạt vi phạm hành chính 2002. Từ đó, PGS.TS Bùi Xuân Đức đã đưa ra
những hướng giải pháp đổi mới làm nền tảng cho việc Nhà nước ban hành
Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành
chính ngày 02 tháng 4 năm 2008.
- Th.S Nguyễn Mạnh Hùng (2006), Tạm giữ tang vật, phương tiện vi
phạm hành chính về giao thông đường bộ cần được áp dụng như thế nào, Tạp
chí Luật học. Tác giả Nguyễn Mạnh Hùng đã đề cập đến vấn đề tạm giữ tang
vật, phương tiện vi phạm hành chính về giao thông đường bộ - một nội dung
mà Pháp lệnh xử phạt phạm hành chính năm 2002 còn quy định chưa hoàn
thiện. Bài viết đã làm cơ sở quan trọng để Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số
12


điều của Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính ngày 02 tháng 4 năm 2008 đề

cập hoàn thiện hơn về nội dung này.
- TS. Trần Minh Hương (2006), Biện pháp xử phạt hành chính khác,
Tạp chí Quản lý Nhà nước. Tác giả đã đưa ra được ngoài biện pháp xử phạt
hành chính cơ bản là: phạt tiền, cảnh cáo và trục xuất thì còn có các biện pháp
xử phạt hành chính khác là: Giáo dục tại xã, phường, thị trấn; Đưa vào trường
giáo dưỡng; Đưa vào cơ sở giáo dục; Đưa vào cơ sở chữa bệnh. Song điều
đáng nói đến của nội dung bài viết là TS.Trần Minh Hương đã đưa ra những ưu
điển và nhược điểm của những biện pháp này và thực tế khi áp dụng quy định
này ở một số địa phương trong cả nước.
Ở cấp độ thấp hơn, các đề tài luận văn liên quan đến đề tài, có thể kể đến:
- Nguyễn Văn Đô (2007), Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
trật tự, an toàn giao thông đường bộ ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sỹ
quản lý hành chính công, Học viện Hành chính quốc gia, Hà Nội;
Luận văn của tác giả Nguyễn Văn Đô đề cập đến vấn đề xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ trên phạm vi toàn quốc
khá toàn diện với lý luận sâu và đặc biệt là bảng số liệu phong phú về nhiều
nội dung đã khái quát được khá rõ về hoạt động về đề tài nghiên cứu. Nhưng,
nhìn chung thì Luận văn của tác giả lại khá giống với một bản báo cáo của
ngành Công an về hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
GTĐB trên phạm vi toàn quốc vì tác giả không có sự đánh giá trên phương
diện của người nghiên cứu vấn đề về những tồn tại của hoạt động trên.
- Phạm Trung Hòa (2008), xử phạt vi phạm hành chính về trật tự an toàn
giao thông đường bộ của cảnh sát giao thông ở Việt Nam, Luận văn Hành chính
công, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội;
Mặc dù chỉ có độ dài 88 trang song Luận văn của tác giả Phạm Trung
Hòa đã đề cập toàn diện về vấn đề xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
GTĐB của Cảnh sát giao thông ở Việt Nam. Là luận văn mang tính chuyên
13



ngành sâu sắc, tác giả đã có lý luận sâu sắc, thực tế rõ ràng và cả những giải
pháp toàn diện cho hoạt động mà đề tài đề cập đến.
- Trần Sơn Hà (2011), cải cách thủ tục hành chính trong xử phạt vi
phạm hành chính về trật tự an toàn giao thông đường bộ ở Việt Nam đến năm
2020, Luận văn thạc sỹ quản lý hành chính công, Học viện Hành chính quốc
gia, Hà Nội.
Đề cập đến nội dung khá mới mẻ và mang tính định hướng cho tương
lai về cải cách thủ tục hành chính trong xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực GTĐB đến năm 2020 nhưng tác giả Trần Sơn Hà đã có một công trình
nghiên cứu thành công và được Hội đồng khoa học đánh giá cao. Vấn đề còn
lại là làm thế nào để những định hướng mà luận văn nêu ra sớm được áp dụng
trong thực tế ở Việt Nam hiện nay.
Qua khảo sát thấy được, các công trình nghiên cứu đã giải quyết được
những vấn đề lý luận cơ bản về xử phạt vi phạm hành chính như: khái niệm,
đặc điểm của trách nhiệm hành chính, các yếu tố của vi phạm hành chính, nội
dung pháp luật điều chỉnh công tác xử phạt vi phạm hành chính về giao thông
đường bộ,... Tuy nhiên, việc thực hiện pháp luật xử phạt, xử phạt vi phạm
hành chính về giao thông đường bộ là hoạt động mang tính đặc thù không
giống nhau ở mỗi địa phương, do vậy, trong bối cảnh thiếu vắng những công
trình nghiên cứu về thực tiễn áp dụng pháp luật xử phạt vi phạm hành chính
giao thông đường bộ ở Đắk Lắk, việc tác giả lựa chọn đề tài trên là cần thiết
và không bị trùng lặp với các công trình khác đã được công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ quy định pháp luật và tình
hình thực hiện quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực giao thông đường bộ ở tỉnh Đắk Lắk, từ đó đề xuất các quan điểm, giải
pháp hoàn thiện quy định và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về xử phạt
hành chính về giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới.
14



Để hoàn thành được mục đích đặt ra, luận văn tập trung giải quyết các
nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
Một là, hệ thống hóa những vấn đề lý luận và pháp lý về vi phạm hành
chính và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực trật tự, giao thông đường bộ;
Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng tình hình vi phạm hành chính và
hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong thời gian qua. Từ đó, rút ra được những ưu
điểm và hạn chế của công tác này.
Ba là, trên cơ sở quán triệt các quan điểm có tính chất chỉ đạo, đề xuất
một số giải pháp góp phần làm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở Đắk Lắk trong
thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Quy phạm pháp luật hiện hành về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giao thông đường bộ; công tác thực hiện pháp luật về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở tỉnh Đắk Lắk của cơ
quan có thẩm quyền.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: Từ năm 2011 đến tháng 6/2016.
- Về không gian: Tỉnh Đắk Lắk.
- Về đối tượng: Chủ yếu khảo sát công tác xử phạt hành chính của lực
lượng cảnh sát giao thông Công an tỉnh Đắk Lắk.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên nền tảng phương pháp luận duy vật
biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lê nin.

15



5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn sử dụng các
phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh, khái quát hóa, hệ
thống hóa…để nghiên cứu các vấn đề lý luận: khái niệm, mục tiêu, chủ thể,
đối tượng, nội dung, phương pháp và hình thức xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường bộ để thu thập các thông tin, số liệu thực tế
phục vụ cho việc phân tích, đánh giá thực trạng, nguyên nhân của vấn đề
nghiên cứu và luận chứng tính khả thi của các giải pháp mà luận văn đưa ra.
6. Ý nghĩa của luận văn
- Luận văn hệ thống hóa những vấn đề lý luận và pháp lý về xử phạt, xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ.
- Luận văn là tài liệu tham khảo quan trọng cho các nhà quản lý hữu
quan ở tỉnh; là tài liệu tham khảo cho công tác bồi dưỡng, giáo dục pháp luật
về xử phạt, xử phạt vi phạm hành chính nói chung, trong lĩnh vực giao thông
đường bộ ở một địa phương nói riêng.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
được kết cấu gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp lý về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ;
Chương 2: Thực trạng công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực giao thông đường bộ ở tỉnh Đắk Lắk thời gian qua;
Chương 3: Giải pháp bảo đảm xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thông đường bộ từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk.

16



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ
VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC
GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
1.1. Vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ
1.1.1. Khái niệm vi phạm hành chính
Như chúng ta đã biết, Nhà nước là một tổ chức được xã hội thành lập
nên để thực hiện việc quản lý, phát triển xã hội. Để có thể thực hiện được vai
trò đó, Nhà nước luôn phải tác động lên các quan hệ xã hội bằng một hệ thống
các quy tắc quản lý nhà nước được quy định trong các văn bản quy phạm
pháp luật. Trên thực tế, trong đời sống xã hội luôn xảy ra tình trạng vi phạm
các quy tắc quản lý nhà nước. Các vi phạm đó diễn ra hàng ngày trong đời
sống xã hội, từ những hành vi đơn giản và phổ biến như hút thuốc lá nơi công
cộng, đến những hành vi vi phạm có tính chất nguy hiểm hơn như tham gia
giao thông đường bộ không đội mũ bảo hiểm, đi ngược chiều, lạng lách đánh
võng, gây tai nạn,…hoặc hành vi làm ô nhiễm môi trường, xây dựng trái
phép, trốn thuế… Những hành vi vi phạm rất đa dạng và “có mặt” trong tất cả
các lĩnh vực quản lý nhà nước.
Dưới góc độ lý luận về pháp luật, vi phạm pháp luật được cấu thành bởi
các mặt khách quan, chủ quan, khách thể và chủ thể của nó. Tổng hợp các yếu
tố đó ta có thể hiểu vi phạm pháp luật là hành vi nguy hiểm cho xã hội do chủ
thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện một các cố ý hoặc vô ý xâm hại
đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
Dựa theo các tiêu chí khác nhau mà vi phạm pháp luật được phân thành
nhiều loại khác nhau. Căn cứ vào khách thể vi phạm, mức độ, tính chất nguy
hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm, vi phạm pháp luật được chia thành các
loại sau:

17



- Vi phạm hình sự (tội phạm): là những hành vi nguy hiểm cho xã hội,
có lỗi và được quy định trong bộ luật hình sự.
- Vi phạm hành chính: là những hành vi trái pháp luật, có lỗi nhưng
mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp hơn tội phạm, xâm phạm các quan hệ xã
hội được pháp luật hành chính bảo vệ phát sinh trong quá trình quản lý nhà
nước.
- Vi phạm dân dự: là những hành vi trái luật dân sự, hay ngược lại với
truyền thống, phong tục tập quán, đạo đức xã hội được nhà nước thừa nhận,
có lỗi, xâm hại tới các quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân và quan hệ phi tài
sản có liên quan tới tài sản được pháp luật dân sự bảo vệ.
- Vi phạm kỷ luật: là hành vi có lỗi, trái với các quy tắc kỷ luật lao
động, học tập, công vụ nhà nước trong các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp,
trường học được pháp luật lao động, hành chính và các văn bản nội quy của
từng cơ quan, doanh nghiệp quy định.
Luật Xử phạt vi phạm hành chính năm 2012 đã đưa ra định nghĩa pháp
lý về “vi phạm hành chính”. Khoản 1 Điều 2 của Luật quy định [33]: Vi phạm
hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định
của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy
định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính.
Định nghĩa trên đưa ra các dấu hiệu pháp lý cơ bản của vi phạm hành
chính, đó là: tính xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước, có lỗi, tính trái
pháp luật hành chính và phải bị xử phạt vi phạm hành chính.
Vi phạm hành chính là một dạng vi phạm pháp luật, do đó nó cũng bao
gồm các yếu tố cấu thành pháp lý là mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể
và khách thể. Dưới đây, các dấu hiệu và yếu tố cấu thành pháp lý của vi phạm
hành chính sẽ được xem xét trong mối quan hệ thống nhất với nhau.

18



Mặt khách quan của vi phạm hành chính
Mặt khách quan của vi phạm hành chính là những biểu hiện ra bên
ngoài thế giới khách quan của vi phạm hành chính, thông thường các biểu
hiện ra bên ngoài của hành vi vi phạm là hành vi, thời gian, địa điểm, công cụ,
phương tiện hay mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hành chính và
hậu quả của vi phạm hành chính.
Hành vi của vi phạm hành chính là những biểu hiện của con người hoặc
tổ chức tác động vào thế giới khách quan qua hình thức bên ngoài cụ thể gây
tác hại đến sự phát triển bình thường của trật tự quản lý. Những biểu hiện này
được kiểm soát và điều khiển bởi ý thức và ý chí của chủ thể vi phạm hành
chính. Hành vi là biểu hiện rõ nhất trong mặt khách quan của vi phạm hành
chính, chúng có ý nghĩa quyết định đến nội dung biểu hiện khác trong mặt
khách quan (hậu quả, công cụ phương tiện, thời gian, địa điểm); đồng thời
hành vi cũng là thể thống nhất giữa mặt khách quan và chủ quan. Hành vi
khách quan của vi phạm hành chính có thể là hành vi hành động hoặc không
hành động. Song dù biểu hiện bằng hình thức nào đi chăng nữa thì nó cũng
chỉ bị coi là vi phạm hành chính khi hành vi đó trái với pháp luật. Hành vi trái
pháp luật hành chính là dấu hiệu pháp lý cơ bản của vi phạm hành chính,
nhưng đây không phải là thuộc tính riêng của vi phạm hành chính. Rất nhiều
hành vi tội phạm cũng là hành vi trái pháp luật hành chính. Để phân biệt vi
phạm hành chính với tội phạm trong trường hợp cả hai loại hành vi có cùng
chung khách thể, người ta lấy tiêu chí là tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi.
Hành vi vi phạm hành chính ít nguy hiểm cho xã hội hơn so với tội phạm hình
sự.
Hậu quả và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hành chính
và hậu quả của vi phạm hành chính vi phạm hành chính: Chính là tính xâm hại
khách quan của vi phạm hành chính, được thể hiện ở vi phạm hành chính đã
19



xâm hại hoặc đe dọa xâm hại các quan hệ đã được pháp luật quy định thành
quy tắc quản lý nhà nước. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp hậu quả của vi
phạm hành chính được biểu hiện ở các thiệt hại cụ thể về sức khỏe, nhân
phẩm, danh dự, về tự do thân thể của cá nhân hoặc làm thiệt hại về tài sản của
Nhà nước, tập thể và công dân. Hậu quả của vi phạm hành chính là kết quả
của hành vi vi phạm hành chính do con người hoặc tổ chức thực hiện. Do đó
giữa hành vi vi phạm hành chính và hậu quả vi phạm hành chính có mối quan
hệ hữu cơ, trong đó hậu quả của vi phạm hành chính có tiền đề xuất hiện của
nó là hành vi khách quan của vi phạm hành chính; sự tồn tại mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi vi phạm hành chính và hậu quả của vi phạm hành
chính dựa trên các căn cứ sau: Một là; hành vi vi phạm hành chính xảy ra
trước hậu quả xâm hại các mối quan hệ về mặt thời gian; Hai là, hành vi vi
phạm phải chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả xâm hại các
quan hệ xã hội; Ba là, hậu quả vi phạm đã xảy ra phải là sự hiện thực hóa khả
năng thực tế làm phát sinh hậu quả của hành vi vi phạm. Ngoài những biểu
hiện trên, về mặt khách quan của vi phạm c̣n có một số dấu hiệu khách quan
khác như: thời gian, địa điểm, công cụ và phương tiện vi phạm.
Mặt chủ quan của vi phạm hành chính
Mặt chủ quan của vi phạm hành chính là những quan hệ tâm lý bên
trong của chủ thể. Yếu tố cơ bản nhất của mặt chủ quan là tính có lỗi. Lỗi
chính là trạng thái tâm lý của người vi phạm, biểu hiện thái độ của người đó
đối với hành vi vi phạm và hậu quả của hành vi đó. Yêu cầu về lỗi trong Luật
hành chính không cao như trong Luật hình sự, trong nhiều trường hợp chỉ cần
có lỗi nghĩa là người vi phạm biết hoặc có thể biết tính chất sai phạm của
mình là đủ để xác định vi phạm hành chính xảy ra. Đối với luật hình sự đòi
hỏi phải chính xác hơn, không chỉ xác định lỗi mà còn phải xác định cho được
hình thức và mức độ lỗi; mặt khác lỗi trong Luật hình sự chỉ đặt ra với cá
nhân vi phạm, trong hành chính lỗi đặt ra cho cả cá nhân và tổ chức vi phạm.
20



Lỗi trong vi phạm hành chính thể hiện dưới hai hình thức: lỗi cố ý và lỗi vô ý.
Lỗi cố ý trong vi phạm hành chính là chủ thể nhận thức được hành vi của
mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn thực hiện. Lỗi vô ý trong vi phạm
hành chính là lỗi của cá nhân hoặc tổ chức thực hiện hành vi trái pháp luật do
vô tình thiếu thận trọng mà không nhân thức được nghĩa vụ pháp lý bắt buộc
mặc dù họ có đầy đủ khả năng xử sự theo đúng nghĩa vụ pháp lý quy định
Chủ thể của vi phạm hành chính
Khác với luật hình sự xác định chủ thể tội phạm chỉ có thể là cá nhân,
trong luật hành chính chủ thể vi phạm hành chính có thể là cá nhân hoặc tổ
chức; cá nhân hoặc tổ chức chỉ có thể trở thành chủ thể của vi phạm hành
chính khi có năng lực trách nhiệm pháp lý hành chính.
+ Đối với cá nhân: Cá nhân là chủ thể của vi phạm hành chính bao gồm
công dân Việt Nam và người nước ngoài (trừ những người được hưởng quyền
ưu đãi, miễn trừ ngoại giao và lãnh sự) mà thực hiện hành vi vi phạm hành
chính trên lãnh thổ Việt Nam, vùng đặc quyền kinh tế, vùng tiếp giáp lãnh
hải. Những người này phải có năng lực trách nhiệm hành chính. Năng lực
trách nhiệm pháp lý hành chính thể hiện khả năng nhận thức của con người
với hành vi vi phạm, vì thế hai yếu tố để xác định năng lực pháp lý đối với cá
nhân là: Đạt độ tuổi theo quy định của pháp luật, không mắc bệnh làm mất
khả năng nhận thức của hành vi. Điều 5 Luật xử phạt vi phạm hành chính năm
2012 xác định đối tượng bị xử phạt hành chính là cá nhân bao gồm: Người từ
đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử phạt hành chính về vi phạm hành chính do
cố ý; người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt hành chính về mọi hành vi vi
phạm hành chính (điểm a khoản 1).
Người thuộc lực lượng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân vi phạm
hành chính thì bị xử phạt như đối với công dân khác; trường hợp cần áp dụng
hình thức phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề hoặc đình
chỉ hoạt động có thời hạn liên quan đến quốc phòng, an ninh thì người xử phạt

21


đề nghị cơ quan, đơn vị Quân đội nhân dân, Công an nhân dân có thẩm quyền
xử phạt.
Mặt khác, Luật xử phạt vi phạm hành chính năm 2012 còn quy định:
Người từ đủ 14 tuổi đến 16 tuổi vi phạm hành chính thì bị phạt cảnh cáo;
Người chưa thành niên vi phạm hành chính gây ra thiệt hại thì phải bồi
thường theo quy định của pháp luật; trong trường hợp này người chưa thành
niên không có tiền nộp phạt thì cha, mẹ hoặc người giám hộ của người đó
phải nộp thay, quy định như trên không có nghĩa là xử phạt cả người không vi
phạm mà ở đây chúng ta hướng tới trách nhiệm giáo dục ý thức pháp luật cho
người chưa thành niên.
+ Đối với tổ chức: Pháp luật hành chính coi tổ chức là chủ thể của vi
phạm hành chính gồm: cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị kinh tế. Cơ
quan, tổ chức nước ngoài nếu vi phạm hành chính trên lãnh thổ Việt Nam,
vùng đặc quyền kinh tế, vùng tiếp giáp lãnh hải thì bị xử phạt như cơ quan, tổ
chức Việt Nam (trừ tổ chức được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao).
Khách thể của vi phạm hành chính
Khách thể của vi phạm hành chính là cái mà vi phạm xâm hại tới. Đó
chính là các quan hệ xã hội được các quy tắc quản lý nhà nước bảo vệ. Các
quan hệ xã hội bị/có thể bị vi phạm hành chính xâm phạm rất đa dạng, đó là:
trật tự nhà nước và xã hội, sở hữu xã hội chủ nghĩa, quyền, lợi ích hợp pháp
của công dân,...
Khách thể của vi phạm hành chính được chia thành các loại sau:
Khách thể chung: đó là các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực quản lý
nhà nước, hay nói cách khác là trật tự quản lý nhà nước nói chung.
Khách thể loại: là những quan hệ xã hội có cùng hoặc gần tính chất với
nhau trong từng lĩnh vực nhất định của quản lý nhà nước. Các quan hệ này
được phát sinh trong cũng một lĩnh vực hoạt động quản lý nhà nước, do vậy

chúng có mối liên hệ với nhau, gắn liền với từng phạm vi quản lý nhà nước.
22


Khách thể trực tiếp: là quan hệ xã hội cụ thể được pháp luật quy định
và bảo vệ, bị chính hành vi vi phạm hành chính phạm xâm hại tới.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thông đường bộ
Trên cơ sở lý luận về vi phạm hành chính nói chung đã được phân tích
ở trên, chúng ta sẽ làm rõ vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông
đường bộ nói riêng.
Văn bản pháp quy hiện hành trực tiếp quy định về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ (GTĐB) và đường sắt là Nghị
định số 46/2016/NĐ-CP ngày 26/5/2016 không đưa ra định nghĩa pháp lý thế
nào là vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ. Điều này cũng
diễn ra tương tự với Nghị định bị thay thế trước đó là Nghị định số
171/2013/NĐ-CP ngày 13/3/2013. Tuy nhiên hai văn bản này lại xác định
phạm vi của thuật ngữ “lĩnh vực giao thông đường bộ” theo các hiểu tại các
Nghị định này. Theo Khoản 1 Điều 2 Nghị định số 46/2016/NĐ-CP, “lĩnh vực
giao thông đường bộ” được xác định bởi loại phương tiện tham gia giao
thông, đó là: a) Máy kéo; b) Các loại xe tương tự xe ô tô; c) Các loại xe tương
tự xe mô tô; d) Xe máy điện; đ) Các loại xe tương tự xe gắn máy; e) Xe đạp
máy.
Từ góc độ lý luận, có thể thấy đã từng có một định nghĩa pháp lý về vi
phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB. Khoản 2 Điều 1 Nghị định số
34/2010/NĐ–CP ngày 02 tháng 4 năm 2010 của Chính Phủ về việc quy định
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ quy định:
“Vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ là những hành vi
của cá nhân, tổ chức vi phạm quy định của pháp luật trong lĩnh vực giao
thông đường bộ một cách cố ý hoặc vô ý mà không phải là tội phạm và theo

quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính…” [6].

23


Như vậy, điều luật này đã đưa ra định nghĩa pháp lý về vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ. Qua định nghĩa này, chúng ta thấy
được các dấu hiệu pháp lý cơ bản của vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường bộ là: tính xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước về giao
thông đường bộ, có lỗi, tính trái pháp luật hành chính và bị xử phạt hành
chính.
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ có đặc điểm
của vi phạm hành chính nói chung, song bên cạnh đó nó cũng có những đặc
điểm riêng sau đây:
- Khách thể của vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường
bộ là những quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực giao thông đường bộ
được bảo vệ bởi các quy phạm pháp luật hành chính.
- Đặc trưng của cấu thành vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường bộ thường là sử dụng kết cấu trực tiếp. Việc xác định vi phạm
hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ được quy định tập trung và
chủ yếu ở văn bản chuyên ngành về giao thông đường bộ, chứ không theo lối
kết cấu dẫn chiếu như một số lĩnh vực khác – nơi mà việc xác định vi phạm
thường phải căn cứ vào các văn bản pháp luật chuyên ngành khác, ví dụ như
lĩnh vực bảo vệ môi trường.
- Tính chất và mức độ hậu quả của vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thông đường bộ phụ thuộc chủ yếu vào những thiệt hại thực tế và hành vi
đó gây ra hoặc có thể gây ra cho tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác
và của chính chủ thể vi phạm.
- Giao thông đường bộ được tạo thành bởi nhiều thành phần, dẫn đến
hoạt động bảo vệ trật tự an toàn giao thông đường bộ được pháp luật quy định

khá đa dạng và phong phú, bao gồm các nội dung: bảo vệ quy tắc giao thông
đường bộ, phương tiện tham gia giao thông đường bộ, về kết cấu hạ tầng giao

24


thông đường bộ, quy định về người điều khiển phương tiện tham gia giao
thông và về vận tải đường bộ.
Xuất phát từ tính đa dạng và phong phú của các hoạt động bảo vệ trật tự
an toàn giao thông đường bộ, nên vi phạm hành chính trong lĩnh vực này
được pháp luật quy định có đặc điểm khá rộng và đa dạng tương ứng với các
nội dung được pháp luật về giao thông đường bộ bảo vệ. Đặc điểm này được
thể hiện tập trung ở Luật Giao thông đường bộ năm 2008, các Nghị định đã
hết hiệu lực như: Nghị định số 34/2010/NĐ-CP ngày 02 tháng 4 năm 2010
của Chính Phủ về việc quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thông đường bộ, Nghị định số 33/2011/NĐ-CP sửa đổi Nghị định
34/2010/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường bộ, Nghị định 71/2012/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 34/2010/NĐCP xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ (có hiệu
lực 10/11/2012), Nghị định số 171/2013/NĐ-CP ngày 13/3/2013 (thay thế
Nghị định số 34/2010/NĐ-CP và Nghị định 71/2012/NĐ-CP), và Nghị định
hiện hành: Nghị định số 46/2016/NĐ-CP ngày 26/5/2016 Quy định về xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt.
Một vấn đề quan trọng khi nghiên cứu vi phạm hành chính trong lĩnh
vực giao thông đường bộ đó là việc phân định giữa vi phạm hành chính và tội
phạm về giao thông đường bộ.
Dưới góc độ khoa học pháp lý hình sự có thể hiểu: tội phạm về giao thông
đường bộ là các hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình
sự Việt Nam, xâm hại tới các quan hệ xã hội về đảm bảo an toàn giao thông
đường bộ.
Các tội phạm về giao thông đường bộ được quy định tại 06 điều luật

trong chương XIX, Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009)
[30] về Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng. Đó là các
điều luật từ Điều 203 đến Điều 207 (Điều 202. Tội vi phạm quy định về điều
25


×